*
















*

*

Chúc Mừng Giáng Sinh 2009

*

Chờ Noel, chờ Tuyết bằng bài thơ trên, há chẳng sướng sao? (1)
Khổ thơ đầu và chót thật là thần sầu.
Có vẻ như bài thơ chỉ cần vậy?
Oct 1, 2006
NQT

Giọt Mưa Trời Khóc

(1) Chờ gì nữa. Tuyết đầy trời, lạnh cứng người.


*

Le Bruit Du Temps

Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.

Phùng Cung

En me privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!

Mandelstam

[Mi lấy của ta
Biển
Trời
Gió
Cùm chân ta vào đất:
Làm sao mi cấm môi ta run?]


Nhà thơ biết rằng mặc dù sự cô đơn, tủi nhục, tiếng môi run sẽ có một ngày nghe được,
và thơ, như cái chai ném xuống biển, sẽ có ngày vượt biển đợi, tới bờ mong.
Tại Voronej, vùng Crimé, chốn lưu đầy, cảm thấy giờ phút cuối cùng đã điểm,
tiếng môi run chẳng vì thế mà câm nín:

Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã  tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....


Hãy học cùng với Mandelstam, nghệ thuật khó khăn:
Lắng Nghe Tiếng Thời Gian.
[Như học cùng Phùng Cung:
Lắng Nghe Mới Rõ
Tiếng Tóc Mình Chuyển Bạc]


Nilkiata Struve
(Lời Tựa "Tiếng Thời Gian"
(tập thơ xuôi của nhà thơ Nga Ossip E. Mandelstam)

"Pour moi, pour moi, pour moi dit la révolution"
"Tout seul, tout seul, tout seul répond le monde"


On vivait mieux auparavant,
A vrai dire, on ne peut comaprer
Comme le sang bruissait alors
Et comme il bruit maintenant.
 

Mandelstam

LMH giới thiệu thơ Phùng Cung


To: TT
Đã nhận Madame Phi
Tks
Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới
NQT & Mrs. Thao Tran

Giải thưởng Thơ của Hội Nhà Văn VC dành cho Mần Thơ Ở Sài Gòn của PTVA có vẻ như xác định điều mà Brodsky phán, trái tim của bóng đen đã không trụ nổi, và đây là thời biên cương nổi lên.
*

Bởi vì những nền văn minh thì cũng có lúc đi đời nhà ma [Because cilivisations are finite], trong cuộc đời của mỗi một nền văn minh như thế, sẽ xuất hiện một thời điểm mà tâm của nó trở nên bất lực, không trụ nổi, [cease to hold]. Vào những thời điểm như thế đó, cứu vớt nó, cho khỏi bị phân tán, huỷ diệt, không phải những miền, mà là ngôn ngữ.
Đó là trường hợp đã xẩy ra cho nền văn minh La Mã, và trước đó, văn minh Hy La.
Và cái "job", giữ cho nền văn minh, thí dụ Mít, không bị phân hóa, sẽ được làm bởi những con người miệt vườn, từ ngoại vi, chứ không phải mấy tay ở trung tâm, ở Hà Nội.
Trái với niềm tin thông thường, phổ thông, ngoại vi không phải là nơi thế giới chấm dứt mà chính là nơi khởi đầu, mở ra.
Brodsky: Hải Triều Âm [The Sound of the Tide]

