*

















11.3.2010

*

by Richie

Gấu có nhớ Xứ Đoài không?


Happy Birthday to U, Jennifer


Bearing witness is a sacred trust

Every writer of reportage ought to learn from the Kapuscinski controversy.
Creative non-fiction is a slippery slope

Một cách đọc khác, về ông nhà văn ký giả kiêm điệp viên xém đoạt Nobel.
To bear witness to genocide, war, revolution and human courage amid inhumanity is – forgive the pathos – a sacred trust.


Ông Cà Bi ở Xẻo Quao

As for me, I prefer to smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest of my life.
Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời
Di chúc Bác Hồ

Don't you realize what it means if the Chinese stay? ... The last time the Chinese came, they stayed one thousand years!
The French are foreigners . . . Colonialism is dying out. Nothing will be able to withstand world pressure for independence. They may stay for a while, but they will have to go because the white man is finished in Asia. But if the Chinese stay now, they will never leave.
As for me, I prefer to smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest of my life.

Tháng Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho [HCM] ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống. Viễn ảnh một Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi đám bộ hạ phò Tầu:
Mấy bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman Sherry: Tiểu sử Greene, chương 24: Bonjour Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài, The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979, trang 49-50] 

Cái đoạn gạch đít trên, được Tô Hoài, diễn tả, trong Bút Ký, qua những lời tố cáo Việt Minh bắt tay với Tây, của một nhân vật Hà Nội của ông, trong không khí thủ đô tưng bừng, hăm hở vô Nam:
Chúng ta còn ở Hà Nội làm gì? Để đến khi họ chiến thắng trở về thì chúng ta được góp vào cái đuôi người , chảy đi xem duyệt binh chăng?
Không Hà nội không ai nghĩ như thế. Đời đương lên và đẹp vô cùng đẹp. Chiều nay, gã bạn hoạ sĩ gác trên đã nhờ người đi hỏi han hộ xem ở “trong ấy” có cần người vẽ thì đễ gã vào.
Hà Nội bây giờ thế cả. Cái quê yêu quí nhất của người ta bây giờ là ở đâu trong đất nước có kẻ dám phá cuộc cách mạng. Buổi chiều cuối năm này, chúng tôi nhớ Nam bộ, cái quê một lúc, cái quê muôn đời đương rừng rực máu. Chúng ta và các anh. Gã đi rồi.

**

*
Bố có một mơ ước. Mơ ước này tôi nghe thường xuyên trong những bữa cơm tối lúc tôi còn nhỏ, khi bố còn làm ở công ty điện lực Hà Nội. Mà không, tôi đã nghe nó từ trước đó, suốt những năm tôi còn nằm cũi và bố mới ở chiến trường miền Nam về. Sau gần một năm nằm dưỡng thương ở chiến trường Nam Lào toàn rừng khộp và nắng, bố hành quân ghép với các đơn vị khác vào đến Đà Lạt; lần đầu tiên bố nhìn thấy những đồi thông xanh và những thung lũng đầy hoa. Bố bảo khi nào để dành được nhiều tiền, bố sẽ vào Đà Lạt mua một miếng đất, xây một cái nhà nhỏ và làm trang trại trồng rau xanh. Khí hậu Đà Lạt tốt, bệnh xoang và khớp bắt nguồn từ những năm nằm rừng của bố có thể không cần chữa cũng sẽ tự khỏi.
Hơn 20 năm qua, lúc nào bố cũng chỉ có một mơ ước như thế. Bây giờ, cái ước mơ ấy dồn cả vào gốc đậu ván bố trồng ở hiên sau. Cây đậu ván leo từ tầng một lên sân thượng; hoa đậu ván nở suốt mùa đông, tím ngắt cả ba tầng nhà. Hôm tôi mới về, bố cầm rổ cho tôi và Tu Ti nhặt những quả đậu ván già trên sân thượng để luộc. Bố lại nói bố muốn có một trang trại trong miền Nam – không cần Đà Lạt vì đất Đà Lạt bây giờ đắt quá, chỉ cần chỗ nào đó ở đồng bằng sông Cửu Long, rẻ thôi, miễn là ấm áp. Chỉ cần vào đó trồng trọt thì tự khắc bệnh xoang, rồi bệnh khớp, rồi bệnh tiền đình sẽ khỏi hẳn. Có thể bố sẽ lại nghe lại được.
Bố ạ, con tốt nghiệp đi làm bên đó, con sẽ để giành tiền cho bố mua đất trong Nam.
Phan Việt: Những ngày ở Việt Nam.
*
Gấu đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thỏa mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
*

Cũng vẫn giấc mơ đó, hiện giờ, ở những người con dân xứ Mít, tìm đủ mọi cách chạy trốn đất nước, dù có phải bán mình cho Mafia Đỏ.


