*
















Chúc Mừng Năm Mới

*

Rừng sau nhà
10.2.2010


*


Trần Mộng Tú                                
                        
Ngũ Ngôn Xuân

   Mùa xuân giơ bàn tay
  đẩy nhẹ cánh cổng vườn
  luống đất vừa mới rỡ
  giầy ai chưa kịp in
  bông hoa chưa vội nở
  không gian thơm mùi tuyết
  thời gian trên cánh chim
                 mùa xuân trên vách đá
  con sóc và con thỏ
  đang kê lại tuổi mình
  trên những viên sỏi nhỏ

                  Mùa xuân nở rất khẽ
  một vệt trên cành đào
  em nở trên ngực anh
  một vệt son rất mới
  mùa xuân ngả vào nắng
  buông một nắm chỉ vàng
  em ngả vào vai anh
  tung sợi tơ hồng đỏ 

                  Không gian như rượu rót
                  thời gian bay cánh ong
                  trời nhỏ giọt sương mới
                  trên lưng mùa xuân cong 

  Tết hôn lên ngực giấy
  vần ngậm giữa hai môi
                 xuân rùng mình rất khẽ
  thơ rơi giữa đất trời.

Xuân Canh Dần - 2010


Note: Tuyệt.
Nhất là giọng Huế nữa chứ.
NQT

Cái truyện ngắn này hỏng, vì…  tuyệt quá, hay quá. Tếu thế. Khéo quá hóa vụng.
Dân ghiền thì kêu bằng ‘overdose’.
Chúng ta có đủ cả. Nào chiến tranh, nào vòng tay học trò, nào bướm khuya, và sau cùng, một vì nữ tu!
Và cái chi tiết tuyệt vời nhất, tiên tri ra tất cả những chuyện trên đây, là một từ cảnh báo, của cô gái người mẫu, khi anh học trò gạ gẫm.

Một hôm, khi lên văn phòng để ký nhận tiền học bổng, tôi thấy chị cũng đứng đợi lãnh tiền. Người thư ký phụ trách gọi tên và đó là lần đầu tôi biết cô người mẫu luôn rụt rè kia mang tên Hoa. Không dọ hỏi, nhưng tôi hình dung được số tiền khiêm nhường mà chị sẽ nhận cho công việc làm người mẫu. Tôi lấy xe đạp rón rén bên chị và mạnh dạn đưa ra lời đề nghị:
- Chị đi mô, tôi sẽ chở. Về nhà hay ghé chợ?
- Đừng… Không đi chợ. Mà nhà thì ở chỗ xa lắm.

Và để cho thật hoàn hảo, là cái tên ghép:
Hoa Nghiêm!

Nguyễn Tuân khen trăng 14, là vậy.
Nhưng Gấu mê trăng 11 hơn!

Đừng!


Trong cuốn tạp bút “Cuối Cùng” xuất bản năm 2009, nhà văn Võ Phiến hạ bút viết một câu mà khi đọc tôi phải giật mình. Ông bảo, “Chuyện sáng tác có gì đáng nói?”
Một nhà văn với tuổi đời như ông, lừng lẫy với sự nghiệp văn học đồ sộ trên dưới năm mươi tác phẩm để lại cho đời sau, nói câu nói như thế, thoạt nghe qua tưởng như có cái gì khinh bạc, nghịch lí nằm bên trong. Nó như tiếng sấm nổ giữa đồng không mông quạnh.
Chưa hết, ông bảo tiếp, “Tôi e những món thơ thẩn với tuỳ bút nọ kia đều phải xếp về phía đồ chơi. Những cái mình miệt mài mãi bấy lâu, khi đầu bạc nhìn lại là đồ chơi cả. Không riêng mình, bao nhiêu người miệt mài vẽ tranh, soạn nhạc, hát xướng, bao nhiêu hình vẽ ở các hang động tiền sử, các tranh dân gian (nào gà lợn, nào đô vật, nào đánh đu), các câu ca dao, hát ví, quan họ . . . một thời, các món nghệ thuật là cùng chơi thôi.”
Nhưng có thật đấy chỉ là lời nói suông của một Cristoforo Colombo, sau khi khám phá ra Tân Thế giới, nhún vai, bĩu môi, bảo kẻ thán phục đứng bên cạnh, “Hey, man. It's no big deal”? (1)
TYT
*
Về già, hết còn chơi được, mà còn ngộ ra văn chương chỉ là đồ chơi thôi, quả là tiếng sấm nổ giữa đồng không mông quạnh thật!
Nhưng đọc kỹ, Võ Phiến hình như muốn nói, văn chương, thì cũng chỉ cuộc chơi, trò chơi, trò đùa cả!
Ông không định nói, "chỉ là đồ chơi"!
"về phía đồ chơi", khác "chỉ là đồ chơi"?

