|
4.11.09
Cụ Mác
Cụ không thể suy nghĩ. Luân đôn
thì ẩm
Trong mọi phòng một người nào
đó ho
Cụ chưa hề mê mùa đông.
Cụ viết lại bản thảo đã qua
Viết lại, rồi viết lại,
Chẳng đam mê đam miết khỉ gì
hết.
Trang giấy vàng
chỉ cần sờ vô
là biến thành tro than.
Tại sao mà cuộc sống lại hăm
hở,
lì lợm,
chạy về chốn huỷ diệt?
Nhưng mùa xuân trở về trong
những giấc mộng,
với tuyết không thể nói,
bằng bất cứ tiếng nói nào quen
biết
Và ở chỗ quái quỉ nào trong hệ
thống Mác Xịt do cụ phịa ra,
tình yêu tìm được chỗ vừa khít
với nó?
Ở nơi chốn nào, bạn tìm thấy
những bông hoa mầu xanh?
Cụ tởm, gớm, ghét những tên vô
chính phủ.
Những tên lý tưởng làm cụ ngấy đến tận cổ
Cụ nhận được những báo cáo từ
mãi tít Nga Xô
Chi tiết ra sao thế nào, thì
cũng mãi tít như thế.
Nước Pháp trở nên giầu,
Ba Lan thì thường thôi, và êm
ả,
Mẽo không ngừng phát triển,
Máu ở khắp mọi nơi.
Có lẽ, giấy dán tường cần
thay cái mới
Cụ bắt đầu nghi ngờ,
rằng, nhân loại nghèo đói
sẽ vẫn luôn luôn mệt mỏi lê bước,
qua trái đất già nua, cũ kỹ,
như mụ điên trong làng,
hăm he đưa nắm tay,
đe dọa một vị Thượng Đế không
nhìn thấy.
Adam Zagajewski
Chúc sức khoẻ
Thursday, December 17, 2009
1:12 PM
From:
To:
Trụ,
Tao mới vào địa chỉ của mày,
thấy hình mới nhất (?) của mày posted ở giữa trang, mặt trông mập ra,
già hơn
và có vẻ yếu hơn trước. Sức khoẻ mày lúc này thế nào? Ăn uống có còn
bình
thường không? Chúc sức khoẻ mày. Chúc cả nhà có những ngày lễ, Tết vui
vẻ, đầm
ấm.
Tks.
The same to U and All,
there.
Hình mới chụp, tháng trước.
Chắc sắp theo Cụ Mác rồi!
Không biết có gặp Bác Hồ ở
dưới đó không, hay Bác đã bỏ Đảng rồi!
NQT
Ở vào một vài
giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực
tại, bằng
cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc
giấu diếm,
ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt
được."
"Theo
nghĩa đó, cả thế
giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
Joseph
Brodsky
Anna Akhmatova qua nét
vẽ của David
Levine, NYRB.
Được chụp hình, được họa nhiều nhất, trong các thi sĩ.
Nhìn nghiêng, chỉ cần nhìn cái mũi, là nhận ngay ra Bà.
The
word that causes death's defeat.
Cái Từ Khiến Thần
Chết Cũng Phải Bỏ Chạy.
Trong số tất cả những thi sĩ lớn
lao của Nga bị Stalin bách hại, hơn cả Osip Mandelstam, Boris
Pasternak, hay
Marina Tsvetaeva, bà nổi tiếng, như là một chống đối và tuẫn nạn [as a
resister
and martyr].
"Hiển hiện ngay dưới mắt tôi, là một số kiếp, một điều gì lớn lao hơn
chính
con người của Bà. Cái số kiếp đó, định mệnh đó, như được khắc, đẽo, vạc
ra, từ
chính con người này, một con người nổi tiếng nhưng chẳng thèm để ý tới,
mạnh mẽ
nhưng lại gần như hoàn toàn bất lực, không tự bảo vệ được mình, một bức
tượng
của khổ đau, cô đơn, kiêu ngạo, và can đảm."
Lidia Chukovskaya, nhà văn, bạn và cũng là người ghi lại tất cả những
cuộc gặp
gỡ giữa cả hai, cho tới khi Bà mất
ROAD
WARRIOR
Arthur Koestler and his
century.
by Louis Menand
Tiếu
lâm quá thể!
Bài của Gấu dịch Brodsky: Ai Điếu Nadezhda Mandelstam
[1899-1980]
bằng tiếng Mít, vậy
mà cũng được
một trang
mạng để mắt tới, và bê về!
Đây nè
Có vẻ như, đây là một trang Wiki, bằng tiếng Tây Bán Nhà?
Bạn click vô cái hình Chúc Mừng Noel, của anh Cu Lùn Richie, và
Jennifer, là nó
bật ra trang này
VHNT số 552
29 Sept 2002
Tên gọi của ngày mai
Tin Văn
1. Hannah Arendt : Những Nguồn Gốc Của Chủ
Nghĩa Toàn Trị.
Lời Tựa lần xuất bản đầu
(1951).
Weder demVergangenen
anheimfallen noch
dem Zukunftigen. Es kommt
darauf an, ganz gegenwartig zu sein.
K. Jaspers
Chớ đắm đuối hoài vọng quá
khứ, hoặc tương lai.
Điều quan trọng là hãy trọn
vẹn ở trong hiện tại.
Karl Jaspers. (1)
Hai thế chiến trong một thế
hệ - phân cách nhau là một chuỗi không dứt những chiến tranh và cách
mạng địa
phương, tiếp theo sau không hòa ước cho kẻ thua mà cũng chẳng thảnh
thơi cho kẻ
thắng – đã kết thúc trong cảnh thập thò của cuộc Thế Chiến Thứ Ba giữa
hai
cường lực thế giới còn lại. Khoảnh khắc thập thò này giống như sự bình
lặng dấy
lên sau khi mọi hy vọng vừa chết. Chúng ta không còn hy vọng tái lập
thật rốt
ráo cái trật tự thế giới cũ với tất cả truyền thống của nó, hoặc tái
phục
nguyên khối quần chúng năm châu, bị ném vào cuộc hỗn mang do bạo động
chiến
tranh và cách mạng gây nên, và cuộc hủy diệt dần những gì còn sót lại.
Ở trong
những điều kiện phức biệt nhất, những hoàn cảnh dị biệt nhất, chúng ta
theo dõi
cùng những hiện tượng cứ thế phát triển: hiện tượng bán xới trên một
qui mô
chưa từng có trước đây, và hiện tượng mất gốc chưa bao giờ tới độ sâu
như vậy.
Chưa bao giờ tương lai của
chúng ta lại mập mờ đến như thế, chưa bao giờ chúng ta lại lệ thuộc đến
như thế
vào những quyền lực chính trị; chẳng thể nào tin cậy, rằng chúng sẽ
tuân thủ
qui luật "lợi cho mình nhưng đừng hại cho người"; những sức mạnh
thuần chỉ là điên rồ, nếu xét theo tiêu chuẩn những thế kỷ khác. Tuồng
như thể
nhân loại tự phân ra, một bên là những kẻ tin ở sự toàn năng của con
người
(những kẻ tin rằng mọi sự đều khả dĩ nếu người ta biết cách tổ chức
quần chúng
thực hiện theo đường lối đó), một bên là những kẻ mà sự bất lực đã trở
thành
kinh nghiệm chủ chốt trong đời họ.