Điềm
*
Ngay khi tập thơ của Em vừa ra lò, Gấu đã đi một đường chào mừng. Nay, nhân Em được giải thưởng, xin post lại ở đây.
Mần thơ ở Sài Gòn
*
Phản ứng của một số người về việc em ẵm giải thưởng, chứng tỏ, sự đố kỵ, tất nhiên, nhưng còn điều này, họ đọc không ra thơ của PTVA, tuy chưa có gì hết, một dấu ấn mờ nhạt, nhưng nó là một con chim báo bão, báo hiệu sự suy tàn của trung tâm, như Brodsky giải thích ở trên, nhưng quan trọng nữa, trong thơ của PTVA có dấu ấn, lại dấu ấn, của cái thường nhật, cái mỗi ngày, một điều mà đám người đố kỵ kia coi thường, dè bỉu, nhưng theo Gấu, đây là yếu tố không có không được của thơ trong nước, thay vì chỉ nói tục, chửi đổng, phô bầy sex.
*
Trích dẫn câu của Hegel, "Cái quen thuộc là cái không được biết đến" [Was ist bekannt ist nicht erkannt: What is familiar is not known], Patrick McGuinness, điểm cuốn Everyday Life, của Michael Sheringham, trên TLS, số đề ngày 4 Tháng Năm 2007, cho rằng, chính cái gần gụi thân cận nhất đối với chúng ta, là cái khó khăn nhất, cực khổ nhất, khi cảm nhận, và đây là trung tâm của sự tìm tòi, điều tra của tác giả cuốn Đời Mỗi Ngày, hay Mọi Ngày, Everyday Life. Trước, đã có những Henri Lefebvre, Roland Barthes, thí dụ. Maurice Blanchot, cũng triết gia Tây, như hai ông kia, định nghĩa, cái thường nhật là cái thân quen được khám phá ra, (nhưng đã bị phân hoá) khi lật lên cái tấm thảm của sự kinh ngạc, [the quotidien... as "the familiar which is dicovered (but already dissipated) beneath the surprising].
Đây là yếu tố tuyệt vời, the key figures, hình tượng chìa khoá, trong thơ PTPV, vậy mà lại bị cái đám vô học, thiển cận, đố kỵ đem ra để mà chê bai. Ối dào, ba cái nhật ký nhảm nhí, mà thơ cái chó gì cơ chứ!
Bởi vậy, cái tay Nguyễn Duy, quả là thi sĩ, khi nhận ra điều này, ở thơ PTVA:
Thơ Vàng Anh đơn giản như là không có gì, cảm xúc bình dị trong cõi thực nhỏ nhoi gần gũi mà từ tốn gợi mở những vu vơ, huyền ảo của suy tưởng. Cái suy tưởng từ riêng mình và cho riêng mình. Thơ ấy như nhật ký, như tự nhủ, chỉ để cho một mình mình đọc”.

*

What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger

"... and what are poets for in a destitude time?", Holderlin hỏi, trong bài điếu "Bánh mì và Rưọu vang".
Thời của đêm thế gian là thời điêu đứng: The time of the world's night is the destitude time.
*
Is Rainer Maria Rilke a poet in a destitude time? How is his poetry related to the destitution of the time? How deeply does it reach into the abyss? Where does the poet go, assuming he goes where he can go?
Liệu có phải Rilke là nhà thơ của thời điêu đứng?
Như thế nào, làm thế nào, thơ của ông móc nối với sự điêu đứng của thời gian? Sâu thẳm cỡ nào, thơ của ông với xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu, giả dụ như có một nơi chốn nhà thơ có thể đi?
*
Từ 'thời gian', ở đây có nghĩa, thời gian mà chúng ta còn thuộc về nó. Với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy sinh của Đấng Ky Tô Christ đánh dấu bắt đầu và chấm dứt ngày của những vị thần, the day of the gods. Đêm xuống, và kể từ đó, ba ngôi nhập một, the 'united three' - Herakles, Dionysos, và Christ - rời bỏ thế gian, buổi chiều của thế gian chìm dần vào đêm tối của nó. Đêm thế gian trải dài bóng tối của nó. Đây là thời thần linh trễ hẹn [The era is defined by the god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần linh, default of god. Thời khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh nghiệm không có nghĩa chối bỏ liên hệ giữa thần và người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần linh có nghĩa, chẳng còn thần linh tóm thâu người và vật thành một mối, và bằng một mối thâu gom như thế, lịch sử thế gian được đặt để, và con người dong duổi cùng với nó.
*