Viết mới chả lách!
No big deal!
NQT
(1) Thú thực, chuyện khám phá Mỹ Châu thì ăn nhậu gì ở đây? Từ VP qua Kha Luân Bố, rồi trở về với em nhí ngồi thả thuyền khóc nức nở vì mất cả thơ, đúng là 'tẩu hoả nhập ma' mất rồi!
Không ‘chơi’ được thì đừng có cố!
*

Năm hổ, nói chuyện hổ.
Bất giác Gấu nhớ một câu chuyện trong Liêu Trai, về một ông hổ, một bữa buồn quá, hóa thành một anh học trò, và gặp một danh sĩ. Ông hổ này được nghe những lời vàng ngọc, mê quá, cứ lẽo đẽo theo hầu, cho tới một bữa, danh sĩ gặp bạn, hình như tại...  Blog Voilà gì đó!
Thế là một bàn tiệc được bầy ra, thi nhau mà nhả ngọc phun châu, ông hổ nghe một hai câu, còn cố chịu được, nhưng nghe mãi hết chịu nổi, bèn năn nỉ, thôi, thôi, đủ rồi. Mấy thằng khùng kia, nhất định không chịu thôi viết, thôi dịch, thôi diệt. Ông hổ phát điên lên, thế là bèn rùng mình một cái, biến lại thành hổ, làm sạch đám khùng, rồi cúi lạy danh sĩ nhảy vọt vô rừng!
*
Gấu chưa được đọc Cuối Cùng của Võ Phiến, nhưng qua trích dẫn, có vẻ như ông đã ngộ ra, một sự thực về cõi văn của ông, sau những thăng trầm của nó, từ  khởi đầu, với những truyện ngắn chấn động cả hai miền đất Trung Kỳ và Nam Kỳ của nước Mít, cho đến khi bị lu mờ vì cuộc chiến, rồi, ra hải ngoại, lại sáng rực lên như ngọn hải đăng, để cho đám Mít lưu vong nhìn về phía ngọn Thái Sơn Bắc Đẩu, thấy mình vẫn còn, nền văn chương Miền Nam vẫn còn.

Một bạn văn, khi đọc những gì Gấu viết về Võ Phiến, nhận xét, Gấu viết chậm quá, giá sớm hơn một chút, có lẽ Võ Phiến hiểu ra được, và có thể, trả lời.
Đúng như thế.
Nhất là sau khi Gấu đọc bài của Trùng Dương, viết về lần mới ghé thăm vợ chồng ông trên Blog VOA.
Cũng qua anh bạn cho biết, khi VP dọn về Tiểu Cali, và khi thấy Gấu qua vùng này thăm bạn bè, đã nhắn anh, mời Gấu ghé nhà ông chơi, nhưng do ham chơi quá, Gấu quên mất.
Phải viết ra chi tiết này, khi VP chưa đi xa, để cho thấy, chính ông không hề giận Gấu, hay nghĩ Gấu này có gì thù hằn ông.
Trong VHTQ ông nhắc tới Gấu rất đàng hoàng. Chẳng có lý do gì để mà Gấu 'mạ lỵ' ông.
Nhưng thà viết về ông khi ông còn sống.
Khi ông đã mất, không làm sao viết ra được nữa!
*
Gấu ra hải ngoại, đọc lại Võ Phiến, lần thứ nhất, qua một bài viết trên tờ Làng Văn. Ông rao giảng về bài “hành” nổi tiếng, "Đưa người ta không đưa qua sông", với người bạn văn của ông là Nguyễn Hữu Nhật, và nhân đó, bàn về dịch thuật, mà theo ông, thơ bất khả dịch. Một độc giả có đưa ra một ý riêng gì đó, về bài thơ, và về dịch, và xin được chỉ giáo.
Chỉ có thế, mà ông bực lắm, rõ ràng là như vậy, gắt ngậu lên, mi không biết gì thì câm đi, để yên cho ta và bạn ta bàn về thơ!
Tất nhiên, lâu ngày quá, không nhớ rõ, nguyên văn câu của ông, nhưng ý thì rõ như vậy. Gấu đã từng nhắc tới chuyện này một lần rồi, nay nhắc lại, chỉ để lấy đà viết tiếp.
 
Viết về tập truyện mới xb bản của Primo Levi, A Tranquil Star: Unpublished Stories, [Ngôi sao trầm lặng: Những chuyện chưa xb], của Primo Levi, dịch từ tiếng Ý, Anita Desai tự hỏi, liệu có thể dùng từ "playful" [dzui thôi mà] để nói về những tác phẩm của Primo Levi, như Sống sót Lò Thiêu, Liệu đây có phải một người ?, về cuộc đời mà ông đã trải qua, nhưng không thể nào, chẳng bao giờ bỏ lại phía sau mình.
Và bà trả lời, playful, đúng là cái tính từ "ấn tượng", "chót", mà một nhà phê bình có thể nghĩ ra được, khi "đọc" Lò Thiêu, khi đang đi trên Đại Lộ Kinh Hoàng, khi đang hứng những trận mưa hỏa tiễn của VC giáng xuống đầu dân Sài Gòn…, bởi vì, đọc tập truyện, quả là bà chỉ nghĩ đến "một góc trời chỉ biết rong chơi", của TCS!

Tất cả những truyện ngắn trong đó đều gợi nên cái sự rong chơi, vui đùa, cười cợt!
Ấn tượng thật!

