*

















*

4.11.09

Cụ Mác
Cụ không thể suy nghĩ. Luân đôn thì ẩm
Trong mọi phòng một người nào đó ho
Cụ chưa hề mê mùa đông.
Cụ viết lại bản thảo đã qua
Viết lại, rồi viết lại,
Chẳng đam mê đam miết khỉ gì hết.
Trang giấy vàng
chỉ cần sờ vô
là biến thành tro than.
Tại sao mà cuộc sống lại hăm hở,
lì lợm,
chạy về chốn huỷ diệt?
Nhưng mùa xuân trở về trong những giấc mộng,
với tuyết không thể nói,
bằng bất cứ tiếng nói nào quen biết
Và ở chỗ quái quỉ nào trong hệ thống Mác Xịt do cụ phịa ra,
tình yêu tìm được chỗ vừa khít với nó?
Ở nơi chốn nào, bạn tìm thấy những bông hoa mầu xanh?
Cụ tởm, gớm, ghét những tên vô chính phủ.
Những tên lý tưởng làm cụ ngấy đến tận cổ
Cụ nhận được những báo cáo từ mãi tít Nga Xô
Chi tiết ra sao thế nào, thì cũng mãi tít như thế.
Nước Pháp trở nên giầu,
Ba Lan thì thường thôi, và êm ả,
Mẽo không ngừng phát triển,
Máu ở khắp mọi nơi.
Có lẽ, giấy dán tường cần thay cái mới
Cụ bắt đầu nghi ngờ,
rằng, nhân loại nghèo đói
sẽ vẫn luôn luôn mệt mỏi lê bước,
qua trái đất già nua, cũ kỹ,
như mụ điên trong làng,
hăm he đưa nắm tay,
đe dọa một vị Thượng Đế không nhìn thấy.
Adam Zagajewski

Chúc sức khoẻ
Thursday, December 17, 2009 1:12 PM
From:
To:

Trụ,
Tao mới vào địa chỉ của mày, thấy hình mới nhất (?) của mày posted ở giữa trang, mặt trông mập ra, già hơn và có vẻ yếu hơn trước. Sức khoẻ mày lúc này thế nào? Ăn uống có còn bình thường không? Chúc sức khoẻ mày. Chúc cả nhà có những ngày lễ, Tết vui vẻ, đầm ấm.

Tks.
The same to U and All, there.
Hình mới chụp, tháng trước.
Chắc sắp theo Cụ Mác rồi!
Không biết có gặp Bác Hồ ở dưới đó không, hay Bác đã bỏ Đảng rồi!
NQT



Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được."
"Theo nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
Joseph Brodsky


*

Anna Akhmatova qua nét vẽ của David Levine, NYRB.
Được chụp hình, được họa nhiều nhất, trong các thi sĩ.
Nhìn nghiêng, chỉ cần nhìn cái mũi, là nhận ngay ra Bà.

The word that causes death's defeat.
Cái Từ Khiến Thần Chết Cũng Phải Bỏ Chạy.

Trong số tất cả những thi sĩ lớn lao của Nga bị Stalin bách hại, hơn cả Osip Mandelstam, Boris Pasternak, hay Marina Tsvetaeva, bà nổi tiếng, như là một chống đối và tuẫn nạn [as a resister and martyr].
"Hiển hiện ngay dưới mắt tôi, là một số kiếp, một điều gì lớn lao hơn chính con người của Bà. Cái số kiếp đó, định mệnh đó, như được khắc, đẽo, vạc ra, từ chính con người này, một con người nổi tiếng nhưng chẳng thèm để ý tới, mạnh mẽ nhưng lại gần như hoàn toàn bất lực, không tự bảo vệ được mình, một bức tượng của khổ đau, cô đơn, kiêu ngạo, và can đảm."

Lidia Chukovskaya, nhà văn, bạn và cũng là người ghi lại tất cả những cuộc gặp gỡ giữa cả hai, cho tới khi Bà mất


ROAD WARRIOR
Arthur Koestler and his century.
by Louis Menand


Tiếu lâm quá thể!
Bài của Gấu dịch Brodsky:
Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
bằng tiếng Mít, vậy mà cũng được một trang mạng để mắt tới, và bê về!
Đây nè
Có vẻ như, đây là một trang Wiki, bằng tiếng Tây Bán Nhà?
Bạn click vô cái hình Chúc Mừng Noel, của anh Cu Lùn Richie, và Jennifer, là nó bật ra trang này


