|
Chúc
Mừng Năm Mới
JD Salinger dies, aged 91
Catcher
in the Rye
author JD Salinger has died of
natural causes at his home in New Hampshire
JD Salinger, tác giả Catcher
in the Rye,
mất, thọ 91 tuổi
Ở Miền Nam,
Catcher được Phùng Thăng dịch là Bắt
Trẻ Đồng Xanh.
Nhưng còn một tác
phẩm trứ danh khác nữa, cũng có tên là Bắt Trẻ Đồng Xanh, nội dung 'mô
phỏng' cái
tít trên.
Đó là một bài viết của Võ Phiến, về cuộc vơ vét con nít Miền Nam
[đồng bằng
sông Cửu Long] cho vượt Trường Sơn ra Bắc học,
sau trở về tiếp tục cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ cứu nước.
Còn một Bắt
Trẻ Đồng Xanh, nữa, là cuộc di tản trẻ con lai Mẽo, vào những ngày 30
Tháng Tư
1975. Vì lòng nhân đạo, tất nhiên, nhưng còn là do lo xa: Mấy anh Mẽo
sợ VC sau
này, dùng lũ trẻ bắt bí phải xùy tiền ransom ra mới cho chuộc!
Chán mớ đời!
Gấu
thực sự không đọc
Salinger, những ngày mới lớn. Cái cuốn tiểu thuyết làm tan nát tuổi trẻ
của Gấu
đúng là cuốn Kẻ Xa Lạ của Camus. Nhờ nó mà viết được cái truyện Những
Con Dã
Tràng, nhưng khi được ông anh khen, thì Gấu lại hoảng, bởi vì trong lời
khen của
ông, qua bà cụ của anh, thì hình như là một lời nhắn nhủ, theo cái kiểu
"Tôi không cầu chúc anh thuận buồm xuôi gió", của HNH!
Ông anh nói với bà cụ, nó sẽ
đi xa hơn DNM.
Đi xa hơn?
Muốn đi xa hơn, thì phải...
đọc.
Mà đọc sách Tây cơ!
Đọc, vớ được cuốn La Nausée
thế là đọc tới, đọc tưới cũng được, nghĩa là đọc bừa, từ nào không biết
thì bỏ,
để đó, tính sau!
Và cái câu văn trong Buồn Nôn
làm Gấu cầm viết được trở lại,
đọc trong lúc chờ BHD tại một quán cà phê Tầu, cà phê vợt, cà phê túi,
đó là
cái câu, nhớ đại khái, tôi tự hỏi tại sao lại sợ hãi một thế giới bình
thường
như vầy, tôi nghĩ là tôi đã khỏi bệnh.
Bệnh, là do cú đánh của
Camus.
Đúng ra, là do ăn mấy phát đạn của
Meursault mà không chết!
Nhưng chỉ đến khi đọc
Faulkner, mà phải đọc đúng cuốn Absalon,
Absalon!, thì Gấu biết ngay, đây là tác
phẩm, đây là ông Thầy mà thằng cu Gấu Bắc Kít cần!
Gấu nhận ra ngay, Colonel
Sutpen là bà con của Gấu!
Có thể nói, tất cả cái phần đầu
của Absalon, Absalon!, khi
anh chàng sinh viên Nam Bộ khăn gói quả mướp ra Hà
Nội học Đại học, và được một bà cô kêu lại gặp bà, để nghe bà kể chuyện
về Miền
Nam, những chuyện kể của Cô Tư thoát thai từ đó, dù Cô Tư chưa từng đọc
Sartre,
chẳng biết gì về hiện sinh, lại càng không biết gì về Faulkner!
Có thể
nói, chính cuốn
Absalon, Absalon! và tác giả của nó, mò đi kiếm Gấu, chứ không
phải ngược
lại!
*
January 29, 2010
Remembering Salinger: Joshua
Ferris
Last night in Philadelphia, my friends
and I were having dinner at
Radicchio, a restaurant on the border of Old
City and Northern Liberty, discussing the sudden news of
J.D. Salinger’s death. We
talked about “The Catcher in the Rye”
and wondered what book, if any, coming in its wake, had been as
galvanizing,
controversial, wildly popular, and accomplished. “Iconic” was the word.