Trên bình diện kiến giải lịch
sử và tư duy chính trị, trội hẳn lên là một kiểu thỏa thuận chung,
[tuy] không
được định nghĩa rõ ràng: rằng cấu trúc thiết yếu của tất cả văn minh
đang ở điểm đứt đoạn. Mặc dù
có vẻ được gìn giữ khá hơn ở một số nơi trên thế giới so với những nơi
khác,
chẳng nơi nào nó có thể đem đến cho chúng ta một sự hướng dẫn, nếu nói
về những
khả tính - hoặc một phản ứng tới nơi tới chốn, trước những điều ghê gớm
tởm lợm
- của thế kỷ. Một khi [con người] tới gần trái tim của những biến cố
như thế,
thay vì một phán đoán quân bình, một kiến giải thận trọng, thì lại là
hy vọng
tuyệt vọng, và sợ hãi tuyệt vọng. Những biến động trung tâm của thời
đại chúng
ta được lãng quên thật hiệu quả, bởi những người đắm mình vào một niềm
tin,
rằng tận thế không thể nào tránh được, hơn là bởi những người buông
xuôi vào
một chủ nghĩa lạc quan liều lĩnh.
Dựa lưng vào một niềm lạc
quan liều lĩnh và một tuyệt vọng liều lĩnh, cuốn sách này được viết
trong một
bối cảnh như thế đó. Cuốn sách khẳng định: rằng Tiến Bộ và Tận Thế là
hai mặt,
của vẫn một huân chương; rằng cả hai đều là những điều này mục nọ của
mê tín,
không phải của niềm tin. Nó đã được viết ra, từ một xác tín, là có thể
khám phá
những cơ chế ẩn giấu, theo đó, toàn bộ những thành tố truyền thống của
thế giới
chính trị và tâm linh của chúng ta bị tan biến vào một lò cừ, nơi mọi
sự dường
như mất đi giá trị đặc thù của nó, trở thành lạ lẫm đối với nhận thức
của con
người, trở thành vô dụng cho những mục tiêu của con người. Một cám dỗ
khó đề
kháng - chịu khuất mình vào một quá trình thuần túy, giản dị của sự
băng hoại,
không chỉ là vì nó khoác lên cho sự vĩ đại hồ đồ - tức cái gọi là "tất
yếu
lịch sử" - một bộ áo mã, mà còn là vì điều này: tất cả mọi sự, ở bên
ngoài
nó, đều có vẻ như thiếu sống, thiếu máu, vô nghĩa, và không thực.
Mọi chuyện xẩy ra ở trên cõi
đời này phải "được hiểu" đối với con người, một xác tín như thế sẽ
đưa đến chuyện giải thích lịch sử bằng những khuôn sáo. Nhưng "hiểu"
không có nghĩa là từ chối cái nghịch thường, hoặc diễn dịch một điều
chưa hề
xẩy ra bằng tiền lệ, hoặc giải thích hiện tượng bằng loại suy và bằng
tổng
quát, khiến con người trơ ra, khi đụng đầu, và kinh nghiệm thực tại.
Thay vì vậy,
nó có nghĩa, quan sát, nghiên cứu, ý thức được cái gánh nặng mà thế kỷ
này đã
đặt lên chúng ta – không phủ nhận sự hiện hữu, mà cũng không cam chịu
sức nặng
của nó. Như vậy, "hiểu" có nghĩa là giáp mặt thực tại, không tính
toán trước, nhưng chú tâm, và đề kháng lại nó, bất kể nó ra sao.
Theo nghĩa đó, phải đối mặt
và hiểu được sự kiện ngược ngạo: rằng một hiện tượng nhỏ nhoi như thế
(vàchẳng
có chi là quan trọng như thế, đối với chính trị thế giới): hiện tượng
vấn đề Do
Thái và chủ nghĩa bài Do Thái lại có thể trở thành tác nhân của, đầu
tiên là
phong trào Quốc Xã, rồi sau đó, thế chiến, và sau chót, cho việc thiết
lập
những xưởng máy của cái chết. Hoặc, sự sai biệt lố bịch giữa nhân và
quả mở ra
kỷ nguyên của chủ nghĩa tư bản, khi những khó khăn kinh tế, trong vài
thập
niên, dẫn tới một biến đổi sâu xa tình hình chính trị trên toàn thế
giới. Hay,
sự mâu thuẫn kỳ quặc giữa cái chủ nghĩa hiện thực trơ tráo tuyên xưng
của những
phong trào toàn trị và sự miệt thị lồ lộ của chúng, đối với toàn bộ
mạng lưới
thực tại. Hoặc, sự bất tương xứng nhức nhối giữa quyền năng thực sự của
con
người hiện đại (lớn hơn bao giờ hết, lớn đến mức có thể thách thức ngay
cả sự
hiện hữu của vũ trụ) và nỗi bất lực mà con người hiện đại phải sống, và
phải
tìm ra cái ý nghĩa của cái thế giới do nó tạo nên, bằng chính sức mạnh
năng vô
biên của nó.
Toan tính toàn trị - chinh
phục toàn cầu, thống trị toàn diện – là một phương thức mang tính hủy
diệt,
nhằm vượt ra ngoài mọi ngõ cụt. Thành công của nó có thể trùng khớp với
sự hủy
diệt nhân loại; ở nơi nào nó cai trị, ở nơi đó hủy diệt bản chất của
con người.
Hỡi ơi, nhắm mắt bưng tai, quay lưng lại với những sức mạnh hủy diệt
của thế kỷ
này thì cũng chẳng đi đến đâu.
Thực vậy, đây là nỗi khốn khó
của thời đại chúng ta, mắc míu lung tung, đan xen lạ lùng giữa xấu và
tốt, đến
nỗi, nếu không có "bành trướng để bành trướng" của những tên đế quốc,
thế giới chẳng bao giờ trở thành một; nếu không có biện pháp chính trị
"quyền lực chỉ vì quyền lực" của đám tư sản, cái sức mạnh vô biên của
con người chắc gì đã được khám phá; nếu không có thế giới ảo vọng,
thiên đường
mù của những phong trào toàn trị, qua đó, những bất định thiết yếu của
thời đại
chúng ta đã được bầy ra một cách thật rõ nét, như chưa từng được bầy ra
như
vậy, thì làm sao chúng ta [lại có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận
thế, vậy
mà vẫn không hay, chuyện gì đang xẩy ra?
Và nếu thực, là, trong những
giai đoạn tối hậu của chủ nghĩa toàn trị, một cái ác triệt để xuất
hiện, (triệt
để bởi vì chúng không thể suy diễn ra, từ những động cơ có thể hiểu
được, của
con người), thì cũng thực, là, nếu không có chủ nghĩa toàn trị, chúng
ta có thể
chẳng bao giờ biết được bản chất thực sự cơ bản, thực sự cội rễ, của
cái ác.
