|
Chúc Mừng
Giáng Sinh 2009
Adam
Zagajewski
Giáng
Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!
Trường hợp Lê Công Định
Blogger Đông A
nhận định trong bài “Sao vụt tắt“: “Những ai từng nói rằng tôi không
nghĩ Lê
Công Định hoạt động lật đổ chính quyền, chỉ bày tỏ quan điểm cá nhân,
ngày mai
sẽ ra sao khi thần tượng cũng như niềm tin của họ nhanh chóng sụp đổ?
Tôi luôn
ngạc nhiên tại sao có người lại dễ dàng đặt niềm tin của mình vào một
cá nhân
khác, người mà chính mình còn chưa rõ, hơn là tin tưởng vào tri thức và
trí tuệ
của chính bản thân mình.”
Nguồn talawas
Vụ LCD, đọc những gì ông viết,
thì biết ông như thế nào, còn khi sa vào
tay
giặc dữ, coi youtube, làm sao biết chúng đang kề dao vào cổ vợ con ông?
Cái tên khốn viết những dòng trên, có thể là ‘một’ trong những kẻ cầm
dao đấy.
Silone, một trùm CS, sau bỏ Đảng, tố Đảng tơi bời hoa lá. Mới đây, có
tài liệu
mật được khui, [Gấu đọc trên TLS, không nhớ số mấy] cho biết, ông là
mật vụ,
giống như ‘cas’ Kundera. Độc giả của ông gửi thư cho tòa báo, phán,
ngay cả bây
giờ Silone sống lại, lên youtube nhận tội, tớ cũng đếch tin!
Gấu đã nói rồi. Có cái gì đó không ổn, không hiểu được, ở cái đám chợ
cá này.
*
Trong hồi ký của một
thằng hèn,
Tô Hải có kể về lần gặp hai ông, một VC áp giải tù, một tù VNCH, và ông
nhận ra,
anh VC áp giải tù, từ đầu đến đít, ngay cả mấy sợi lông chim cũng “made
in
China”, còn anh VNCH, y chang, nhưng ‘made in USA’, và ông tự hỏi, giả
như hai
thằng Tẫu và Mẽo bắt tay nhau, thì hai thằng Mít sẽ làm gì, và cũng
chính ông
trả lời, thì lại vác mã tấu, thương, giáo, cởi truồng, hay may lắm,
đóng
khố, đâm chém nhau!
Cái vụ
Mẽo, thì chúng ta đã
biết chúng 'sám hối' ra làm sao rồi. Nào nhận người vượt biển, chung
với nhân loại,
nào chương trình ODP, nào, nào...
Nhưng còn anh Tẫu?
Anh Tẫu đã từng đòi nợ, chứ
không phải, trả nợ, khi dậy cho VC một bài học. Và đòi nữa, đòi nữa,
chứng cớ là
vụ đảo, vụ núi.
Sợ nhất là, một bữa đẹp trời, anh Tẫu chìa mấy
cái giấy, đã bán, đã nhận tiền, đồng ký tên, đóng dấu, Bắc Kinh, Bắc Bộ
Phủ, thì kẹt quá cho toàn dân Mít!
Chán quá!
Thành thử lại càng sợ, những
LCD, sẽ trở thành những dê tế thần.
Tin Văn, có tí hẹp bụng, chỉ lo cho những người như LCD, những người mà
ngày nào Ngài Võ Văn Kiệt nhìn vào vầng trán của họ, nhìn thấy tương
lai đất nước, trong có tương lai Miền Nam. Tin Văn chưa từng nhắc đến
vụ
bauxite, chưa từng nhắc tới vụ đảo mà Ngài Phạm Văn Đồng đã bán chúng,
khi chúng
còn thuộc chính phủ VNCH, theo công pháp quốc tế, khi nó còn được công
nhận.
Những
chuyện đó, là để sau này, lịch sử luận rõ công tội, bởi vì cho tới lúc
này, chúng
ta không có đủ tầm nhìn, tầm xa, chứng cứ… để mà kết luận.
Riêng vụ Chợ Cá, thì
là chuyện ‘cá nhân’, không liên quan đến "nghĩa cả". Gấu này đã từng
góp công sức
ngay từ những ngày đầu, sau thất vọng, [không phải một lửa ninh hồn của
mình!], bèn bực tức, nói bậy nói bạ, "chuyện
riêng' là vậy. (1)
Còn chuyện về trong nước, viết
trường ca, thì đó là tâm nguyện của mọi người Việt lưu vong, đâu riêng
gì
Gấu ?
Về rồi,
chứng kiến tận mắt rồi, không viết được, không về được nữa, không lẽ
cũng vẫn bị
coi là… VC?
Sao khó thế! [Chôm chữ của đại nhạc sĩ PD]
*
(1)
VHNT
Số 541
15 December 2001
Chào mừng một
diễn đàn bạn: Talawas-Forum.