“Hồi Võ Phiến sang chơi Paris và đóng đô tại nhà tôi ở Bagnolet, có bận tôi hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ hay nhà văn. Võ Phiến đã đáp không do dự: là một nhà văn.”
Kiệt Tấn
*
Nhận xét của Võ Phiến, theo tôi, sai.
Ngay từ năm 1973, khi viết về TTT, trong số Văn đặc biệt về ông, Gấu này đã phán, nay xin ghi lại ở đây:
1. Một vài ý nghĩ nho nhỏ về thơ Thanh Tâm Tuyền.
Bởi vì tiểu thuyết, truyện, truyện ngắn vốn dễ đọc hơn thơ, kịch, cho nên, đối với số đông độc giả, Thanh Tâm Tuyền thành công về mặt văn xuôi hơn là thơ. Nhưng đối với một thiểu số độc giả thường lưu tâm tới vấn để văn chương, những tập Tôi không còn cô độc, Liên đêm mặt trời tìm thấy đã định nghĩa thế nào là thơ, thơ tự do, thơ TTT.
*

Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Holderlin
Có thể, thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như thơ của một số thi sĩ khác cùng thời với ông, một cách gián tiếp, nhằm trả lời câu hỏi trên của Holderlin.
Bởi vì, người ta vẫn thường quan niệm thơ, từ ngàn xưa, vẫn chỉ là những gì phù du, thơ chỉ có trong một thời bình.

Cớ sao lại có thi sĩ, trong một thời đại nhiễu nhương như thế này?
Đọc Thanh Tâm Tuyền

Ngay từ những ngày 1973, khi chưa chấm dứt cuộc chiến, Gấu này đã nhìn ra, thơ TTT, đúng là thứ thơ của thời điêu đứng, đúng như Heidegger coi Rilke là thi sĩ của thời điêu đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng , có nghĩa là: hát, chú tâm đến dấu chân để lại của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì thế, vào thời gian của đêm tối, thi sĩ nói điều thiêng. Chính vì thế, trong ngôn ngữ của Holderlin, đêm thế giới là "đêm thiêng" (1)
Être poète en temps de détresse, c'est alors : chantant, être attentif à la trace des dieux enfuis. Voilà pourquoi, au temps de la nuit du monde, le poète dit le sacré. Voilà pourquoi, dans la langue de Holderlin, la nuit du monde est la « nuit sacrée ».
Pourquoi des poètes en temps de détresse? Heidegger
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part d'Exil, Le Huu Khoa coi Trịnh Công Sơn là chim thiêng hót lời mệnh bạc
[Trinh Cong Son: L'oiseau sacré chante le destin tragique]
*
Holderlin phán:
Ở nơi nào có nguy nàn,
Ở đó có cứu rỗi
Mais où est le péril, là
Croit aussi ce qui sauve
Holderlin, IV, 190

Nếu thế, so sánh thơ TTT với những nhà thơ tiền chiến, đúng là "coi thường" ông, theo Gấu, và, chẳng biết gì về thơ, về vực thẳm, về đêm đen chia cách ông với những nhà thơ mà ông và nhóm Sáng Tạo đả phá:
Một cách nào đó, những dòng thơ tiền chiến mở ra vực thẳm, đêm đen.
Một cách nào đó, thơ TTT, và của một số bạn bè của ông, như Tô Thùy Yên, nhạc Trịnh Công Sơn... là thơ nhạc của thời điêu đứng.
*
Một lần, nhằm giải thích một nhận định của Đặng Tiến, TTT không có truyền nhân, Gấu đã trích dẫn một số câu văn của TTT, để chứng tỏ, ông làm thơ khi viết văn.
Muốn là truyền nhân của ông, phải là một nhà thơ, chứ không phải nhà văn.
Như tay Ninh Hạ cho biết, TTT có lần nói với ông ta, ông thấy làm thơ dễ hơn là viết văn, là cũng theo nghĩa đó.
Vả chăng, tuy nhà văn, viết đủ thứ, nhưng chỉ Một Chủ Nhật Khác đúng là một cuốn tiểu thuyết.
*
Trên Da Mầu, thấy có bài của một tác giả lạ, với Gấu, vì chưa từng nghe tên và được đọc bài nào của tay này. Xin trích dẫn ra ở đây, và nhân đó, lèm bèm về thơ, biết đâu có hứng, lèm bèm về một tập thơ của một người bạn, mới ra lò. Anh ra lệnh, phải viết một bài thật bảnh.
*
Nhưng, liệu, sau khi "ráng đỏ qua sông", vưỡn có thơ? (1)
*
(1) Thơ bay như ráng đỏ sang sông.
Vĩnh Biệt Lửa Thiêng