“Catch-22”? “Portnoy’s Complaint”? Perhaps, maybe—but in the last
twenty or
thirty years? Any book of real literary chops that everyone had read
the way
everyone read “Catcher,” as everyone still reads “Catcher”? We agreed
there
probably wasn’t, and wondered further, Was that a failing of book
writers, or a
further sign of the faltering literary temple? The three of us being
book
writers, we preferred to blame anything but the book writers: the
withering
audience for serious novels, the dissipation of a centralized critical
apparatus, the era’s technological trammeling. The allure of sunny
days, for
that matter. Anything but the book writers.
Soon Michael Buscio, a waiter
at Radicchio, brought out our food, cautioned us that the plates were
hot, and
spotted “The Catcher in the Rye”
sitting on the table. Buscio is a tall man with a thin, angel-fish-type
face
who talks with the swaggering cadences of a Goodfella. “I see you got
‘The
Catcher in the Rye’
there,” he said. “That’s a good book.” He hadn’t heard about Salinger’s
death.
“He died today? Oh, too bad. That’s a good book.” He’d read it first in
high
school, and then a second time when, he said, “I got more of what it’s
about.
First time was for school, and I never liked to read what I had to
read.” The
book spoke to him, as it seems to do nearly unfailingly to everyone, in
a
personal way. But he wasn’t unaware of the ambiguity of interpretation.
“I
mean, it also turned people into assassins, you know?” he said, in
reference to
Mark David Chapman’s murder of John Lennon.
These days it’s hard to
imagine a novel cited as motivation for murder, but such was the power
of
Salinger’s book. What accounts for that power is tricky to parse, but
it
probably doesn’t have much to do with all the qualities that make
it—and “Nine
Stories,” and “Franny and Zooey”—so goddam good to a writer, like the
unspooling of one limpid and effortless word after another, and a lot
more to
do with the truth-to-power vibe, the calling-out of all the phonies and
so
forth, touching a nerve that first appears, with puberty, at
adolescence, and
whose dark magic is to remain raw and accessible forever, so that the
“message”
of the book, that loaded and loathsome term, is as gut-punching now as
it was
sixty years ago. It’s the genuine article of what the back of books
call, time
and time again, timeless.
Salinger’s narrator in “For
Esme—With Love and Squalor,” declares his intention to tell his
particular
story without worrying about any discomfort he might cause, because
“Nobody’s
trying to please, here. More, really, to edify, to instruct.”
Salinger’s genius
is how well he did both at once. “Storyteller, teacher, enchanter” is
how
Vladimir Nabokov taxonomies the major writer, placing special emphasis
on the
enchanter. Salinger was an enchanter of the first order, and of a
particularly
rare breed. He put enchantment at the service of instruction, and vice
versa,
palatably. He was the American enchanter of the disenchanted.
The conversation with
Buscio ended with a discussion of the Apple iPad. He was excited about
it:
finally something cool to hold that would store a lot of books. “For a
single
guy, I got a big library at home,” he said. ” ‘The Catcher in the Rye,’
‘Fahrenheit 451,’
Sun Tze’s ‘The Art of War.’ I’ve read them all. But now I can have them
all
right there, you know?” That
would be
a shame in its way, because our conversation was the result of a
paperback
sitting on a table. But I hope Buscio gets his iPad, and I hope the
first
download he buys is “The Catcher in the Rye.”
A guy could do a lot worse than reread Salinger, in whatever medium. He
was a
helluva writer.
The New Yorker
Như vậy
là tay này không nhắc
đến Kẻ Xa Lạ của Camus.
Nhưng câu hỏi ở đây, là:
Vào cái
tuổi “Nổi loạn không Duyên cớ” [Rebel without a Cause, xin để ý đến từ
Rebel ở
đây. NQT] đó, nếu bạn vớ phải Kẻ Xa Lạ, thì liệu bạn có thể đọc luôn cả
Catcher, cùng với nó, như tay này tưởng tượng ra, vào cái thời iPad?
Và đây
là một câu trả lời,
một cái còm, của độc giả The New Yorker:
This article was terrible.
You decided to end your remembrance of J.D. Salinger by hoping you
waiter gets
an I-pad? Look even working class guys who hated school like Salinger!
You sir
sound like a phony snob.
Posted 1/29/2010, 12:31:31pm
by Dylaangell12345678
Look
even working class guys who hated school like
Salinger!
Coi kìa, mấy anh thợ thuyền
thì cũng ghét trường học như Salinger!