What if, liệu, nếu, giả như, chú chuột giảo thử tối nay đi dự dạ tiệc? Liệu, nếu, giả như cuộc vui tối nay là một cuộc tử chiến giữa người và xe hơi?
*
Thật sự mà nói, Primo Levi có quá ít, để được những nhà chuyên săn tìm tiểu sử chú ý tới. Ông sống một cuộc đời "nhà nghề" chẳng có gì đặc biệt (một chuyên viên ngành hóa), một cuộc sống riêng tư "một mầu". Ông sử dụng những cuốn sách của ông để kể và miêu tả cuộc đời mà ông đeo đuổi đó. Nếu bạn muốn biết ông đã làm gì, nghĩ gì, ông cảm nghĩ ra sao, bạn chỉ phải đọc ông. Như một hậu quả, bất cứ một kể lại (retelling) "cuộc đời và tác phẩm" sẽ chịu rủi ro: một cố gắng thất bại tự thân (self-defeating effort) nhằm tái sắp xếp và đảo qua đảo lại (paraphrase) những bản viết của ông. Và theo Tony Judt, trên tờ The New York Review of Books (May, 20, 1999), đây là thất bại của Bi kịch của một người lạc quan, cuốn tiểu sử mới nhất về Levi của Myriam Anissimov (bản Anh ngữ, dịch từ tiếng Pháp, của Steve Cox, nhà xb Overlook, 452 trang, $37.95). So với bản tiếng Pháp, hoặc tiếng Ý, bản tiếng Anh đã sửa lại cho đúng, một số sự kiện, và tuy không hấp dẫn, nhưng đọc được và chứa đựng nhiều thông tin hơn. Điều tai hại ở đây là, tác giả cuốn sách đã thất bại không giải thích cho độc giả hiểu được một điều: tại sao Primo Levi lại hào hứng hấp dẫn đến như thế? Nhưng ít nhiều bà đã cho người đọc nhận ra, Primo Levi "đứng được" với "thời gian", như là một thế giá văn chương và hồi ức về Lò Thiêu: Một người diễu cợt (ironist) và hài hước (humorist) đã đi đi lại - như là một cách chơi - qua những nấc thang âm thanh, đề tài, giọng điệu... Primo Levi được trình bầy ở đây: như là một con người lạc quan, một Do-thái đã hội nhập vào một người Ý trong cơn đọa đầy ở Auschwitz. Có thể so sánh với Dante, bằng cách diễn tả Ulysses - một hình tượng văn chương mà Levi ưa thích, và cũng là một hóa thân của ông - như một người lính già trên đường qui cố hương kể lại một vài vấn đề khi rong chơi nơi Lò Thiêu.
Đây có phải một người
*

**

… cuộc đời gần như trò chơi nghịch ngợm, cười mũi vào những khuôn mặt ngơ ngác của chúng tôi. Chúng tôi trưởng thành, với vị đắng nơi đầu lưỡi.
*

Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một phần là do ông anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương tờ nhật báo Tự Do, và sau đó, còn làm nhà xuất bản, nơi đã từng in cuốn Kể Trong Đêm Khuya (?) của Võ Phiến. Tôi đọc VP trước đó ít lâu, khi ông anh mang về nhà mấy tờ báo mỏng dính, in ấn lem nhem, như tự in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát hành đâu từ miền Trung. Tôi chỉ nhớ cái thuở ban đầu làm quen những nhân vật của ông, không còn nhớ đã từng viết về ông, một phần là do, thời gian sau đó, tôi mải mê, ngấu nghiến đọc những tác giả, mà tôi hy vọng họ giúp tôi giải thích tại sao sinh ra, tại sao sống, tại sao chết, tại sao có cuộc chiến khốn khổ khốn nạn đó...
Nguồn


Huế Mậu Thân

*

Shaped by War: Photographs by Don McCullin

Shell-shocked US marine, Hue, Vietnam, February 1968.
Photograph: Don McCullin
Don McCullin's most celebrated image is his portrait of a dazed American soldier, entitled Shellshocked US Marine, Hue, Vietnam. It was taken during the battle for the city of Hue in 1968 and, in its stillness and quiet intensity, says as much about the effects of war on the individual psyche as many of McCullin's more graphic depictions of conflict and carnage. The eyes that stare out beneath the grimy helmet are not staring at the camera lens, but beyond it, into nowhere.

Lính Mẽo kinh hồn bạt vía vì pháo VC.
Hai con mắt thất thần, nhìn xuyên qua ống kính, tới hư vô!

So với cặp mắt bọ Huế, cũng thời gian Mậu Thân, dưới đây.
Gấu nhớ lại những cặp mắt thất thần y chang của cư dân Sài Gòn, cũng những ngày đó!


*

Sau cùng phải cảm ơn cô bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình. Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo không còn sợ hãi cái bóng của chính nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về, thành phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải xuống xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm phải đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen sâu thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương, nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu chẳng may bị cô hất hủi, nói không, nói không thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là gì.

Đó những ngày trên khuôn mặt người dân Sài-gòn khi ra đường còn nguyên vẻ hốc hác mất ngủ, xen đôi nét mừng rỡ vì đêm qua Việt Cộng tha không pháo kích vô thành phố. Hằng đêm, họ không còn được nghe lời ân cần chúc đồng bào ngủ ngon, xin đồng bào vặn nhỏ chiếc la-dô để khỏi làm phiền bà con lối xóm. Thay vào đó là một giọng nói đã được gột bỏ mọi rào đón: Tên những người phải trình diện theo lệnh Tổng Động Viên, nghe như đã thuộc tài nguyên của một thế giới khác, những con số kèm theo tên mỗi người ít ra còn chút ý nghĩa vì chúng cho biết sắp tới lượt ai được Thần Chết coi giò coi cẳng...
Cõi Khác