Interview: Gao Xingjian

V/v viết như là một cách để kiếm sống

Trông vào viết để có miếng ăn ư? Tôi nghĩ, tốt nhất, nên bỏ cái ý nghĩ đó đi. Đây là kinh nghiệm của riêng tôi. Lý do tôi viết – ‘văn chương lạnh’ – tôi gọi như vậy - bởi vì nó không liên quan tới thị trường. Đây là một yêu cầu nội tại. Chỉ khi nào bị thúc bách thì tôi mới cầm lên cây viết. Không phải để bán sách. Có thị trường sách, và chúng ta không chống đối chuyện khuyến mãi sách, bởi vì có thứ văn hóa tiêu thụ. Nhưng chúng ta đừng lẫn lộn hai thứ đó. Nhà văn phải thật là rạch ròi về đường ranh giữa sự tiêu thụ văn hóa, cultural consumption, và văn chương nghiêm túc. Liệu anh ta viết cho sự tiêu thụ của người khác hay là viết cho chính anh ta? Theo cái nhìn của tôi, văn chương nghiêm túc được viết dính cứng vào với mình, serious literary writing is inherent written for oneself. Chính là vì viết cho chính mình như thế mà chúng ta mới đạt tới được cái chân thực của cuộc đời, và nhờ đó mà có một cái gì có giá trị để mà cống hiến cho độc giả. Cũng vậy, là với những từ, những con chữ. Khi độc giả đọc chúng, họ cũng có thể kinh nghiệm chúng. Điều này “chuyển hóa” người đánh dấu, [This ‘transcends’ the marker]. Descartes nói, “Tôi suy tư vậy tôi hiện hữu”. Với nhà văn, điều này không có nghĩa, “Tôi trình bầy chính tôi, vậy tôi hiện hữu [‘I express myself therefore I am']," nhưng mà là, “Tôi viết, vậy tôi hiện hữu”. Bằng viết, anh ta không còn sống trong mù lòa, ngớ ngẩn, mà trong sự sáng suốt của tâm hồn. Tự thân, kinh nghiệm tự hiểu mình và xác nhận giá trị những gì viết ra - xẩy ra trong khi viết – thì cũng là khẳng định giá trị của nhà văn và điều này đủ là một phần thưởng rồi.


Ha Jin
Ngôn ngữ của sự phản bội

Theo Adam Gillon, phải có tới một nửa những nhà thơ Ba Lan đương thời đã viết về cái sự bỏ xứ mà đi của Conrad, và, đi đâu thì đi nhưng vẫn không quên cội rễ của ông, và có một số người còn miêu tả ông, như là một chàng thuỷ thuỷ chuyên nghiệp, một Odysseus tân thời, không bao giờ quay lại cái bến ra khơi lần đầu. Nhà thơ Stanislaw Mlodozeniec (1929-) có những dòng như sau, trong “A Song about Conrad”:
Anh đã thuần hóa những đất trời những biển cả xa lạ
Những dòng nước xảo trá ở vùng sâu
Bằng thứ tiếng tiếng nước người trọ trẹ
Anh đã xâu cả thế giới rộng lớn
Bằng sợi chỉ, là linh hồn Ba Lan
Những biển cả ngoại lai kia - giờ là của chúng ta.
Bóng ma của anh lang thang khắp chốn
Một dấu chân quen thuộc trên biển lạ
Gió thổi với hơi thở của anh.