(1)
(1)
This article was terrible.
You decided to end your remembrance of J.D. Salinger by hoping you
waiter gets
an I-pad? Look even working class guys who hated school like Salinger!
Theo K , cau nay thieu mot
dau phay : Look, even working class guys who hated school like
Salinger
(Coi do, ngay ca may dan tho thuyen ghet truong hoc thay mo ma
cung thich Salinger )
(ps. Salinger tuyet voi nhu
vay, co lam sao ma viet bai tuong niem ve ong ay lai chuc ten boi ban
mua duoc
cai i-pad, hu ??? )
Tks K.
Ui chao. Dịch nhảm quá! NQT
A guy could
do a
lot worse than reread Salinger, in whatever medium. He was a helluva
writer.
Một thằng chả có thể làm đủ
thứ chuyện xấu xa tệ hại, chứ cái việc đọc lại Salinger thì nhằm nhò
gì!
Như
vậy, đã đọc Camus, thì bye bye Salinger!
*
Câu trên cũng dịch sai!
Chán thiệt!
Lý do là đang lo đọc Camus, Orwell, thì gặp cái cú Salinger ra đi, dịch
đại,
chẳng hiểu cái từ helluva nghĩa là gì nữa. (1)
Cám ơn K, và xin lỗi độc giả
TV.
NQT
Gấu gặp đúng tình trạng tẩu
hoả nhập ma như vầy, lần dịch một bài về một ông Tây cho talawas. Lúc
đó, đang đọc
mê đọc mẩn Joseph Roth! (2)
*
A guy could do a lot worse
than reread Salinger, in whatever medium. He was a helluva writer.
(Anh ta) đáng ra đã có thể
làm nhiều chuyện tệ hơn là đọc lại Salinger chứ, dù là đọc trên phương
tiện nào
cũng vậy ( sách in, mạng ảo, i-pad ....) . Ông ấy (Salinger) thật là
một nhà
văn tuyệt vời .
K
Câu ni chẳng ăn nhằm chi đến
so sánh các nhà văn, anh Gấu đưa Camus vào làm chi vậy . Thiệt là tẩu
hỏa nhập
ma quá chừng rồi .
helluva : ( hell of a )
(1)
Hell
of a (viết tắt, văn nói helluva) có nghĩa là tuyệt, nói theo tiếng Huế
"dễ
sợ" , nói theo tiếng Bắc "kinh" , "khủng" . Helluva
writer : Nhà văn viết hay dễ sợ, hay khủng, hay kinh hồn!
Tks. NQT
(2)
Bu Đa, Bu Đa
Viết về ông Phật mũi lõ này, là phải cho độc giả thấy cả hai nguồn
thông tin.
Cứ lo thổi ống đu đủ không thôi, là tự sỉ nhục mình và coi thường độc
giả.
Chứng cớ: Xin xem Blog Tin Văn
*
Gấu có một kỷ niệm khá thương đau, về ông Phật VC mũi lõ, lần talawas
nhờ dịch
một bài, nhân khi Phật qua đời.
Gấu lúc đó đang mê mẩn đọc
Joseph Roth, bèn ngó sơ, thấy cũng ngon cơm, bèn OK, bèn dịch như
máy, bèn
gửi. Kết quả, bản dịch đầy lỗi, khiến talawas phải xin lỗi độc giả, và
đưa một
bản dịch khác thay thế!
*
Jean-Claude Pomonti
Georges Boudarel: «Tôi
chỉ là
một thằng ngu»
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Nguồn
Voyage
au
bout de la nuit
Uncovering
Céline
Louis-Ferdinand Destouches
met Cillie Pam in Paris,
at the Café de la Paix, in September 1932. Destouches was a physician
who
worked at a public clinic in Clichy
treating poor and working-class patients; Pam was a
twenty-seven-year-old
Viennese gymnastics instructor eleven years his junior on a visit to
the city.
Destouches suggested a stroll in the Bois de
Boulogne,
took Pam to dinner later that night, and afterward took her home. Two
weeks
together began, after which Pam returned to her work and life in Vienna. Over the
next
seven years, they saw each other infrequently but corresponded
regularly. Pam,
who was Jewish, married and had a son. Destouches, who wrote in his
free time,
became famous shortly after their brief affair, his first novel, Voyage
au bout
de la nuit, published at the end of 1932 under the pseudonym "Céline"
(his maternal grandmother's first name), proving an enormous success.
