|
Chúc Mừng Năm Mới
Tết
Canh Dần
100 bức hình thay đổi thế giới
Note: Có hai, của Sawada,
do Gấu gửi đi!
The French in Indochina
When
the battle's lost and won
Tây mũi lõ ở Đông Dương
Khi trận đánh thua và thắng
*
Valley of Death: The
Tragedy at Dien Bien Phu That Led America into the Vietnam War.
Thung Lũng Tử Thần: Bi kịch Điện Biên Phủ khiến Mẽo vô nước Mít
By Ted Morgan. Random House; 752 pages; $35. Presidio Press
Cú này, thật, và cú đầu độc tù Phú Lợi,
giả, đưa đến cuộc chiến thần thánh chống
Mẽo cứu nước
DBP
là
một tiền đồn cô quạnh ở
vùng núi Việt Nam,
một xứ sở thuộc địa của Tây, nơi lính Tẩy đụng độ với Việt Minh, không
phải thứ du kích đói rách mà
là một đội quân được trang bị bằng những vũ khí mới tinh, mới ra lò,
bởi TQ, ngay
vào đầu thập niên 1950. Vào mùa Xuân 1954, khi đám đầu sỏ Đông Tây –
Dulles,
Eden, Molotov, Chu Ân Lai - gặp nhau ở Geneva, để quyết định tương lai
Đông
Dương thuộc Pháp, thì 10 ngàn lính Tẩy dồn thành một cục tại DBP, để
nhử Việt
Minh mò tới quần thảo.
Hầu hết
đám lính không phải
Tẩy chính cống, mà là Algerians, Ma rốc, Phi châu, Việt… gian, cùng với
một dúm
tinh nhuệ Tây nhẩy dù. Còn có bốn tiểu đoàn Lê Dương, sĩ quan Tây,
nhưng binh lính
hầu hết thì là Đức, rất nhiều trong số đó là những kẻ sống sót tại mặt
trận
Nga. Còn có một đàn bướm di động nữa, vừa là bướm vừa là y tá!
*
Bức điện tín của Phạm Xuân Ẩn,
chấm dứt cuộc chiến, hối thúc Bắc Việt đừng lo lắng chi hết về cái
chuyện Yankee
mũi lõ trở lại Việt Nam, nhờ vậy mà BV bỏ ngỏ Miền Bắc thúc quân ào ào,
thần tốc
dượt tông tông Thiệu bỏ chạy có cờ, không kịp mang theo ấn tín, cây gậy
đả cẩu,
và như thế, tất nhiên đâu có thì giờ mang theo 17 tấn vàng, vậy mà ông
mang tiếng
cho tới khi me-xừ Oánh lên tiếng, không phải ổng, mà là VC chia nhau!
PXA không thể ngờ, không phải
Yankee mũi lõ, mà là Tầu Phù đã chiếm Bắc Bộ Phủ từ hồi nảo hồi nào, từ
đầu
thập niên
1950, rồi!
Đây cũng là di chúc của Bác:
Ta thà ngửi kít Tây trăm năm, còn hơn là ngửi kít Tẫu ngàn năm! (1)
Cũng PXA,
trấn
an chủ Mẽo
Time, làm gì có chuyện đó, trong khi tờ Le Monde bị Xịa lừa, đi trang
nhất, Mặt
Trận Giải Phóng họp báo ở Tây Ninh, tuyên bố ly khai với Miền Bắc: Sau
1975, quả
có chuyện này, mấy anh VC miệt vườn lập câu lạc bộ, đếch thèm chơi với
Yankee mũi
tẹt nữa!
(1)
Tháng Ba, 1946, năm năm trước
khi Greene tới Việt Nam,
Ho [HCM] ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một
khoảng
trống. Viễn ảnh một Việt Nam
độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi
đám bộ hạ
phò Tầu:
Mấy bồ có hiểu nghĩa là gì,
chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù sao cũng
mũi lõ,
họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á
Châu
rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman Sherry: Tiểu sử
Greene, chương 24: Bonjour Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ
Giác Đài,
The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979,
trang
49-50]
*
Tướng Giáp, thủ lãnh Việt Minh, được so sánh với Nã Phá Luân, cũng pháo
binh như ông. Vào ngày 13 tháng Ba, ông mở ra cuộc “tấn công
của ông": 60 quả/một phút, vào lòng chảo Điện Biên. Đám bộ đội ốm đói
giấm giúi kéo hàng trăm khẩu
pháo, băng rừng băng suối, giấu thật sâu, ở những vị trí sẵn sàng nhả
đạn. Cú tấn
công của Việt Minh khiến
đám lính Tẩy sững sờ, hoàn toàn không thể tưởng tượng ra được.