VHNT số 552
29 Sept 2002
Tên gọi của ngày mai
Tin Văn

1.   Hannah Arendt : Những Nguồn Gốc Của Chủ Nghĩa Toàn Trị.
Lời Tựa lần xuất bản đầu (1951).
Weder demVergangenen anheimfallen noch
dem Zukunftigen. Es kommt darauf an, ganz gegenwartig zu sein.
K. Jaspers
Chớ đắm đuối hoài vọng quá khứ, hoặc tương lai.
Điều quan trọng là hãy trọn vẹn ở trong hiện tại.
Karl Jaspers. (1)
Hai thế chiến trong một thế hệ - phân cách nhau là một chuỗi không dứt những chiến tranh và cách mạng địa phương, tiếp theo sau không hòa ước cho kẻ thua mà cũng chẳng thảnh thơi cho kẻ thắng – đã kết thúc trong cảnh thập thò của cuộc Thế Chiến Thứ Ba giữa hai cường lực thế giới còn lại. Khoảnh khắc thập thò này giống như sự bình lặng dấy lên sau khi mọi hy vọng vừa chết. Chúng ta không còn hy vọng tái lập thật rốt ráo cái trật tự thế giới cũ với tất cả truyền thống của nó, hoặc tái phục nguyên khối quần chúng năm châu, bị ném vào cuộc hỗn mang do bạo động chiến tranh và cách mạng gây nên, và cuộc hủy diệt dần những gì còn sót lại. Ở trong những điều kiện phức biệt nhất, những hoàn cảnh dị biệt nhất, chúng ta theo dõi cùng những hiện tượng cứ thế phát triển: hiện tượng bán xới trên một qui mô chưa từng có trước đây, và hiện tượng mất gốc chưa bao giờ tới độ sâu như vậy.
Chưa bao giờ tương lai của chúng ta lại mập mờ đến như thế, chưa bao giờ chúng ta lại lệ thuộc đến như thế vào những quyền lực chính trị; chẳng thể nào tin cậy, rằng chúng sẽ tuân thủ qui luật "lợi cho mình nhưng đừng hại cho người"; những sức mạnh thuần chỉ là điên rồ, nếu xét theo tiêu chuẩn những thế kỷ khác. Tuồng như thể nhân loại tự phân ra, một bên là những kẻ tin ở sự toàn năng của con người (những kẻ tin rằng mọi sự đều khả dĩ nếu người ta biết cách tổ chức quần chúng thực hiện theo đường lối đó), một bên là những kẻ mà sự bất lực đã trở thành kinh nghiệm chủ chốt trong đời họ.
Trên bình diện kiến giải lịch sử và tư duy chính trị, trội hẳn lên là một kiểu thỏa thuận chung, [tuy] không được định nghĩa rõ ràng: rằng cấu trúc thiết yếu của tất cả văn minh đang ở điểm đứt đoạn. Mặc dù có vẻ được gìn giữ khá hơn ở một số nơi trên thế giới so với những nơi khác, chẳng nơi nào nó có thể đem đến cho chúng ta một sự hướng dẫn, nếu nói về những khả tính - hoặc một phản ứng tới nơi tới chốn, trước những điều ghê gớm tởm lợm - của thế kỷ. Một khi [con người] tới gần trái tim của những biến cố như thế, thay vì một phán đoán quân bình, một kiến giải thận trọng, thì lại là hy vọng tuyệt vọng, và sợ hãi tuyệt vọng. Những biến động trung tâm của thời đại chúng ta được lãng quên thật hiệu quả, bởi những người đắm mình vào một niềm tin, rằng tận thế không thể nào tránh được, hơn là bởi những người buông xuôi vào một chủ nghĩa lạc quan liều lĩnh.
Dựa lưng vào một niềm lạc quan liều lĩnh và một tuyệt vọng liều lĩnh, cuốn sách này được viết trong một bối cảnh như thế đó. Cuốn sách khẳng định: rằng Tiến Bộ và Tận Thế là hai mặt, của vẫn một huân chương; rằng cả hai đều là những điều này mục nọ của mê tín, không phải của niềm tin. Nó đã được viết ra, từ một xác tín, là có thể khám phá những cơ chế ẩn giấu, theo đó, toàn bộ những thành tố truyền thống của thế giới chính trị và tâm linh của chúng ta bị tan biến vào một lò cừ, nơi mọi sự dường như mất đi giá trị đặc thù của nó, trở thành lạ lẫm đối với nhận thức của con người, trở thành vô dụng cho những mục tiêu của con người. Một cám dỗ khó đề kháng - chịu khuất mình vào một quá trình thuần túy, giản dị của sự băng hoại, không chỉ là vì nó khoác lên cho sự vĩ đại hồ đồ - tức cái gọi là "tất yếu lịch sử" - một bộ áo mã, mà còn là vì điều này: tất cả mọi sự, ở bên ngoài nó, đều có vẻ như thiếu sống, thiếu máu, vô nghĩa, và không thực.
Mọi chuyện xẩy ra ở trên cõi đời này phải "được hiểu" đối với con người, một xác tín như thế sẽ đưa đến chuyện giải thích lịch sử bằng những khuôn sáo. Nhưng "hiểu" không có nghĩa là từ chối cái nghịch thường, hoặc diễn dịch một điều chưa hề xẩy ra bằng tiền lệ, hoặc giải thích hiện tượng bằng loại suy và bằng tổng quát, khiến con người trơ ra, khi đụng đầu, và kinh nghiệm thực tại. Thay vì vậy, nó có nghĩa, quan sát, nghiên cứu, ý thức được cái gánh nặng mà thế kỷ này đã đặt lên chúng ta – không phủ nhận sự hiện hữu, mà cũng không cam chịu sức nặng của nó. Như vậy, "hiểu" có nghĩa là giáp mặt thực tại, không tính toán trước, nhưng chú tâm, và đề kháng lại nó, bất kể nó ra sao.
Theo nghĩa đó, phải đối mặt và hiểu được sự kiện ngược ngạo: rằng một hiện tượng nhỏ nhoi như thế (vàchẳng có chi là quan trọng như thế, đối với chính trị thế giới): hiện tượng vấn đề Do Thái và chủ nghĩa bài Do Thái lại có thể trở thành tác nhân của, đầu tiên là phong trào Quốc Xã, rồi sau đó, thế chiến, và sau chót, cho việc thiết lập những xưởng máy của cái chết. Hoặc, sự sai biệt lố bịch giữa nhân và quả mở ra kỷ nguyên của chủ nghĩa tư bản, khi những khó khăn kinh tế, trong vài thập niên, dẫn tới một biến đổi sâu xa tình hình chính trị trên toàn thế giới. Hay, sự mâu thuẫn kỳ quặc giữa cái chủ nghĩa hiện thực trơ tráo tuyên xưng của những phong trào toàn trị và sự miệt thị lồ lộ của chúng, đối với toàn bộ mạng lưới thực tại. Hoặc, sự bất tương xứng nhức nhối giữa quyền năng thực sự của con người hiện đại (lớn hơn bao giờ hết, lớn đến mức có thể thách thức ngay cả sự hiện hữu của vũ trụ) và nỗi bất lực mà con người hiện đại phải sống, và phải tìm ra cái ý nghĩa của cái thế giới do nó tạo nên, bằng chính sức mạnh năng vô biên của nó.
Toan tính toàn trị - chinh phục toàn cầu, thống trị toàn diện – là một phương thức mang tính hủy diệt, nhằm vượt ra ngoài mọi ngõ cụt. Thành công của nó có thể trùng khớp với sự hủy diệt nhân loại; ở nơi nào nó cai trị, ở nơi đó hủy diệt bản chất của con người. Hỡi ơi, nhắm mắt bưng tai, quay lưng lại với những sức mạnh hủy diệt của thế kỷ này thì cũng chẳng đi đến đâu.
Thực vậy, đây là nỗi khốn khó của thời đại chúng ta, mắc míu lung tung, đan xen lạ lùng giữa xấu và tốt, đến nỗi, nếu không có "bành trướng để bành trướng" của những tên đế quốc, thế giới chẳng bao giờ trở thành một; nếu không có biện pháp chính trị "quyền lực chỉ vì quyền lực" của đám tư sản, cái sức mạnh vô biên của con người chắc gì đã được khám phá; nếu không có thế giới ảo vọng, thiên đường mù của những phong trào toàn trị, qua đó, những bất định thiết yếu của thời đại chúng ta đã được bầy ra một cách thật rõ nét, như chưa từng được bầy ra như vậy, thì làm sao chúng ta [lại có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế, vậy mà vẫn không hay, chuyện gì đang xẩy ra?
Và nếu thực, là, trong những giai đoạn tối hậu của chủ nghĩa toàn trị, một cái ác triệt để xuất hiện, (triệt để bởi vì chúng không thể suy diễn ra, từ những động cơ có thể hiểu được, của con người), thì cũng thực, là, nếu không có chủ nghĩa toàn trị, chúng ta có thể chẳng bao giờ biết được bản chất thực sự cơ bản, thực sự cội rễ, của cái ác.
Chủ nghĩa bài Do Thái (không phải chỉ có sự hận thù người Do Thái không thôi), chủ nghĩa đế quốc (không chỉ là chinh phục), chủ nghĩa toàn trị (không chỉ là độc tài) – cái này tiếp theo cái khác, cái này bạo tàn hơn cái kia, tất cả đã minh chứng rằng, phẩm giá của con người đòi hỏi một sự đảm bảo mới, và sự đảm bảo mới mẻ này, chỉ có thể tìm thấy bằng một nguyên lý chính trị mới, bằng một lề luật mới trên trái đất này; sự hiệu lực của nó, lần này, phải được bao gồm cho toàn thể loài người, trong khi quyền năng của nó phải được hạn chế hết sức nghiêm ngặt, phải được bắt rễ, và được kiểm soát do những thực thể lãnh thổ được phân định mới mẻ lại.
Chúng ta không còn thể cho phép chúng ta giữ lại những cái gì tốt trong quá khứ, và đơn giản gọi đó là di sản của chúng ta, hay loại bỏ cái gì là xấu, giản dị coi đó là một gánh nặng chết tiệt mà tự thân chúng sẽ bị thời gian chôn vùi trong lãng quên. Cái mạch ngầm của lịch sử Tây phương sau cùng đã trồi lên trên mặt đất, và soán đoạt phẩm giá của truyền thống của chúng ta. Đây là thực tại chúng ta sống trong đó. Đây là lý do tại sao mọi cố gắng chạy trốn cái u ám của hiện tại, bằng hoài vọng một quá khứ vẫn còn trinh nguyên, hay bằng một sự lãng quên có dự tính về một tương lai tốt đẹp hơn: tất cả những cố gắng như vậy đều là vô hiệu.
Hè 1950
Hannah Arendt
NQT chuyển ngữ.
Chú thích:
Cuốn Những Nguồn Gốc Của Chủ Nghĩa Toàn Trị, trước đây, khi dịch ra tiếng Pháp, đã được phân làm ba. Vì vậy, thiếu Lời Tựa. Lần này, nhà xb Gallimard đã đem đến cho nó một bản dịch toàn thể; cùng với tác phẩm "Eichmann ở Jérusalem", cả hai được in chung thành một tập, trong tủ sách Quarto. Như thế, Lời Tựa lần xuất bản đầu tiên bằng tiếng Anh (1951), lần thứ nhất ra mắt độc giả tiếng Pháp, trên tạp chí Văn Học, Le Magazine Littéraire, số Tháng Sáu, 2002.
Do tính quan trọng của bản văn, và sự chính xác của nó, chúng tôi có cho "scan" nguyên bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Pháp trên trang Tin Văn, để độc giả tiện tham khảo.