Chủ nghĩa bài Do Thái (không
phải chỉ có sự hận thù người Do Thái không thôi), chủ nghĩa đế quốc
(không chỉ
là chinh phục), chủ nghĩa toàn trị (không chỉ là độc tài) – cái này
tiếp theo
cái khác, cái này bạo tàn hơn cái kia, tất cả đã minh chứng rằng, phẩm
giá của
con người đòi hỏi một sự đảm bảo mới, và sự đảm bảo mới mẻ này, chỉ có
thể tìm
thấy bằng một nguyên lý chính trị mới, bằng một lề luật mới trên trái
đất này;
sự hiệu lực của nó, lần này, phải được bao gồm cho toàn thể loài người,
trong
khi quyền năng của nó phải được hạn chế hết sức nghiêm ngặt, phải được
bắt rễ,
và được kiểm soát do những thực thể lãnh thổ được phân định mới mẻ lại.
Chúng ta không còn thể cho
phép chúng ta giữ lại những cái gì tốt trong quá khứ, và đơn giản gọi
đó là di
sản của chúng ta, hay loại bỏ cái gì là xấu, giản dị coi đó là một gánh
nặng
chết tiệt mà tự thân chúng sẽ bị thời gian chôn vùi trong lãng quên.
Cái mạch
ngầm của lịch sử Tây phương sau cùng đã trồi lên trên mặt đất, và soán
đoạt
phẩm giá của truyền thống của chúng ta. Đây là thực tại chúng ta sống
trong đó.
Đây là lý do tại sao mọi cố gắng chạy trốn cái u ám của hiện tại, bằng
hoài
vọng một quá khứ vẫn còn trinh nguyên, hay bằng một sự lãng quên có dự
tính về
một tương lai tốt đẹp hơn: tất cả những cố gắng như vậy đều là vô hiệu.
Hè 1950
Hannah Arendt
NQT chuyển ngữ.
Chú thích:
Cuốn Những Nguồn Gốc Của Chủ
Nghĩa Toàn Trị, trước đây, khi dịch ra tiếng Pháp, đã được phân
làm ba. Vì vậy,
thiếu Lời Tựa. Lần này, nhà xb Gallimard đã đem đến cho nó một bản dịch
toàn
thể; cùng với tác phẩm "Eichmann ở
Jérusalem", cả hai được in chung
thành một tập, trong tủ sách Quarto. Như thế, Lời Tựa lần xuất bản đầu
tiên
bằng tiếng Anh (1951), lần thứ nhất ra mắt độc giả tiếng Pháp, trên tạp
chí Văn
Học, Le Magazine Littéraire,
số Tháng Sáu, 2002.
Do tính quan trọng của bản
văn, và sự chính xác của nó, chúng tôi có cho "scan" nguyên bản tiếng
Anh và bản dịch tiếng Pháp trên trang Tin Văn, để độc giả tiện tham
khảo.
2. Bữa nay mẹ tôi mất
Kẻ Xa Lạ của nhà văn Pháp
Albert Camus, thuật câu chuyện anh chàng Meursault, được tin mẹ mất
(Bữa nay mẹ
tôi mất. Có thể bữa qua, tôi không biết. Tôi nhận được điện tín từ nhà
dưỡng
lão...), đi đám tang, trở lại sở làm, đi chơi với em và giết người tại
bãi
biển. Hỏi động cơ giết người, hỏi tại sao bắn thêm bốn phát nữa vào cái
thân
thể đã bất động, anh trả lời, tại mặt trời (à cause du soleil). Vẫn mặt
trời
ngày chôn mẹ. Tất cả được kể bằng một giọng văn đều đều, như muốn gạt
bỏ mọi
tình cảm, mọi phản ứng, trước bất cứ một "vụ việc". Một thứ văn
chương "trung tính" (neutre), "một cách viết trắng", như
Roland Barthes đã từng đọc Camus trong Không Độ Của Cách Viết. Tại sao
một câu
chuyện như thế lại quyến rũ không biết bao nhiêu thế hệ độc giả, nhất
là đúng
vào tuổi mới lớn?
Với họ, đây là một thứ
sách-thờ (le livre culte), và tác giả của nó, "đẹp như Bogart, lái xe
như
James Dean, điếu thuốc lá luôn gắn trên miệng" (và chỉ bị lấy bỏ, trên
con
tem tưởng niệm ông!): Một kẻ dẫn đường, một bậc thầy đạo đức của thế hệ.
Của nhiều thế hệ?
***
"Tôi sinh ở Bạc Liêu năm
1958 trong một gia đình có tập quán đối nghịch, là mẹ Nam, lấy việc làm
thay
lời nói, và bố Bắc, gần như ngược lại, lấy lời nói thay việc làm. Tôi
không
khớp với người Nam
bởi một
ít máu Bắc, và cũng không trùng với người Bắc bởi một phần tính Nam.
Tôi là sản
phẩm méo mó của cái quan hệ nhùng nhằng đó. Nó ảnh hưởng nhiều đến cách
nghĩ và
thái độ của tôi. Tôi hiện sống ở Sài Gòn, và đã in hai tập thơ: Đêm Mặt
Trời
Mọc (1990) và Khí Hậu Đồ Vật (1997).
Tôi bị gọi nhập ngũ năm 1979,
và có hai năm đứng trong hàng ngũ đi dép râu, đội nón cối và bắn vài
loạt AK,
nhưng cũng may chưa ra trận. Tôi nghĩ, nếu đánh nhau, tôi dễ trở thành
một tù
binh, hoặc một hàng binh, hoặc là người bị bắn đầu tiên. Không lâm trận
nhưng
cũng bị hai vết thẹo: một vết loét trong dạ dày vì đói và ăn bậy, một
vết thẹo
trong tâm lý, do bị dồn nén từ áp lực của một tập thể luôn bị bơm căng.
Trong
hai năm đó, tôi nhận ra tính hiếu chiến gần như bản năng tiềm ẩn trong
con
người Việt Nam, và điều đó làm tôi hoảng sợ hơn những cuộc đọ súng
tưởng tượng
với Pôn Pốt. Nhưng cũng may, nhờ loét dạ dày tôi được giải ngũ sớm.
Kẻ Xa Lạ, Thời Của Kẻ Giết
Người, Zarathrustra Đã Nói Như Thế, là những cuốn sách không chỉ in
những dấu
ấn, nó còn là cây búa đập vỡ tôi ra. Kẻ Xa Lạ, Lê Thanh Hoàng Dân dịch
của
Camus, đọc lần đầu năm 1974, nó đã tác dụng đến tôi như một trận hỏa,
thiêu rụi
mọi cái ảo trong trí tưởng về sự hiện hữu của con người, và thay vào
đó, là cái
trơ trọi cứ lớn dần trong cảm thức. Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc
nó, bây
giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, và cả về sau, tôi tin, tư tưởng của
Camus trong
Kẻ Xa Lạ là nền tảng đạo đức không xa lạ nữa với mỗi người. Thời Của Kẻ
Giết
Người, Phạm Công Thiện dịch của Henry Miller viết về Rimbaud, đối với
tôi lúc
đó, hơn bất luận một giáo trình tâm lý và mỹ học nào, nó là tấm gương
soi cho
những kẻ đồng căn nhận ra tính nguyên sơ của cái đẹp thấu thị, và tính
chất đó
chỉ đạt đến trong ý thức nổi loạn. Zarathrustra Đã Nói Như Thế, Trần
Xuân Kiêm
dịch của Nietzsche, giáng vào tôi một khoái cảm điếng người của sự đứt
đoạn, sự
lìa bỏ, và sự vượt lên. Nó lắp đặt cho ý thức một cỗ máy tinh xảo để
lọc mọi
thứ cặn trong truyền thống cảm xúc ẩm thải ra từ đời sống và từ văn
chương.