Chỉ trong hai tháng, DBP bị cắt ra khỏi hậu cứ. Những ngọn đồi được
phong thánh với những cái
tên mỹ miều như Anne Marie, Claudine, Eliane, lần lượt bị bộ đội Cụ Hồ
quất sụm
từng em, từng em. Máy bay tiếp viện đếch dám xuống nữa, chỉ có thể thả
dù đồ tiếp
tế. Chẳng mấy chốc, thông hào, nhà thương bầy ra những điều ghê rợn.
Đám Lê Dương
và lính dù chiến đấu như mãnh hổ. Thây bộ đội Cụ Hồ nằm la liệt trên
mặt đất hoặc
phơi trên hàng kẽm gai.
Ngày
5 Tháng
Năm, Giáp ra lệnh mò vô hang hổ để làm thịt hổ. Trong ba ngày cuộc chém
giết dã
man như chưa từng dã man, đối với đám lính tráng đã từng trải qua địa
ngục
Stalingrad, những hào hầm, những ổ chiến đấu cuối cùng bị tràn ngập.
Hàng ngàn
người đã bị giết trong những ngày cuối cùng, hàng ngàn người khác bị
bắt làm tù
binh. Bốn trăm binh sĩ bị bắt buộc diễn hành cuộc “diễn hành của tử
thần”, tới
trại giam cách đó 400 cây số. Sau này, họ so sánh với những chuyến đi
tử thần
của trại tù Nazi như Dachau, hay Buchenwald. Những người khác hỏi, họ còn có thể
làm được
gì hơn, thứ quân đội của thế giới thứ ba, với những người lính mỗi ngày
nhận
một dúm gạo, với bao nhiêu miệng ăn nhiều thêm lên như thế.
DBP trở thành một biểu tượng với rất nhiều ý nghĩa. Nó cho thấy sự tận
cùng của
chế độ thực dân của Pháp ở châu Á. Hơn cả ý nghĩa của sự chiến thắng
của quân
đội Nhật Bản ở Đệ Nhị Thế Chiến, chiến thắng DBP thông báo sự chấm dứt
của
‘da trắng là số 1’ lên lục địa, và sự bắt đầu vùng lên của Đông phương.
Nhưng, chỉ
đến bây giờ, thì dân Mít mới biết ra được cái giá thực sự mà họ phải
trả cho
chiến thắng DBP.
Với nước Pháp đó là
cái tên của
sự nhục nhã, một cái đuôi bi thảm cho một câu chuyện dài vinh quang của
ngành
quân sự Pháp. Với nước Mẽo, điềm báo đầu tiên của cơn hấp hối Việt Nam. Tay trùm nhà binh Mẽo, đô đốc Arthur Radford,
muốn sử dụng
vài trái bom nguyên tử để cứu chiến trường của Tây mũi lõ. Đâu đó,
có lúc, ngoại trưởng Dulles đã tính gật đầu. May quá, tổng thống Eisenhower đếch
chịu, ‘mấy thằng khùng điên, ba trợn”. Đám ngoại giao Mẽo muốn cả hai:
chấm dứt
chủ nghĩa thực dân thuộc địa, và ngăn chặn những con bài domino đừng
theo nhau đổ xuống, theo cùng những bước chân chiến thắng của mấy anh
bộ đội Cụ Hồ!
Happy
Valentine’s
TVA vs
VTN vs TH
Tribute
to Koestler
Trong
những bài điểm cuốn tiểu
sử K của Scammell, bài của Anne Applebaum thật tuyệt. Bà là tác giả
cuốn Gulag một lịch sử, trên TV đã từng giới
thiệu. Scammell còn là tác giả một cuốn tiểu sử Solz. Nghĩa là, cả hai
rất rành
về Liên Xô, về CS, và những tác giả như Koestler.