2.  Bữa nay mẹ tôi mất
Kẻ Xa Lạ của nhà văn Pháp Albert Camus, thuật câu chuyện anh chàng Meursault, được tin mẹ mất (Bữa nay mẹ tôi mất. Có thể bữa qua, tôi không biết. Tôi nhận được điện tín từ nhà dưỡng lão...), đi đám tang, trở lại sở làm, đi chơi với em và giết người tại bãi biển. Hỏi động cơ giết người, hỏi tại sao bắn thêm bốn phát nữa vào cái thân thể đã bất động, anh trả lời, tại mặt trời (à cause du soleil). Vẫn mặt trời ngày chôn mẹ. Tất cả được kể bằng một giọng văn đều đều, như muốn gạt bỏ mọi tình cảm, mọi phản ứng, trước bất cứ một "vụ việc". Một thứ văn chương "trung tính" (neutre), "một cách viết trắng", như Roland Barthes đã từng đọc Camus trong Không Độ Của Cách Viết. Tại sao một câu chuyện như thế lại quyến rũ không biết bao nhiêu thế hệ độc giả, nhất là đúng vào tuổi mới lớn?
Với họ, đây là một thứ sách-thờ (le livre culte), và tác giả của nó, "đẹp như Bogart, lái xe như James Dean, điếu thuốc lá luôn gắn trên miệng" (và chỉ bị lấy bỏ, trên con tem tưởng niệm ông!): Một kẻ dẫn đường, một bậc thầy đạo đức của thế hệ.
Của nhiều thế hệ?
***
"Tôi sinh ở Bạc Liêu năm 1958 trong một gia đình có tập quán đối nghịch, là mẹ Nam, lấy việc làm thay lời nói, và bố Bắc, gần như ngược lại, lấy lời nói thay việc làm. Tôi không khớp với người Nam bởi một ít máu Bắc, và cũng không trùng với người Bắc bởi một phần tính Nam. Tôi là sản phẩm méo mó của cái quan hệ nhùng nhằng đó. Nó ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ và thái độ của tôi. Tôi hiện sống ở Sài Gòn, và đã in hai tập thơ: Đêm Mặt Trời Mọc (1990) và Khí Hậu Đồ Vật (1997).
Tôi bị gọi nhập ngũ năm 1979, và có hai năm đứng trong hàng ngũ đi dép râu, đội nón cối và bắn vài loạt AK, nhưng cũng may chưa ra trận. Tôi nghĩ, nếu đánh nhau, tôi dễ trở thành một tù binh, hoặc một hàng binh, hoặc là người bị bắn đầu tiên. Không lâm trận nhưng cũng bị hai vết thẹo: một vết loét trong dạ dày vì đói và ăn bậy, một vết thẹo trong tâm lý, do bị dồn nén từ áp lực của một tập thể luôn bị bơm căng. Trong hai năm đó, tôi nhận ra tính hiếu chiến gần như bản năng tiềm ẩn trong con người Việt Nam, và điều đó làm tôi hoảng sợ hơn những cuộc đọ súng tưởng tượng với Pôn Pốt. Nhưng cũng may, nhờ loét dạ dày tôi được giải ngũ sớm.
Kẻ Xa Lạ, Thời Của Kẻ Giết Người, Zarathrustra Đã Nói Như Thế, là những cuốn sách không chỉ in những dấu ấn, nó còn là cây búa đập vỡ tôi ra. Kẻ Xa Lạ, Lê Thanh Hoàng Dân dịch của Camus, đọc lần đầu năm 1974, nó đã tác dụng đến tôi như một trận hỏa, thiêu rụi mọi cái ảo trong trí tưởng về sự hiện hữu của con người, và thay vào đó, là cái trơ trọi cứ lớn dần trong cảm thức. Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc nó, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, và cả về sau, tôi tin, tư tưởng của Camus trong Kẻ Xa Lạ là nền tảng đạo đức không xa lạ nữa với mỗi người. Thời Của Kẻ Giết Người, Phạm Công Thiện dịch của Henry Miller viết về Rimbaud, đối với tôi lúc đó, hơn bất luận một giáo trình tâm lý và mỹ học nào, nó là tấm gương soi cho những kẻ đồng căn nhận ra tính nguyên sơ của cái đẹp thấu thị, và tính chất đó chỉ đạt đến trong ý thức nổi loạn. Zarathrustra Đã Nói Như Thế, Trần Xuân Kiêm dịch của Nietzsche, giáng vào tôi một khoái cảm điếng người của sự đứt đoạn, sự lìa bỏ, và sự vượt lên. Nó lắp đặt cho ý thức một cỗ máy tinh xảo để lọc mọi thứ cặn trong truyền thống cảm xúc ẩm thải ra từ đời sống và từ văn chương. Những cuốn sách đó đã thiết kế ý thức cá nhân của tôi đề kháng lại cái môi trường bán khai của qyyền lực tập thể, luôn thấy trong cá tính mối nguy hiểm cho sự an toàn tạm bợ của nó. Ngoài ra, sự không tưởng về kinh tế, chuyên chế về chính trị ở Việt nam sau chiến tranh đã gây ra những tai biến, những xung đột, những xáo trộn khắc nghiệt trong tâm lý, nên những hình ảnh kỳ dị, những ý tưởng đột ngột trong những câu thơ, kiểu: súng lục có tóc trắng, ruột gan của đá, không khí là một rễ cây, đá là cây của những đám mây... tức thì nhập vào tôi như một cơn gió độc; và thi pháp thơ siêu thực, mặc nhiên biến thành hơi thở, máu thịt, và làm nên phần chính yếu trong ý thức nghệ thuật của tôi. Vào thời đó, sách dịch từ Liên Xô độc chiếm trong các tiệm sách, và hầu hết những cuốn sách đều mặc đồng phục..."
Nguyễn Quốc Chánh
(Trích phỏng vấn, do Đinh Linh thực hiện, đăng lại trên diễn đàn Talawas)
***
Tôi đọc Kẻ Xa Lạ, hình như là vào năm 1958 thì phải, và cơn chấn động của nó đánh bật tôi ra khỏi giảng đường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn.
1974, Nguyễn Quốc Chánh đọc nó, cũng tại thành phố Sài Gòn của tôi, và như ông cho biết, nó đã tác dụng tới ông như một trận hỏa...
Hai người đọc cùng một cuốn sách, trước và sau một cuộc chiến, và gần như cùng bị chấn động như nhau. Có vẻ như cuốn sách chẳng cần một thời gian, một biến cố lịch sử nào để mà biện minh. Có vẻ như nó mãi mãi thuộc về một thời mới lớn, như tác giả của nó, khi viết nó: "Camus ư? Đây là một tấm hình của ông. Một khuôn mặt đẹp, trầm trọng, một cái nhìn buồn bã, và dịu dàng của người thức đêm, trông chừng những cơn mộng của thời mới lớn...".
Và đây là câu văn mở đầu của một cuốn tiểu thuyết sẽ mãi mãi làm ngỡ ngàng những người trẻ tuổi:
"Bữa nay mẹ tôi mất" (Aujourd’hui maman est morte).

