*
















*

Phải mất quê hương thì mới nắm bắt được vô trú. Cũng gọi là vô trụ…
Thi Vũ

Dans son refus de l'éternel, Camus fait sien l'adjuration de Zarathoustra: « À la Terre restez fidèles, et n'ayez foi en ceux qui vous font discours d'espérances supra-terrestres. »
Dans la quatrième des Lettres à un ami allemand, il écrira de nouveau: « J'ai choisi la justice pour rester fidèle à la terre. »
ROGER GRENIER : Le fil rouge nietzschéen


Jorge Luis Borges's lost translations

A dispute with Borges's estate has left works he produced with the translator Norman Thomas di Giovanni in publishing limbo

Lục đục giữa dịch giả và cơ sở quản lý gia tài Borges khiến một số dịch phẩm của Borges bị chìm vào trong cõi u minh



Điện Biên

Nhưng, chỉ đến bây giờ, thì dân Mít mới biết ra được cái giá thực sự mà họ phải trả cho chiến thắng DBP.

Câu chuyện về trận đánh DBP được kể một cách thật là tuyệt vời bởi một tác giả tự gọi mình là Ted Morgan, từ cái tên khai sinh Sanche Armand Gabriel de Gramont, [như Khái Hưng, là từ Khánh Giư, đảo tự mà ra]. Dòng dõi quí tộc, con trai một anh hùng kháng chiến, Sanche de Gramont chiến đấu trong quân đội Pháp tại Algeria, qua học Yale, làm phóng viên cho Tuần Tin Tức, của Mẽo. Khi trở thành công dân Mẽo, ông chọn một cái tên, ông nói, không gây khó khăn cho điện thoại viên, và còn nói lên tinh thần dân chủ của quê hương mới của ông.
Bằng kỹ năng tuyệt vời, Mr. Morgan đã đan dệt nét hào hùng bi thảm của trận đánh, những đau khổ của tù binh, sự khùng điên của đám tướng tá cao cấp, và những trò tráo trở của chính trị, ngoại giao.
DBP đã trở thành một biểu tượng. Nhưng trước khi trở thành một biểu tượng, nó là một “nghĩa địa nơi hàng ngàn xác người bị chôn vùi, với hào hùng, và dũng cảm, của cả hai bên”.


Hôm qua xem thời sự của truyền hình Việt Nam, bật lên thấy có một bác Việt Kiều mặt dữ dằn như dân anh chị xã hội đen thao thao trả lời phóng viên truyền hình nào là nhà nước nào trên thế giới cũng có pháp luật, nào là dân chủ phải trong khuôn khổ, rồi không được tự do quá trớn. Chắc anh già này lần đầu được phỏng vấn trên truyền hình cho đồng bào cả nước xem nói hăng lắm. 

Sau đó đến tay nhà văn Nguyễn Văn Thọ, tác giả của cuốn tiểu thuyết Quyên mới ra. Tên thường gọi là Thọ Muối. Hầu như cứ động đến Việt Kiều là có mặt Thọ Muối. Nhà văn Thọ Muối trước là cựu chiến binh giải phóng miền Nam, khi xuất ngũ về đói quá ( tác phẩm Nhà Ba Hộ đoạt giải của Thọ Muối lột tả những tháng ngày đau khổ này) Thọ Muối đi xuất khẩu lao động sang Đông Đức. Thời thế nháo nhào Tây Đông hòa hợp, Thọ Muối thành Việt Kiều Đức nhưng lòng nhớ các em gái Việt Nam khôn nguôi. Và hơn nữa là sự đam mê văn chương. Vì những thứ ấy chỉ ở Việt Nam mới đáp ứng nhu cầu của Thọ Muối. Nên Thọ năng đi về quan hệ với văn nghệ sĩ và các em út trong nước. Mà muốn đi về thì phải phát ngôn thế nào thì Thọ tất rõ. Thọ Muối từng giật míc đọc thơ đón tiếp Tổng Bí Thư Nông khi ngài có dịp sang Đức quá bộ thăm Kiều Bào bên đó.