By Anne
Applebaum
Koestler: The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammel
Random House, 689 pp., $35.00
By
Thomas Baroth
In response to Yesterday's
Man? (February 11, 2010)
To the Editors:
Anne Applebaum writes in her
review ["Yesterday's Man," NYR, February 11] that she doubts that
there is a "Koestler Society in any school in Budapest." This may or may not be
true;
nevertheless, on October 21, 2009, a statue of Koestler was unveiled by
the
mayor of Budapest
in a public square in the city's 6th district. It does not appear that
he has
been entirely forgotten in the place of his birth.
Thomas Baroth
Media, Pennsylvania
*
Trong cuốn viết về VP, NHQ
cho biết, [tóm tắt ở đây] sau CM Tháng Tám, VP theo VC, và do làm việc
với một
lũ cán bộ cuồng tín càng ngày ông càng chán ngán, cuối cùng thành “phản
động”
hẳn.
Cũng giai đoạn này, trong Bếp
Lửa, của TTT, một nhân vật của ông phán:
"Tôi nghĩ rằng cho đến bây giờ
không thể đi khác hơn được. Nó còn đúng. Mình còn phải nhắm mắt nhận
lấy thân
phận của giai cấp mình.”
Nó - Đại muốn nói về chủ
nghĩa cộng sản. Tôi cầm lên cuốn sách của Đại để sang bên và trông vào
tấm
hình. Tôi nói:
“Tôi cũng nghĩ như thế nhưng
tôi lại muốn nghĩ thêm chút nữa. Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp
mình,
tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai
cấp vô
sản”
“Làm thế nào được khi đế quốc
còn đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng thứ ba.”
“Tôi cũng không tin.”
Nhưng
với Koestler, qua
Applebaum, chúng ta có một cái nhìn rộng hơn, về thời kỳ này.
Thay
đổi quan trọng nhất, tuy
nhiên, là về chính trị. Nói rõ ra, cuộc chiến đấu sinh tử, chết người,
giữa cộng
sản và chống cộng - giải pháp đạo đức trung tâm suốt cuộc đời của K –
qua rồi,
và không chỉ qua rồi, mà còn chẳng ai thèm để ý, quan tâm tới nữa [Vào
cái lúc
mới lớn, đây là điều Gấu quan tâm khi đọc VP, cùng lúc đọc K, đọc
Lukacs, thí dụ,
và băn khoăn tự hỏi.... Thành thử, khi viết về VP, là cũng còn viết về
thời của
ông, của những con người như ông, qua những nhân vật của ông, của TTT,
của…, của…
thổi VP không thôi, là không đủ!]. Nhờ cái sự mở ra kho hồ sơ cũ, một
số sử gia
Tây phương vẫn tiếp tục điều tra, truy tìm về lịch sử Xô Viết, và phong
trào CS
quốc tế… Điều
muốn nói ở đây là, toàn bộ nội dung chính trị
qua đó Koestler, Sartre và Camus làm việc [function], và qua đó, K viết
những tác
phẩm quan trọng nhất của ông, thì đều đã qua rồi. Những năm tiếp
theo sau những
đêm sa đọa trác táng của họ ở Paris, Sartre và Koestler sau cùng hết
còn nói
chuyện với nhau, một phần là do vấn đề cá nhân: Sartre cố dụ dỗ
Mamaine,
Koestler tán tỉnh Beauvoir, có những điều chẳng ra gì giữa họ, tuy
nhiên, lý do
quan trọng nhất, vẫn là chính trị. Sau khi Bóng đêm giữa ban ngày trở
thành
best-seller ở Pháp, Sartre dãn ra khỏi tác giả cuốn sách, ra
ý, Koetsler,
do tố cáo, chỉ trích những tội ác của chế độ Xô Viết, đã tự biến mình
thành một
thứ đồ chơi [mượn chữ của VP] của chủ nghĩa đế quốc, và ngăn chặn sự
tiến bộ của
tả phái.