Camus rất mê câu thơ của Rilke:
Ở đâu có nguy hiểm, ở đó có cứu rỗi. (Là où croit le danger, croit aussi ce qui sauve).
Như thể ông đã nhìn ra, sau Lò Thiêu, vẫn còn có cứu rỗi?
Và đó là giá mà Âu Châu phải trả để có được giải phóng, và sau đó, tự do?
Nhưng như một nhà phê bình Pháp, Bernard-Henry Lévy, trên tạp chí Le Point (số đặc biệt về Camus, tháng Tám 1993) đã nhìn ra ở ông: Càng ngày Camus càng muốn đảo ngược câu thơ của Rilke:
Ở đâu có hòa bình, ở đó có hiểm nguy. (Là où vient la paix, croit aussi le temps des dangers).
Liệu có thể áp dụng hai câu thơ trên, cho hai độc giả của Kẻ Xa Lạ, một trước, và một sau, cuộc chiến Việt Nam?
· · ·
Nguyễn Quốc Chánh viết, "Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc nó, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, và cả về sau, tôi tin, tư tưởng của Camus trong Kẻ Xa Lạ là nền tảng đạo đức không xa lạ nữa với mỗi người". Chúng ta tự hỏi, đâu là nền tảng đạo đức của Camus?
Trong một bài viết trên tờ Le Point, là lộ trình của Camus, "Từ Alger tới Paris, từ thập niên 30 tới ngày 4 tháng Giêng 1960 – ngày ông tử nạn xe hơi – Camus đi theo những biến động của thời cuộc. Ông cảm thấy thất vọng, thương tổn, và do đó, thật gần gũi."
Kẻ xa lạ, Camus, đến từ mặt trời Địa Trung Hải, đã thất vọng, lần đầu gặp Paris, và khám phá vẻ nham nhở, xám xịt, mưa, những người gác cổng, và những vụ tự tử vô danh trong những căn phòng khách sạn, như trong Sổ Tay của ông, vào năm 1940, khi định cư tại đây: "Đọc Paris Buổi Chiều và cảm thấy trái tim của thành phố ê hề trên những trang báo, cái tính đê tiện của một cô thợ khâu.... Nó [Paris] thì thối rữa. Sướt mướt, mỹ miều, vui lòng khách đến, chốn ẩn trú nhớm nhúa, nơi con người phải cố mà sống trong một thành phố quá tàn bạo đối với nó."
Cảm giác đầu tiên và cũng là cuối cùng: Chẳng bao giờ ông có được một từ dịu dàng với thành phố đó. Ông cảm thấy lạc lõng, xốn xang. Đây là một con người khốn khổ vì hoài nghi, vì nghĩ rằng mình vô ích, vô tích sự, và chỉ cảm thấy dịu đi một phần nào, bằng những câu vắn ngắn thật sáng sủa, chỉ để tố cáo sự bất công của cõi người.
Sự thực, ông ở đâu đó, không ở chỗ đó: Paris. Ngay cả khi đã nổi tiếng, sau khi Kẻ Xa Lạ xuất bản, vào năm 1942, chẳng có một câu nào trong Sổ Tay nói lên niềm vui của ông, mà chỉ là niềm kinh hoàng (effroi). Ông bị chấn động bởi nỗi khốn cùng, mà ông chứng kiến, khi đi đi về về trên xe lửa, từ Saint-Étienne tới Chambon-sur-Lignon, nơi ông phải tới để chữa trị chứng lao phổi.
Và Camus viết về đạo đức:
"Tôi đã cố gắng bằng tất cả sức lực của tôi, biết rất rõ những yếu đuối của mình, để trở thành một con người của đạo đức. Đạo đức, chính nó, giết. (La Morale tue).