Người đàn ông lành hiền

Tô Hoài qua Madame Tô Hoài.
Đúng, phải thánh thiện lắm mới viết được Dế Mèn
Nhưng phải có sự tham dự của Quỉ mới viết được Ba Người Khác 

PTVA vs VTN vs TH

Bữa trước Gấu nhìn thấy, trên tờ TLS, trong một bài viết về Lewis Carroll, cha đẻ của Alice, một bức hình, chụp cái cảnh tác giả ngồi lim dim, mặt đực ra, hạnh phúc đến tột độ, khi bé gái Alice, đứng trên cùng chiếc ghế, xỏa mớ tóc, cái váy, và thân hình nhỏ xíu của cô lên 'ông già mắc dịch'!
Có vẻ như cái thánh thiện nhất, phải có tí tục lụy, thì mới thánh thiện nhất được!
Bạn có nhớ, người xưa đúc gươm thiêng, phải nhỏ tí máu vô. Phải thứ “trăng huyết”, của một em, lần đầu thấy tháng cơ!
Ngược lại, trong cái Đại Ác, phải có tí ti Phật, tí ti Chúa... thí dụ.
Kiều Phong, cây bút đã từng vặt râu Bác Hồ, trừ Tà… là tác giả của Giọt Mực và những truyện ngắn thần sầu dành cho nhi đồng.
Duyên Anh, tác giả Con sáo của em tôi thần sầu, còn là Thương Sinh, chửi ác có hạng, đến bị chúng đánh thành bại liệt.
Gấu, tên sa đích văn nghệ, cũng đâu khác!
Cái phần ngu ngơ dại khờ của Gấu, là những trang viết về BHD, và BHD là một cô bé 11 tuổi!

Chính vì thế mà viết cho nhi đồng rất khó. Ba cái thứ đồ dởm, của những con người bình thường, không có gì trục trặc, khó mà hay được là vậy. Vừa nhắm mắt vừa mở cửa thì chỉ có té xuống sình, xuống mương thôi!
Viết về tuổi mới lớn, đừng nói viết cho nhi đồng, như Camus kia, mà cũng phải ôm thân cây mà đi, nữa là!
Salinger, viết xong Bắt Trẻ Đồng Xanh, bèn trốn chui trốn nhũi, là vậy!
Gấu, may là BHD biết trước, bỏ đi, chứ không thì cũng chết đứ đừ từ hồi nào rồi!
*
Ui chao, lại tụng đi tụng lại những sấm ngôn mà thánh nữ ban cho Gấu trước khi bỏ đi.

"Thứ tình yêu chỉ gồm có chiêm ngưỡng và kính trọng, thứ amour platonique mà anh nói đó cũng làm Hương sợ."
"Mi đâu có thương ta. Mi thương con bé con mười một tuổi, là ta, từ đời thuở nào.
Và Hà Nội của mi, ở trong con bé đó!"
"Làm sao có thể quên được một người đã nói yêu mình, lần đầu tiên trong đời. Cái lần anh đón H. trên đường tới trường Gia Long, ngay lối vào vườn Tao Đàn, buổi sáng sớm sau bao năm trời xa cách, H. đã tự nhiên ngồi lên xe. Vậy là anh đã hiểu."
"Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có; thứ tình yêu gồm một phần ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais quoi", có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy..."
Khi chàng bảo nàng: "Tình yêu đối với em, là một khởi điểm để vươn tới, một điểm tựa để xâm nhập đời sống, để khám phá, làm quen với những gì xa lạ, những người khác. Chúng ta yêu nhau vì chúng ta còn có thể yêu những người khác, những cái đẹp ở bên ngoài mối tình," nàng đã hóm hỉnh trả lời: "Như vậy có nghĩa, H. yêu anh là để có thêm kinh nghiệm tình trường, có phải không?"
Lúc đó, nàng nói: "Bây giờ H. hết lãng mạn rồi."
*

"Ở cái ngã sáu đường đời ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai và bếp lửa thùng cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng đoán được tung tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông chánh, ông lý tề vừa chạy tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào thành, trẻ hơn, đỡ lầm lỳ, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm kia...
-Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?..."


Tôi trích một đoạn, trong Cát Bụi Chân Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn - ở đây là Tô Hoài - quan sát giống hệt một điệp viên, và Nguyễn Tuân đã giải tỏa cả một đoạn văn đầy những chi tiết chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về người đã chết.

Nghe nói Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ lỗi" với vong hồn bạn, nhưng nhờ vậy, chúng ta thấy một Nguyễn Tuân "không chính thức", và bằng cách nào ông sống sót...
Trong hai nhà văn tiền bối kể trên, Tô Hoài mới là người thân cận với tuổi thơ của tôi, của "chúng tôi". Làm sao quên được cảnh tượng chú dế mèn võ sĩ được thiền sư xén tóc "cải hóa". (Hãy mường tượng ra, nghi lễ xuống tóc cho một tín đồ nào đó!). Làm sao quên hương ngọc lan của một buổi hẹn hò. Ôi nỗi đắng cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt, mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày tháng... Làm sao mà hiểu nổi, một nhà văn với một thiên lương như vậy, với những quan sát tinh vi về loài vật, về một con người như Cu Lặc, lại có thể cay nghiệt như thế về một cõi tề, nguỵ?
Một chuyến đi

Phải cao tăng mới sáng tạo ra được một vì thiền sư xén tóc!
Phải ngây thơ như một đứa con nít mới tưởng tượng ra được “anh khờ” Cu Lặc!
Vũ Ngọc Phan đã nhận ra điều này, khi giải thích tại làm sao lại có một anh Cu Lặc trong số những chuyện loài vật của Tô Hoài.
Nhìn như thế, Thằng Khờ của Tô Hoài bảnh hơn Thằng Khờ của Dostoevsky!
Nhưng phải là một PXA, thì mới nhìn cách đếm tiền mà biết ngay đây là một tên địa chủ!