In
February 1939, Destouches received word that Pam had lost her husband:
he had
been seized, sent to Dachau,
and killed. On February 21, Destouches wrote to Pam, who had fled
abroad:
Dear Cillie,
What awful news! At least
you're far away, on the other side of the world. Were you able to take
a little
money with you? Obviously, you're going to start a new life over there.
How
will you work? Where will Europe be
by the
time you receive this letter? We're living over a volcano.
On my side, my little dramas
are nothing compared to yours (for the moment), but tragedy looms
nonetheless....
Because of my anti-Semitic
stance I've lost all my jobs (Clichy,
etc.) and I'm going to court on March 8. You see, Jews can persecute too.
How a reader responds to this
letter is, I suspect, a fair predictor of how capable he or she might
be of
tolerat-ing the extreme disjunctions that predominate in the life and
art of
its author. One of Céline's biographers, for example, describes the
letter as
possessing "a curious blend of concern and sheer tactless
selfishness," a response that itself seems to exhibit its own curious
blend of sheer shortsightedness and apologism. Another biographer calls
it, reasonably
if inadequately, "astonishing," but does offer the useful detail that
Pam, upon receipt of the letter, "never saw [Destouches] again and
stopped
writing."
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
V/v Tình Lơ.
Hẳn là Cô Tư đọc Cuốn
Theo Chiều Gió, và bởi vì cùng một nỗi ám ảnh về một Miền Nam sâu
thẳm của một William
Faulkner, một Margaret Mitchell, mà viết ra nó.
Scarlett và Melanie ở đây là
hai chị em giống nhau như đúc. Và thầy giáo Thành trong Một Mối Tình,
thì biến
thành anh chồng ngớ ngẩn lầm cô chị với cô em, hoặc ngược lại.
Cái không khí chung
của tất cả truyện của Cô Tư, vẫn là ảo tưởng về ông anh Bắc Kít ruột
thịt cuối
cùng hóa ra… kẻ thù!
Scarlett khi vỡ ra, bèn đoạn
tuyệt với ảo tưởng, quyết tâm xây dựng lại thiên đàng Tara,
chờ ngày Rhett [chắc là đi học tập cải tạo] trở về!
Một độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu,
Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng ra, như thế!
Gấu này đành phải thú thực, sợ
Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner, những Margaret Michell! Tất cả
những sáng tác
của Cô Tư đều bàng bạc trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó,
phải tính
từ thời Adam và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ
“giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!],
lang thang khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày
lòng thương
hại của nhân loại.
*
Quán nhớ
Trong đám bạn nhỏ cùng xóm,
lớn lên tản mác, chỉ nó là người đi xa nhất, cách núi sông đã đành, lại
còn
cách biển, bên nầy bên đó không thể cùng lúc ngắm mặt trời lên. Lâu lắm
nó mới
về, nó bảo, bây giờ xứ mình cái gì cũng khác, nhờ có tình bạn tụi mầy
mà tao
còn biết đường về, nhờ một thứ nữa là cái tiệm tạp hoá của dì Hai, may,
cứ nhìn
tiệm đó mà tao không lạc.
Lối sống văn minh không làm
nó quên tiếng "tiệm" ngày xưa, ngày mà cả nó và tôi còn nhỏ xíu, ngày
nào má nó cũng kêu thằng Út ơi, thằng Út à, chạy lại đằng tiệm mua giùm
má ít
đồ. Buổi sáng chạy ra mua tương mua củi về nấu bữa cơm sớm cho má nó
lót lòng
đi làm phụ hồ, ba đi đạp xích lô, trưa cả hai người về, cho đỡ mệt.
Chiều xách
chai mua dầu về thắp đèn, bữa nào ba nó vui, muốn nhâm nhi với mấy ông
bạn, nó
đong thêm xị rượu. Nó biết đi tiệm mua đồ từ lúc còn chưa biết mặt của
mấy tờ
giấy bạc, ở nhà đưa tiền, nó chạy lại xòe tay ra mấy tờ bạc bèo nhèo
đưa dì
Hai, "má con dặn mua hết bi nhiêu đồng muối". Dặn mua ít món còn nhớ,
dặn nhiều nó phải vừa đi vừa nhẩm, gặp cái chạc cây, vấp ngã, quên mất,
lại
phải mếu máo chạy về hỏi lại. Ở nhà sai biểu cái gì còn mê chơi, dùng
dằng chứ
bảo đi tiệm là nó te tái đi ngay, mua món đồ còn dư một vài trăm, thể
nào dì
Hai cũng thối lại bằng mấy cục kẹo chanh, kẹo dừa xanh xanh đỏ đỏ, ngọt
dai
dẳng cả một tuổi thơ của đám con nhà nghèo.