Ngay cả chuyện Conrad không thể trở về quê hương, thì cũng được lý tưởng hoá, như là một cách để vươn tới một ý nghĩa sâu xa hơn, và sau cùng, tới một sự trở về có tính cách siêu hình, nghĩa là, bến tới không hẳn là quê nhà nhưng mà là một cội nguồn xa vời, được nhân loại chia sẻ. Nhà thơ Krysztof Jezewski (1939-) làm những dòng thơ tán tụng “Joseph Conrad Rời Ba Lan”:
Khi đôi môi của bóng tối liếm trọn thân thể rướm máu, rách bươm của anh
Khi anh bị bỏ lại một mình
Anh ôm lấy thế giới vào trong ngực anh
Như không khí vào lồng phổi
Và nơi trở về, là nơi đó,
Luôn luôn là bến bờ xa lạ tít mù đó
Là cái hố thẳm vô cùng
của biển cả
và của Con Người
Bằng sự can đảm, và bền bỉ, Conrad, người thuỷ thủ đơn độc bị biển cả quần cho nát bấy, sau cùng đã chinh phục được giới văn học Anh. Sau khi ông mất, cả hai, Ba Lan và Anh, đều ôm lấy ông, và đều coi ông chỉ là của riêng của họ, và đúng như thế, bởi vì cái tinh thần uyên nguyên như của ông quả là không chỉ một quốc gia độc nhất nào có thể giữ trọn làm của riêng được!
Nhưng tới đây, cho phép tôi được ngưng lại một tí, để nói về những đau thương mà Conrad được đồng bào của ông ban cho: Một tờ báo văn học Ba Lan đã từng xỉ xả vị anh hùng của họ trong nhiều năm.


Gặp nhau tại Sài Gòn

*

Saigon Streets © 2005 by Dirck Halstead
Dirck Halstead là Sếp UPI của Gấu. Sếp đầu tiên. Anh sau qua làm cho tờ Time, bây giờ làm chủ trang web
TheDigitalJournalist


*
Dirck's new book: "A Moment in Time," tells of his time in Vietnam from photographing the Marines landing at Danang, to his years as the UPI Bureau Chief in Saigon. For the 30 years following his tour in Saigon, Dirck was the White House Photographer for Time magazine. He is the founder, publisher and editor of The Digital Journalist, and leads the Platypus DV Workshops, turning news photographers into digital video journalists.[Cuốn sách mới của Dirck, "A Moment in Time," viết về thời của anh ở VN, từ chụp hình Mẽo đổ bộ Đà Nẵng, tới những ngày làm Trùm UPI tại Saigon, sau về làm cho Time].

From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:

It's wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon in May.
*
Cuộc hội ngộ vào tháng Năm, the reunion in Saigon in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân. Mời mấy anh ký giả Mẽo tới, trong có Dirck.
Hai Lúa lúc đó ở trong Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, như đã kể sơ sơ trong một bài viết.
Khi về được Sài Gòn thì lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng tối. Anh nói, thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau cả mười mấy thước, ở ngay trước Tòa Đô Chính, chỗ bùng binh phun nước.
Sợ mấy ảnh, đầy đường lúc đó.
Tám nói, cũng là tình cờ tao nhìn thấy thằng Dirck từ đằng xa. Chính nó kêu tao.
Tám, nhân viên phòng tối, trốn lính, suốt ngày đêm đóng đô tại văn phòng UPI. Bữa đó, cuồng cẳng quá, mò ra ngoài, lang thang mấy snack bar kế bên văn phòng tại đường Ngô Đức Kế, phía đi ra Nguyễn Huệ, bị tóm liền.
Bữa sau, Hai Lúa xuống văn phòng, gặp Tư Râu, người chuyên đưa hình lên Đài cho HL chuyển đi. Anh nói, mở mấy ngăn kéo riêng của thằng Tám, thấy toàn xú chiêng, quần lót của bướm!
Dirck cũng từng đề nghị với Hai Lúa, mày có muốn đi làm tại văn phòng UPI Tokyo, tao lo cho. Đó là lúc cuộc chiến "hứa hẹn những điều khủng khiếp".
Lạ một điều, Hai Lúa chưa từng có ý định rời bỏ Sài Gòn, chờ cho cuộc chiến qua đi, rồi lại mò về. Đi tu nghiệp hai năm thì được. Nhưng do làm UPI, HL từ bỏ một hai cơ hội tu nghiệp Huê Kỳ. Nhớ lại, lúc đó, chỉ mong được đi Tây.