Những cuốn sách đó đã thiết kế ý thức cá nhân của tôi đề kháng lại cái
môi
trường bán khai của qyyền lực tập thể, luôn thấy trong cá tính mối nguy
hiểm
cho sự an toàn tạm bợ của nó. Ngoài ra, sự không tưởng về kinh tế,
chuyên chế
về chính trị ở Việt nam sau chiến tranh đã gây ra những tai biến, những
xung
đột, những xáo trộn khắc nghiệt trong tâm lý, nên những hình ảnh kỳ dị,
những ý
tưởng đột ngột trong những câu thơ, kiểu: súng lục có tóc trắng, ruột
gan của
đá, không khí là một rễ cây, đá là cây của những đám mây... tức thì
nhập vào
tôi như một cơn gió độc; và thi pháp thơ siêu thực, mặc nhiên biến
thành hơi
thở, máu thịt, và làm nên phần chính yếu trong ý thức nghệ thuật của
tôi. Vào
thời đó, sách dịch từ Liên Xô độc chiếm trong các tiệm sách, và hầu hết
những
cuốn sách đều mặc đồng phục..."
Nguyễn Quốc Chánh
(Trích phỏng vấn, do Đinh
Linh thực hiện, đăng lại trên diễn đàn Talawas)
***
Tôi đọc Kẻ Xa Lạ, hình như là
vào năm 1958 thì phải, và cơn chấn động của nó đánh bật tôi ra khỏi
giảng đường
Đại Học Khoa Học, Sài Gòn.
1974, Nguyễn Quốc Chánh đọc
nó, cũng tại thành phố Sài Gòn của tôi, và như ông cho biết, nó đã tác
dụng tới
ông như một trận hỏa...
Hai người đọc cùng một cuốn
sách, trước và sau một cuộc chiến, và gần như cùng bị chấn động như
nhau. Có vẻ
như cuốn sách chẳng cần một thời gian, một biến cố lịch sử nào để mà
biện minh.
Có vẻ như nó mãi mãi thuộc về một thời mới lớn, như tác giả của nó, khi
viết
nó: "Camus ư? Đây là một tấm hình của ông. Một khuôn mặt đẹp, trầm
trọng,
một cái nhìn buồn bã, và dịu dàng của người thức đêm, trông chừng những
cơn
mộng của thời mới lớn...".
Và đây là câu văn mở đầu của
một cuốn tiểu thuyết sẽ mãi mãi làm ngỡ ngàng những người trẻ tuổi:
"Bữa nay mẹ tôi
mất" (Aujourd’hui maman est morte).
Camus
rất mê câu thơ của
Rilke:
Ở đâu có nguy hiểm, ở đó có
cứu rỗi. (Là où croit le danger, croit aussi ce qui sauve).
Như thể ông đã nhìn ra, sau
Lò Thiêu, vẫn còn có cứu rỗi?
Và đó là giá mà Âu Châu phải
trả để có được giải phóng, và sau đó, tự do?
Nhưng như một nhà phê bình Pháp,
Bernard-Henry Lévy, trên tạp chí Le Point (số đặc biệt về Camus, tháng
Tám
1993) đã nhìn ra ở ông: Càng ngày Camus càng muốn đảo ngược câu thơ của
Rilke:
Ở đâu có hòa bình, ở đó có
hiểm nguy. (Là où vient la paix, croit aussi le temps des dangers).
Liệu có thể áp dụng hai câu
thơ trên, cho hai độc giả của Kẻ Xa Lạ, một trước, và một sau, cuộc
chiến Việt Nam?
· · ·
Nguyễn Quốc Chánh viết,
"Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc nó, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn
đọc
lại, và cả về sau, tôi tin, tư tưởng của Camus trong Kẻ Xa Lạ là nền
tảng đạo
đức không xa lạ nữa với mỗi người". Chúng ta tự hỏi, đâu là nền tảng
đạo
đức của Camus?
Trong một bài viết trên tờ Le
Point, là lộ trình của Camus, "Từ Alger tới Paris, từ thập niên 30 tới
ngày 4 tháng Giêng 1960 – ngày ông tử nạn xe hơi – Camus đi theo những
biến
động của thời cuộc. Ông cảm thấy thất vọng, thương tổn, và do đó, thật
gần gũi."
Kẻ xa lạ, Camus, đến từ mặt
trời Địa Trung Hải, đã thất vọng, lần đầu gặp Paris, và khám phá vẻ
nham nhở,
xám xịt, mưa, những người gác cổng, và những vụ tự tử vô danh trong
những căn
phòng khách sạn, như trong Sổ Tay của ông, vào năm 1940, khi định cư
tại đây:
"Đọc Paris Buổi Chiều và cảm thấy trái tim của thành phố ê hề trên
những
trang báo, cái tính đê tiện của một cô thợ khâu.... Nó [Paris] thì thối
rữa.
Sướt mướt, mỹ miều, vui lòng khách đến, chốn ẩn trú nhớm nhúa, nơi con
người
phải cố mà sống trong một thành phố quá tàn bạo đối với nó."
Cảm giác đầu tiên và cũng là
cuối cùng: Chẳng bao giờ ông có được một từ dịu dàng với thành phố đó.
Ông cảm
thấy lạc lõng, xốn xang. Đây là một con người khốn khổ vì hoài nghi, vì
nghĩ
rằng mình vô ích, vô tích sự, và chỉ cảm thấy dịu đi một phần nào, bằng
những
câu vắn ngắn thật sáng sủa, chỉ để tố cáo sự bất công của cõi người.
Sự thực, ông ở đâu đó, không
ở chỗ đó: Paris.
Ngay cả khi đã nổi tiếng, sau khi Kẻ Xa Lạ xuất bản, vào năm 1942,
chẳng có một
câu nào trong Sổ Tay nói lên niềm vui của ông, mà chỉ là niềm kinh
hoàng
(effroi). Ông bị chấn động bởi nỗi khốn cùng, mà ông chứng kiến, khi đi
đi về
về trên xe lửa, từ Saint-Étienne tới Chambon-sur-Lignon, nơi ông phải
tới để
chữa trị chứng lao phổi.
Và
Camus viết về đạo đức:
"Tôi đã
cố gắng bằng tất
cả sức lực của tôi, biết rất rõ những yếu đuối của mình, để trở thành
một con
người của đạo đức. Đạo đức, chính nó, giết. (La Morale tue).
Vào cái
thời cực thịnh của
Camus tại miền nam Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh Tâm Tuyền
đã coi
Camus muốn làm một kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời, ngó xuống thế
gian... và kết luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông vào quá khứ.
Khi gọi
Camus là một
"juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến kịch phẩm "Những người công chính"
(Les Justes) của Camus, (bản tiếng Anh dịch là Những Tên Sát Nhân Chính
Trực,
The Just Assassins); người viết đọc, vẫn những ngày đầu, thời mới lớn,
trong
một thành phố Sài Gòn đang còn thanh bình, và chỉ còn nhớ mài mại, đây
là về
một tay khủng bố không chịu ra tay khủng bố, chỉ vì có những đứa trẻ
tại hiện
trường.