Xin trân trọng giới thiệu độc giả VHNT một diễn đàn mới xuất hiện trên
internet, do Đặng Hoàng Giang, Lê Trọng Phương, Phạm Thị Hoài, Patrick
Raszelenberg, và Trương Hồng Quang chủ trương, địa chỉ:
http://members.tripod.de/talawas
Nguyễn Quốc Trụ, một thân hữu và cũng là cộng
tác viên thường trực của VHNT đã hân hoan đóng góp cho chủ đề dịch
thuật trên diễn đàn bạn, bằng bài viết dưới đây.
2.
Dịch là cướp.
Theo tôi, dịch là cướp. Nếu không cướp được thì ăn cắp, như trường hợp
một ông trạng đi xứ nhét hột ngô Tầu vào chỗ kín, khi qua ải Nam Quan,
đem về Việt Nam làm giống.
Vào cái thời chủ nghĩa thực dân đang cực
thịnh, chuyện học tiếng Tây tiếng U chỉ là để "tồn tại", theo nghĩa của
câu "bây giờ ông đổi lông ra sắt, cách kiếm ăn đời có nhọn không?" Nhìn
rộng ra, cả một nền văn chương dịch thuật, hoặc "bảnh" hơn, viết văn
bằng tiếng Tây tiếng U, trước đây, đều qui vào chuyện "cách kiếm ăn đời
có nhọn không". Thời Tây thuộc còn khá, vì còn có những bậc tiền bối
dám mầy mò tới cõi văn Tây. Thời Mỹ thuộc thì thật quá tệ. Nhưng đây là
do quan thầy chứ không phải do đầy tớ: Người Mẽo chỉ muốn có những
thằng đầy tớ biết nghe răm rắp lời của chủ: tao là thằng chi tiền! Tây
thì còn muốn "làm bạn" với một tên cô lô nhần nào sáng sủa một chút.
Ngay cả những bậc tiền bối viết văn bằng
tiếng Tây đúng mẹo văn phạm hơn cả Phú Lãng Sa, dưới mắt một độc giả
mẫu quốc, những tác phẩm như Chuyện cổ tích của những miền đất trong
sáng" ["Les légendes de terres sereines" (?), của nhà văn Phạm Duy
Khiêm (1)] cũng chỉ được coi như là một thứ hương xa cỏ lạ.
Hiện hữu có trước yếu tính. Tồn tại trước đã,
kỳ dư là văn chương (tout le reste est littérature), như người Tây nói.
Thành thử công đầu lại vẫn ở những bậc tiền bối như Trương Vĩnh Ký, hay
những thầy thông, vào cái thời chữ Nho mới là chữ của nước. Vả chăng,
quyền uy của chủ nghĩa thực dân lúc đó ghê gớm quá, dễ gì mà làm một
thằng ăn cướp!
Phải đợi đến những nhà văn di dân thời kỳ hậu
thuộc địa, người ta mới hiểu được, chuyện viết văn bằng tiếng nước
ngoài, không phải là mất gốc, mà là ngược lại: nói rõ hơn, muốn không
mất gốc, là phải viết văn bằng tiếng nước ngoài! Theo nghĩa đó, Kazuo
Ishiguro, nhà văn gốc Nhật viết văn bằng tiếng Anh, tác giả Tàn Ngày
(The remains of the day), được coi là "một người Anh hơn cả người Anh",
un Anglais plus british que les autres, theo Sean James Rose, tác giả
một bài viết trên tờ báo Pháp, Đọc (Lire), số tháng Chín 2001.
Salman Rushdie, một trong những đứa con của
giờ Tý thì cho rằng, muốn giải phóng ra khỏi giấc mơ (muội) vong thân
trong ngôn ngữ là phải viết văn bằng tiếng Anh. Trong bài viết "Quê
hương tưởng tượng", ông khẳng định: Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn
tất tiến trình giải phóng của chúng ta.
Vả chăng, vẫn theo ông, những nhà văn Anh gốc
Aán khó mà từ bỏ tiếng Anh. Con cái của họ lại càng khó hơn nữa, vì đây
là ngôn ngữ thứ nhất của chúng. Phải chấp nhận, đối với tất cả và chống
với tất cả. Theo từ nguyên học, "dịch", traduire, là từ tiếng La tinh
"traducere", "mener au de-là", mang (đi) đằng đó. Bị đá văng ra khỏi
nơi chôn rau cắt rốn, chúng ta đều là những con người "bị dịch" (nous
sommes des hommes "traduits"). Cho dù ‘dịch là chết ở trong hồn một
tí’, ông vẫn khăng khăng với ý nghĩ, rằng có một chút chiến lợi phẩm,
mỗi khi đi ăn hàng!
Chuyện cũng chẳng mới mẻ gì. Cổ đại La tinh
đã coi dịch là cướp, giống như mấy trò chém giết (đàn ông), hãm hiếp
(đàn bà), cướp bóc vàng bạc của cải, đất đai.
Nói ngắn gọn, đây chính là sự thành lập đế
quốc.