Tưởng niệm Brodsky
[Tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996]

J. D Salinger mất, 91 tuổi

*

The author (reading Catcher in the Rye) in 1952

BY RICHARD LACAYO

            TAKE THE LITTLE PAPERBACKS down from the shelf, and you can hold the collected works of J.D. Salinger-one novel, three volumes of stories-in the palm of one hand. Like some of his favorite writers the Greek poet Sappho, whom we know only from ancient fragments, or the Japanese writers of 17-syllable haiku Salinger was an author whose large reputation pivots on very little. The first of his published stories that he thought good enough to preserve in a book appeared in the New Yorker in 1948. Seventeen years later, he placed one last story there and drew down the shades.
From that day until his death on Jan. 27 at age 91 at his home in Cornish, N.H., Salinger was the hermit crab of American letters. When he emerged, it was usually to complain that somebody was poking at his shell.

            Salinger's only novel, The Catcher in the Rye, was published in 1951 and gradually achieved a status that made him cringe. For decades, the book was a universal rite of passage for adolescents, the manifesto of disenchanted youth. (Sometimes lethally so: after he killed John Lennon in 1980, Mark David Chapman said he had done it to promote the reading of Salinger's book.) Holden Caulfield, Salinger's petulant, yearning young hero, was the original angry young man, created at the very moment that American teenage culture was being born. A whole generation of rebellious youths discharged themselves into him.

            Jerome David Salinger was born in New York City on Jan. 1, 1919, to a Scottish-born mother and a Jewish food importer father. He flunked out of or ran away from a series of private schools, graduating from Valley Forge Military Academy outside Philadelphia-later the model for Caulfield's despised Pencey Prep - before drifting back to Manhattan with the general idea of becoming a writer. A promising career would be briefly derailed by a grueling slog through wartime Europe with the U.S. infantry, but by 1946 he was back in Manhattan and soon writing regularly m the New Yorker.

By the time The Catcher in the Rye was published, to generally exultant reviews and a seven-month stint on the New York Times best-seller list, Salinger had already moved past adolescent angst and on to dissatisfaction with a world he found increasingly irrelevant and intrusive. In 1953 he bought a small, Spartan house in Cornish; by the fall of that year, he had built a high wall around it.

But while Salinger lived as a recluse, he was never inclined to be a hermit. He married a 19-year-old Radcliffe student named Claire Douglas in 1955; they had two children together before divorcing in 1967. Salinger soon enticed another young woman, a Yale freshman named Joyce Maynard, to join him in exile. Her memoir, At Home in the World, provides a picture of Salinger in later life as a man preoccupied with homeopathic medicine and old Hollywood movies who wrote every day but then stored the unpublished works in a giant vault. After 10 rocky months, Salinger abruptly called things off.

Is that surprising? A long time ago, he called things off with the entire world. Salinger struggled all his long life with the contradiction between his gifts as a writer and his impulse to refuse them. It's customary to assume that the Glass children of his short stories-an intricate hybrid of show biz and spirituality, the family was his other enduring creation-make up a kind of group portrait of Salinger, each a different reflection of his character: the writer and the actor, the searcher and the researcher, the spiritual adept and the profiling schmuck. That may very well be true. He made sure we could never be sure. But here's Fanny Glass outlining the dilemma of someone like Salinger who wants to abandon the ego, the will to "succeed":

"Just because I'm so horribly conditioned to accept everybody else's values, and just because I like applause and people to rave about me, doesn't make it right. I'm ashamed of it. I'm sick of it. I'm sick of not having the courage to be an absolute nobody. I'm sick of myself and everybody else that wants to make some kind of a splash."

That's one time you know it's Salinger talking. •

TIME February 15, 2010

 


Tết này nhớ Bác!

Tin Văn hiện đang cố gắng giới thiệu bài viết Một trường hợp tự diệt của Khờ Me Đỏ, của Simon Leys, cũng như là một cách cảnh cáo Mafia CS Mít: Coi chừng, mất mẹ nước Mít, do tham nhũng, băng hoại, đạo đức sa đọa!
Cái nước Mít chưa mất nhưng bao nhiêu cái đẹp của nó, thì chẳng còn.

Kinh tế VN: ‘Càng tăng trưởng càng nghèo’

Nhận xét này có thể sử dụng như là một hình ảnh về toàn thể đất nước Mít, hiện nay: Cái nhà Việt Nam lớn bằng trăm bằng ngàn ngày trước, như di chúc của Bác, quả có trở thành hiện thực, nhưng Việt Nam ngày càng nghèo đi, đến trơ xương ra, nếu nói về đạo đức, về "cái gọi là" con người.