Tán nhảm về "Ráng đỏ sang sông"
*

1) Có những bài thơ viết muộn
Vì không thể viết sớm hơn
Ngặt nỗi thương thầm gió ruộng
Vẫn còn vuốt mắt sương thôn

NLV
*
Cái ý, "có những bài thơ viết muộn, vì không thể viết sớm hơn", theo Gấu, nó "khủng khiếp" lắm.
Và nó liên quan đến ráng đỏ qua sông, đến giấc mộng lớn đã đạt, sáng ngủ dậy, thấy nước nhà thống nhất.
Nhưng chưa kịp mừng, thì đã thấy bi thương hồn Việt....
Gấu này nhớ, ông anh nhà thơ mà cũng còn mừng hụt, vì cú 30 Tháng Tư.
Ông mừng thực, khi tâm sự với thằng em, thế là mình khỏi viết nữa. Làm một người dân bình thường, cùng nhau xây dựng cái nhà Việt Nam! Chẳng cần làm thơ nữa!
Từ không làm thơ, khỏi phải viết nữa, tới bài thơ viết muộn, là cả trời bi thương.
Bi thương hồn Việt
Sắc chàm u hận...
Đành thôi nhang khói..
*
Theo nghĩa đó, cả tập thơ mới ra lò của NLV, chỉ là một bài thơ viết muộn, sau "Lò Cải Tạo"!
*
Coetzee viết về Brodsky:
Những nhà thơ gân guốc, dũng mãnh, luôn tạo ra dòng của riêng họ, và trong khi làm như thế, viết lại lịch sử thơ ca.
Strong poets have always created their own lineage and, in the process, rewritten the history of poetry.
Làm sao TTT không tiên cảm, thứ thơ tự do của ông, mãnh liệt như thế, hũ nút như thế, không giống ai như thế, sẽ gặp phản ứng dữ dội từ phía độc giả, chắc chắn khác hẳn, "làm mặt lạ", như thế?
Hãy nhớ lại phản ứng dữ dội của tầng lớp thưởng ngoạn, khi thơ tự do vừa xuất hiện.
Những dòng cảnh báo, ở đây, tôi là vị hoàng đế, của vương quốc thơ của tôi, là theo ý đó. Vô là phải thần phục vị hoàng đế với đầy đủ quyền uy.
Trường hợp ngược lại, bạn có thể vứt tập thơ vô thùng rác.
Cao ngạo đấy, nhưng cũng rất là khiêm tốn đấy.
Nhà thơ nào, khi muốn tạo riêng dòng, cũng nói như vậy, nếu tự tin vào thơ của mình, đâu riêng gì TTT?
*
Thơ ca phải ngang với tầm vóc của thời đại lịch sử (như thơ ca thời Lý Trần, thơ ca thời Nguyễn Du...) TTT không có được tiếng thơ đó.
Có lẽ người đọc hôm nay nên tôn trọng ý kiến của ông:

Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ...