Vào cái thời cực thịnh của Camus tại miền nam Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh Tâm Tuyền đã coi Camus muốn làm một kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời, ngó xuống thế gian... và kết luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông vào quá khứ.
Khi gọi Camus là một "juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến kịch phẩm "Những người công chính" (Les Justes) của Camus, (bản tiếng Anh dịch là Những Tên Sát Nhân Chính Trực, The Just Assassins); người viết đọc, vẫn những ngày đầu, thời mới lớn, trong một thành phố Sài Gòn đang còn thanh bình, và chỉ còn nhớ mài mại, đây là về một tay khủng bố không chịu ra tay khủng bố, chỉ vì có những đứa trẻ tại hiện trường.
"Cái chết đã nhốt chặt ông vào quá khứ." Khi viết những dòng này, Thanh Tâm Tuyền có vẻ như vẫn còn tin tưởng, về một cuộc chiến bắt buộc phải chấp nhận, cho dù chẳng hề có huyền thoại Malraux, huyền thoại Lawrence d’Arabie, huyền thoại Rimbaud, và chẳng thể nào ngông cuồng (hay hèn nhát) bỏ chạy. Cuộc chiến phải chấp nhận. Tôi không thể giết người, nhưng "tôi có thể tự tử" (Bếp Lửa). Từ "có thể" của nhân vật Tâm, đến "có thực" của Trí trong Cát Lầy, tới cái chết lãng xẹt của Kiệt trong Một Chủ Nhật Khác... đã nhốt chặt những nhân vật của Thanh Tâm Tuyền trong quá khứ - cuộc chiến Việt Nam, tuy vào thời điểm đó, nó chưa chấm dứt.
Những nhân vật của Thanh Tâm Tuyền, một khi từ chối một cuộc chiến phải chấp nhận, họ đã "không có một căn cước xác định" của Meursault: Anh ta luôn luôn là anh ta và là một kẻ khác [Nên nhớ, Thanh Tâm Tuyền đã từng để lên đầu bản thảo cuốn Bếp Lửa, câu của Rimbaud: Tôi là kẻ khác, nhưng sau gạch bỏ, khi đưa xuất bản.]
Liệu đến khi cuộc chiến chấm dứt, rồi cuộc bỏ chạy tán loạn ra biển, rồi ngục tù, trại cải tạo - cả với người miền bắc như một Nguyễn Chí Thiện trước, và sau, Bùi Ngọc Tấn.... - nhân vật tiểu thuyết Việt Nam mới dần dần định hình: một kẻ lang thang, lưu vong, cho dù ở trong hay ở ngoài?
Kể từ lúc: Bữa nay mẹ tôi mất?
Lạ một điều, nếu coi Mặt Trời Địa Trung Hải là một "bếp lửa" của Camus, chúng ta sẽ nhận ra tính anh em giữa hai "kẻ xa lạ", giữa Meursault trong Kẻ Xa Lạ, và Tâm trong Bếp Lửa [Meursault: Mer-Sol: Mer et Soleil; Tâm: Tim, Bếp Lửa, Hà Nội... ].

Nhưng "juste", ở đây theo tôi, còn muốn nhắc tới huyền thoại về một con người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man) của dân tộc Do-thái. Đây là một huyền thoại được nhiều nhà văn sử dụng, như là một biểu tượng để nói về phận người, (nhất là phận người Do Thái, trong thế kỷ của Lò Thiêu), thí dụ như trong truyện ngắn Cây Vĩ Cầm (Rothschild's Fiddle) của Chekhov (đã giới thiệu trên Văn Học Nghệ Thuật trên lưới do Phạm Chi Lan chủ biên và Việt Báo online, và trên Hợp Lưu). Hoặc trong cuốn tiểu thuyết "Người Công Chính Cuối Cùng", (của André Schwarz-Bart, đã được giải thưởng văn chương Pháp Goncourt năm 1959), theo đó, thế giới ngự trị trên 36 kẻ công chính. Kẻ công chính, le juste, hay lamed-waf, người què gánh tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội rễ nhà trời" (les racines du ciel, chữ của Romain Gary), nhưng bề ngoài, họ chẳng khác gì những con người bình thường. Giữa họ, cũng chẳng thể nhận ra nhau. Nhưng chỉ cần một, trong số 36 kẻ công chính thiếu đi, là nỗi đau khổ của con người làm độc ngay cả đến tâm hồn của những trẻ thơ, và nhân loại nghẹt thở vì tiếng khóc bi thương này. Bởi vì "lamed-waf" là trái tim của thế gian, nơi mọi đau khổ đều đổ xuống đó. Như thể nhân loại có bao nhiêu khổ đau, là có bấy nhiêu truyền thuyết về "người què gánh tội", bởi vì sự hiện diện của họ là ở khắp nơi. Vào thế kỷ thứ 7, những người Do Thái thuộc vùng Andalousie, Tây Ban Nha, đã sùng bái một khối đá mang hình giọt nước mắt, mà theo họ đây là linh hồn của một "lamed-waf". [Liệu chúng ta có thể hiểu huyền thoại hòn vọng phu, như là giọt nước mắt, linh hồn người đàn bà suốt chiều dài dựng nước của dân tộc?]. Và khi một kẻ công chính vô danh về trời, trái tim của người đó giá lạnh đến nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn năm trong lòng bàn tay của Người, để sưởi ấm cho nó. Và như người ta được biết, hầu hết trong số họ, trái tim chẳng làm sao ấm lại được nữa. Thượng Đế cũng chịu thua. Và Người thỉnh thoảng lại phải vặn nhanh lên ‘một phút’ chiếc đồng hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.

Camus đã từng chịu ảnh hưởng của Simone Weil. Quan điểm đạo đức cũng như chính trị của ông vẫn bị coi là ngây thơ, giản đơn, nhưng chưa bị coi là khùng, như Weil. Nhưng đối với một số người, thí dụ như George Steiner, Weil là một vị thánh: Saint Simone – Simone Weil.
"Ông ta [Camus] nói những điều quá giản dị, quá độ lượng, quá tổng quát", như cách giải thích cuốn Kẻ Xa Lạ của một nhà phê bình Pháp, Bernard Pingaud. Nhìn theo cách này, chúng ta có thể hiểu tại sao một kẻ đứng ở lưng chừng trời [Sartre cũng đã từng gọi Camus như vậy: "Bạn không ở phía bên phải, bạn ở trên trời", Vous n’êtes pas à droite, Camus, vous êtes en l’air" [trích từ Thế kỷ của Sartre, trang 470, tủ sách bỏ túi, tác giả Bernard-Henry Lévy], ấy là chưa kể những từ như: tên du thủ du thực, đá cá lăn dưa miệt vườn (nguyên văn: tên côn đồ đến từ Alger - trích trong Thế kỷ của Sartre), cuối cùng lại đáng yêu hơn là những kẻ cố chọn cho mình một thái độ, hoặc tả hoặc hữu.
Nên nhớ, Camus đã gia nhập đảng Cộng Sản rất sớm., và cũng rất sớm, từ bỏ Đảng.