"Cái
chết đã nhốt chặt
ông vào quá khứ." Khi viết những dòng này, Thanh Tâm Tuyền có vẻ như
vẫn
còn tin tưởng, về một cuộc chiến bắt buộc phải chấp nhận, cho dù chẳng
hề có
huyền thoại Malraux, huyền thoại Lawrence d’Arabie, huyền thoại
Rimbaud, và
chẳng thể nào ngông cuồng (hay hèn nhát) bỏ chạy. Cuộc chiến phải chấp
nhận.
Tôi không thể giết người, nhưng "tôi có thể tự tử" (Bếp Lửa). Từ
"có thể" của nhân vật Tâm, đến "có thực" của Trí trong Cát
Lầy, tới cái chết lãng xẹt của Kiệt trong Một Chủ Nhật Khác... đã nhốt
chặt
những nhân vật của Thanh Tâm Tuyền trong quá khứ - cuộc chiến Việt Nam,
tuy vào
thời điểm đó, nó chưa chấm dứt.
Những
nhân vật của Thanh Tâm
Tuyền, một khi từ chối một cuộc chiến phải chấp nhận, họ đã "không có
một
căn cước xác định" của Meursault: Anh ta luôn luôn là anh ta và là một
kẻ
khác [Nên nhớ, Thanh Tâm Tuyền đã từng để lên đầu bản thảo cuốn Bếp
Lửa, câu
của Rimbaud: Tôi là kẻ khác, nhưng sau gạch bỏ, khi đưa xuất bản.]
Liệu
đến khi cuộc chiến chấm
dứt, rồi cuộc bỏ chạy tán loạn ra biển, rồi ngục tù, trại cải tạo - cả
với
người miền bắc như một Nguyễn Chí Thiện trước, và sau, Bùi Ngọc Tấn....
- nhân
vật tiểu thuyết Việt Nam mới dần dần định hình: một kẻ lang thang, lưu
vong,
cho dù ở trong hay ở ngoài?
Kể từ
lúc: Bữa nay mẹ tôi
mất?
Lạ một
điều, nếu coi Mặt Trời
Địa Trung Hải là một "bếp lửa" của Camus, chúng ta sẽ nhận ra tính
anh em giữa hai "kẻ xa lạ", giữa Meursault trong Kẻ Xa Lạ, và Tâm
trong Bếp Lửa [Meursault: Mer-Sol: Mer et Soleil; Tâm: Tim, Bếp Lửa, Hà
Nội...
].
Nhưng
"juste", ở
đây theo tôi, còn muốn nhắc tới huyền thoại về một con người công chính
tiềm ẩn
(the myth of the hidden just man) của dân tộc Do-thái. Đây là một huyền
thoại
được nhiều nhà văn sử dụng, như là một biểu tượng để nói về phận người,
(nhất
là phận người Do Thái, trong thế kỷ của Lò Thiêu), thí dụ như trong
truyện ngắn
Cây Vĩ Cầm (Rothschild's Fiddle) của Chekhov (đã giới thiệu trên Văn
Học Nghệ
Thuật trên lưới do Phạm Chi Lan chủ biên và Việt Báo online, và trên
Hợp Lưu).
Hoặc trong cuốn tiểu thuyết "Người Công Chính Cuối Cùng", (của André
Schwarz-Bart, đã được giải thưởng văn chương Pháp Goncourt năm 1959),
theo đó,
thế giới ngự trị trên 36 kẻ công chính. Kẻ công chính, le juste, hay
lamed-waf,
người què gánh tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội rễ nhà
trời" (les racines
du ciel, chữ của Romain Gary), nhưng bề ngoài, họ chẳng khác gì những
con người
bình thường. Giữa họ, cũng chẳng thể nhận ra nhau. Nhưng chỉ cần một,
trong số
36 kẻ công chính thiếu đi, là nỗi đau khổ của con người làm độc ngay cả
đến tâm
hồn của những trẻ thơ, và nhân loại nghẹt thở vì tiếng khóc bi thương
này. Bởi
vì "lamed-waf" là trái tim của thế gian, nơi mọi đau khổ đều đổ xuống
đó. Như thể nhân loại có bao nhiêu khổ đau, là có bấy nhiêu truyền
thuyết về
"người què gánh tội", bởi vì sự hiện diện của họ là ở khắp nơi. Vào
thế kỷ thứ 7, những người Do Thái thuộc vùng Andalousie, Tây Ban Nha,
đã sùng
bái một khối đá mang hình giọt nước mắt, mà theo họ đây là linh hồn của
một
"lamed-waf". [Liệu chúng ta có thể hiểu huyền thoại hòn vọng phu, như
là giọt nước mắt, linh hồn người đàn bà suốt chiều dài dựng nước của
dân tộc?].
Và khi một kẻ công chính vô danh về trời, trái tim của người đó giá
lạnh đến
nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn năm trong lòng bàn tay của Người, để
sưởi ấm
cho nó. Và như người ta được biết, hầu hết trong số họ, trái tim chẳng
làm sao
ấm lại được nữa. Thượng Đế cũng chịu thua. Và Người thỉnh thoảng lại
phải vặn
nhanh lên ‘một phút’ chiếc đồng hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.
Camus
đã từng chịu ảnh hưởng
của Simone Weil. Quan điểm đạo đức cũng như chính trị của ông vẫn bị
coi là
ngây thơ, giản đơn, nhưng chưa bị coi là khùng, như Weil. Nhưng đối với
một số
người, thí dụ như George Steiner, Weil là một vị thánh: Saint Simone –
Simone
Weil.
"Ông ta
[Camus] nói
những điều quá giản dị, quá độ lượng, quá tổng quát", như cách giải
thích
cuốn Kẻ Xa Lạ của một nhà phê bình Pháp, Bernard Pingaud. Nhìn theo
cách này,
chúng ta có thể hiểu tại sao một kẻ đứng ở lưng chừng trời [Sartre cũng
đã từng
gọi Camus như vậy: "Bạn không ở phía bên phải, bạn ở trên trời", Vous
n’êtes pas à droite, Camus, vous êtes en l’air" [trích từ Thế kỷ của
Sartre, trang 470, tủ sách bỏ túi, tác giả Bernard-Henry Lévy], ấy là
chưa kể
những từ như: tên du thủ du thực, đá cá lăn dưa miệt vườn (nguyên văn:
tên côn
đồ đến từ Alger - trích trong Thế kỷ của Sartre), cuối cùng lại đáng
yêu hơn là
những kẻ cố chọn cho mình một thái độ, hoặc tả hoặc hữu.
Nên nhớ, Camus đã gia nhập
đảng Cộng Sản rất sớm., và cũng rất sớm, từ bỏ Đảng.
Liệu
chúng ta có thể coi
Camus là người công chính cuối cùng của... loài người?
NQT
3. Tội
ác từ hơn một thế kỷ vẫn còn nóng hổi:
Nước Bỉ chạm trán những quỉ
dữ thời kỳ thuộc địa của nó.