Đây là một đề tài mà Gấu vẫn ôm ấp ‘trong tim trong hồn trong não’, sau chuyến đi trở về Miền Bắc gặp lại bà con họ hàng ruột thịt, nhưng cứ trăn trở hoài, không dám viết ra, vì đau quá, không viết ra nổi, vì nó liên quan mắc mớ đến toàn những gì thân thương một đời của Gấu, gia đình Gấu.
Có một cái gì đã hoàn toàn mất đi, từ miền đất sinh ra Gấu.
Thảm thế.

Ngay trong bài viết thật là tuyệt vời về chuyến đi mới tinh của Cô Tú, cũng vẫn có nỗi ngậm ngùi như vậy, mà chỉ những người nào thật tinh ý mới nhận ra:
Con gái tôi mới lấy chồng được một năm, cô muốn giới thiệu cho cha mẹ chồng và chồng của cô về quê mẹ mình, cô rủ bên chồng làm một chuyến du lịch Việt Nam. Không muốn để con đi một mình, tôi phải đi theo tháp tùng vì biết cô sẽ lúng túng khi giới thiệu ngôn ngữ và phong tục Việt Nam, dù cô nói tiếng Việt khá thông thạo.
Tôi dắt theo chồng, con gái, con rể và suôi gia đi trên tuyến du lịch Đồng Bằng Sông Cửu Long. Chiếc xe hơi có gắn máy lạnh, chở ba mươi lăm du khách, rời Sài Gòn đi ra ngoài thành phố, trên quốc lộ 1. Tôi ngồi phía sát bên cửa kính để nhìn ra ngoài cho rõ. Xe bắt đầu vào Bình Chánh, đi về hướng Long An. Đường sá hai bên, chỗ nào cũng đang đập phá, rỡ đất để xây công xưởng, tư xưởng hoặc cao ốc. Bây giờ đi về miền quê không đồng nghĩa đơn thuần là thấy đồng lúa, nương khoai, bãi rau xanh ngát nữa. Điều trước tiên tôi thấy là những bảng hiệu: Bán Vật Liệu Xây Cất, Công Ty Sắt, Thép; Trường Kỹ Nghệ Long An; Car Dealer Lifan, Ford New Holland; Máy Cầy-Máy Ủi Đất.
Cũng mừng cho đất nước mình, trông như đang hưng thịnh.

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu

Tôi đọc TMT từ những ngày đầu ra hải ngoại, và ngày càng nhận ra, Cô Tú không làm sao viết được về Cái Ác, rồi tôi tưởng tượng, giả như một Cô Tú như vậy, không bỏ chạy vào Miền Nam những ngày 1954, ở lại Đất Bắc, thì sẽ ra sao?
Cũng thế, là một thằng… Gấu?
*
Tôi đã thử so sánh giọng nói đó với một tiếng nói Hà Nội, khác, “tiếng nói từ miền lạnh”, mượn cái tít của Le Carré:

Cô Rơm là người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình biết, cô có tên mộc mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi gia đình chạy khỏi thành phố Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".

Kim Dung cho rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường cũng bịa đặt ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên thảm họa. Ông kể về một thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng khiếp, và người dân nghèo đã dùng làm giầy dép. Những người dân quê miền Bắc chắc không thể quên những ngày đông khắc nghiệt, và để chống lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ Trần Mộng Tú tin rằng "rơm" là phương thuốc hữu hiệu, không chỉ để chống lại cái lạnh của thiên nhiên, mà còn của con người.
Ít nhất, chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam, rồi ra hải ngoại, tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu chuyện thần tiên.
"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được..."

Giọng nói đó khác hẳn giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một Lê Minh Hà.
"Sức khỏe" ngôn ngữ đó - thật thiết yếu, cho một xã hội đang còn sống. Văn chương là nơi ngôn ngữ luôn bị thách đố, và cần được gìn giữ nhất. The health of language is essential to the preservation of a living society. It is in literature that language is most truly challenged and guarded. G. Steiner, Chủ nghĩa Mác và Phê bình văn học - phải chăng được Cô Rơm gìn giữ, giùm cho tất cả chúng ta?
Thư Bạn

“Chúng ông lấy sạch rồi, chúng mày còn cái gì để mà bàn giao?"
Bùi Tín phán.
[Có thể vì vậy, mà sau này ông bỏ đi, và có lần, tỏ ra sám hối, hình như vậy... Gấu viết với sự dè dặt!]

Còn một cái mà Miền Bắc không làm sao lấy được, và giả như có cho thì cũng chê không thèm [bởi vì rõ ràng là cách đối xử kẻ thắng đối với kẻ bại, sau đó], đó là tình người.
Là tính người.

"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em?
Bụi
Câu nói của cô học trò ngày nào, đến bây giờ Gấu mới thấm thía.
*

Không, chẳng bao giờ anh muốn coi anh, em và tất cả chúng ta là những nạn nhân. Đó là niềm tự kiêu cuối cùng chúng ta còn giữ được để sống sót.
"Không phải như vậy đâu. Cái chế độ đó chẳng làm gì nổi em. Có khi em còn phải cám ơn nó, nhờ nó mà em gặp anh H. Ảnh trước là cảnh sát đặc biệt, sau 75 đi cải tạo, vợ bỏ. Rồi chúng em gặp nhau".

Ui chao, câu văn trên, “Không, chẳng bao giờ anh muốn coi anh, em và tất cả chúng ta là những nạn nhân. Đó là niềm tự kiêu cuối cùng chúng ta còn giữ được để sống sót”, Gấu viết khi ở trại tị nạn Thái Lan, sau này, đọc Brodsky, ông cũng phán như vậy.
Thế mới thú, cực thú!