(“Tôi không còn cô độc”)

Nguồn

So sánh TTT với những nhà thơ thời Lý Trần, với Nguyễn Du, là một vinh dự quá lớn lao, tuy nhiên, cho dù TTT có muốn nhận cũng không thể được, vì thời của ông, cũng như của những nhà thơ bạn ông, là thời điêu đứng, thời đêm đen, thời hố thẳm. Thơ của họ, là thơ của một nơi, một thời nguy nàn.
Nó có mang đến được sự cứu rỗi hay là không, đó là vấn đề.
Theo Gấu tôi, rất khó. Quá khó. Thơ TTT chưa làm được điểu này, chính là bởi vì thơ của ông, cũng như con người của ông, sạch quá. Gấu đọc Milosz và nhận ra điều này.
Những thất bại, không có truyền nhân, và ngay cả những gì gì, "trần truồng, tuyệt vọng", là theo nghĩa này.
*
The Apostle tells us that in the beginning was the Word. He gives us no assurance as to the end.
The poet of the Pervigilium Veneris wrote in a darkening time, amid the breakdown of classic literacy. He knew that the Muses can fall silent:
perdidi musam....
"To perish by silence": that civilisation on which Apollo looks no more will not long endure.
George Steiner: The retreat from the Word
Chúa nói khởi đầu là Lời. Ngài chẳng thèm bảo đảm gì cho chúng ta, về cái sự tận cùng, nó sẽ ra làm sao.
"Lụi tàn trong câm lặng". Dù là thi sĩ, thì cũng có lúc phải tin rằng Nàng Thơ đã im tiếng.
TTT có "thoát", có "đạt" hay không? Thật khó nói, thay, cho người đã mất. Nhưng, rõ ràng là, ông gần như đã im tiếng.
*
The holy man, the initiate, withdraws not only from the temptations of worldly action; he withdraws from speech. His retreat intothe mountain cave or monastic cell is the outward gesture of his silence. Even those who are only novices on this arduous road are taught to distrust the veil of language, to break through it to the more real. The Zen koan—we know the sound of two hands clapping, what is the sound of one?—is a beginners exercise in the retreat from the word. G. Steiner.

Thánh nhân rút dù không chỉ khỏi những dụ khị, những cám dỗ, của thế giới hành động. Ngài còn rút dù ra khỏi lời nói. Ngài lên non tìm động hoa vàng, thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi... Ngay cả những đệ tử của Ngài cũng được dậy, đừng có tin vào lời nói. Phải xé bỏ bức màn lời để tới được cõi thực. Công án, tiếng vỗ của một bàn tay, là bài tập vỡ lòng để rút dù ra khỏi lời nói

Note: Post lại, nhân 'xì căng đan' Thơ từ đâu tới

3

Có vẻ như độc giả ưa đọc thơ, và, đọc, viết về thơ.
Đây là kinh nghiệm riêng của Tin Văn, từ thuở khai sinh của nó tới giờ. Cũng được sáu, bẩy niên, nếu kể luôn thời ăn nhờ ở đậu VHNT của PCL. Phải từ 1998 hoặc 1999. Thời chấm dứt, và mở ra thiên niên kỷ!
"Hot Item" của Tin Văn hiện nay là Giọt Mưa Trời Khóc Mần Thơ Ở Sài Gòn.
Cũng như trước đây, mấy trang thơ NLV, THH đều là Top 25 trong tháng.
Chính vì thế mà trong tương lai, càng cận ngày xuống lỗ, Tin Văn sẽ chỉ còn có mỗi một Item, hot hay khong hot: Thơ.

*

Nhớ lúc phong phanh áo mỏng rất gần tim
PTVA


Câu thơ làm Gấu nhớ Tiếng động thời gian, tập tản văn [không Thứ Sáu], của Osip Mandelstam.
Hành trang của Mandelstam, là những cuốn sách, và "tiếng động của thời gian", "le bruit du temps".
[Georges Nivat giới thiệu tập tản văn của nhà thơ Nga]

Và nỗi hoài nhớ quá khứ ám ảnh ông:

Người ta sống khá hơn, trước đây
Thật ra, người ta không thể so sánh
Máu bây giờ
Và máu ngày xưa
Nó rù rì khác nhau như thế nào.