Thành thử hủy diệt ngôn ngữ một đất nước đã
bị xâm lăng, là nhiệm vụ hàng đầu của kẻ thắng trận, là vậy.
Talawas: ta là gì? Ta là thằng dịch thuật. Và
dịch thuật với người Việt ở trong lẫn ở ngoài, là vấn đề sinh tử; nếu
cần, hãy vờ đi chuyện sáng tác trong một thời gian; đổ công, đổ của, đổ
sức vào việc dịch.
Nghĩa là cướp. Không cướp ngày thì cướp đêm.
Thành thử những "nhà dịch thuật" chính là những tên biệt kích văn hóa,
vậy.
|
(1) PHAM Duy Khiêm :
"Légendes
des terres sereines "
|
Editions Philippe
Picquier, 2003
Parsemées de proverbes et de poèmes,
ces histoires d’amour ou d’amitié, de fées et de génies, moqueuses
envers les
puissants, célébrant la ruse féminine, révèlent à la fois une culture –
celle de l’ancien Viêtnam – et une morale universelle qui a parfois,
ici, la saveur de la sagesse taoïste. Pham Duy Khiêm a écrit
directement en français, dans une langue fluide et propice au rêve, ces
contes célèbres du folklore annamite.
|
In Search of My Homeland: A
Memoir of a Chinese Labor Camp,”
Đi tìm quê tôi: Hồi ký của một
tù lao động cải tạo TQ
One Man’s Survival Strategy
in a Chinese Labor Camp: To Write
Cái mánh để sống sót của Một
Người: Viết.
The cruelty of this regimen
was designed to produce intense personal isolation and a kind of mental
nullity, “absolute zero,” as Mr. Gao calls it.
Cái độc, cái ác của trại tù là
tạo ra một sự cô lập cá nhân thật căng, và một kiểu "cùng cặn, cạn láng
về mặt
tinh thần”, ‘một con số không tuyệt đối’.
“Countless days came and went, and all the
days put together seemed the very same day.”
Ngày ngày vô nghĩa, không
tính đếm, tới tới, rồi đi đi, cộng chung tất cả lại thì có vẻ như vẫn
chỉ một ngày.
“Remember, it’s not just a
matter of staying alive; it’s a matter of finding a purpose in staying
alive.”
Hãy nhớ một điều là, không phải
chỉ là chuyện là làm sao vưỡn còn sống, mà là, tìm ra một cái nguyên
cớ, một cái
mục đích, để mà vưỡn còn sống!
Mr.
Gao’s strategy was to
write, producing tiny characters on whatever scraps of paper he could
find.
“While I wrote,” he says, “I was alive.” This was a dangerous,
potentially
fatal, undertaking, but he managed to hide his precious,
life-threatening
bundle of thoughts and impressions wherever he was sent. The result is
this
book. Its background explains why “In Search of My Homeland” is so
fragmentary,
repetitious and disjointed, and while it may seem mean-spirited to
complain,
careful editing and supplemental material would have produced a more
coherent
and rounded work.
To: TT
Đã nhận Madame Phi
Tks
Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm
Mới
NQT & Mrs. Thao Tran
Levi-Strauss
Tại sao nhiệt
đới lại buồn?
Tại sao Miền Nam
mê cải luơng, mê nhạc sến?
Tristes
tropiques:
la quête d'un écrivain
par Pascal Dibie
Tristes tropiques constitue
un genre littéraire à part et nous persuade que
l'ethnologie aurait tout à gagner si les mots qu'elle utilisait étaient
ceux de
la littérature ...
Có thể
nói, tất cả những tác
phẩm của Đỗ Long Vân đặc biệt là Truyện Kiều ABC, đều đã được viết ra,
dưới bùa
chú của cơ cấu luận, và nhất là, dưới những cái bóng râm của "Nỗi buồn
nhiệt đới",
của Lévis-Strauss.
Trong số báo Le Magazine Littéraire,
hors-série, về Lévi-Strauss, có một bài dành riêng cho.... Nỗi Buồn Gác
Trọ, Nỗi Buồn Sến,
hay sử dụng tên của chính một tác phẩm của Lévi-Strauss, Nỗi Nhớ Da Đỏ,
[chắc là
cùng dòng với Ca Khúc Da Vàng, của TCS,
chăng?]:
Nostalgies Indiennes
Vào năm
1994, theo lời yêu cầu
của ông con, Mathieu, Claude Lévi-Strauss chấp nhận cho in những bức
hình chụp ở
Bésil…
Cái tít thoạt đầu của tập hình ảnh là Saudales
do Brasil, là từ âm nhạc.
Trong tiếng Bồ đào nha, Saudales
nghĩa là hoài nhớ, ‘nostalgie’: để biết được
Brésil, Saudales, nhẹ, dịu,
tếu, légèreté, tendresse, ironie, và đây là tinh thần
của xứ đó…. Như Nỗi buồn nhược tiểu, Mít, da vàng, nhiệt đới… như Tristes
Tropiques, cái tít của tập hình ảnh Brésil là từ một nỗi buồn
sâu thẳm, tuy nhiên,
tắm đẫm trong nó, là một nguồn sinh lực hung hãn, une farouche énergie,
không
thể chối cãi được.