Tay phóng viên Quang Minh của VTC cứ tưởng lần này Thọ Muối sẽ lại phát biểu đúng ý đồ của ban biên tập, hỏi xoáy Thọ Muối về chính sự. Haaaa nhưng không ngờ Nguyễn Văn Thọ đã tiến bộ vượt bậc bởi sự góp ý của nhiều anh em văn nghệ sĩ. Cho dù Quang Minh giở hết ngón nghề đề lợi dụng nhưng Thọ Muối giờ đã khôn ra nhiều không ngáo ngơ như hồi mới về nước, vả lại Thọ Muối đáng tuổi bố thằng Quang Minh làm sao mà để nó qua mặt. Thọ Muối ba hoa về ngọn cây, con sông, trăng nước mùi hương của xuân mẹ gì đó.. tuyệt nhiên đéo có câu nào ơn Đảng hay chính phủ cái cóc khô gì làm thằng Quang Minh sốt ruột hỏi xoáy vào vấn đề chính nhưng chả ăn thua, Thọ Muối giả tảng lơ đi cứ ba hoa văn chương thi phú. Mất mẹ mấy phút quý báu truyền hình quy ra trị giá cả vài chục triệu chỉ để Thọ nói văn mình. Xem xong phải gật gù lão Thọ này được, về nước là thành tinh rồi. 

Thằng Quang Minh gà Thọ Muối không được như ý, quay sang Nguyễn Cao Kỳ và mụ Tuyết Mai. Kỳ râu dê chắc bị đồng bào chửi nhiều nên chán không nói nhiều nữa. Chỉ nói mong sao đất nước thành con hổ và Kỳ râu dê còn tranh thủ tuyên truyền tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa, hình ảnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang chiến đấu giữ gìn biển đảo trước sự xâm lăng của Tàu Cộng. 

Thế mới biết sự phản biện, góp ý của dư luận ngoài luồng cũng được tiếp thu đáng kể. Bằng chứng là Thọ Muối và Kỳ râu dê đã có những kinh nghiệm xương máu để trả lời bọn VTV
Người Buôn Gió

Thú quá!
Tay Thọ Muối này, khi TCS đi, có đi một đường ai điếu, kể kỷ niệm, lần đầu nghe nhạc Trịnh, khi đang trên đường xẻ dọc TS, phê quá, tính quay đầu ngựa, trở về lại Đất Bắc!
NTV khen, bài hay nhất, trong những bài khóc TCS.
Chi tiết, Râu Kẽm của Tướng Kỳ về già biến thành Râu Dê, cũng thú.


Happy Valentine’s

Buổi đầu gặp gỡ Mr. Koestler mới khó chịu làm sao
How Unpleasant to Meet Mr Koestler
By Cynthia Koestler

Tôi sinh ra tại Nam Phi ngày 9 Tháng Năm 1927. Vào cuối tháng Giêng 1948 tôi rời Cape Town, để tới sống với mẹ tôi tại Paris. Đứng trên boong tầu, nhìn mảnh đất từ từ lùi dần, và cuối cùng lẫn vào vùng sương mù cuối chân trời, tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ trở lại.
Tại Paris, tôi gia nhập Alliance Francaise để làm quen trở lại và thực tập mớ tiếng Tây của mình. Mặc dù đã trải qua những ngày nghỉ hè tại bờ biển Normandy vào năm 1938, tôi chưa từng biết Paris. Tới mùa xuân, tôi bị cảm cúm, do thời tiết thay đổi. Rồi tôi kiếm được một chân thư ký tại cơ sở làm phim Warner Brothers. Tô


TVA vs VTN vs TH

Tribute to Koestler

Trong lúc rảnh rỗi, tôi viết một cuốn tiểu thuyết Tới và Đi, Arrival and Departure, và một số tiểu luận, sau được đưa vô The Yogi and the Commissar [Du Già và Chính Uỷ]

Tới và Đi là tập thứ ba, trong một bộ ba tập, trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc xung đột giữa đạo đức và thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động cơ cá nhân – khi nào, hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh phong nhã [vẫn còn có thể] biện minh cho một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài Xưa như Diễm, nhưng nó ám ảnh tôi suốt những năm là một đảng viên CS .

Tập đầu của bộ ba, là Những tên giác đấu, The Gladiators, kể cuộc cách mạng [revolution] của những nô lệ La mã, 73-71 BC, cầm đầu bởi Spartacus, xém một tí là thành công, và cái lý do chính của sự thất bại, là, Spartacus đã thiếu quyết định [lack of determination] – ông từ chối áp dụng luật quay đầu, trở ngược, “law of detours”; luật này đòi hỏi, trên con đường đi tới Không Tưởng, người lãnh đạo phải “không thương hại nhân danh thương hại”, ‘pitiless for the sake of pity’. Nôm na là, ông từ chối xử tử những kẻ ly khai và những tên gây rối, không áp dụng luật khủng bố - và, do từ chối áp dụng luật này khiến cho cuộc cách mạng thất bại.