.. a refusal to exhibit his wounds was always one of his more admirable traits.
Coetzee viết về Brodsky

*

Hoàng Cầm [Hình Diễn Đàn]

Cuộc sống của các thi hữu các ông thời ấy thế nào?
- Cuộc sống của chúng tôi cũng vất vả, nhưng không đến mức bi đát. Nhà nước đối xử với anh em chúng tôi không có gì ghê gớm lắm như người ta đồn thổi.
Nguồn

Tuyệt!

Gừng càng già càng cay!
Cũng với sự khiêm tốn như vậy, Brodsky phán: Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân.
Bằng mọi giá, cố mà tránh, đừng ban cho mình cái dấu đóng vào trán, tớ là nạn nhân, tớ là nhà văn nhà thơ ly khai!
["At all costs try to avoid granting yourself the status of the victim", he [Brodsky] advises an audience of students, On Grief, Về Khổ Đau,  p. 144. Coetzee viết về Brodsky trong Stranger Shores]
*

Khi chuyện cô gái treo cổ tự tử xẩy ra, anh và em đã rời Sikiew. Chắc em còn nhớ Dũng, học trò Pháp văn, bạn cờ, và cũng là người giúp đỡ anh rất nhiều trong những ngày ở Trại Cấm. Dũng đã ghi lại, gửi lên trại Transit cho anh, nhờ sửa rồi gửi cho các báo hải ngoại, hy vọng có chút tài liệu khi tái thanh lọc. Dũng rất mê văn chương, rất phục Garcia Marquez. Chi tiết con cú đậu trên nóc dinh Độc Lập là của Dũng. Cũng vậy, những đoạn tả cảnh địa ngục trong lúc chờ đón linh hồn nạn nhân. Anh chỉ sửa lời văn, thêm thắt một vài chi tiết. Chính chi tiết lý thú đặc chất Garcia Marquez về con cú đã gợi hứng cho anh, và anh đã viết thành một truyện ngắn, tác giả Nguyễn Anh Dũng, gởi đăng ở một tờ báo ở Úc, và một ở Canada. Hồi ở trại Transit, hình như em đã có đọc.
 Lâu lắm, anh không còn nhận được tin của Dũng. Anh viết lại câu chuyện trên, thêm phần của anh và của em, như một kỷ niệm những ngày ở Trại. Anh mong một ngày nào em sẽ đọc, Dũng sẽ đọc, và biết rằng, chính anh ta, và bây giờ có em, là tác giả truyện ngắn này.
Nguyễn Quốc Trụ

Bụi như thế, là được viết từ trại tị nạn, nhưng hoàn tất tại Canada, những ngày mới tới, tái ngộ cô bạn, cùng lúc, nhớ cô học trò và cái nóng ở Trại, như một cú tương phản với cái lạnh khủng khiếp và trận bão tuyết 'welcome' vợ chồng Gấu, nhờ vậy, làm được một dúm thơ, có những câu để đời, "đi trong gió nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay", thí dụ. Bài thơ Hát ở đâu đâu, gửi qua Úc, cho anh bạn Nguyễn Phước, cùng tù Bangkok, cùng trải qua mấy năm trời ở Trại tị nạn, anh gửi thư, khen, "hào khí ngất trời", vẫn còn nhớ, vì lúc đó có cô bạn ghé thăm hai vợ chồng.... Gửi về Trại cho anh học trò, anh cho biết, bài thơ bị kiểm duyệt mãi mới cho nhận...


Biển

 Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.

Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả

Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này

Số phận còn thua hạt cát.

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời

Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
 

Sinh nhật
Tặng TCN

Chuyện muôn năm cũ thôi bỏ
Nói chuyện mới.

Chuyện Rừng vào Thu
Thiên Nga hôm nay đi học về muộn
Chắc lại ngẩn ngơ vì lớp lá buồn
(Hồn Đông Phương thất lạc...)

Phương Nghi lúc nào cũng vội vội, vàng vàng
Mùa Thu không đâu xa mà ở trong đôi mắt
Hồ Thu và đôi mắt của cô cùng một mầu. 

Nghe nói khi say bạn ưa giỡn cùng tụi nhỏ
Còn tôi mỗi lần ôm con vào lòng
Thấy ấm hết cả người.

Hôm nay sinh nhật bạn, ta cùng nhau say một trận
Bạn vui cùng Nam
Còn tôi sẽ cùng Huy đấu một trận cờ
Cho vơi nỗi nhớ
Mấy đứa nhỏ

 Giáng Sinh

Giáng sinh chưa nhấp môi đã thấy nhớ nhà
Dường như có một người bạn thân ở trong ta
Đi rất xa
Rất lâu
Chợt về đêm nay

Người bạn thân hay là quê hương cũ
Tiếng cười xưa rộn rã với đêm này
Nến rực rỡ soi hồn ta rất rõ
Chút ngậm ngùi bay theo hơi rượu cay.

Rượu rất cay mà lòng rất vui
Chúc tụng nhau bằng bài thơ mới
Ba mươi năm thơ vẫn đẹp như người.

Chiều ngu ngơ phố thị
Gửi T.L

 Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ trong giấc ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm thiết.

Trong câu thơ chắc có chút hạnh phúc
Cho nên tình yêu là vất vả đi tìm
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc anh tìm biển Đông.