Đỗ Long Vân, chỉ viết tiểu luận,
và chỉ tiểu luận mà thôi, cho nên ông chuyển nguồn nghị lực hung hãn
của ông vào
trong đó, biến nó thành một dòng văn chương đầy chất thơ. Nói cách
khác, ông làm
thơ, bằng viết tiểu luận, như Lévi-Srauss, viết nhân chủng học, bằng
văn chương!
Ui
chao, lại nhớ bạn.
Không phải bạn quí.
Không phải bạn [bạc] giả.
Bạn.
*
Whiling away
the
time in the hamlet’s one general store, I remarked to the proprietor
that his
shelves seemed empty.
“Aqui so falta o que ñao tem,” he replied: “Here we lack only what we
don’t
have,”
a phrase that I had first run across in “Tristes Tropiques” just a few
days
earlier.
Ở đây chúng tớ thiếu cái mà chúng tớ đếch có!
Other Voyages in the Shadow
of Lévi-Strauss
LARRY ROHTER
Đi dưới bóng của me-xừ Lévi-Strauss
NY Times
Tại sao, buồn hiu, nhiệt đới?
Muốn
'biết' tại sao dương vật [Mít] buồn hiu, thì đọc bài
của Đỗ Minh Tuấn!
Muốn hiểu tại sao Nhiệt đới buồn hiu, nên đọc tường thuật cú đụng độ
giữa triết gia
Emmanuel Lévinas và nhà nhân chủng học Claude Lévi-Strauss, qua bài
viết của Salomon Malka, trên
tờ Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Lévi-Strauss, mà Gấu trích
dẫn mấy
câu nổi cộm ở trong đó:
"Chủ nghĩa vô thần hiện đại, thì không phải là sự từ chối, phủ nhận
Thượng
Đế, mà là sự dửng dưng tuyệt đối của Nhiệt Đới Buồn Hiu. Theo tôi, đây
là cuốn
sách vô thần nhất từ trước tới giờ được viết ra.”
Câu trên trong, Sự tự do khó khăn, Difficile liberté,
của
Lévinas, một bài viết tàn nhẫn, nhắm vào cuốn đẹp nhất của Lévi-Strauss!
Cùng thế hệ, cùng nguồn gốc,
triết gia và nhà nhân chủng học chẳng hề bao giờ gặp nhau, tuy cùng ở Paris, người xóm
Đông, người
xóm Đoài, thế mới quái!
Họ rất kính trọng lẫn nhau,
thế mới lại càng quái!
Nỗi buồn hiu của Lévi-Strauss,
sau những chuyến tham quan nhiệt đới, là phát giác thê lương, của
‘chàng’: “Thế
giới bắt đầu đếch có con người, và chấm dứt, thì cũng rứa”
[“Le monde a commencé sans l’homme
et s’achèvera sans lui”]
*
Tôi tìm kiếm, trong con người
điều bất biến và cơ bản
“Je recherche dans l’homme ce
qui est constant et fondamental”
Lévi-Strauss trả lời Guy
Sorman, được in trong “Những nhà tư tưởng thực sự của thời đại chúng
ta.”
Lévi-Strauss đã từng được Unesco
‘order’ một cuộc diễn thuyết vào năm 1971, tại Paris, về đề tài “Sắc
tộc và Văn
hóa”. [Race et Culture. Gấu có cuốn này].
Bài diễn thuyết của ông gây xì
căng đan [Gấu nhớ là buổi diễn thuyết bị huỷ bỏ nửa chừng]. Ông cho
rằng chủ
nghĩa bài sắc tộc là một bài diễn văn vô ích [L’antiracisme est un
discours inutile].
Trong lần trả lời phỏng vấn Guy Sorman, ông có giải thích lý do tại sao.
*
Tristes tropiques
constitue un genre littéraire à part et nous persuade que l'ethnologie
aurait
tout à gagner si les mots qu'elle utilisait étaient ceux de la
littérature ...
Nhiệt đới buồn tạo
ra một thể loại văn chương riêng, và dụ khị chúng ta, rằng, ngành nhân
chủng học
sẽ được ăn cả, nếu những từ ngữ mà nó sử dụng, là của văn chương....
Ui chao, tuyệt. Áp
dụng câu này vào những tiểu luận của của Đỗ Long Vân, người ta mới nhận
ra một điều
là, mấy thằng viết phê bình không biết viết [bất cứ một thứ viết gì
hết!], tốt nhất là nên kiếm một nghề khác!
Bởi vì tiểu luận,
vốn đã là văn chương, biến nó thành thi ca
mới thật khó bằng trời!
Đây cũng là những dòng Steiner vinh danh Tristes Tropiques.