Tiệm tạp hóa của dì Hai cất
dựa mé sông, nhà nhỏ, hàng hoá chất đầy ra lối đi, treo lùm đùm líu đíu
không
thấy được đầu người. Nhỏ vậy, chật chội vậy mà dường như hỏi món gì
cũng có,
gạo củi mắm muối thì nói gì, tiệm có cả những thứ năm thì mười họa mới
bán được
một lần. Chen chúc nhau những kệ cao kệ thấp, thùng nhỏ, thùng to, hủ
sành, hủ
mủ... không có cái thứ tự nào cho món lớn nhất như sịa nia thúng mủng,
nhỏ nhất
như cục đá lửa, cái dao lam... Bạn tôi nói với tôi rằng, mười mấy năm
qua, mỗi
lần bước vào những siêu thị hàng hóa bày bán hào nhoáng, nó vẫn thường
nhớ tới
tiệm của dì Hai, nó nói có một cái gì đó đầy sự sống, ấm áp trong cái
quán bề
hộn, hỗn độn của dì. Nên nhớ nhiều lắm. Nhớ đùm cốm gạo treo trên vách,
mấy cái
keo đựng bánh kẹp, bánh men, cái diệm đựng củ cải muối để kế bên rổ hột
vịt, ở
góc nhà là thạp đường mía vàng ong óng, một lần nó lén lấy tay mút thử,
dì Hai
rầy, "cái thằng sao ở dơ ở dáy vậy con, sao không nói để dì lấy dao xắn
cho". Nó còn nhớ nắp đậy trên cái lon đựng tiền lẻ của dì lúc nào cũng
dính dâm dấp bột gạo, bội củ năng. Qua bao nhiêu năm rồi, nó vẫn thắc
mắc, tự
hỏi, làm sao dì nhớ rành vị trí từng thứ hàng hoá trong tiệm của mình,
để người
ta hỏi cái gì, dì lẹ làng, phăm phăm lôi ra ngay thứ ấy, mà từ cái chỗ
đôi khi
ta không ngờ tới. Tôi cười, với dì, cái tiệm đó có một trật tự riêng,
tụi mình
không biết được đâu.
Bởi dì đã mở tiệm hàng này từ
lúc chúng tôi chưa được sinh ra. Có vài ba cái tiệm như thế cho xóm lao
động
nghèo nhưng không có cái nào lâu đời như tiệm của dì. Mỗi gia đình
trong xóm
nhỏ nầy, ai đi ai đến dì rành hết thảy. Buôn bán lâu năm dì còn thuộc
nết ăn,
xài từng nhà. Như cậu Ba chỉ thích ăn bí hầm dừa với đường mía, vừa
ngọt dừa
thanh, dì Chín mê món cháo trắng ăn với cải xá bấu, sáng nào cũng nấu,
nhà mợ
Bảy thích xài xà bông bột hơn loại kem... Với cư dân trong xóm, khi đã
vượt qua
được đận cơm ngày hai bữa thiếu trước hụt sau, ai cũng tự hỏi, hồi đó
sống sao
được nếu vắng những tiệm buôn bán lẻ trong xóm mình ha. Làm ngày nào đủ
chi
ngày ấy, đủ hai ký gạo, hai trăm đồng muối, năm trăm đồng đường, với
bột ngọt,
tương, chao... lắt nhắt, vụn vặt, không người bán biết mua ở đâu. Rồi
mấy đứa
con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy
được chồng
chứ hỏng phải chuyện chơi, vì lâu lâu vô bếp một lần, đang nấu canh,
kho cá, tá
hỏa lên trong nhà hết đường hết muối, sai đứa con nít chạy lẹ ra tiệm
mua về
nêm vẫn kịp, thiệt hú hồn, may quá. Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó,
nhớ về
xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, con đường dường như mỗi thứ đã trở thành
một phần
đời... Cả cái tiệm tạp hóa bình dị, mộc mạc của người đàn bà goá chồng
hiền hậu
mà cả đời chẳng đứa nào quên tên gọi: dì Hai.