On vivait mieux auparavant

A vrai dire, on ne peut pas comparer
Comme le sang ruisselait alors
Et comme il bruit maintenant.
[Trích Tiếng động thời gian, bản tiếng Tây, lời giới thiệu]


Hà Nội của anh, trước 1954, tụi này không có.
Sài Gòn của anh, trước 1975, tụi này cũng không có.

Đang lèm bèm về thơ, vớ được bài này, tuyệt.
Bài viết làm nhớ đến hai câu phán của Borges
Thơ là để trao cho thi sĩ
Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ
Cả hai đều ứng vào bài viết.
Không có kiểm duyệt, là không thể viết được bài viết này.
Không phải thi sĩ là cũng lại càng vô phương, viết nó.
Nhưng, nếu Tố Hữu không phải là thi sĩ, thì cũng… hỏng.
Thành thử câu phán chót mới thật là tuyệt vời!

Tôi nhớ lần tôi cùng Nguyễn Minh Châu đi chiến trường,một lần ở miền tây Thừa Thiên, trời mưa không dứt suốt ngày. Tôi đọc thơ :
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất trắng trời Thừa Thiên
Châu hỏi :
- Thơ ai mà hay vậy ?
- Thơ Tố Hữu
-Ông ấy làm thơ giỏi hơn làm quan, ngược lại thì tốt.
*
Ui chao, cái ông thi sĩ thầy thuốc, không biết có ngộ ra không, sau khi đọc câu trên, và sau chuyến đi tìm thơ ở đâu?

Gấu vs Tố Hữu
Ông ta đúng ra là không nên đứng kế bên lãnh tụ.

Đang loay hoay viết về Nguyễn Tuân, được tin Tố Hữu mất, tôi cứ lẩn thẩn tự hỏi, không hiểu có bức hình nào chụp tác giả Tàn Đèn Dầu Lạc, tức Nguyễn Tuân, đứng kế bên Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, tức Tố Hữu, trong một dịp đại lễ nào đó?
Hay "tệ" hơn nữa, đứng kế bên ông Hồ?
*
"Ông ta đúng là không nên đứng kế bên Khrushchev". Câu này của Volkov, khi phải nhận định về nhà soạn nhạc lừng danh Shostakovich, trong một lần trò chuyện với nhà thơ Brodsky, xung quanh đề tài nhà thơ đưa ra: Khi bạn bắt đầu chơi trò "biên tập" [editing] đạo hạnh, đạo đức của bạn – rằng cái này được phép, cái kia không được, vào những ngày như thế đó – như vậy là bạn đã đánh đu với tinh, đã mấp mé bên bờ thảm họa.
Volkov kể lại, một lần ông cần vài bức hình nhà soạn nhạc, từ thư khố nhà nước. Tuy đã phải trả tiền trước, nhưng một "phu nhân sắt" (an iron lady) vẫn kiểm tra từng tấm, và chừa lại ba, hình nhà soạn nhạc đứng kế bên Khrushchev. Phu nhân sắt cũng chẳng thèm mất công giải thích. Tôi [Volkov] bắt buộc phải hiểu rằng nhà soạn nhạc không nên đứng kế bên lãnh tụ, vào thời gian mà ông ta là một người không thể chấp nhận được (persona non grata).
Đọc bài viết của Trần Dần, về thơ Tố Hữu, (được đăng lại trên talawas.org), vào đúng thời của ông ta – tức là không thể chấp nhận được đó – tôi mới thấy thế nào là hào khí Nhân Văn Giai Phẩm, và cùng với nó, cái gọi là sĩ khí Bắc Hà.