Không phải Sartre không biết
những điều ghê rợn mà K mô tả - nhà tù, tra tấn, trại cuỡng bức lao
động cải tạo
ở Liên Xô – nhưng ông ta cho rằng, không thích hợp khi tố cáo những
chuyện
như thế, vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, về mặt chính trị. Làm như thế là
nối giáo
cho giặc, tức giai cấp trưởng giả.
Bây giờ
đọc lại, Gấu hiểu vì sao
Gấu cứ đinh ninh là chưa từng viết về VP.
Gấu “quên” VP, sau khi đọc những tác giả như Koestler, Lukacs, đối diện
với
cuộc chiến đám Gấu sắp sửa bước vô, có những thằng trong đám, đã lên
rừng, đã
nằm vùng, như HPNT, như Đào Hiếu….
Và cái bài viết về VP, đăng ở một phụ trang VHNT của tờ nhật báo Tiền
Tuyến,
thì làm sao nhớ?
Gấu không hề biết sau đó nó lại được ông bạn quí của Gấu lôi ra khỏi
sọt rác,
để mà đăng trên Văn!
Gấu không hề giữ, bất cứ một bài viết nào viết trước 1975, đừng nói một
bài
viết được viết ra để trám một lỗ hổng cho một trang nhật báo.
Khi Gấu xin lỗi NHQ, là xin lỗi về cái chuyện quên một bài viết vứt vô
thùng
rác, chứ đâu có xin lỗi cái chuyện ông ta muốn lôi đời tư của Gấu ra để
mà xỉ
vả?
Mô Phật
Đọc lại Võ
Phiến
Bạn có thể đọc Võ
Phiến, cùng
lúc đọc Koestler, để soi sáng một số điểm Võ Phiến chưa từng viết ra,
về mắc mớ
của thế hệ của ông với chủ nghĩa CS.
Dưới đây là một số trích đoạn,
trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường.
Trong
lúc rảnh rỗi, tôi viết
một cuốn tiểu thuyết Tới và Đi,
Arrival and Departure, và một số tiểu
luận, sau
được đưa vô The Yogi and the
Commissar [Du Già và Chính Uỷ]
Tới và Đi là tập thứ ba,
trong một bộ ba tập, trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc
xung đột
giữa đạo đức và thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động
cơ cá
nhân… có thể nói, đây cũng là một trong những đề tài chính của những
truyện ngắn
của Võ Phiến. NQT] – khi nào, hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh
phong nhã [vẫn
còn có thể] biện minh cho một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài
Xưa như Diễm,
nhưng nó ám ảnh tôi suốt những năm là một đảng viên CS [ui chao, tại
sao VP lại
chỉ theo, mà không vô Đảng VC, và tại sao ông bị chúng bỏ tù, chúng ta
chỉ biết
lơ tơ mơ về chuyện này, qua cuốn viết về VP của NHQ].
Tập đầu của bộ
ba, là Những tên giác đấu, Le
Gladiators, kể cuộc cách mạng [revolution] của những nô lệ
La mã, 73-71 BC, cầm đầu bởi Spartacus, xém một tí là thành công, và
cái lý do
chính của sự thất bại, là, Spartacus đã thiếu quyết định [lack of
determination] – ông từ chối áp dụng luật quay đầu, trở ngược, “law of
detours”;
luật này đòi hỏi, trên con đường đi tới Không Tưởng, người lãnh đạo
phải “không
thương hại nhân danh thương hại”, ‘pitiless for the sake of pity’. Nôm
na là, ông từ chối
xử tử những kẻ ly khai và những tên gây rối, không áp dụng luật khủng
bố - và, do từ chối áp dụng luật này khiến cho cuộc cách mạng
thất bại.
[Đúng y chang!
Một cuộc cách mạng
mà không đổ máu thì rất đáng ngờ: VC rất cần, để đưa lên You
Tube, những cá nhân như
LCD, hơn là chính những cá nhân như họ cần... vấp ngã, để nhân
dân có dịp cám ơn họ!]
Trong Bóng đêm giữa
ban ngày, tay cựu truởng lão VC Liên Xô Rubashov đi ngược lại,
nghĩa là, ông theo đúng luật
trở ngược đến tận cùng cay đắng - chỉ để khám phá ra rằng ‘lô gíc không
thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một
chuyến đi đầy
dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.’