Trong Bóng đêm giữa ban ngày, tay cựu truởng lão VC Liên Xô Rubashov đi ngược lại, nghĩa là, ông theo đúng luật trở ngược đến tận cùng cay đắng - chỉ để khám phá ra rằng ‘lô gíc không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.’
Hai cuốn, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, và cả hai đều tận cùng bằng tuyệt lộ.

Nhập nước Pháp, như là một kẻ xa lạ chẳng ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày, cuốn sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa số, ông chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc giả Tây Phương nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài CS. Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu châu của Berlin, sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,” ông viết trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có thể bị tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự do Văn hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống lại tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết.
Tranh cãi sau đó liên quan tới hội nghị, là, liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp. Scammell, tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington, bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét, như nhìn rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.

Trong Tới và Đi, Arrival and Departure, cuộc xung đột giữa đạo đức và thiết thực được diễn tả bằng thuật ngữ tâm lý. Peter Slavek khởi nghiệp như là một tay cách mạng trẻ tại một xứ sở độc tài Nazi, chẳng có thì giờ nhìn vô cõi riêng tư của mình, ấy là nói về những duyên do thầm kín, thâm sâu đưa đến những hành động của riêng anh ta, do anh ta quyết định. Khi chiến tranh xẩy ra, anh vượt thoát qua một xứ sở Trung Lập [Neutralia, ở đây là Bồ Đào Nha], và phải đối diện với một chọn lựa khó chọn lựa: hoặc theo vị hôn thê qua Mẽo, hay tự nguyện tham gia Lực lượng Đồng minh. Anh đã từng trải qua, và vững trụ, những tù đầy, tra tấn trong quá khứ, nhưng giờ này đứng trước nan đề, anh bị đánh gục, về mặt tâm lý, và bị liệt một cẳng, bởi căn bịnh gọi là "hysterial paralysis", [Koestler cho biết đã từng chứng kiến một cas như vậy, xẩy tới cho một bạn tù của ông ở trong nhà tù Seville].

Ông bắt đầu chuyện học hành của mình, vào buổi hoàng hôn của Đế quốc Áo-Hung, tại một trường mẫu giáo ở Budapest. Bà mẹ đã có một thời gian là bịnh nhân của Freud. Ở Vienna, thời gian giữa cuộc chiến, ông xoay được việc làm thư ký riêng cho Vladimir Jabotinsky, một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên của phong trào Zionist. Du lịch Soviet Turkmenistan như là một cảm tình viên CS, trẻ, sôi nổi, ông vớ được Langston Hughes, nhà thơ da đen Mẽo. Chiến đấu tại chiến trường Tây Ban Nha, ông gặp nhà thơ Anh W.H. Auden tại một “bữa tiệc khùng” ở Valencia, trước khi bị tống vô một trong những nhà tù của nhà độc tài Franco. Tại Berlin Weimar, ông rơi vào ổ của tay điệp viên Comintern tai tiếng, Willi Münzenberg, qua tay này, ông gặp những ông Trùm CS Đức của khu vực: Johannes Becher, Hanns Eisler, Bertolt Brecht. Sợ bị Gestapo tóm được trong khi chạy khỏi nước Pháp, ông xin Walter Benjamin chia cho liều thuốc tự tử. Vài tuần sau đó ông chơi luôn, khi nghĩ không thể thoát ra khỏi Lisbon, nhưng không chết (trong khi Walter Benjamin, khi bị lính gác từ chối không cho vượt biên giới Pháp & Tây Ban Nha, chơi liều của ông, và đi luôn).
Trên đường rong ruổi, ông dự bữa ăn trưa với Thomas Mann, nhậu với Dylan Thomas, kết bạn với George Orwell, tán tỉnh Mary McCarthy, và sống trong căn hộ ở London của Cyril Connolly. Năm 1940, Koestler được thả khỏi trại giam của Pháp, một phần là nhờ sự can thiệp của Harold Nicholson và Noël Coward. Thập niên 1950, ông giúp thành lập Hội Nghị Tự Do Văn Hoá, Congress for Cultural Freedom, cùng với Mel Lasky and Sidney Hook. Thập niên 1960, ông chơi LSD với Timothy Leary. Thập niên 1970 ông vẫn còn đăng đàn diễn thuyết, gây ấn tượng những thính giả, trong số có Salman Rushdie trẻ.
*