Cho Gấu tí Paris
Để Gấu làm thi sĩ!
Đại khái vậy!

Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Viết là Khiếp

 


5 năm TTT ra đi

(22.3.2006-22.3.2010)

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?
*
"Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
TTT
Poetry makes nothing happen
Auden

Cái sự trở về với thơ vần của TTT, khi ở tù, sự thực, là trở về với ca dao. (1)
Nói rõ hơn, đây mới là ‘đỉnh cao’, hay đỉnh cuối, điểm tận cùng của thơ ông, theo nghĩa câu của Auden, trên:
Thơ làm chẳng chuyện gì xẩy ra.

(1) Muốn làm người học trò mười bẩy tuổi
Đạp xe trên đường đồng
(Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy) ...

Và làm thơ trong trại cải tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân. Chế độ lao động trong trại, đó là một ngày căng thẳng tám tiếng, không có cuối tuần; mỗi tù nhân có riêng một vũ trụ của anh ta: một cái chiếu, chừng năm, sáu chục tù nhân trên dưới hai lớp, trong tấm "toan" trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian viết. Với nhịp tù hối hả như thế, cái lạnh, cái đói... ai dám nghĩ đến sáng tạo? Ngay cả thiên tài, ngay một sức mạnh siêu nhiên cũng chẳng thể vượt qua, những "trói buộc" này.
Tuy nhiên, người Việt nói "làm thơ", không ai nói "viết thơ". Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở đâu, trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức... Thơ gặp anh không cần hò hẹn, không định rõ ngày giờ. Người ta không thể kiếm nó, vì biết đâu mà kiếm. Bạn chỉ có một việc: tiếp nhận nó, bàn bạc cùng nó. Nó chỉ yêu cầu bạn: hãy giữ tiếng nói chơn chất của bạn. Tiếng nói này, sau đó, sẽ quyết định cuộc đời của riêng nó.

Brodsky phán, mới hách:
Nếu nhà thơ có trách nhiệm nào đó với xã hội, thì đó là: làm thơ cho thật bảnh [it is to write well]. Là một thiểu số, anh ta đâu có chọn lựa nào khác.
Không làm thơ bảnh được, thì chết mẹ đi cho rồi! (2)
Failing this duty, he sinks into oblivion.
*
Brodsky vinh danh Frost… his “being versed in country things”... , đúng mong ước của TTT, “Muốn làm người học trò mười bẩy tuổi / Đạp xe trên đường đồng”
(2)
Thú thực, đã lâu lắm, Gấu chẳng đọc được một bài văn bài thơ nào cho ra hồn!
Có vẻ như nhà thơ TTT là nhà thơ cuối cùng của Mít, như VP là nhà văn [cuối cùng] của thế kỷ 20!
Sang thế kỷ 21, mất mẹ cả thơ lẫn văn xứ Mít!
May quá, còn phê bình gia, tên hoạn quan!

*

Về Khổ Đau và Trí Tuệ, là tít bài viết của Brodsky về nhà thơ đồng quê của Mẽo, Robert Frost, và được dùng làm tít cho tập tiểu luận của ông. Những dòng vinh danh Frost của Brodsky làm Gấu liên tưởng tới nhà thơ TTT.
Ông viết:
Vào năm 1959, trong một bữa tiệc tại Nữu Ước, chào mừng sinh nhật thứ 85 của nhà thơ, nhà phê bình hách xì xằng nhất vào lúc đó, Lionel Trilling, đã đứng dậy, với ly rượu trong tay, tuyên bố một câu xanh rờn: Robert Frost là “nhà thơ khủng khiếp” ( “a terrifying poet”). Mọi người giựt mình, nhưng đúng là một từ thật đắc địa, but the epithet was well chosen, theo Brodsky.

Ui chao, Gấu lại nhớ đến từ ‘khủng khiếp’, “của Gấu”, khi đọc cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng, thời gian giữ mục điểm sách cho trang VHNT của tờ Tiền Tuyến, khi TTT phụ trách [sau giao lại cho HPA và Gấu]. Ông tỏ ra rất thú từ này, và còn nói, tôi chắc cũng phải bắt chước cách xử sự của cậu mới được!