Tristes
tropiques: la quête d'un écrivain
Nỗi buồn nhiệt đới: cuộc tìm kiếm
của một nhà văn
Nhà văn địa chất
bị kẹt cứng ở giữa hai vách đá, những góc cạnh
cứ thế mỏng đi, những vạt đá cứ thế đổ xuống; thời gian và nơi chốn
đụng
nhau [se heurter] chồng lên nhau, hay xoắn nguợc vào nhau, giống như
những trầm
tích bị cầy xới tung lên do những cơn rung chuyển của môtt cái vỏ quá
già; khi thì là
một tay du lịch hiện đại, khi thì là một tay du lịch cổ xưa, thủ trong
túi một
Montaigne, một Jean de Léry; trong tư tuởng của ông, ngoài ông thầy
Rousseau ra,
những kỷ niệm còn mới tinh....
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
Có vẻ như mấy
đấng Yankee mũi tẹt chưa từng đọc những tác giả như Arendt, hay Milosz,
thí dụ,
nên cứ lải nhải hoài về… Faulkner, ấy chết xin lỗi xừ Gấu, và Tin Văn,
nên cứ như “kiến bò miệng chén”, mỗi lần đụng nhau, là lèm bèm, toàn
chuyện xó Mít, không làm sao “nghĩ”, dù
đã ra
được bên ngoài này!
Theo Gấu, Mít rất cần đọc Arendt, và Milosz. Đọc, ít ra là hai tay này,
thì mới
vỡ cái đầu ra được, và mới “nghĩ” được!
Tin
Văn, ngay từ lúc xuất
hiện, là đã giới thiệu cả một lô tác giả Mít cần đọc, nào Steiner, nào
Brodsky,
nào… tựu trung là xoáy vào hai mảng Mít rất cần, là văn chương “chuyền
tay,
dưới hầm” Samizdat
của Nga,
và của đám bỏ chạy CS tại những nước vùng Đông Âu, như Milosz, Manea,
Kundera...
Nhờ vậy mới "nghĩ được tí ti", và hiểu ra được hiện tượng Con Quỉ Bắc
Kít!
[Sắp đi rồi, cho phép Gấu "tự sướng" vài đường chứ!]
Sở dĩ, Kundera được trong nước dịch, là do ông viết bằng tiếng Pháp,
trong khi mảng tiếng Anh, khó du nhập vô Việt Nam.
Nước Nga sau này, cũng đã cho
đọc một số tác giả dưới hầm, nhờ vậy Mít cũng được ăn theo, nhưng thật
khó mà
được đọc Tầng Đầu, hay Quần đảo Gulag.
Cứu
rỗi hay điêu tàn: Sống
chung với kiểm duyệt?
Kỷ Niệm
Gấu có
lần kể là, cái đám lưu
vong, sống nhờ xứ người, hơi một tí là sủa, F. Dzu, chỉ khi nào say sỉn
quá,
thì mới có thể văng tục bằng tiếng Mít được!
Kể cũng mấy lần rồi, nhưng vẫn không làm sao giải thích được lý do, cho
đến mới
đây, đọc một bài viết của một nhà văn lưu vong, Louis Begley, On being
an
orphaned writer, Về cái chuyện là một nhà văn mồ côi, trong cuốn The
Genius of
Language, Thiên tài ngôn ngữ, thì mới ơ rơ kìa, eureka, một tiếng, à
thì là ra
như vậy!
Gấu sẽ lèm bèm tiếp về vụ việc này, nhưng tóm gọn, thì như thế này, một
thằng
Bắc Kít di cư như Gấu, sẽ chẳng bao giờ có lại được, cái sướng tê
người, khi chửi
bằng tiếng
Bắc Kít, "Địt Mẹ" [xin lỗi bạn đọc Tin Văn], một khi đã quen miệng
chửi,
Đù Má!
Đây còn là kinh nghiệm The Fall, của dân Ky Tô, bị đá ra khỏi vườn Địa
Đàng, quên luôn tiếng [chửi bậy của] Nhà Trời!
*
… no life is lived for the
sake of an obituary.
Brodsky.
Cũng Brodsky, đã từng phán, trong
bất cứ một bài ai điếu, đều có tí mừng mừng của thằng đang còn sống,
khi viết về thằng
‘bạn quí’ của mình, đã ngỏm rồi!
[Gấu kiếm hoài chưa ra nguyên
tác, cũng đã từng post trên Tin Văn]
Chán thế đấy!
Kể từ khi Gấu mê Cô Ba, ngay
từ những ngày còn Sài Gòn, rất ít khi gặp các đấng bạn quí, mà lỡ có
gặp, là đều nhìn
thấy bài ai điếu ở trong... ánh mắt, của kẻ 'đang còn sống', chỉ
chờ dịp
đọc ra, hay
viết lên báo, về thằng bạn quí của mình!
Bởi vậy, khi gặp lại ở hải
ngoại, ông bạn quí nào cũng buồn so, sao mày chưa chịu chết, để tụi tao
đọc ai điếu!