Về già, qua năm tuổi, tuổi Sửu [bà cụ Gấu mất đúng năm tuổi], giao thừa, thay vì khai pháo, Gấu cảm khái nhìn lại đời mình, cám ơn Ông Trời, ngay vào lúc Gấu ngập ngừng bước vô cõi đọc, cõi sống, cõi viết, đã trang bị cho thằng cu nhà quê Bắc Kít di cư toàn những ông thầy đắt giá: Giả như không đọc Koestler những ngày đó, biết đâu đã “phò” HPNT lên rừng rồi!
Nhớ thời gian viết cho tờ Tin Văn của Nguyễn Ngọc Lương, VC nằm vùng, có lần anh nhìn Gấu ra ý dò hỏi, có vẻ như anh tính dụ Gấu, này về nguồn, lá rụng về cội đi, mày Bắc Kít, cả lò nhà mày Cách Mạng, hay là làm VC nằm vùng quách!
Nhưng khủng nhất, là ông ta ban cho Gấu sư phụ Faulkner!
Ban cho ông Thầy Faulkner, chưa đủ, còn ban thêm cho một nhân vật của ông, và, như Đức Chúa Trời, phán một phát “Hãy Ánh Sáng”, thế là BHD thức giấc, bước ra khỏi những trang sách của Faulkner, và bước vô cuộc đời anh cu Gấu!
Bởi vì, thiếu BHD làm sao viết ra được Những Ngày Ở Sài Gòn, dù đã nhập tâm cách viết ‘độc thoại nội tâm’ với những câu văn dài lê thê ‘bè rau muống’ của sư phụ?
‘Bè rau muống’, hình ảnh này là của tay Lộc, truởng phòng hành chánh UPI, khi anh đọc tập truyện của Gấu.


Đọc lại Võ Phiến

Nhà phê bình, về một lần, bị VC đuổi, về nữa, lại bị đuổi, tự ông ta chụp mũ cho ông ta, cần gì ai chụp?
*
Trên Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Camus, có bài viết, về sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Camus:

Le fil rouge nietzschéen.

Le philosophe allemand est présent tout au long de l'œuvre de Camus, qui l'a placé très tôt, avec Dostoïevski, parmi ses auteurs de prédilection.

Còn một thuật ngữ nữa, cũng hay được sử dụng, để nói lên sự nhất quát, tính liên tục về tư tưởng, về văn phong của một tác giả, là sợi dây dẫn, le fil conducteur.
Gấu nhớ là, lần “đó đó”, Gấu sử dụng “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”, NTV đề nghị dùng từ “sợi dây dẫn”, thay thế.

Hay nhất, trong số những thuật ngữ này, là của Đông phương: Rắn, nằm trong cỏ. Rồng, thấy đầu mà chẳng thấy đuôi, thí dụ.

NHQ đọc tác phẩm cuối cùng của VP, nhận ra “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”. Tuy nhiên, qua những đoạn ông trích dẫn VP, sợ không phải.
Cách đọc của Trịnh Y Thư có vẻ đúng hơn.
VP tới cuối đời, nhận ra sự thực, văn chương cũng “chỉ là đồ chơi.”

Trong cuốn tạp bút “Cuối Cùng” xuất bản năm 2009, nhà văn Võ Phiến hạ bút viết một câu mà khi đọc tôi phải giật mình. Ông bảo, “Chuyện sáng tác có gì đáng nói?”
Một nhà văn với tuổi đời như ông, lừng lẫy với sự nghiệp văn học đồ sộ trên dưới năm mươi tác phẩm để lại cho đời sau, nói câu nói như thế, thoạt nghe qua tưởng như có cái gì khinh bạc, nghịch lí nằm bên trong. Nó như tiếng sấm nổ giữa đồng không mông quạnh.