Trong cái "nghiệp" phê bình của tôi, tôi đã đụng độ với quá nhiều người. Riêng trường hợp ông bạn, tôi quên, nhưng rất nhiều lần tôi nhớ. Có khi vừa nhớ, vừa cầu mong, hy vọng rằng bài phê bình của mình có thể có ích nào đó. Ngay cả trường hợp ông bạn, tôi cứ tự hào một cách thật tếu là, biết đâu, nhờ lời nói "khích" của tôi, ông đã để lại cho đời hai đại tác phẩm.
Mà có thể thế thật! Thí dụ như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà xuất bản cuốn Vào Nơi Gió Cát. Tôi đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn Học Nghệ Thuật của nhật báo Tiền Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau ông giao lại cho Huỳnh Phan Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn "láu cá' Bắc-kỳ, cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản, làm một tuyển tập truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao nhất, so với các nhà xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút còn một bữa ăn linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất bản. Rồi tới Vào Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm tắt nội dung phần đầu, tôi kết luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng khiếp! (Chấm xuống dòng đàng hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết, người phụ trách trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng khiếp". Ông cho đăng, dưới cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà trả lời sau đó bằng tác phẩm Cuộc Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm tuyệt vời nhất, nói "không" về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà, một người vợ tất tả chạy ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng. Một ấn bản khác về chàng Orphée. Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo, trao cho vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề: Nếu Dostoevsky muốn kéo Thượng Đế xuống cho ngang bằng con người, ở đây Nguyễn Thị Hoàng muốn kéo địa ngục lên ngang tầm trái đất...(23)
Một chuyến đi 


Mar 11, 2010 7:39:00 AM

Anonymous said...

Nguyễn Hưng Quốc phê bình cái gì Võ Phiến, những điều NHQ phê bình Võ Phiến thì ai cũng đã biết. NHQ "dịch sách" các lý thuyết phê bình của bọn ngoại quốc thì chỉ lòe dân không rành ngoại ngữ thôi. Dân rành ngoại ngữ thì người ta đọc thẳng các tác giả ấy và thấy ngài ngự sử dỏm này chôm đằng này chĩa đằng kia. Đến lúc NHQ phê bình thơ Cóc và Cặc thì mới rõ lộ khả năng cục mịch của NHQ. Kém thì trước sau gì cũng kém, dù có xách bao nhiêu ông Tây bà Đầm ra lòe. Và sau khi bị đuổi ở TSN rồi còn ra NB vẫn bị đuổi, NHQ mới nhảy ra chửi nhà nước VN và chửi luôn người VN từ đó đến nay ... Một nhà phê bình văn học có trình độ và tư cách thì không nên lên chửi một chế độ và một dân tộc trên một đài tuyên truyền chính trị như đài VOA. Nhận làm việc ở đài VOA như thế chứng tỏ tư cách phán đoán của NHQ tồi, mà vốn đã tồi từ những bài viết phê bình vò vẽ vò ve lúc mới ra sàn mon men nịnh bợ Võ Phiến, Mai Thảo, Nguyễn Mộng Giác với loạt bài đầu tiên trên các báo Văn Học, Văn.

Mar 11, 2010 7:40:00 AM

Anonymous said...

@Anonymous: À thì ra là thế! Lần sau bác không cần phải mất công comment dài như thế này. Mất công lắm. Bác chỉ việc đưa đường link vào trang Tin văn là được rồi! :-)

 

NQT said...

Sao lại có thể nghĩ Tin Văn làm cái chuyện khốn nạn đó được?
Chán bạn nào đó quá!
NQT

Mar 11, 2010 9:03:00 AM  

Tin Văn có cả một trang Tin Văn, đâu cần tới Blog NL?
Lập luận của bạn vô danh trên, về NHQ, không giống của Tin Văn, thí dụ đoạn:

Và sau khi bị đuổi ở TSN rồi còn ra NB vẫn bị đuổi, NHQ mới nhảy ra chửi nhà nước VN và chửi luôn người VN từ đó đến nay ... Một nhà phê bình văn học có trình độ và tư cách thì không nên lên chửi một chế độ và một dân tộc trên một đài tuyên truyền chính trị như đài VOA.