Nó lại thăm, dì Hai than lúc
nầy già cả rồi, con mắt ngó không thấy đường, đêm nào cũng nghe đau
nhức mình
mẩy. Dì nắn bóp tay nó (cái bàn tay chuyên môn lén quẹt đường mía ăn),
khen lúc
nầy con lớn quá, mập ra. Nó cười, thì mười mấy năm rồi còn gì, xóm xưa
trở
thành phố thị, hàng quán tíu tít mọc lên. Mọi thứ đã đổi rồi, sao dì
với tiệm
của dì không thay đổi gì hết vậy? Dì Hai cười, nếu cái gì cũng đổi hết
thì bây
biết đường đâu mà về.
Tôi thấy chút xíu nữa nó đã
rơi nước mắt. Nó nén lòng, mếu máo cười, bảo, "Lâu quá, hỏng ăn kẹo của
tiệm dì hai, dì bán cho con năm trăm kẹo đi, dì!". Dì cười, "Cái
thằng, buôn bán gì, lâu lâu con mới về, dì đãi'", rồi dì lụm cụm lấy
cho
nó một vốc kẹo dừa.
Hồi xưa nó cũng mê chỉ mỗi
món kẹo dừa, mê tới mức cả hàm răng sún hết trọi.
Nguyễn Ngọc Tư
Trích trong quyển "Nước
chảy mây trôi"
Nguồn Đặc Trưng
Gấu
cũng có một quán nhớ như
vậy đó, mặc dù không phải là một cô gái, như nhân vật trong truyện.
"ngọt
dai dẳng cả một tuổi
thơ của đám con nhà nghèo"... Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó,
nhớ về
xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, con đường dường như mỗi thứ đã trở thành
một phần
đời... thì
cũng đâu khác, "câu" của Gấu:
Lần
thứ nhì bỏ chạy quê
hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm
thêm cay đắng:
Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại,
chỉ một
sợi nắng Sài-gòn....
PTVA vs
VTN vs TH
Huế Mậu
Thân
*
Remember it—but how?
Nhớ ư?
- Nhưng làm sao nhớ?
New thinking and old wounds
around the Auschwitz death camp
Jan 28th 2010 | WARSAW
| From The
Economist print edition
Arbeit macht frei (“Work sets you free”)
Lao động làm bạn tự do
For the first time, a
majority of Poles see Auschwitz
chiefly as a
place where Jews were killed.
Lần đầu tiên đa số người Ba
Lan coi Auschwitz là nơi người Do
Thái bị giết.
Lướt
Tin Văn Cũ
Arthur
Koestler, Người
của Bóng tối
Về cuốn
Đêm giữa Ngọ, nó không
chỉ là một cuốn sách phổ thông: Nhờ nó mà Đảng Ta chẳng bao giờ lên cầm
quyền được
ở cựu mẫu quốc, tức nước Pháp, một chuyện có thể xẩy ra vào thời gian
đó. Bây giờ
nhìn lại, thật khó tưởng tượng được, Tây
Âu và Mẽo có thể gắn bó với nhau những 50 năm trời. Luôn cả chuyện
thắng Cuộc
Chiến Tranh Lạnh.
Thành quả đó, công lao đó, là nhờ ba cuốn Trại Loài Vật của
Orwell, Tôi Chọn Tự Do của Victor Kravchenko, và Đêm giữa Ngọ của
Koestler.
Trong ba ông, số phận của
Kravtchenko là thê thảm nhất, như Todorov cho biết. Năm 1947, sau khi
cuốn sách
Tôi chọn tự do của ông xb, 1946, tờ báo CS của Tây, Les Lettres Francaises tấn
công ông, ông thưa ra tòa và thắng kiện, nhưng cũng chẳng được coi là
vị anh hùng,
hai mươi năm sau, ông tự tử tại căn phòng trong một khách sạn ở New York.