Hai cuốn, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, và cả đều tận cùng bằng tuyệt
lộ.
*
Trường hợp Võ Phiến cũng thật
quái, y hệt như thể, trong ông, cái chân thiện uýnh lộn tàn bạo với cái
xấu xa,
thiên tài trùm thiên hạ VS cái tiểu tâm, cái đố kỵ cũng trùm thiên hạ.
Quái, là một người tài như ông,
tại sao mà cũng bị phỉnh nhờ bởi một lũ bất tài, thản nhiên để cho
chúng bợ đỡ?
Cả một lũ như thế, chưa tên nào
viết ra được một điều sáng giá, mới mẻ, cách tân… về ông.
Khó hiểu thật!
Chỉ có thể giải thích bằng thái
độ đố kỵ của ông với cái đám Bắc Kít Di Cư làm trời tại Sài Gòn, trong
khi ông ở
mãi tít vùng Tây Vực, tài năng như trời, mà chẳng ai để ý tới, nhắc
tới, chẳng
có lấy một mống đệ tử, trong khi TTT thì cả một đống đàn em xúm xít nay
Quán Chùa,
mai tòa soạn Tiền Tuyến!
Hà, hà!
*
Cái sự đố kỵ này không phải là
của riêng Võ Phiến, hay của riêng bất cứ một ai. Về già, thấm thía nỗi
đau Cái Độc
Bắc Kít, Gấu suy ra là, chính chữ S là nguồn cơn của tai họa. Nước Mít,
thoạt đầu
chỉ là nước Bắc Kít, rồi do ‘mở mang bờ cõi’, đánh cướp mãi xuống phía
Nam, tiêu
diệt hết các giống dân khác, cuối cùng chỉ còn lại một giống Mít, thế
là chúng
quay lại cấu xé, thù hận lẫn nhau.
Ngay huyền thoại mở nước Mít,
Con Rồng Cháu Tiên, là đã tiên tri ra cái chuyện ăn cướp, tiêu diệt các
giống dân
khác, rồi tiêu diệt lẫn nhau rồi!
Sở dĩ, VP, trong VHTQ, có những
dòng ‘chẳng ra gì’ với nhóm Sáng Tạo, duyên do sâu thẳm của nó, là cũng
ở chữ S
khốn nạn mà ra.
Gấu này, về già, nhìn lại, mới nhận ra là, ông bạn “cũng đáng
quí”, là me-xừ "Mít Butor", thù ghét Gấu, cũng là do chữ S.
Chán thế!
*
Cái tít Yesterday’s Man, của
Applebaum, về K, có thể áp dụng cho VP.
Tuy nhiên, chúng ta quá rành về cái ngày
hôm qua của K, còn với VP, chúng ta chỉ biết mù mờ, qua vài hàng tiểu
sử của
NHQ về VP.
Cũng trong cuốn VP của ông, NHQ
viết, “Đến nay, vẫn có nhiều người lầm, viết trên sách báo đâu đó là
VP bị cộng
sản kết án tử hình. Không đúng.”
V/v
phản động, cũng NHQ cho
biết, ‘trong vụ này, Đoàn Thế Khuyến [cháu họ VP], bị tử hình, Lam
Giang [thầy
cũ VP] khổ sai chung thân. Bản án dành cho VP tương đối nhẹ, 8 năm,
theo NHQ, có thể
vì công tố viên toà án nhân dân VC là Quách Tạo, em ruột Quách Tấn. VP
chỉ ở tù
có hai năm, một trước khi xử, và một sau khi xử. Tháng 9. 1954, theo
hiệp ước
Genève, ông được thả.
Tô
Hoài, trong cuốn Chiều
Chiều, hồi ký viết lúc chót đời, ông còn đưa ra nhận xét là
những người làm
công tác đưa người ra Bắc vào năm 1954 (chiến dịch Tập Kết), đã "bỏ
sót" hai người, Lam Giang (một trong những đảng viên thuộc hàng ngũ
lãnh
đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng), và Võ Phiến (một người theo Việt Minh
những ngày
đầu, sau bị ghép tội phản động, và đã về thành, nhân hiệp định Genève
1954).