Tin Văn/NQT chưa hề sử dụng lập luận này, để nhận định về nhà phê bình NHQ, bởi vì có cả ông bạn quí của NQT hiện phụ trách một blog VOA, và, một khi lập luận như thế, thật dễ bị hiểu lầm, là… VC.
[Xin lỗi bạn vô danh nào đó!]
Một cách nào đó, VP khi không dám để nguyên văn tên tiếng Anh của cơ quan trợ cấp tiền cho ông viết VHTQ, là cũng rứa.
Tiền Mẽo, kẹt lắm!
Sự thực Gấu không hiểu, khi viết cho VOA như thế, có tí tiền hay là không?
Viết chùa thì chán chết!
*

Anonymous said...

@NQT & Nhị Linh: Tôi không nghi (và cũng không có ác ý với) Mr Tin Văn. Tôi chỉ thấy lập luận của bác anonymous (đặc biệt là về phê bình Võ Phiến của NHQ) gần với lập luận trên Tin Văn nên tôi đá qua Tin Văn như một reference vậy thôi. Xin lỗi đã gây hiểu lầm.

Mar 11, 2010 9:50:00 AM

Tks. NQT
*

V/v tiền Mẽo.
Koestler là người nghĩ ra cái cú bắt Xịa chi tiền chống Cộng, khi phịa ra cái Hội nghị tự do văn hóa.
Cũng nhân tiện nói luôn, tờ báo hải ngoại dụ được cả Xịa lẫn VC chi tiền ‘giao lưu hòa giải’, là tờ HL, của KT!
Tiền VC cho, là qua danh sách độc giả dài hạn, của Đảng Vịt Kìu Yêu Nước. Tiền Xịa, chi cho KT và một tay nữa. Chi xong, Xịa cho người về xứ Mít, coi tình hình làm ăn của HL ra sao. VC tóm được tay này, hồ sơ tài liệu danh sách tiền bạc, payroll, đủ hết, làm một clip video, để đó. Bởi vậy, khi cái tay bạn KT kia về VN, bị VC tóm, cho coi clip video, thế là anh chàng này cạch không dám về nữa!
Về vụ này, Gấu có hỏi một anh làm tờ TC, anh này cho biết, Xịa có chi cho mấy ngàn, nhưng anh ta từ chối.
Viết ra sự vụ này, vì KT còn sống.
Để KT đi rồi, hết viết!
[Gấu biết, qua một tay làm tờ VH].


6 năm BHD ra đi


ngày. em. xa
Đài Sử


Kỷ Niệm

Nhà thơ người Nga Joseph Brodsky, trong bài Chiến Lợi Phẩm, viết về những kỷ niệm ấu thời của ông trong thành phố St. Petersburg, đã nhắc đến tiếng hú của người rừng Tarzan, và khẳng định một điều, vào những năm đầu thập niên 1950, loạt phim Tarzan đã 'đọc bài ai điếu cho chủ nghĩa Stalin' (de-Stalinization), còn hơn tất cả những bài diễn văn của Khrushchev ở Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên xô, và sau đó.
Ông viết:
“Nhưng chiến lợi phẩm vĩ đại nhất, lẽ dĩ nhiên, là phim! Nhiều lắm, hầu hết là phim Hô ly út thời trước chiến tranh… Đèn [trong rạp] mờ đi. Và trên màn ảnh hiện ra dòng chữ 'Phim này tịch thu được, như là chiến tích, war trophy, trong cuộc chiến đấu lớn lao bảo vệ đất mẹ', và sau đó, khởi chiếu phim."