Có hai thằng, thật là mừng, khi thấy Gấu còn sống, là Du Tử Lê và Viên
Linh. Du Tử Táo phán, mày đúng là tái sinh!
VL thì khen Gấu Cái, nhờ H. mà nó được như vầy!
Dọn Tiếp!
Lúc còn
cộng tác với tờ Thư
Quán Bản Thảo, kẻ này có gợi ý cùng nhà văn Trần Hoài Thư về việc thực
hiện một
số kỷ niệm với bài vở của những cây bút đã từng cộng tác với tờ Văn,
hiện đang
sinh sống tại nước ngoài. Tiếc thay, sự việc này chưa được thực hiện
như lòng
mong muốn. Giờ đây, nhân đoạn viết này, với trí nhớ cùn nhụt (mà chắc
đã thập
phần tồi tệ), thử ghi lại danh tính của những người có bài vở đăng trên
Văn
trước kia, nay vẫn còn tiếp tục sáng tác ở hải ngoại. Xin chư quân vui
lòng bổ
sung (nếu thiếu tên) và đính chính (nếu ghi nhầm). Mong thay!
Danh sách những cây bút một
thời của tờVăn, nay đã vào hàng ôn mệ mà vẫn còn múa . . . bút khắp nơi
gồm:
- Ở
Pháp có Trần Thiện Đạo,
Trần Công Sung, Kiệt Tấn, Đặng Tiến . . .
- Ở Úc có Phạm Công Thiện,
Phan Việt Thủy . . .
- Ở Canada
có Lâm
Hảo Dũng, Đỗ Khánh Hoan, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn . . .
- Ở Hoa
Kỳ đông đảo nhất, có
Nhã Ca, Lâm Chương, Đinh Cường, Hoài Ziang Duy, Hồ Minh Dũng, Nguyễn
Bạch Dương
(đã khuất), Trùng Dương, Nghiêu Đề (đã khuất), Lê Tất Điều, Nguyễn Tịnh
Đông
(Trần Bang Thạch), Nguyễn Mộng Giác, Thái Tú Hạp, Nguyễn Xuân Hoàng,
Hoàng Ngọc
Biên, Túy Hồng, Khê Kinh Kha, Nguyễn Chí Kham, Du Tử Lê, Trần Vấn Lệ,
Hoàng
Ngọc Liên, Viên Linh, Bình Nguyên Lộc (đã khuất), Hoàng Lộc, Đào Mộng
Nam,
Thanh Nam (đã khuất), Nguyễn Văn Ngọc, Hoàng Ngọc Nguyên, Trần Doãn
Nho, Nguyễn
Minh Nữu, Võ Phiến, Hải Phương, Nguyễn Quỳnh, Nguyên Sa (đã khuất), Hà
Thúc
Sinh, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo (đã khuất), Lê Văn Thiện (Văn Lệ Thiên),
Trần Hoài
Thư, Trần Mộng Tú (?), Hoàng Anh Tuấn (đã khuất), Thanh Tâm Tuyền (đã
khuất),
Nguyễn Tuyển, Trần Dạ Từ, Huỳnh Hữu Ủy, Ngô Thế Vinh, Kinh Dương Vương,
Nguyễn
Vũ Đan Vy (Đặng Tường Vy – đã khuất), Nguyễn Lương Vỵ, Phạm Ngũ Yên...
Xin
nhắc lại: ai sót tên,
thừa tên, vui lòng ới cho một tiếng.
Hoàng Xuân Sơn Blog NXH & Bạn hữu VOA
Note:
Thiếu thằng Gấu, người đã từng
làm MC ra mắt sách của Hoàng Xuân Sơn!
"Sinh hoạt
văn học nghệ thuật tại Sài Gòn trước 1975".
Luân Hoán, Tiểu sử NQT
Tái định cư nước người, sinh
hoạt văn học nghệ thuật [SHVHNT] đầu tiên
của Gấu, là với nhóm Montreal
của Luân Hoán, qua
tờ Nắng Mới.
Gấu biết tờ này từ hồi ở trại cấm Thái Lan. Gặp nhóm này, qua NTV. Rồi
qua
Nguyễn Đông Ngạc, khi lên Montreal
chơi. Trong nhóm này, tính tình dễ chịu nhất, theo Gấu, là Lưu Nguyễn.
Rồi viết lách, rồi nhậu nhẹt. Luân Hoán thì Gấu đã từng đọc thơ. Gặp
mới biết,
ông là bạn - bạn lính và bạn thơ - của Cao Thoại Châu, tức Cao Đình
Vưu, bạn
thân từ hồi còn học trung học của Gấu.
Thời gian đó, Gấu bỏ luôn mớ
con chữ, học bảo hiểm, lấy cái "lai xần"
[giấy phép hành nghề], xong xuôi, lo kiếm bạc cắc, đỡ đần mấy đứa nhỏ
còn kẹt lại.