Liệu chúng ta có thể coi Camus là người công chính cuối cùng của... loài người?
NQT

3. Tội ác từ hơn một thế kỷ vẫn còn nóng hổi:
Nước Bỉ chạm trán những quỉ dữ thời kỳ thuộc địa của nó.
Walter Benjamin, triết gia Đức gốc Do Thái cho rằng, với lịch sử, cho dù chỉ một chi tiết cỏn con, cũng không bị mất mát, rồi cũng có ngày lòi ra ánh sáng. Hơn một thế kỷ, kể từ khi Hoàng Đế Bỉ Leopold II biến xứ Congo thành thuộc địa của riêng mình, một cuộc điều tra hiện nay đang được mở ra để tìm hiểu về những tội ác đã lâu ngày bị bỏ quên, mà nước Bỉ, qua Hoàng Đế và quân đội riêng tư của ông, đã đối xử với dân chúng thuộc địa ở đây. Viện Bảo Tàng do nhà nước quản lý, the Royal Museum for Central Africa, trước đây được biết dưới cái tên Viện Bảo Tàng Congo thuộc Bỉ, đã giao cho một số sử gia nổi tiếng nhất trong nước một nhiệm vụ, hãy đem đến cho dân chúng một điều mà họ bị tước đoạt đã quá lâu: sự thực.
Những con số đáng sợ, gây phẫn nộ, thường là từ những tài liệu được nghiên cứu kỹ càng: rằng trên 10 triệu người Congo đã, hoặc bị sát hại, hoặc bị buộc làm việc cho đến kiệt lực rồi ngã ra chết, bởi quân đội riêng của Vua Bỉ; rằng đàn bà đã bị hãm hiếp một cách có hệ thống, rằng dân chúng, tay chân bị cắt, bị bắt cóc, bị cướp phá, nhà cửa, làng mạc bị đốt: những tội ác như thế đó đã hơn một thế kỷ chưa từng được đem ra bàn cãi một cách nghiêm túc tại nước Bỉ, đừng nói đến chuyện xin lỗi.
Rất nhiều những lời tố cáo trên đây đã được tác giả người Mỹ Adam Hochschild đem vào trong cuốn sách của ông nhan đề "King Leopold’s Ghost". Khi cuốn sách được xuất bản vào năm 1999 tại Bỉ, nó đã gây một sự phẫn nộ tại đây, nhất là khi tác giả đã so sánh con số những người chết tại Congo thuộc Bỉ với Lò Thiêu, và thanh trừng cải tạo dưới thời Stalin tại Liên xô. Nhưng cuốn sách cũng không tạo ra được một cái nhìn nghiêm chỉnh về vấn đề này.
"Chúng tôi sẽ nhìn vào những lời tố cáo, những con số người chết, những tội ác đã phạm phải, chúng tôi sẽ điều tra, và vào năm 2004 chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra được câu trả lời cho cuốn sách của Hochschild," Guido Gryseels, giám đốc Viện Bảo Tàng tuyên bố. "Chúng tôi không thể tránh né trả lời những câu hỏi này. Nó đã trở thành nhức nhối, một giải pháp là hết sức cần thiết cho vấn đề. Ai cũng nêu ra câu hỏi, không phải một chốc một lát, mà hầu như luôn luôn, bất cứ lúc nào, và chúng tôi không biết ăn nói ra làm sao."
Cuộc điều tra sẽ bắt buộc xứ sở này chạm mặt với những quỉ dữ thời kỳ thực dân thuộc địa của nó. Và như vậy là đụng vào một điều cấm kỵ từ hơn một thế kỷ, tính từ khi nhà thám hiểm Henry Morton Stanley, vào năm 1885, đã tìm ra xứ Congo cho Vua Bỉ. Một thuộc địa giầu có, với hai mỏ vàng là cao su và ngà voi, chưa kể mỏ vàng con người, mặc sức mà khai thác.
Cuộc điều tra được cầm đầu bởi Giáo sư Jean-Luc Vellut, sẽ khởi sự trong hai tháng tới và sẽ trình bầy những gì mà họ tìm kiếm được vào năm 2004 (kỷ niệm 100 năm Stanley mất).
Nếu Congo, nơi xẩy ra những tội ác ghê tởm nhất đã đi vào quên lãng, thì Viện Bảo Tàng tại Bỉ, được Vua Leopold II cho xây cất bằng tiền lấy từ Congo, bao lâu nay bị hờ hững, chẳng ai đoái hoài, lại là nơi trưng ra những tội ác đó, qua những nghệ phẩm hiếm quí, những kỳ hoa dị thảo của xứ thuộc địa, nơi mà Nhà Vua chưa từng một lần thăm viếng. Nó được dùng để tưởng niệm những sĩ quan thuộc Lực lượng Công cộng (Force Publique officers), những người này bây giờ bị buộc tội là dã man. Về sự độc ác, tàn nhẫn và những đau đớn khổ sở mà nhân dân Congo phải chịu đựng, thì chưa thấy nói tới.
Chính là do mong ước hiện đại hóa Viện Bảo tàng đã phát sinh cuộc điều tra kể trên. Ngoài ra còn là mong ước, kéo nó ra khỏi cái quá khứ một chiều, sai trái về mặt chính trị.
"Viện Bảo Tàng đã chẳng thay đổi gì trong vòng 44 năm qua," viên giám đốc cho biết. "Nó ôm riết lấy cái tinh thần, nếu không muốn nói là cái bóng ma thực dân thuộc địa ở trong nó. Một khi bước vô là bạn nhìn thấy bức tượng một cậu bé da đen ngước mắt nhìn lên nhà truyền giáo da trắng, với hàng chữ "phụ đề" (legend): "Bỉ quốc mang văn minh tới Congo." Đây là cái thông điệp mà Bỉ cần phải thay đổi, để nó không chỉ phản ảnh cái nhìn của nước này vào trước năm 1960 (là năm Congo được độc lập). Chúng tôi cần cả những cái nhìn của người Phi Châu, như vậy những du khách sẽ thay đổi cái nhìn của riêng họ."
Hơn một thế kỷ đã qua đi, nhưng nước Bỉ cho tới nay vẫn còn nhức nhối vì những tội ác mà họ đã phạm phải tại Congo. "Đây là một thực tại đụng tới cái phần sâu thẳm nhất của linh hồn Bỉ," Vị giám đốc Viện Bảo Tàng nói. "Chúng tôi vẫn chưa xong với nó, thực sự là vậy. Và những phát giác đã tới với chúng tôi như một cú sốc. Chúng tôi được nuôi dưỡng, trưởng thành với ý nghĩ rằng Bỉ đã đem văn minh và điều tốt lành tới Congo. Ở trường lớp, chúng tôi không hề được dậy bảo, cho biết có những lời tố cáo, về những điều tàn ác đó."
"So sánh nó với Lò Thiêu, là một sỉ nhục sự thực," Giáo sư Vellut tuyên bố. "Chúng tôi cần đưa lịch sử của đất nước chúng tôi lên bàn mổ, nhưng chúng tôi cũng cần phải hết sức thận trọng".
Ông cho biết, rất nhiều điều tố cáo có tính đặc thù không thể được bàn tới, nhưng ông khẳng định rằng, xác định rõ rệt ngày nào tháng nào những điều độc ác như vậy đã xẩy ra, là một điều quá sức khó khăn. "Những con số thống kê thời kỳ đó thật khó tin cậy. Người ta cũng không thể nào có con số chính xác và dân số Congo vào lúc đó. Ngay cả con số những người Do Thái bị chết tại Lò Thiêu, khi đem so sánh, cũng thay đổi. Ai biết được, rằng 10 triệu hay là 15 triệu người Congo đã bị giết hại?"
Jennifer Tran
(Theo bài viết của Andrew Osborn, phóng viên tại Brussels của tuần báo Guardian, số đề ngày 18-24 tháng Bẩy, 2002)