Walter Benjamin, triết gia
Đức gốc Do Thái cho rằng, với lịch sử, cho dù chỉ một chi tiết cỏn con,
cũng
không bị mất mát, rồi cũng có ngày lòi ra ánh sáng. Hơn một thế kỷ, kể
từ khi
Hoàng Đế Bỉ Leopold II biến xứ Congo thành thuộc địa của riêng mình,
một cuộc
điều tra hiện nay đang được mở ra để tìm hiểu về những tội ác đã lâu
ngày bị bỏ
quên, mà nước Bỉ, qua Hoàng Đế và quân đội riêng tư của ông, đã đối xử
với dân
chúng thuộc địa ở đây. Viện Bảo Tàng do nhà nước quản lý, the Royal
Museum for
Central Africa, trước đây được biết dưới cái tên Viện Bảo Tàng Congo
thuộc Bỉ,
đã giao cho một số sử gia nổi tiếng nhất trong nước một nhiệm vụ, hãy
đem đến
cho dân chúng một điều mà họ bị tước đoạt đã quá lâu: sự thực.
Những con số đáng sợ, gây
phẫn nộ, thường là từ những tài liệu được nghiên cứu kỹ càng: rằng trên
10
triệu người Congo đã, hoặc bị sát hại, hoặc bị buộc làm việc cho đến
kiệt lực
rồi ngã ra chết, bởi quân đội riêng của Vua Bỉ; rằng đàn bà đã bị hãm
hiếp một
cách có hệ thống, rằng dân chúng, tay chân bị cắt, bị bắt cóc, bị cướp
phá, nhà
cửa, làng mạc bị đốt: những tội ác như thế đó đã hơn một thế kỷ chưa
từng được
đem ra bàn cãi một cách nghiêm túc tại nước Bỉ, đừng nói đến chuyện xin
lỗi.
Rất nhiều những lời tố cáo
trên đây đã được tác giả người Mỹ Adam Hochschild đem vào trong cuốn
sách của
ông nhan đề "King Leopold’s Ghost". Khi cuốn sách được xuất bản vào
năm 1999 tại Bỉ, nó đã gây một sự phẫn nộ tại đây, nhất là khi tác giả
đã so
sánh con số những người chết tại Congo thuộc Bỉ với Lò Thiêu, và thanh
trừng
cải tạo dưới thời Stalin tại Liên xô. Nhưng cuốn sách cũng không tạo ra
được
một cái nhìn nghiêm chỉnh về vấn đề này.
"Chúng tôi sẽ nhìn vào
những lời tố cáo, những con số người chết, những tội ác đã phạm phải,
chúng tôi
sẽ điều tra, và vào năm 2004 chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra được câu trả
lời cho
cuốn sách của Hochschild," Guido Gryseels, giám đốc Viện Bảo Tàng tuyên
bố. "Chúng tôi không thể tránh né trả lời những câu hỏi này. Nó đã trở
thành nhức nhối, một giải pháp là hết sức cần thiết cho vấn đề. Ai cũng
nêu ra
câu hỏi, không phải một chốc một lát, mà hầu như luôn luôn, bất cứ lúc
nào, và
chúng tôi không biết ăn nói ra làm sao."
Cuộc điều tra sẽ bắt buộc xứ
sở này chạm mặt với những quỉ dữ thời kỳ thực dân thuộc địa của nó. Và
như vậy
là đụng vào một điều cấm kỵ từ hơn một thế kỷ, tính từ khi nhà thám
hiểm Henry
Morton Stanley, vào năm 1885, đã tìm ra xứ Congo cho Vua Bỉ. Một thuộc
địa giầu
có, với hai mỏ vàng là cao su và ngà voi, chưa kể mỏ vàng con người,
mặc sức mà
khai thác.
Cuộc điều tra được cầm đầu
bởi Giáo sư Jean-Luc Vellut, sẽ khởi sự trong hai tháng tới và sẽ trình
bầy
những gì mà họ tìm kiếm được vào năm 2004 (kỷ niệm 100 năm Stanley mất).
Nếu Congo, nơi xẩy ra những
tội ác ghê tởm nhất đã đi vào quên lãng, thì Viện Bảo Tàng tại Bỉ, được
Vua
Leopold II cho xây cất bằng tiền lấy từ Congo, bao lâu nay bị hờ hững,
chẳng ai
đoái hoài, lại là nơi trưng ra những tội ác đó, qua những nghệ phẩm
hiếm quí,
những kỳ hoa dị thảo của xứ thuộc địa, nơi mà Nhà Vua chưa từng một lần
thăm
viếng. Nó được dùng để tưởng niệm những sĩ quan thuộc Lực lượng Công
cộng
(Force Publique officers), những người này bây giờ bị buộc tội là dã
man. Về sự
độc ác, tàn nhẫn và những đau đớn khổ sở mà nhân dân Congo
phải chịu đựng, thì chưa thấy
nói tới.
Chính là do mong ước hiện đại
hóa Viện Bảo tàng đã phát sinh cuộc điều tra kể trên. Ngoài ra còn là
mong ước,
kéo nó ra khỏi cái quá khứ một chiều, sai trái về mặt chính trị.
"Viện Bảo Tàng đã chẳng
thay đổi gì trong vòng 44 năm qua," viên giám đốc cho biết. "Nó ôm
riết lấy cái tinh thần, nếu không muốn nói là cái bóng ma thực dân
thuộc địa ở
trong nó. Một khi bước vô là bạn nhìn thấy bức tượng một cậu bé da đen
ngước
mắt nhìn lên nhà truyền giáo da trắng, với hàng chữ "phụ đề"
(legend): "Bỉ quốc mang văn minh tới Congo." Đây là cái thông
điệp
mà Bỉ cần phải thay đổi, để nó không chỉ phản ảnh cái nhìn của nước này
vào
trước năm 1960 (là năm Congo
được độc lập). Chúng tôi cần cả những cái nhìn của người Phi Châu, như
vậy
những du khách sẽ thay đổi cái nhìn của riêng họ."
Hơn một thế kỷ đã qua đi,
nhưng nước Bỉ cho tới nay vẫn còn nhức nhối vì những tội ác mà họ đã
phạm phải
tại Congo.
"Đây là một thực tại đụng tới cái phần sâu thẳm nhất của linh hồn
Bỉ," Vị giám đốc Viện Bảo Tàng nói. "Chúng tôi vẫn chưa xong với nó,
thực sự là vậy. Và những phát giác đã tới với chúng tôi như một cú sốc.
Chúng
tôi được nuôi dưỡng, trưởng thành với ý nghĩ rằng Bỉ đã đem văn minh và
điều
tốt lành tới Congo.
Ở trường lớp, chúng tôi không hề được dậy bảo, cho biết có những lời tố
cáo, về
những điều tàn ác đó."
"So sánh nó với Lò
Thiêu, là một sỉ nhục sự thực," Giáo sư Vellut tuyên bố. "Chúng tôi
cần đưa lịch sử của đất nước chúng tôi lên bàn mổ, nhưng chúng tôi cũng
cần
phải hết sức thận trọng".
Ông cho biết, rất nhiều điều
tố cáo có tính đặc thù không thể được bàn tới, nhưng ông khẳng định
rằng, xác
định rõ rệt ngày nào tháng nào những điều độc ác như vậy đã xẩy ra, là
một điều
quá sức khó khăn. "Những con số thống kê thời kỳ đó thật khó tin cậy.