Note: "Ý kiến ngắn", trên, Gấu viết cho ta là gì nhân nghe tin Tố Hữu ngỏm. Ta là gì cho biết, sẽ đăng.
Khi đăng, Gấu đọc, thấy bị thiến mấy chữ "tệ" hơn nữa.
Cáu quá, meo hỏi. Bà chủ quán xin lỗi, nói, đệ tử tự ý thiến.
Đúng ra, bà phải đăng trên ta là gì, xin lỗi độc giả ta là gì.
Gấu đâu cần bà xin lỗi?
Nay, post lại, và xin lỗi độc giả ta là gì, về cái phần sơ sót của Gấu. NQT

 


Cụ Mác

Tôi cố tưỏng tượng ra mùa đông cuối cùng của ông,
Luân Đôn, lạnh, ẩm.
Tuyết đè ngửa, hôn tàn bạo lên phố vắng, lên mặt nước đen thui của dòng sông Thames.
Bướm co ro, run rẩy nhóm lửa nơi công viên.
Có tiếng sụt sùi của những đầu máy, ở đâu đó trong đêm.
Những người thợ nói quá nhanh trong tiệm rượu,
khiến ông không kịp bắt, dù chỉ một từ.
Có lẽ Âu Châu thì giầu có hơn, và thanh bình,
nhưng người Bỉ vẫn hành hạ xứ Congo.
Còn Nga xô thì sao? Bạo chúa của nó? Siberia, chốn lưu đầy ư?

Ông trải qua những buổi tối mắt dán lên những tấm màn cửa.
Ông không thể nào tập trung, viết lại những tác phẩm đã xưa, cũ,
đọc lại Marx trẻ cho tới hết ngày,
và thầm lén ngưỡng mộ tay tác giả tham vọng này.
Ông vẫn còn niềm tin ở cái viễn ảnh thần kỷ, quái đản của mình,
nhưng vào những lúc hồ nghi,
ông đau lòng vì đã đem đến cho thế giới,
 chỉ một viễn ảnh mới của sự thất vọng, chán chường;
rồi ông nhắm mắt và chẳng nhìn thấy gì nữa, ngoài bóng tối của mí mắt của mình.

-Adam Zagajewski
(Translated,from the Polish, by Clare Cavanagh.)
[The New Yorker, Jan 21, 2008]
[Eternal Enemies p. 97]

Adam Zagajewski

Chúc sức khoẻ
Thursday, December 17, 2009 1:12 PM
From:
To:

Trụ,
Tao mới vào địa chỉ của mày, thấy hình mới nhất (?) của mày posted ở giữa trang, mặt trông mập ra, già hơn và có vẻ yếu hơn trước. Sức khoẻ mày lúc này thế nào? Ăn uống có còn bình thường không? Chúc sức khoẻ mày. Chúc cả nhà có những ngày lễ, Tết vui vẻ, đầm ấm.

Tks.
The same to U and All, there.
Hình mới chụp, tháng trước.
Chắc sắp theo Cụ Mác rồi!
Không biết có gặp Bác Hồ ở dưới đó không ?
Và không biết Bác đã bỏ Đảng chưa?
NQT

MUSIC HEARD

Music heard with you
was more than music
and the blood that flowed through our arteries
was more than blood
and the joy we felt
was genuine
and if there is anyone to thank,
I thank him now,
before it grows too late
and too quiet.

Adam Zagajewsk

Nghe nhạc

Nghe nhạc mí Em
Thì nhạc biến thành thần nhạc, tiên nhạc!
Và máu chảy trong huyết quản của đôi ta,
thì hơn bất cứ một thứ máu đỏ da vàng nào!
Và niềm vui của đôi ta,
mới thực làm sao!
Và nếu có một người để mà cám ơn,
Thì Gấu bèn cám ơn người đó, bây giờ,
Trước khi quá muộn
Và quá êm ả.

Bài thơ này mà mượn, làm đề từ, để viết về cái lần đầu tiên được nghe Yanni, thì mới đã làm sao!