Thật sự, không phải bỏ sót, mà
VP được một tay VC bự vờ cho chuồn về thành. Vụ này, Gấu nghe qua một
đấng VC
rất bảnh, nói riêng cho Gấu biết, lần Gấu về lại Đất Bắc.
Chúng
ta chỉ biết có vậy về vụ
án phản động.
Giá mà VP chơi một cuốn hồi ký,
thì hay biết mấy.
Nhưng bây giờ, muộn quá rồi, theo bài viết của TD trên VOA.
Tô Hoài cho biết, đang tập dượt
để viết hồi ký.
*
Ấn tượng nhất là lúc
ấy hầu hết công nhân làm
phu đồn điền cao su ở Dầu Tiếng đều là người quê tôi: Sơn Tây, Hà
Đông.
Cho nên, tôi gặp cả bạn bè, có cả người trong họ. À này, bởi thế cho
nên khi
chống Pháp, trung đoàn Miền Đông có nhiều người Bắc là vì vậy đấy.
Tô Hoài
*
Vào cái thời của Gấu, và trước
Gấu, bạn chỉ cần một truyện ngắn, một bài thơ, cùng xuất hiện với bạn,
là xong.
VP với những truyện ngắn đầu tay, như Người Tù, là như vậy. Ông ở tít
xứ Tây Vực,
mà Sài Gòn đâu có không biết đến ông đâu? Sau này, khi ông vô Sài Gòn,
viết đủ
thứ, nhưng theo Gấu, đều thường thôi, và do nhu cầu, do đòi hỏi của một
tờ báo,
mà viết. Đọc những bài ông viết về văn học thế giới, dưới cái tên Tràng
Thiên,
dân trong nghề đều biết tỏng, mấy thứ đó được lược dịch từ những tạp
chí văn học
nước ngoài. Đòi hỏi của tòa soạn, là như vậy, và cái đọc của VP, cũng
chỉ đến
thế.
Bây giờ, nhờ có net, thượng vàng hạ cám đều tha hồ xuất hiện trên chốn
giang hồ, thành thử trở thành
nhà văn nhà thơ quá dễ, và than ôi, quá khó! Làm sao bạn lọc ra được
trong đống
rác khổng lồ đó, một bài thơ, một truyện ngắn cho ra hồn? Có khi, bạn vớ được một con cá quí, tưởng khám phá
ra một thiên tài, hóa ra là đồ đi chôm!
Thường là vậy, vào thời net này!
Nên nhớ, có nhiều tác giả,
nhiều người viết, do sống lâu mà thành tên, chứ không phải do có tác
phẩm hách
xì xằng. Cả một diễn đàn Hậu Vệ, sau bao nhiêu năm tháng, chưa tạo nổi
một người
viết, có, chỉ một bài, làm người đọc không thể quên được. Da Mầu thì
cũng
thế. Talawas thì không thể nào coi là diễn đàn văn học được.
Đa số người viết có tên có tuổi
hiện nay, là đều xuất thân từ VHNT của PCL. Họ đều trở thành những tên
tuổi, nhưng
chẳng ai biết đến “một” tác phẩm của họ. Trong khi, nói đến VP là biết
ngay tác
giả của Người
Tù, của Thác Đổ Sau Nhà,
của Kể Trong Đêm Khuya… là cha đẻ của những Bốn Thôi, Ông Ba Đồng Thời…
Nhìn như thế đó, độc nhất một
diễn đàn trên lưới hiện nay, xứng đáng, vì có một số tác giả, lâu lâu,
“thi thoảng”
đem đến cho độc giả một kinh ngạc, một khám phá, là Gió O của bà Lê Thị
Huệ! Giá
mà bà này khiêm tốn một tí thì còn xứng đáng hơn nhiều, bởi vì cái kiểu
“nhà thơ
hàng đầu, nhà trí thức hàng đầu, nhà biên khảo hạng nhất…” chỉ làm độc
giả nhột,
chưa nói, tác giả, càng nhột!
*
Đến bây giờ,
thì
có lẽ ai cũng nhận ra một sự thực, sự ra đời của trang ảo làm nhà văn
thứ thực
biến mất. Một tác phẩm văn học, nó cần phải được ôm ấp, cưu mang hàng
bao nhiêu
năm tháng, giống một cái trứng sau khi thụ tinh, nằm trong bụng bà mẹ.