Người ta cũng không thể nào có con số chính xác và dân số Congo
vào lúc
đó. Ngay cả con số những người Do Thái bị chết tại Lò Thiêu, khi đem so
sánh,
cũng thay đổi. Ai biết được, rằng 10 triệu hay là 15 triệu người Congo
đã bị
giết hại?"
Jennifer Tran
(Theo bài viết của Andrew
Osborn, phóng viên tại Brussels
của tuần báo Guardian, số đề ngày 18-24 tháng Bẩy, 2002)
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
Nói,
Camus là một nhà dân chủ,
một gã tự do, một tay cải tổ, thì chẳng đi đến đâu, mà có khi còn phản
tác dụng
[…would not be very useful, rather, it would be counter-productive],
bởi vì những
quan niệm này – và ở đây, chúng ta phải nhận rằng, là một trong những
chiến thắng
vĩ đại nhất của những ý thức hệ toàn trị - sẽ đưa đến định nghĩa, về
mặt tốt nhất,
sự ngây thơ chính trị, và, về mặt tệ nhất, những mặt nạ giả đạo đức của
những kẻ
phản động và những kẻ bóc lột. Tốt hơn hết, là cố gắng định nghĩa,
những quan điểm
đó, có nghĩa gì, đối với Camus.
Cơ bản mà nói, Camus thẩy hết cả chủ nghĩa toàn
trị vào thùng rác, khi coi nó như là một hệ thống xã hội trong đó con
người không
còn là một cứu cánh mà chỉ là một dụng cụ. Đạo đức học của những giới
hạn là một
hoàn cảnh, tình trạng [a state], khi đó, sự đối lập, tương phản, the
antagonism, giữa phương
tiện và cứu cánh biến mất, ở đó, phương tiện biện minh cứu cánh,
chứ không phải
ngược lại.
Đề tài - về chủ nghĩa toàn trị, quyền lực toàn trị, những cực điểm của
khùng điên, có thể sẽ xẩy ra [to be reached: sẽ đạt tới], khi con người
vi phạm
[violate: hiếp đáp], đạo đức học của những giới hạn này - đã ám ảnh
Camus
suốt cuộc đời của ông. Nó là nguồn hứng khởi để ông viết ra ba vở kịch,
Caligula, State of Siege,
Tình trạng vây hãm, và The Just Assassins, Những kẻ
công chính, tiểu luận đẹp nhất, The Rebel, Kẻ nổi
loạn, và cuốn tiểu
thuyết của ông, The Plague, Dịch hạch.
Chỉ cần nhìn vào thực tại hôm nay, là bèn nhận ra rằng, ám ảnh của
Camus, về khủng
bố quốc gia, độc tài nhà nước hiện đại, đã được chứng nghiệm,
justified, và nó
mới tiên tri ra làm sao, tới cỡ nào!
Những tác phẩm này, chúng bổ túc cho nhau,
miêu tả và giải đáp những khía cạnh khác nhau của cùng một hiện tượng!
[Còn gì chứng nghiệm hơn, tiên
tri hơn, là sự kiện, nhà khủng bố VC nằm vùng, DH, một tay cầm cuốn Những kẻ công chính - mà ông ta là một
trong những kẻ đó, một tên sát nhân chính trực -, một tay lái xe Honda,
túi thủ trái bom, tới trạm gác Ngụy, bỏ
cuốn sách của Camus vào giỏ xe phía trước, lấy trái bom ra, liệng vô
trạm gác,
và tà tà chạy xe tiếp. Ông này chẳng đã từng
phán, tớ đọc
Camus rồi đi làm cách mạng, đâu có đọc Marx!]
Nhưng thật bất công, khi cho
rằng, chủ trương cải tổ, reformism, của Camus, thì cũng như tiếng nói
sa mạc, đi
biển gọi thầm, trong nỗ lực đòi hỏi tự do chính trị, kính trọng nhân
quyền [ở đây,
quyền cá nhân, rights of the individual], quên đi rằng, con người còn
là nạn nhân
của những ‘dịch hạch’ khác, ghê rợn, dữ dằn như đàn áp, oppression, và
có khi còn
khốc liệt hơn nhiều. Camus biết, bạo lực có nhiều bộ mặt, rằng, nó gây
thương tổn,
inflict, độc địa nhất, tàn nhẫn nhất, qua đói khát, bóc lột, vô học,
ngu si đần
độn, ignorance; rằng tự do chính trị, thì là cái chó gì [worth little:
có giá tí
ti] đối với một người sống trong nghèo đói, không văn hóa, without
culture, và
làm việc như một con vật. Và ông biết tất
cả những điều này, qua kinh nghiệm riêng tư, cá nhân, vì là một thành
viên
trong một cộng đồng thiểu số, như tôi đã từng nói.
Ông sinh ra, như là một tên
chân đen, a pied noir, một trong một triệu
người Âu Châu, họp thành một thiểu số đặc quyền giữa bẩy triệu người Ả
Rập
Algerian. Nhưng cộng đồng thiểu số đặc quyền người Âu Châu này thì
không đồng
nhất. Có những người giầu có, trung lưu, và nghèo khổ, và Camus thuộc
thứ tệ nhất,
thấp nhất trong thiểu số này. Cái thế giới của tuổi thơ và tuổi mới lớn
của ông
thì quá nghèo khổ. Cha ông là một công nhân, và khi ông chết, bà mẹ
phải làm nghề
đầy tớ. Ông chú, người bảo hộ ông, người
đầu tiên dậy ông đọc, là một tên đồ tể cuồng tín. Ông học hành nhờ học
bổng, và
khi bị bịnh lao, vô nhà thương thí. Những từ như ‘nghèo đói’, ‘bất lực
không làm
sao chống đỡ, tự bảo vệ, ‘defenceless’, ‘bóc lột’, đối với ông, không
phải là từ
những cuốn cẩm nang cách mạng, như mấy tay trí thức, học sinh, sinh
viên của Miền
Nam Việt Nam, đám bợ đít VC, nhưng mà là từ kinh nghiệm hàng ngày. Vì
lý do đó,
thật là hoàn toàn lầm lẫn khi buộc tội ông là vô cảm trước những vấn đề
xã hội,
insensible to social problems.
Con người ký giả ở trong ông,
trong rất nhiều dịp, đã tố cáo sự bất công kinh tế, tệ phân biệt, và
thiên kiến
xã hội, cũng bằng một cái nhìn trong sáng mà con người tiểu luận ở nơi
ông sử
dụng, để
chiến đấu chống lại khủng bố của đám quyền chức. Đây là điều ông viết,
vào năm
1939, trong Sự khốn cùng ở Kabylia,
tố cáo hoàn cảnh khủng khiếp của
người kabilas ở
Algeria, vì bài viết mà ông bị trục xuất ra khỏi xứ sở. Trong
tư tưởng
của Camus, bóc lột kinh tế con người thì cũng bị kết án y hệt
như đàn
áp chính trị. Và cũng cùng lý do đó, xuyên qua niềm tin nhân bản của
ông, là, cá
nhân con người là cứu cánh, không phải phương tiện, kẻ thù của con
người thì
không phải chỉ là cái thằng đàn áp nó mà còn là tên khốn kiếp đã bóc
lột nó, để
hưởng lợi; ngoài cái tên VC tống nó vô trại tập trung cải tạo, còn có
tên 'tư bản', đỏ cũng có nữa, biến nó thành cái máy sản xuất. Nhưng, sự
thực là, một khi định cư
tại Pháp,
Camus tập trung vào đàn áp chính trị, và đạo đức hơn là kinh tế. Thứ
nhất, do nó
nóng bỏng ở nơi ông [ông ta, như tôi đã nói, là một gã Âu Châu, mà điểm
qui chiếu
chính với ông, lẽ dĩ nhiên, là thực tại Âu Châu], vào giai đoạn mà ông
sống [ở đó].