Gấu này vẫn tự hỏi, trong những chiến lợi phẩm 30 Tháng Tư, liệu có thứ nào có tác dụng "bảnh" như trên [như tiếng hú của người rừng Tác Dăng Nổi Giận], đối với Miền Bắc?
Có lẽ không phải phim, mà là sách.
Có vẻ như sách Miền Nam, giống như con chim phượng hoàng, đã tái sinh từ tro than của cuộc phần thư ngày nào.
Chứng cớ: Số báo Văn có truyện ngắn trứ danh của Gấu!
Mới được một anh bạn trong nước gửi cho!
Hà, hà!
Một ông bạn văn VC của Gấu đã cho biết, ông đọc Gấu từ trước 1975, trên con đường xẻ dọc Trường Sơn, bị sốt rét, bị bỏ lại giữa rừng núi Tây Nguyên, và giữa những con sốt rét, đã khám phá ra Những Ngày Ở Sài Gòn!
*
Đọc lại truyện ngắn Kiếp Khác, bản ‘zin’, so với bản trong tập truyện ngắn Những Ngày Ở Sài Gòn, 1970, đã quá khác, rồi so với bản in trên net, kèm cái ấn bản thứ nhì, viết khi gặp lại cô bạn, lại càng khác.
Trong bản dzin, dấu vết thuổng Faulkner quá rõ, nhất là sự lạm dụng ngoặc đơn.
Gấu sẽ scan, đoạn văn trong Absalon, Absalon!, của Faulkner, từ đó phát sinh ra Gấu Nhà Văn, và sau đó, sẽ đi một đường, để "hoành dương" một chân lý: Không có ăn cắp, không có đạo văn, là đếch có văn chương!
Những thí dụ dùng để minh họa, sẽ là một số trường hợp xuất hiện của một số nhà văn Miền Nam như DNM, NDT so với TTT, chủ nghĩa hiện sinh ảnh hưởng như thế nào đối với văn học Miền Nam, và sau đó, sẽ làm một đường kết luận, tại làm sao mà hậu hiện đại chẳng đẻ ra một tác phẩm nào, như văn học đưong đại cho thấy.

*

Số Văn này, in truyện ngắn Kiếp Khác, ấn bản đầu tiên, sau sửa lại, in trong tập truyện
Những Ngày Ở Sài Gòn, sau ra hải ngoại, sửa tiếp, viết thêm ấn bản thứ nhì, đăng trên một tờ báo địa phương tại Canada, [nhờ nó, có cái kỷ niệm vui nhất trong đời viết văn (1)], sau
in trên net TV


PASTERNAK AUTOBIOGRAPHIQUE 

PAR HÉLÈNE HENRY 

Tout sera là: ma propre histoire
Et ce qui vit encore en moi,
Tous mes élans et mes amarres,
Ce que j'ai vu, ce que je vois.

«Les Vagues ", Seconde naissance, 1932 

Pour être conséquent, il faudrait parler, dans cette suite d'années et de circonstances, de gens et de destinées que réunit le cadre de la révolution. [ ... ] II faudrait [les] décrire de telle façon que le cœur se serre et que les cheveux se dressent sur la tête. Postface à Hommes et positions, 1957

Phải viết làm sao cho trái tim quặn xoắn lại, và tóc thì dựng đứng hết cả lên!
*
Ui chao làm sao viết được như thế, về quê hương, những ngày sau 1975?
Những ngày ở Phạm văn Cội, Củ Chi?
Những ngày ở Đỗ Hòa, Nhà Bè?

Tout sera là: ma propre histoire
Et ce qui vit encore en moi,
Tất cả câu chuyện của riêng Gấu,
Vẫn còn sống trong Gấu.
NQT
*

As a theme, death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam" genre is frequently used to excercise self-pity or for metaphysical trips that denote the subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the alive) over minority (of the dead). Akhmatova would have none of that. She particularizes her fallen instead of generalizing about them since she writes for a minority with which it's easier for her to identify in any case. She simply continues to treat them as individuals whom she knew and who she senses wouldn't like to be used as the point of departure for no matter how spectacular a destination.
Joseph Brodsky:  Anna Akhmatova Poems' Introduction.

[Như một đề tài, cái chết đúng là một thứ lửa thử vàng, vàng ở đây là đạo hạnh của một nhà thơ.... Cái giọng 'tưởng niệm' rất dễ có mùi trên cao gió lộng (1) của kẻ sống sót ngó xuống cõi tối tăm mịt mùng của kẻ nạn nhân, của đa số người sống đối với thiểu số ngưòi chết...]