Orwell,
ou l’invention du
vrai
Một
trong những cách đọc mới
về Orwell, trên tờ Le Magazine
Littéraire số Tháng Chạp 2010, là của một nữ triết
gia Mẽo, Martha Nussbaum, giáo sư đại học Chicago. Trong bài viết Một thế giới
không có sự thương hại, bà tra hỏi, qua 1984, và tác giả của nó, Orwell,
những
thành phần cơ bản của tình cảm cảm thông, les fondements du sentiment
de
compassion. Một tác giả khác, Éric Dior, trong bài viết L’enragé de la lucidité,
coi vị trí của Orwell tương tự của Camus, mặc dù cả hai đều thoát thai
từ thời
kỳ Ánh Sáng: Ông Tây thuộc địa Camus thì mê mặt trời và đàn bà; ông
Hồng Mao thích
bia bọt âm ấm, không khí âm u ẩm ướt của mấy tiệm bia rượu và làm vườn
Kundera:
Gặp Gỡ
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
Tông
tông Bush đọc Kẻ Xa Lạ
Tạp Chí Văn Học Tháng Năm, 2006
Đọc lại Camus
Suy tư làm giặc: Penser la
révolte.
*
Lịch sử chống lại ký ức?
Thực dân thuộc địa không chỉ là
vấn đề mang tính lịch
sử. Nó còn cho thấy sự chuyển biến những
tương quan giữa chính trị
và ký ức.
Thí dụ như ở Việt Nam
ngày nay, người dân thèm ra
báo, như thời bị ông Tây cai trị!
Và họ nhận ra, Đảng còn tởm hơn Tây!
*
Olivier Todd: Tôi mất năm năm
viết cuốn tiểu sử xừ luỷ.
Nhưng những lần gặp, khi ngọt như mía lùi, khi mặn đắng như muối. Một
bữa, khoảng
những năm 1950, tôi ngồi Café de la Marie, công trường Saint-Suplice,
với cô vợ
trẻ măng, đẹp như tiên. Xừ luỷ dzô, đến quầy ngồi, cặp mắt cú vọ như
muốn bóc
trần nàng ra. Tôi tức điên lên.
-Tức điên lên, hay là phổng mũi
lên?
-Tức điên lên. Tôi quay qua ông
bạn ngồi kế,
Charles-Roger Leblanc: "Bộ hắn tưởng hắn là ai, thằng khốn này?".
"Thì hắn tưởng hắn là Albert
Camus".
Ông bạn còn phạng thêm cho cú nữa!
Nhưng bây giờ cá nhân của ông
ta làm tôi hài lòng. Rất
ư hài lòng. Không chỉ là một tay quân tử, phong nhã, mà còn lương thiện
- và
can đảm. [Non seulement un honnête homme - mais un homme honnête - et
courageux].
Kỷ
Niệm
Thi
sĩ Vũ
Hoàng Chương
Hoàng Hạc Lâu
Xưa hạc
vàng bay vút bóng
người
Ðây lầu Hoàng Hạc chút
thơm
rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi
mãi
Trắng một màu mây vạn vạn
đời
Cây bến Hán Dương còn
nắng
chiếu
Cỏ
bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần
xa chiều xuống nào quê quán
Ðừng
giục cơn sầu nữa, sóng ơi...”
*
Nguồn
Đây
chắc đúng là cái bản dịch mà thi sĩ đã
từng
đọc cho học trò nghe, trong có Gấu, những ngày học Đệ Nhị trường Hồng
Lạc, tại đường
Sương Nguyệt Anh, gần vườn Bờ Rô, gần ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập
Tự, khu Chợ
Đũi, Sài Gòn.
Gấu
đã viết về kỷ niệm này một lần rồi. Nay nhân đọc bài của Quỳnh Giao,
bèn đốt thêm một nén hương tưởng nhớ Thầy.
Và, để tưởng nhớ mùi hương.
Gấu
còn một kỷ niệm thật thú vị về thầy VHC, là lần Thầy trả bài luận văn
của Gấu,
khen, đây bài hay nhất kỳ này, nhưng cảnh cáo, hay, là đúng
khuôn mẫu
một bài luận văn, nhưng chưa có gì là độc đáo, đừng tự đắc, đừng cao
ngạo…
Ui chao không lẽ Thầy đã tiên tri ra một
thằng 'Gấu nhà văn’, tưởng mình
là bố chó
xồm?
Hách, khinh
người, cả một diễn đàn như thế mà dám kêu là Chợ Vòm, Chợ Cá, ư?