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Nói, Camus là một nhà dân chủ, một gã tự do, một tay cải tổ, thì chẳng đi đến đâu, mà có khi còn phản tác dụng […would not be very useful, rather, it would be counter-productive], bởi vì những quan niệm này – và ở đây, chúng ta phải nhận rằng, là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của những ý thức hệ toàn trị - sẽ đưa đến định nghĩa, về mặt tốt nhất, sự ngây thơ chính trị, và, về mặt tệ nhất, những mặt nạ giả đạo đức của những kẻ phản động và những kẻ bóc lột. Tốt hơn hết, là cố gắng định nghĩa, những quan điểm đó, có nghĩa gì, đối với Camus.
Cơ bản mà nói, Camus thẩy hết cả chủ nghĩa toàn trị vào thùng rác, khi coi nó như là một hệ thống xã hội trong đó con người không còn là một cứu cánh mà chỉ là một dụng cụ. Đạo đức học của những giới hạn là một hoàn cảnh, tình trạng [a state], khi đó, sự đối lập, tương phản, the antagonism, giữa phương tiện và cứu cánh biến mất, ở đó, phương tiện biện minh cứu cánh, chứ không phải ngược lại.
Đề tài - về chủ nghĩa toàn trị, quyền lực toàn trị, những cực điểm của khùng điên, có thể sẽ xẩy ra [to be reached: sẽ đạt tới], khi con người vi phạm [violate: hiếp đáp], đạo đức học của những giới hạn này - đã ám ảnh Camus suốt cuộc đời của ông. Nó là nguồn hứng khởi để ông viết ra ba vở kịch, Caligula, State of Siege, Tình trạng vây hãm, và The Just Assassins, Những kẻ công chính, tiểu luận đẹp nhất, The Rebel, Kẻ nổi loạn, và cuốn tiểu thuyết của ông, The Plague, Dịch hạch. Chỉ cần nhìn vào thực tại hôm nay, là bèn nhận ra rằng, ám ảnh của Camus, về khủng bố quốc gia, độc tài nhà nước hiện đại, đã được chứng nghiệm, justified, và nó mới tiên tri ra làm sao, tới cỡ nào!
Những tác phẩm này, chúng bổ túc cho nhau, miêu tả và giải đáp những khía cạnh khác nhau của cùng một hiện tượng!
[Còn gì chứng nghiệm hơn, tiên tri hơn, là sự kiện, nhà khủng bố VC nằm vùng, DH, một tay cầm cuốn Những kẻ công chính - mà ông ta là một trong những kẻ đó, một tên sát nhân chính trực -, một tay lái xe Honda, túi thủ trái bom, tới trạm gác Ngụy, bỏ cuốn sách của Camus vào giỏ xe phía trước, lấy trái bom ra, liệng vô trạm gác, và tà tà chạy xe tiếp. Ông này chẳng đã từng phán, tớ đọc Camus rồi đi làm cách mạng, đâu có đọc Marx!]
Nhưng thật bất công, khi cho rằng, chủ trương cải tổ, reformism, của Camus, thì cũng như tiếng nói sa mạc, đi biển gọi thầm, trong nỗ lực đòi hỏi tự do chính trị, kính trọng nhân quyền [ở đây, quyền cá nhân, rights of the individual], quên đi rằng, con người còn là nạn nhân của những ‘dịch hạch’ khác, ghê rợn, dữ dằn như đàn áp, oppression, và có khi còn khốc liệt hơn nhiều. Camus biết, bạo lực có nhiều bộ mặt, rằng, nó gây thương tổn, inflict, độc địa nhất, tàn nhẫn nhất, qua đói khát, bóc lột, vô học, ngu si đần độn, ignorance; rằng tự do chính trị, thì là cái chó gì [worth little: có giá tí ti] đối với một người sống trong nghèo đói, không văn hóa, without culture, và làm việc như một con vật. Và ông biết tất cả những điều này, qua kinh nghiệm riêng tư, cá nhân, vì là một thành viên trong một cộng đồng thiểu số, như tôi đã từng nói.
Ông sinh ra, như là một tên chân đen, a pied noir, một trong một triệu người Âu Châu, họp thành một thiểu số đặc quyền giữa bẩy triệu người Ả Rập Algerian. Nhưng cộng đồng thiểu số đặc quyền người Âu Châu này thì không đồng nhất. Có những người giầu có, trung lưu, và nghèo khổ, và Camus thuộc thứ tệ nhất, thấp nhất trong thiểu số này. Cái thế giới của tuổi thơ và tuổi mới lớn của ông thì quá nghèo khổ. Cha ông là một công nhân, và khi ông chết, bà mẹ phải làm nghề đầy tớ. Ông chú, người bảo hộ ông,  người đầu tiên dậy ông đọc, là một tên đồ tể cuồng tín. Ông học hành nhờ học bổng, và khi bị bịnh lao, vô nhà thương thí. Những từ như ‘nghèo đói’, ‘bất lực không làm sao chống đỡ, tự bảo vệ, ‘defenceless’, ‘bóc lột’, đối với ông, không phải là từ những cuốn cẩm nang cách mạng, như mấy tay trí thức, học sinh, sinh viên của Miền Nam Việt Nam, đám bợ đít VC, nhưng mà là từ kinh nghiệm hàng ngày. Vì lý do đó, thật là hoàn toàn lầm lẫn khi buộc tội ông là vô cảm trước những vấn đề xã hội, insensible to social problems.
Con người ký giả ở trong ông, trong rất nhiều dịp, đã tố cáo sự bất công kinh tế, tệ phân biệt, và thiên kiến xã hội, cũng bằng một cái nhìn trong sáng mà con người tiểu luận ở nơi ông sử dụng, để chiến đấu chống lại khủng bố của đám quyền chức. Đây là điều ông viết, vào năm 1939, trong Sự khốn cùng ở Kabylia, tố cáo hoàn cảnh khủng khiếp của người kabilas ở Algeria, vì bài viết mà ông bị trục xuất ra khỏi xứ sở. Trong tư tưởng của Camus, bóc lột kinh tế con người thì cũng bị kết án y hệt như đàn áp chính trị. Và cũng cùng lý do đó, xuyên qua niềm tin nhân bản của ông, là, cá nhân con người là cứu cánh, không phải phương tiện, kẻ thù của con người thì không phải chỉ là cái thằng đàn áp nó mà còn là tên khốn kiếp đã bóc lột nó, để hưởng lợi; ngoài cái tên VC tống nó vô trại tập trung cải tạo, còn có tên 'tư bản', đỏ cũng có nữa, biến nó thành cái máy sản xuất. Nhưng, sự thực là, một khi định cư tại Pháp, Camus tập trung vào đàn áp chính trị, và đạo đức hơn là kinh tế. Thứ nhất, do nó nóng bỏng ở nơi ông [ông ta, như tôi đã nói, là một gã Âu Châu, mà điểm qui chiếu chính với ông, lẽ dĩ nhiên, là thực tại Âu Châu], vào giai đoạn mà ông sống [ở đó]. Vào những năm hậu chiến, khi, đối đầu với nạn triều cường là chủ nghĩa Marx, sử tính, ý thức hệ, tất cả đều nỗ lực giản trừ con người về một vấn đề xã hội, tác phẩm của Camus càng trở nên quan trọng, thúc bách, như là một đối trọng, chúng nhấn mạnh đến một điều mà cả lũ kia vờ đi: đạo đức.