Vào những năm hậu chiến, khi, đối đầu với nạn triều cường là chủ nghĩa
Marx, sử
tính, ý thức hệ, tất cả đều nỗ lực giản trừ con người về một vấn đề xã
hội, tác
phẩm của Camus càng trở nên quan trọng, thúc bách, như là một đối
trọng, chúng
nhấn mạnh đến một điều mà cả lũ kia vờ đi: đạo đức.
Hannah
Arendt
Tính
Tầm Phào, Lãng
Nhách của Cái Ác: Ghi chú, bổ sung, và phản bác.
"Dans les pas de Hannh Arendt"
What Would Hannah Say?
J. M. Coetzee
on
Norman Mailer's Hitler
at the New
York
Review of Books (no subscription required). Here are his
conclusions:
The
lesson that Adolf Eichmann teaches,
wrote Hannah Arendt at the conclusion of Eichmann in Jerusalem, is of
"the fearsome,
word-and-thought-defying banality of evil" (Arendt's italics). Since
1963,
when she penned it, the formula "the banality of evil" has acquired a
life of its own; today it has the kind of clichéd currency that "great
criminal" had in Dostoevsky's day.
Mailer
has repeatedly in the past voiced his
suspicion of this formula. As a secular liberal, says Mailer, Arendt is
blind
to the power of evil in the universe. "To assume...that evil itself is
banal strikes me as exhibiting a prodigious poverty of imagination."
"If Hannah Arendt is correct and evil is banal, then that is vastly
worse
than the opposed possibility that evil is satanic"—worse in the sense
that
there is no struggle between good and evil and therefore no meaning to
existence.
It
is not too much to say that Mailer's quarrel
with Arendt is a running subtext to The Castle in the Forest.
But does he do justice to her? In 1946 Arendt had an exchange of
letters with
Karl Jaspers sparked by his use of the word "criminal" to
characterize Nazi policies. Arendt disagreed. In comparison with mere
criminal
guilt, she wrote to him, the guilt of Hitler and his associates
"oversteps
and shatters any and all legal systems."
Jaspers
defended himself: if one claims that Hitler
was more than a criminal, he said, one risks ascribing to him the very
"satanic greatness" he aspired to. Arendt took his criticism to
heart. When she came to write the Eichmann book, she endeavored to keep
alive
the paradox that though the actions of Hitler and his associates may
defy our
understanding, there was no depth of thought behind their conception,
no
grandeur of intention. Eichmann, a humanly uninteresting man, a
bureaucrat
through and through, never realized in any philosophically full sense
of the
word what he was doing; the same might be said, mutatis mutandis, for
the rest
of the gang.
To
take the phrase "the banality of evil"
to epitomize Arendt's verdict on the misdeeds of Nazism, as Mailer
seems to do,
thus misses the complexity of the thinking behind it: what is peculiar
to the
everyday banality of a bureaucratically administered, industrially
organized
policy of wholesale extermination is that it is also
"word-and-thought-defying," beyond our power to understand or to
describe.
Before
the magnitude of the death, suffering, and
destruction for which the historical Adolf Hitler was responsible, the
human
understanding recoils in bewilderment. In a different way, our
understanding
may recoil when Mailer tells us that Hitler was responsible for the
Third Reich
only in a mediate sense—that ultimate responsibility lay with an
invisible
being known as the Devil or the Maestro. The problem here is the nature
of the
explanation we are being offered: "The Devil made him do it" appeals
not to the understanding, only to a certain kind of faith. If one takes
seriously Mailer's reading of world history as a war between good and
evil in
which human beings act as proxies for supernatural agents—that is to
say, if
one takes this reading at face value rather than as an extended and not
very
original metaphor for unresolved and irresoluble conflict within
individual
human psyches—then the principle that human beings are responsible for
their
actions is subverted, and with that the ambition of the novel to search
out and
speak the truth of our moral life.
Blessedly,
The Castle in the Forest
does not demand to be read at face value. Beneath the surface, Mailer
can be
seen to be struggling with the same paradox as Arendt. By invoking the
supernatural, he may seem to assert that the forces animating Adolf
Hitler were
more than merely criminal; yet the young Adolf he brings to life on
these pages
is not satanic, not even demonic, simply a nasty piece of work. Keeping
the
paradox infernal–banalalive in all its anguishing inscrutability may be
the
ultimate achievement of this very considerable contribution to
historical
fiction.
Vấn đề
là, Dương Tường hẳn biết, lũ lụt là thiên tai; kiểm duyệt, nhân tai.
Tại sao ông lại coi như nhau?
Trong khi chờ đợi có người giải ra 'bổ đề DT' này, Gấu giới thiệu bài
viết của Llosa: Văn chương là lửa.
Đây là bài diễn văn của ông, khi nhận giải
thưởng Romulo Gallegos [prize].
Lửa, cũng một thứ thiên tai, vậy.
Adam
Zagajewski
OUR WORLD
In memoriam W. G. Sebald
I never met him, I only knew
his books and the odd photos, as if
picked up in a secondhand shop, and human
fates found in a secondhand shop,
and a voice quietly narrating,
a gaze that took in so much,
a gaze turned back,
avoiding neither fear
nor rapture;
and our world in his prose, our world, so calm - but
full of crimes perfectly forgotten,
even in lovely towns
on the coast of some sea or ocean,
our world full of empty churches,
rutted with railroad tracks, scars
of ancient trenches, highways,
cleft by uncertainty, our blind world
smaller now by you.
- Adam Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB April 29, 2004
Thế giới của chúng ta
Tưởng niệm W.G. Sebald
Tôi chưa hề gặp ông, tôi chỉ biết
những cuốn sách, và những tấm hình kỳ kỳ của ông, như
nhặt ra trong một bán sách cũ, và
số phận con người nhặt ra từ một tiệm đồ cũ
và một giọng âm thầm kể,
một cái nhìn nhìn quá lâu,
một cái nhìn nhìn lại,
lẩn tránh cả sợ hãi lẫn sung sướng;
và thế giới của chúng ta, trong dòng tản văn của ông,
thế giới của chúng ta, lặng lẽ biết bao, nhưng
đầy những tội ác đã được hoàn toàn quên lãng,
ngay cả trong những thành phố đáng yêu
trên bờ biển hay đại dương nào đó,
thế giới của chúng ta đầy những nhà thờ trống rỗng
hằn vết đường xe lửa, vết sẹo
của những giao thông hào cũ, những đại lộ
rạn nứt bởi sự hồ nghi, thế giới mù lòa của chúng ta,
bây giờ nhỏ hẳn đi, do mất ông
|
|