(1) Cái tít Trên Cao Gió Lộng cũng đã từng được dùng, để dịch Wuthering Heights [Mỏm Gió Hú], của Emily Bronte, từ cái thời còn Tây, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy. NQT
*

Ui chao lại nhớ BHD, khổ thế.
Nhớ cái lần, sau khi ăn hai trái mìn của VC mà không chết, cảm thấy mình chẳng xứng đáng một tí nào so với những giọt nước mắt của em nhỏ xuống vì mình.
Ông bạn quí của Gấu đọc, nhìn Gấu với cặp mắt quái dị, mi có điên không đấy!

Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, khi chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình, chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật rõ ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng sẽ được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì giờ để nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó chẳng liên can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu không đã chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng ân hận, là chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết, "Chúng ta không sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta yêu thương nhau nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như vậy, và chẳng thể nào khác. 

Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó. 

Trong khi lần hồi sống lại, trong những lần nàng vào nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện, khi được tin, nàng đã khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và người trong nhà sẽ biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa hổ thẹn....
Khu Rừng Trong Đêm
*

Về già, gẫm lại, mới giật mình: Giả như đêm đó, BHD trốn được ông via khắc nghiệt, ghé nhà thương Grall, thì đâu còn anh cu Gấu!

*

It seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova

 Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc


Plus heureux que moi, vous vous êtes résignés à notre poussière natale.
Hạnh phúc hơn ta, tụi mi đành ôm mớ bụi quê hương.
Vous avez, en outre , la faculté de supporter tous les régimes, y compris les plus rigides.
Ngoài ra, tụi mi có tài, chế độ nào cũng bợ đít được hết, ngay cả thứ khốn kiếp nhất.
Ciroran: Sur deux types de société [Về hai thứ xã hội]
trong Histoire et Utopie [Lịch sử và Không tưởng]
*
"Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó rồi: Thơ Của Tôi."
Joseph Brodsky
[Cái phần đẹp nhất của Gấu, thì đã ở đó rồi: Những Ngày Ở Sài Gòn].
*
"A real 'wasteland' is much more terrible than any imaginary one".
Czeslaw Milosz: A Treatise on Poetry
Một "hoang địa" thật, thì khủng khiếp hơn bất cứ một hoang địa tưởng tượng nào.
*
L’individu ne vit pas une tragédie en perdant sa culture d’origine à condition qu’il en acquière une autre; c’est d’avoir une langue qui est constitutuif de notre humanité, non d’avoir une telle langue.
[Tạm dịch: Cá nhân không sống bi kịch, khi mất văn hóa gốc, nếu có được một văn hóa khác. Có được một tiếng nói khác, để tiếp tục làm người]
Todorov: Kẻ Bán Xới [L’homme dépaysé]
*
Tzvetan Todorov gốc Bulgarie. Ông kể chuyện những ngày đầu bỏ chạy quê hương, qua Pháp: Tôi tìm đủ mọi cách để hội nhập tối đa. Chỉ nói tiếng Tây, tránh hết mọi bạn quí cũ, đồng hương, đồng bào, tôi có thể nhắm mắt, mà vẫn nhận ra đủ thứ mùi rượu vang, đủ thứ phó mát khác nhau, của Tây, tôi mê toàn Đầm… cuối cùng, có một thằng Bulgarie mất đi, và thêm một thằng Pháp, nhân loại thì vẫn vậy: il y aurait eu à là fin de l’opération, un Bulgare de moins et un Francais de plus. La solde aurait été nul, sans perte ni gain pour l’humanité….


Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó rồi: Thơ của tôi.
Joseph Brodsky
Cái phần đẹp nhất của Gấu, thì đã ở đó rồi: "Những Ngày Ở Sài Gòn"

*

Va, petit livre, et choisis ton monde.
Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày
Note: Cái bìa, nguyên là một bức tranh của Nguyễn Đồng. Bọn lái sách thay bằng hình Chợ Sài Gòn.
Bìa sau, Gấu nhớ, có một câu thật trứ danh, do Gấu sáng tác:
Những rung động của một tuổi trẻ, của một thành phố, hay chỉ là những rung động của những chữ.

*