ROAD WARRIOR
Arthur Koestler and his century.
by Louis Menand


VHNT số 552
29 Sept 2002
Tên gọi của ngày mai
Tin Văn


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là, kẻ phê phán nặng nề cách mạng, nhân danh ý thức hệ, thì chính anh ta cũng là một kẻ nổi loạn, và, tư tưởng của anh ta, trên nền tảng đạo đức, biện minh cái quyền của con người chống lại sự bất công. Điều khác biệt ở đây là giữa cách mạng và nổi loạn, rebellion. Liệu cả hai đều dẫn tới bạo động, và không thể tránh?
Bởi vì với Camus, cách mạng là một kẻ đặt con người dưới sự sai khiến của những tư tưởng [the revolutionary is a person who places man at the service of ideas], một kẻ được sửa soạn để hy sinh con người đang sống cho con người sắp tới [who is to come], kẻ đẩy đạo đức vào trong một tiến trình được điều khiển, được cai trị bởi chính trị, kẻ chọn công lý thay vì đời sống, [who prefers justice to life], kẻ tin tưởng vào cái quyền được nói dối, và quyền giết người, vì lý tưởng. Một kẻ nổi loạn có thể nói dối, có thể giết người, nhưng anh ta biết, anh ta không có quyền làm như thế, và nếu, một khi anh ta xử sự như thế, là anh ta đe dọa nghĩa cả của anh ta [he threatens his cause]. Anh ta không thể đồng ý, ngày mai ca hát vì ngày hôm nay chưa thấy ca hát! [Anh ta không đồng ý, ngày mai hơn ngày hôm nay, he does not agree that tomorrow should take preference over today]; anh ta biện minh cứu cánh bằng phương tiện, và anh để chính trị phục vụ một nghĩa cả, cao hơn nó – và đó là đạo đức.



Sống chung với kiểm duyệt.
Dương Tường, talawas.

Vấn đề là, Dương Tường hẳn biết, lũ lụt là thiên tai; kiểm duyệt, nhân tai. Tại sao ông lại coi như nhau?
Trong khi chờ đợi có người giải ra 'bổ đề DT' này, Gấu giới thiệu bài viết của Llosa: Văn chương là lửa. Đây là bài diễn văn của ông, khi nhận giải thưởng Romulo Gallegos [prize].
Lửa, cũng một thứ thiên tai, vậy.


Kỷ Niệm

- Mỗi người, ông và nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía sau, vung cao hai tay như trên một cây đu, nàng quay đầu để tránh bụi bay mù, nàng nheo mắt và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông? Tôi biết thói quen của nàng quá mà? Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại thoạt đầu gập đôi, sau đó gập tư, và trong lúc làm việc đó, nàng luôn miệng nói đùa và nô giỡn chứ gì? Phải vậy không ông? Phải vậy không ông?
Bác sĩ Zhivago [VN thư quán]
Đây có lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu, của cuốn tiểu thuyết.
Anh chàng VC Nga, Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt, trở về căn nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago. Hai người đàn ông tranh nhau nói về người đàn bà.
Câu văn trên Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên được.
Có một cái gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh nào đó, làm Gấu nhớ hoài.
Chỉ tới khi về già, Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.

Bạn đọc Tin Văn thử đoán coi?
Chắc là thua.

Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ đến lần nhờ một anh bạn đem thư cho BHD, anh ta vô nhà, mải nói chuyện với ông anh của BHD, quên mẹ thằng Gấu ở ngoài, khi ra về, thấy Gấu thật là tang thương xơ xác trên chiếc xe đạp, chờ như chờ từ ngàn ngàn kiếp!
Để chữa... quên, anh ta còn lầu bầu, tao bị em của mày sai như nô lệ, anh V, giúp em khiêng cái giường!
Chả là em mới dọn nhà.

Ui chao, cứ nghĩ đến cảnh được phục vụ em, mà thèm! (1)
(1)

Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...  chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
Kỷ niệm




Adam Zagajewski