Nhưng để hành nghề bảo hiểm, thì phải cần quen biết, và thế là lại phải
dở trò
sinh hoạt văn học nghệ thuật, để kiếm khách, không phải cho văn chương,
mà là
cho bảo hiểm nhân thọ.
Trong những cơ hội kiếm khách như thế, có lần Gấu làm MC, giới thiệu
sách, một
cuốn của một nhà văn trong nhóm Montreal.
Để bữa nào, kiếm ra được, Gấu sẽ post lên Tin Văn hầu quí vị độc giả,
cảnh Gấu diễn
trò SHVHNT.
Bữa diễn trò, có thể nói, thành
công. Nhóm M. "order" một cái bàn
riêng, ở kế ngay bên diễn đàn VHNT, theo cái kiểu "tables séparées",
bàn
riêng, thêm vách ngăn, cho chắc ăn. Trong lúc, bên ngoài, Gấu diễn trò
thổi ống
đu đủ, bên trong, nhóm "văn hữu", vừa thưởng thức tiếng kèn, vừa nhâm
nhi ly rượu mạnh.
Gấu diễn trò xong, cả đám kéo
nhau tới một tiệm khác. Lúc đó, Gấu cũng có phần
của Gấu. Thật chu đáo.
Sau đó, vẫn liên lạc, thường xuyên, thì với nhà thơ Luân Hoán, qua
email.
Một lần, ông email trả lời một
chuyện gì đó, dưới ký tên bằng những dòng như
thế này:
Anh Chị Luân Hoán.
Thế là từ đó, Gấu không dám
liên lạc với nhà thơ nữa.
Theo Gấu, đây chỉ là một trong những chi tiết, cẩu thả, của nhà thơ.
Nhà thơ
tuổi cũng cao, thành danh sớm, em út nhiều, bà con đông, và thường là
hạng
dưới, danh xưng "anh chị" quá quen dùng, thành thử Gấu này bị coi là
đàn em, là do sơ ý chứ không phải cố tình.
Thì đã nói cẩu thả mà!
Anh Chị Luân Hoán!
Nhờ anh chị tí! NQT
Gấu
nhà văn
Chí
Phèo vs Julien Sorel [Đỏ và Đen]
vs Tâm [Bếp Lửa]
Trong
số báo văn học Pháp, Le
Magazine Littéraire, Avril 2005, dành cho Stendhal, Yves Ansel, trong
bài
Người ‘đẻ ra’ tiểu thuyết hiện thực [Le
fondateur du roman réaliste] viết: Với
Đỏ và Đen, Stendhal thực sự phát minh ra tiểu thuyết hiện thực:
một câu chuyện
mà không một hành động, không một tư tưởng nào mà không bị quyết
định
bởi trò
chơi xã hội: Julien Sorel phải, bằng mọi
cách, kiếm
được miếng ăn, ‘gagner son pain’.
Nhìn như thế, thì Nam Cao, với Chí
Phèo quả là người thực sự phát minh ra tiểu thuyết hiện
thực của
Mít chúng ta.
Đọc Đỏ và Đen, đọc song song
với nghiên cứu Mác xít về ‘fétichisme
de la marchandise’, về "vật hóa", la réification, rồi đọc Lukacs, Lý
thuyết tiểu thuyết, thì chúng ta mới nhận ra vị trí của Chí
Phèo của Nam Cao.
Những dòng sau đây, về Sorel, mà chẳng đúng với
Chí Phèo sao:
... nhân vật đầu tiên ' nghiêm túc', được trả luơng, nhân vật
thứ nhất nhìn ra, giá trị của mình tùy thuộc 'rất căng', vào giá cả
trên thị trường;
không một
tư tưởng, không một chiến thuật, không một hành động nào mà thoát ra
khỏi nhu cần
tối cần thiết, là kiếm được miếng ăn [với Chí Phèo, bắt buộc phải có
cút rượu kèm
theo!]
…
le premier héros «
sérieux»
salarié, le premier héros qui voit sa valeur dépendre étroitement de
son prix
sur le marché du travail est Julien Sorel, dont pas une des pensées,
pas une
des stratégies, pas une des actions n'est totalement étrangère à la
nécessité
de « gagner son pain ». Tels sont quelques-uns des « petits faits
vrais» qui
ont fait du Rouge une « chronique» qui a sa place dans l'histoire du
roman
réaliste européen.
Cái từ ‘chronique’,
trên, làm
nhớ tới định nghĩa của Lukacs, về tiểu thuyết, áp dụng thật đúng y
chang vào Chí
Phèo, và sau này, vào nhân vật chính trong Bếp Lửa:
Để có tiểu thuyết, là phải có
sự đối nghịch căn bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã
hội.
Il faut, pour qu’il y ait
roman, une opposition radicale entre l’homme et le monde, entre
l’individu et
la société.