Hannah Arendt
Tính Tầm Phào, Lãng Nhách của Cái Ác: Ghi chú, bổ sung, và phản bác.
"Dans les pas de Hannh Arendt"
What Would Hannah Say?

J. M. Coetzee on Norman Mailer's Hitler

at the New York Review of Books (no subscription required). Here are his conclusions:

The lesson that Adolf Eichmann teaches, wrote Hannah Arendt at the conclusion of Eichmann in Jerusalem, is of "the fearsome, word-and-thought-defying banality of evil" (Arendt's italics). Since 1963, when she penned it, the formula "the banality of evil" has acquired a life of its own; today it has the kind of clichéd currency that "great criminal" had in Dostoevsky's day.
Mailer has repeatedly in the past voiced his suspicion of this formula. As a secular liberal, says Mailer, Arendt is blind to the power of evil in the universe. "To assume...that evil itself is banal strikes me as exhibiting a prodigious poverty of imagination." "If Hannah Arendt is correct and evil is banal, then that is vastly worse than the opposed possibility that evil is satanic"—worse in the sense that there is no struggle between good and evil and therefore no meaning to existence.
It is not too much to say that Mailer's quarrel with Arendt is a running subtext to The Castle in the Forest. But does he do justice to her? In 1946 Arendt had an exchange of letters with Karl Jaspers sparked by his use of the word "criminal" to characterize Nazi policies. Arendt disagreed. In comparison with mere criminal guilt, she wrote to him, the guilt of Hitler and his associates "oversteps and shatters any and all legal systems."
Jaspers defended himself: if one claims that Hitler was more than a criminal, he said, one risks ascribing to him the very "satanic greatness" he aspired to. Arendt took his criticism to heart. When she came to write the Eichmann book, she endeavored to keep alive the paradox that though the actions of Hitler and his associates may defy our understanding, there was no depth of thought behind their conception, no grandeur of intention. Eichmann, a humanly uninteresting man, a bureaucrat through and through, never realized in any philosophically full sense of the word what he was doing; the same might be said, mutatis mutandis, for the rest of the gang.
To take the phrase "the banality of evil" to epitomize Arendt's verdict on the misdeeds of Nazism, as Mailer seems to do, thus misses the complexity of the thinking behind it: what is peculiar to the everyday banality of a bureaucratically administered, industrially organized policy of wholesale extermination is that it is also "word-and-thought-defying," beyond our power to understand or to describe.
Before the magnitude of the death, suffering, and destruction for which the historical Adolf Hitler was responsible, the human understanding recoils in bewilderment. In a different way, our understanding may recoil when Mailer tells us that Hitler was responsible for the Third Reich only in a mediate sense—that ultimate responsibility lay with an invisible being known as the Devil or the Maestro. The problem here is the nature of the explanation we are being offered: "The Devil made him do it" appeals not to the understanding, only to a certain kind of faith. If one takes seriously Mailer's reading of world history as a war between good and evil in which human beings act as proxies for supernatural agents—that is to say, if one takes this reading at face value rather than as an extended and not very original metaphor for unresolved and irresoluble conflict within individual human psyches—then the principle that human beings are responsible for their actions is subverted, and with that the ambition of the novel to search out and speak the truth of our moral life.
Blessedly, The Castle in the Forest does not demand to be read at face value. Beneath the surface, Mailer can be seen to be struggling with the same paradox as Arendt. By invoking the supernatural, he may seem to assert that the forces animating Adolf Hitler were more than merely criminal; yet the young Adolf he brings to life on these pages is not satanic, not even demonic, simply a nasty piece of work. Keeping the paradox infernal–banalalive in all its anguishing inscrutability may be the ultimate achievement of this very considerable contribution to historical fiction.

Sống chung với kiểm duyệt.
Dương Tường, talawas.

Vấn đề là, Dương Tường hẳn biết, lũ lụt là thiên tai; kiểm duyệt, nhân tai. Tại sao ông lại coi như nhau?
Trong khi chờ đợi có người giải ra 'bổ đề DT' này, Gấu giới thiệu bài viết của Llosa: Văn chương là lửa. Đây là bài diễn văn của ông, khi nhận giải thưởng Romulo Gallegos [prize].
Lửa, cũng một thứ thiên tai, vậy.



Adam Zagajewski

 OUR WORLD

In memoriam W. G. Sebald

 I never met him, I only knew
his books and the odd photos, as if
picked up in a secondhand shop, and human
fates found in a secondhand shop,
and a voice quietly narrating,
a gaze that took in so much,
a gaze turned back,
avoiding neither fear
nor rapture;
and our world in his prose, our world, so calm - but
full of crimes perfectly forgotten,
 even in lovely towns
on the coast of some sea or ocean,
our world full of empty churches,
rutted with railroad tracks, scars
 of ancient trenches, highways,
cleft by uncertainty, our blind world
smaller now by you.
- Adam Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB April 29, 2004

Thế giới của chúng ta

Tưởng niệm W.G. Sebald

Tôi chưa hề gặp ông, tôi chỉ biết
những cuốn sách, và những tấm hình kỳ kỳ của ông, như
nhặt ra trong một bán sách cũ, và
số phận con người nhặt ra từ một tiệm đồ cũ
và một giọng âm thầm kể,
một cái nhìn nhìn quá lâu,
một cái nhìn nhìn lại,
lẩn tránh cả sợ hãi lẫn sung sướng;
và thế giới của chúng ta, trong dòng tản văn của ông,
thế giới của chúng ta, lặng lẽ biết bao, nhưng
đầy những tội ác đã được hoàn toàn quên lãng,
ngay cả trong những thành phố đáng yêu
trên bờ biển hay đại dương nào đó,
thế giới của chúng ta đầy những nhà thờ trống rỗng
hằn vết đường xe lửa, vết sẹo
của những giao thông hào cũ, những đại lộ
rạn nứt bởi sự hồ nghi, thế giới mù lòa của chúng ta,
bây giờ nhỏ hẳn đi, do mất ông