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Diễn văn Thụy Điển
Tặng Louis Germain, thầy giáo của Camus, được đọc này 10 Tháng Chạp 1957 tại Tòa Thị Sảnh Stockholm, cuối bữa tiệc bế mạc lễ trao giải Nobel.
Thế hệ nào thì cũng hăm hở làm lại thế giới. Thế hệ của tôi, không. Thừa hưởng một lịch sử hư hỏng, hầm bà làng ở trong đó, là những cuộc cách mạng suy sụp, những kỹ thuật trở thành điên khùng, những vị thần chết toi, những ý thức hệ mệt lử, nơi những quyền lực tồi tệ, vào lúc này, có thể phá huỷ tất cả, nhưng không thể thuyết phục, nơi trí tuệ xuống cấp trở thành đầy tớ cho hận thù, áp bức, thế hệ đó, tự trong nó, từ quanh nó - phải tái tạo dựng một chút phẩm giá để sống và để chết, từ những phủ định của nó, chỉ có thế. Trước thế giới bị đe dọa rã nát ra, nơi những đại phán quan của chúng ta đành chọn lựa một lần cho xong những vương quốc của thần chết, nó biết, nó phải tái tạo dựng, trong cuộc đua khùng điên chống lại với chiếc đồng hồ, giữa những quốc gia, một nền hòa bình không phải thứ hòa bình tôi đòi...
*
Tran Minh Huy:
Albert Camus avait ses maximes en journalisme, dont celle-ci: « En toutes choses, ne pas admettre que la politique l'emporte sur la morale ni que celle-ci tombe dans le moralisme. » Considération révélatrice du fossé qui le sépare de Jean-Paul Sartre ...
Daniel Rondeau:
On ne peut rien créer sur le mensonge, dit un jour Albert Camus. « Le privilège du mensonge est de toujours vaincre celui qui prétend se servir de lui. Et aucune vertu ne peut s'allier à lui sans mourir. » Ce qui va séparer Camus et Sartre, c'est principalement la question de savoir s'il est bon ou pas de dire la vérité sur les camps soviétiques . On peut d'ailleurs faire une lecture rétrospective de la littérature française du xx· siècle sous cet angle particulier: mensonge/ vérité. Ce qui a été engagé avec Barrès (mentir au procès de Rennes (2) pour ne pas désespérer l'armée française) est continué par les valses rouges de Hourrah l'Oural et conduit aux délires de Sartre sur l'URSS (pour ne pas désespérer Billancourt). Rares sont les écrivains qui n'ont pas participé à l'étouffement de leurs contemmporains par le mensonge. Citons quand même Gide, Mauriac, Camus bien sûr, et naturellement Malraux. S'il existe, comme je le pense, une fraaternité distante entre Camus et Malraux, elle est fondée sur l'estime réciproque et par un goût profond des deux hommes pour la vérité. Je sais bien ce qu'on reproche à Malraux: ses invenntions, son art de broder sur le réel, mais au fond, dès qu'il s'agit de choses sérieuses, et malgré des chemins parfois « farfelus », Malraux est toujours en quête de vérité.
[Trò chuyện với Daniel Rondeau, nhà văn. Le Magazine Littéraire Mai 2006]
Tran Minh Huy:
Camus có những châm ngôn của ông khi làm nghề báo, thí dụ, «Trong mọi chuyện, đừng chấp nhận chính trị vượt đạo đức, cũng đừng chấp nhận để cho đạo đức xuống cấp, trở thành rao giảng đạo đức”. Đúng là một nhận xét mặc khải làm bật cái hố phân cách Camus và Sartre....
Daniel Rondeau:
Camus đã từng nói, người ta không thể sáng tạo gì được với nói dối. “Đặc quyền của nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó. Không có một tính tốt nào, một khi đồng minh với nói dối, mà không ngỏm củ tỏi.” Camus và Sartre xa nhau, “anh đi đường anh, tôi đường tôi,” chính là khi cả hai đứng trước câu hỏi, liệu nói hay không nói sự thực về những trại tập trung Xô Viết. Người ta có thể nhìn lại văn học Pháp thế kỷ 20 dưới khía cạnh đặc biệt này : dối trá/sự thật. Điều mà Barrès dấn vô [nói dối ở tòa án Rennes để khỏi làm nhụt chí quân đội Pháp] được tiếp tục bằng những điệu luân vũ đỏ Hourrah Oural và đưa tới những lời nói sảng của Sartre về Liên Xô (để khỏi làm nản lòng Billancourt). Hiếm có nhà văn nào mà không tham dự vào cơn nghẹt thở của những đồng nghiệp đương thời của họ, vì nói dối. Kể luôn Gide, Mauriac, Camus đương nhiên, và tất nhiên Malraux. Theo tôi, nếu có một tình huynh đệ xa xa nào giữa Camus và Malraux thì tình này được xây dựng trên sự tương kính lẫn nhau và cái khiếu sâu đậm của cả hai về sự thật. Tôi biết người ta trách Malraux về những điều ông ta thêu dệt ra, về nghệ thuật chờn vờn chung quanh cái thực, nhưng xét cho cùng, một khi đụng chuyện nghiêm túc, và, mặc dù những con đường đôi khi ‘phù phiếm’, Malraux lúc nào cũng truy tìm sự thật.
*
“Đặc quyền của nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó”
Ui chao, áp dụng vô Mít, mới “thiên tài, thiên tai” làm sao!