Tiểu thuyết là một hình thức
tiểu sử tối hảo, une forme biographique par excellence, và
cùng lúc, một ký sự xã hội, trong chiều hướng
mà cuộc tìm kiếm xẩy ra ở trong lòng xã hội đó [une chronique sociale
dans la
mesure où cette recherche se déroule à l’intérieur d’une société donnée]
Cái xã hội
Miền Bắc của Chí Phèo, mà anh ta, khi
muốn tìm lại mình, thì đành chết, và của nhân vật, Tâm, trong Bếp
Lửa, đành bỏ
đi, là y chang!
Ngoài
thơ ra, tôi trải qua
hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp Lửa,
1954,
miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn
cưỡng,
chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách
mạng. Trong
một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi
nhân
dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong
Bếp Lửa
đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử,"
mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung
Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận
giữa
vô thường
và chút hơi ấm của nỗi chết Cuốn sách
chẳng bao giờ được in ra.
TTT
Tiểu thuyết,
một thế giới về chiều [le monde
dégradé], nhân vật chính mang trong người căn bệnh siêu hình [ le mal
ontologique] - nhân vật chính trong
Bếp Lửa cũng mang một con sâu ở
giữa tim,
giữa hồn, giữa não - một căn bệnh vô phương cứu chữa: và chỉ thoát ra
bằng sự
thất bại. Thất bại ở đây có nghĩa, như là sự chia lìa không sao hàn
gắn, giữa
nhân vật chính và thế giới bên ngoài, sự thụ động ù lì của gã, chỉ vì ý
thức
của gã quá rộng, trong khi thế giới quá bảo thủ, uớc lệ, không sao thỏa
mãn
nổi. Đấy là nội dung của tiểu thuyết. Về hình thức: Tiểu thuyết bắt
buộc vừa là
một truyện ký [biographie] - tiểu sử, cuộc sống của anh chàng tên là
Tâm ở
trong Bếp Lửa, vừa là một ký
sự xã hội [chronique sociale] - xã hội
Miền Bắc, thành
phố Hà Nội đúng hơn, trong cơn xao động của lịch sử.
Và sau cùng,
biểu lộ tình cảm, "Anh yêu quê hương vô cùng, yêu em vô
cùng", kết thúc Bếp Lửa,
là một điểm vượt [le dépassement], khi
đó, tác
giả - tiểu thuyết gia - rời khỏi thế giới về chiều, thế giới mộng
ảo của
tiểu thuyết, và trở lại đời sống thực [Lưu Nguyễn về trần]. Đó là lúc ý
thức
tiểu thuyết gia, vượt ý thức nhân vật, để tìm lại cái chính, cái thực
[l'authenticité], Lucien Goldmann, diễn ý Lukacs, gọi đó là sự chuyển
hoá [la conversion],
từ thế giới tiểu thuyết qua thế giới thực, là đời sống mất đi tìm thấy
lại.
Sự thực của nhà
văn không phải sự thực của nhà phê bình. Sự thực đời sống [sự thực
của những
người đã chết truyền lưu cho kẻ sống sót. Bếp Lửa, Tựa, lần
xuất bản
thứ hai, 1965] lại càng không phải sự thực văn chương. Valéry gọi, đây
là ảo
tưởng hiện thực, lòng tin ngây thơ, văn chương có thể ghi lại thực
tại. Nhà
văn là một kẻ "sống sót", thời gian dùng vào việc viết là một thời
gian xác định, nhưng tác phẩm chỉ sống sót khi vẫn còn là một tác phẩm
văn
chương - vẫn còn tham dự vào dòng thời gian vô định của trí nhớ, của
hồi tưởng
và của sự đọc.
Bếp Lửa trong văn chương. Văn, số đặc biệt về TTT
[1973].
Những dòng trên, bây giờ nhìn
lại, nhận ra, chúng được viết dưới ánh
sáng của
tiểu thuyết mới, của Barthes, chứng tỏ Gấu hoàn toàn hồi phục, sau cú
đánh của
Lukacs, của dòng văn chương dấn thân, của dòng văn chương ý thức
hệ.
Bây giờ thì tha hồ mà viết, chẳng cần tại sao viết, viết cho ai, viết
để làm
gì.
Chỉ là, viết thế nào?
Cái
sự gen đột biến, biến thành ruồi, tay tổ sư Mác Xít Lukasc đã tiên
đoán ra được, và gọi là "vật hóa", la réification, nhưng ông đổ tội cho
tư bản chủ nghĩa, có khuynh hướng biến con người thành đồ vật, và chỉ
có ý thức giai cấp vô sản mới đảm bảo cho con người thoát khỏi sự trù
ẻo này.
Bài
giới thiệu Lukacs, cũng thường thôi, phần lớn đều là những chuyện
được nhiều người biết, tuy nhiên, sự kiện, nhà xã hội học Joseph Gabel,
trong tác phẩm Ngụy Ý Thức, tìm ra mắc mớ giữa
lý thuyết “ruồi
hóa” của Lukacs, và chứng bịnh thần kinh phân liệt, thì quả là quá thú
vị!
*
|
|