Chiều ngu ngơ phố thị
Mơ gặp em giữa đám người xa lạ
Với nụ cười thật ngày xưa
Khi em từ giã. 

Kiếp trước tôi có nợ nần chi ông đâu
Mà sao kiếp này ông đòi kiếp khác?
Tôi đã nói ông đừng gặp tôi nhiều
Khi tôi đi rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi ông hãy quên tôi đi
Quên đi, quên đi....
 

Em ở đâu, ở đâu
Thèm một chút mồ hôi trên ngấn cổ
Em ở đâu, ở đâu
Thèm nụ hôn sầu
Lời biếng nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
 

Hát ở đâu đâu... 

Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)

Không phải tiếc cuộc đời đã sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.

Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi. 

Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết

Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng cuối
Hát ở đâu đâu... 

Cô bạn thân ơi, những ngày tháng đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về... 

Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối (2)

(1)... that lonely halfway house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền 

Mùa Đông

Con chó đen đùa với bãi tuyết
Người đàn ông đi hết mùa Đông
Cây khắc nét khô vào nền trời xám

Nghe nói mùa Thu ở đây đẹp lắm
Tụi mình chạy xe đuổi theo lá đổi mầu
Trên xa lộ
Trong thơ Nguyễn Du
Trong hạnh ngộ.

 Lạnh,

Hai vợ chồng ôm cặp
Đứng đợi xe
Ở đầu ngã tư
Cuối cuộc đời
Học giùm mấy đứa con còn kẹt lại

Tuổi năm mươi gấp sách lại đứng nghe

Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài-gòn buốt trên đầu ngón tay
 

Chúng ta chẳng bao giờ là của nhau

 Nhưng hãy chia nhau những khoảnh khắc-ngoài cuộc đời đó
Chút phù du giữa những lo toan
Khi em kẹt xe ở một ngã tư đường, chẳng hạn
Chợt để hồn mình chao nghiêng thay vì theo xe di động

Biết đâu em sẽ thèm mùi bùn
Bốc lên từ những hốc, hẻm, ngõ sâu
Từ dòng nước đen bên dưới cầu Thị Nghè
Khi cơn mưa đầu mùa chợt tới 

Anh ở đây, em ở đây
Vậy mà chúng ta cách xa nhau, thật cách xa nhau, quá đỗi
Còn nhận ra nhau
Nhờ chiếc lá mùa Thu
Nhân đôi niềm nhớ

Thu vàng
Rộn rã những giờ những phút giây ngày xưa

Em,
Vàng tươi mầu áo
Xanh rực mầu trời 

Đen thăm thẳm, mướt như tóc
Như chẳng bao giờ em phải lo toan

 (Sáng nay nhặt sợi tóc ngà
Nhìn con chợt thấy như là chút hương) (1)

Như ở đây, là bốn câu thơ
Hãy cho anh những gì mà em đã bỏ
Đã quên
Hoặc không thèm nhớ

(Dấy lên từ bụi vô thường
Ngày qua tháng lại, tà dương kiếp người) (1)

(1) Thơ cô bạn. Tác giả câu thơ thần sầu, phải là đàn bà mới làm nổi:
Hồn Đông  Phương thất lạc buồn Tây Phương !
*

Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi

Nhà xe Đài Phát Thanh sự thực chỉ là một quãng lề đường, kế bên cổng vô building số 5, là Đài Liên Lạc VTD thoại, nơi Gấu làm việc và số 11, Trung Ương Cơ Xuởng VTD, cũng là nơi Gấu làm việc hai năm, thời gian mới ra trường, trước khi chuyển lên Đài.
Đài thuộc quốc tế. Xưởng, quốc nội.
Cái vụ chuyển từ quốc nội qua quốc tế, cũng thú vị lắm.
Sẽ kể ra sau.
Quãng lề đường được chăng dây kẽm gai thành cái hàng rào làm bãi gửi [giữ cũng được] xe cho nhân viên Đài Phát Phát Thanh, số 3 Phan Đình Phùng.
Khi chiến sự đang xẩy ra, Gấu ở trên đỉnh cồn, tầng chót building, vậy mà thấy cảnh lính dù kéo xác biệt động VC vô bãi xe, chất thành đống, là nhờ những bức hình đang chuyển đi Tokyo trên máy vô tuyến viễn ảnh.
Khi súng đã êm, tình hình trở lại bình thường, buổi sáng, Gấu hạ san, qua đường, vô tiệm phở 44 làm một tô điểm tâm ăn mừng sống sót, dấu tích cuộc chiến là một chiếc dép râu nằm cô đơn trên mặt đường.
Một chiếc.
Nhà NDT cũng ở trong khu này, kế ngay chân Đài liên lạc, cũng thuộc một con xóm của dân Bưu Điện. Một bữa tình cờ cùng ăn sáng, anh ghé bàn Gấu, xưng tên, và đề nghị viết cho Văn.


talawas tái xuất giang hồ


Tình lơ

Có lần Gấu phán ẩu, không có cái sự ăn cướp Miền Nam thì không thể có những nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, và ngược lại, không nếm mùi Cái Ác Bắc Kít, Cô Tư không thể nào viết ra được Cánh Đồng Bất Tận!
Đúng là viết bố lếu bố láo, trúng tùm lum tà la!


Hồi ký Madame Nhu?