Kỷ Niệm

Nói đến NDQ là nói đến cả một thời, ‘và nao nức cả một thời trẻ dại, hỡi ngói nâu hỡi tường trắng cửa gương’, của cả một nhóm bạn bè của Gấu. Bây giờ nhớ lại, cũng thấy tiếc, vì đã không chịu đi nghe ông diễn thuyết một lần cho biết, khi được một anh bạn rủ.
Anh bạn này với Gấu, cũng có cả một thiên tiểu thuyết. Mê làm cách mạng lắm, thành ra học hành chẳng ra gì, mãi mới có được một cái bằng, và làm nghề dậy học, bị động viên, ra trường đóng ở Cần Thơ, khi thằng em Gấu tử trận tại Sóc Trăng, trên đường đi lấy xác em, Gấu ghé Cần Thơ kêu anh đi cùng. Khi về, Gấu đi máy bay C.130 cùng xác thằng em, và cô bạn gái của em, và bà mẹ của cô [cô nói, cái số của cô quá khốn nạn, cứ quen ai, tính lấy làm chồng, là người đó chết trận!], anh bạn đi xe đò về lại Cần Thơ, tính đi chuyến đầu, may sao nghĩ lại, quay vô tiệm làm tô hủ tíu, vậy mà thoát mìn VC.
Anh bạn này là người Gấu nhờ đưa thư cho BHD, khi bị ông bố của cô cấm cửa.
*

Hôm có tiết này, thầy vào lớp, đố ngay học trò Concierge nghĩa là gì. Trong lớp có một trò tên là Nguyễn Phan Long, người Nam bộ, theo cha, là ông phán gì đó, ra Bắc. Nguyễn Phan Long rồi sau này là một tay giỏi tiếng pháp, mở báo viết bằng tiếng pháp ở Sài gòn. Hắn cũng là một đại địa chủ tối phản động. Thấy thầy đố chữ khó quá, cả lớp chịu. Thầy mới giảng là ông dượng. Lúc này Long mới xin nói, và giảng là người canh cổng. Chắc ở Sài gòn, Long đã trông thấy người làm công việc này. Hai thầy trò cãi nhau về chữ nghĩa, rồi thầy mở tự vị ra tra. Thầy nghĩ một lát, rồi khen là Long nói đúng.
Tan học, ở lớp về nhà, Nguyễn Phan Long nói với bạn: "Đù mẹ thằng X, hôm nay tao chẳng được gì, còn lỗ vốn mất một chữ!"
Hôm sau, người bạn mách thầy giáo là thằng Long nó chửi thầy. Thầy tức lắm, đem việc ấy lên trình ông đốc. Tên hiệu trưởng gọi Long lên bàn giấy, bắt mang theo sách vở. Nó phân xử thế nào? Nó cho Long lên học lớp trên! Tây cần người giỏi tiếng pháp hơn là cần người biết tôn kính thầy giáo" (tr. 32-33) [sự việc khoảng năm 1916].
Chi tiết này cực kỳ đắt giá, chưa thấy ai nêu ra cả :)
Blog NL

Thú vị thật.
Gấu cũng có một câu chuyện thú vị, na ná chuyện trên, thời gian làm UPI, với ông sếp Mẽo là Dirck Halstead, chủ nhân trang net
TheDigitalJournalist
Lần đó, ông chủ sai Gấu chuyển vô tuyến viễn ảnh, mấy tấm hình chiến trường mới về. Anh ra lệnh làm thế này, thế này, nhưng do không phải dân chuyên viên, nếu Gấu làm đúng theo, là hư hình hết.
Thế là tự ý làm theo Gấu. Hình chuyển đi OK, đẹp hơn cả nguyên bản khi xuất hiện trên báo chí Tây phương.
Ông chủ Mẽo xoa đầu tên bồi Mít, khen một tua, xong, nghiêm nét mặt, ra lệnh:
Nghe đây. Tao là chủ mày. Tao là thằng chi tiền cho mày. Lần sau, tao bảo sao, làm vậy. Mày làm khác đi, tao đuổi!

Chủ Tây, chủ Mẽo đều hơn chủ Mít, thật.
Thảo nào độc lập thống nhất, không khá!

Trong những ông chủ của dân Mít, chủ VC khốn nạn nhất.
Nhất nhất, VC Bắc Kít!