Độc giả TV
Thì cũng chỗ quen biết cũ, bạn bè xưa, nên có chút xuồng xã!
Sorry. NQT
*
Nhưng cường tướng làm sao
nhược
binh?
Thầy nào trò đó!
Thầy mà chẳng hách sao:
Nhất chương [Vũ Hoàng Chương]
hào hứng ngạo thiên thu [Đỗ Đức Thu]?
*
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ
rừng
Cùng thi nhau vươn cao
như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Biển
Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi
hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và
cái ý thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, là cũng cùng ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên, anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu này, là có thể chẳng cần làm thơ
nữa,
cũng vẫn được, anh ạ!
Dạ Vũ Ký
Bắc
*
Theo thi sĩ, và
cũng còn là ông thầy Việt văn của người viết - năm học Đệ Nhị, trường
Hồng Lạc,
của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn là một căn hộ, ở đường Sương Nguyệt
Anh,
Sài-gòn - bản dịch của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát, cho nên
không
diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục phản" - toàn "vần trắc" -
trong nguyên bản. Bất phục phản! Nhân một cơn say, ông nổi hứng, dịch
một lần nữa,
tạo thế chân vạc cho bài thơ.
Họ Vũ vốn là dân toán, ông vẫn bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa
độ, khi
làm thơ. Nhưng cái tam giác của ông, vô tình làm tôi nhớ tới tam giác
bếp núc
của C. Lévi-Strauss.
Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp.
Trước
tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi
Prométhée
ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm
nước,
thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss.
Phiền
một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy
văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn
thuốc.
Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi "hít khói thuốc", là
tàn một chu kỳ văn minh.
*
Trở lại Anh, Greene nhớ Việt
Nam
quá và đã
mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình
cảm: cái
tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài
đường dậy
tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam,
tay chủ tiệm hít bèn giúi vào
tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa tại căn phòng
của
Greene, ở Albany,
bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày
hạnh
phúc.
31 Tháng Chạp 1953, Sàigòn.
Một trong những cái thú của
một nơi chốn xa xôi lạ hoắc, đó là, cái thú "bạn của bạn", theo
nghĩa, một cái nét đẹp của nó, đã từng quyến rũ một người bạn của bạn,
đột
nhiên, nó cũng tóm lấy bạn!
Tôi đã gặp đúng một tình
trạng như vậy, một buổi chiều, một người bạn như trên, tới gặp tôi, sau
một vài
hơi whisky, đèo tôi đi trên chiếc xe gắn máy của anh ta, một bác sĩ hải
quân,
dạo chơi Sàigòn. Chúng tôi tới thăm mấy tiệm hút.
Tiệm đầu tiên ghé, thuộc loại
rẻ tiền, ở trên một tầng lầu, bên dưới là một trường học, nơi đám học
trò đang
lo thi kỳ thi "tiểu học và trung học đệ nhất cấp". Ông chủ tiệm cũng
dân trong nghề, một bệnh tưởng, a malade imaginaire, người khô quắt,
như bị vắt
sạch nước, hậu quả của sáu chục bi một ngày. Một bé gái ngủ gật, và một
cậu
trai. Thuốc phiện không nên để cho người còn trẻ vướng vào, như ngưòi
Tầu tin
tưởng, mà chỉ để dành riêng cho những ngưòi đứng tuổi, hoặc già cả. Một
bi ở
đây tốn mười đồng. Sau đó, chúng tôi tới một tiệm sang hơn, Chez Pola.
Ở đây,
bạn có phòng dành riêng, và có thể mang theo bạn. Một cái dù Tầu thật
lớn che
trên một cái giường tròn lớn. Một quầy đầy những sách ở ngay kế bên
giường. Lạ
làm sao, và cũng tuyệt vời làm sao, tôi thấy hai cuốn của tôi, trên
quầy sách:
Le Ministère de la peur và Rocher de Brighton. Tôi bèn lôi xuống, viết
mấy lời
đề tặng.
Một bi ở đây tốn ba chục
đồng.
Kinh nghiệm hít tô phe của
tôi bắt đầu vào Tháng Mười năm 1951, khi tôi ở Hải Phòng trên đường ra
Vịnh Hạ
Long...
Graham Greene. Tam Thập Lục
Kế, Tẩu Vi Thượng sách: Ways of
Escape
Để
tưởng nhớ mùi hương
|
|