Bây giờ,
do có net, nhất là do có những trang free, nhà văn xuất hiện không cần
đến cái
bụng của bà mẹ nữa.
Gấu vẫn thường băn khoăn, tại làm sao, lúc sau này, thật khó kiếm một
truyện
ngắn hay, một bài thơ thần sầu. Lý do là như trên. Sở dĩ trang Gió O
lâu lâu có
cái hay, vì những tác giả của nó đều đã là nhà văn nhà thơ rồi, có thể
như vậy
chăng?
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
Il y a d'abord une terre, la
nôtre, qui semble façonner les hommes à sa démesure, dans
l'«éclaboussement du
soleil d'été» et la « respiration mesurée de la mer heureuse dans les
soirs
dorés et poussiéreux ».
Đầu tiên, có một miền đất, cái
xứ sở của chúng ta. Nó nhào nặn chúng ta theo cái vẻ khắc nghiệt, khốn
khổ khốn
nạn của nó, trong “chói chang của mặt trời mùa hạ”, và trong “hơi thở
nhịp theo
biển hạnh phúc trong những buổi chiều vàng bụi bặm”.
“Mi đâu có thương yêu chi ta…
“
Điều tôi muốn nói,
là, người ta có thể có – không sướt mướt, ỷ ôi – một niềm hoài nhớ về
một sự
nghèo đói đã mất. Một số năm tháng khốn cùng đủ để tạo nên một cảm
tính. Trong
trường hợp đặc biệt ở đây, tình cảm kỳ cục mà người con trai dành cho
mẹ là tất
cả cảm tính. Cảm tính này, trong những hoàn cảnh cho dù rất ư khác
biệt, bộc lộ
ra một cách đầy đủ, qua hồi ức âm ỷ, vật chất của thời thơ ấu. Một thứ
keo bám
vào tâm hồn…
DISCOURS DE SUÈDE
Dédié à
Louis Germain, qui
fut l'instituteur de Camus, ce discours fut prononcé le 10 décembre
1957 à
l'Hôtel de Ville de Stockholm,
à la fin du banquet qui clôturait les cérémonies de l'attribution des
prix
Nobel.
Chaque génération, sans
doute, se croit vouée à refaire le monde. La mienne sait pourtant
qu'elle ne le
refera pas. Mais sa tâche est peut-être plus grande. Elle consiste à
empêcher
que le monde se défasse. Héritière d'une histoire corrompue où
se mêlent les
révolutions déchues, les techniques devenues folles, les dieux morts et
les
idéologies exténuées, où de médiocres pouvoirs peuvent aujourd'hui tout
détruire mais ne savent plus convaincre, où l'intelligence s'est
abaissée
jusqu'à se faire la servante de la haine et de l'oppresssion, cette
génération
a du, en elle-même et autour d'elle, restaurer, à partir de ses seules
négations, un peu de ce qui fait la dignité de vivre et de mourir.
Devant un
monde menacé de désintégration, où nos grands inquisiteurs risquent
d'établir
pour toujours les royaumes de la mort, elle sait qu'elle devrait, dans
une
sorte de course folle contre la montre, restaurer entre les nations une
paix
qui ne soit pas celle de la servitude, réconcilier à nouveau travail et
culture, et refaire avec tous les hommes une arche d'alliance. Il n'est
pas sûr
qu'elle puisse jamais accomplir cette tâche immense, mais il est sûr
que,
partout dans le monde, elle tient déjà son double pari de vérité et de
liberté,
et, à l'occasion, sait mourir sans haine pour lui. C'est elle qui
mérite d'être
saluée et encouragée partout où elle se trouve, et surtout là où elle
se
sacrifie. C'est sur elle, en tout cas, que, certain de votre accord
profond, je
voudrais reporter l'honneur que vous venez de me faire.
Du même coup,
après avoir dit
la noblesse du métier d'écrire, j'aurais remis l'écrivain à sa vraie
place,
n'ayant d'autres titres que ceux qu'il partage avec ses compagnons de
lutte,
vulnérable mais entêté, injuste et passionné de justice, construisant
son œuvre
sans honte ni orgueil à la vue de tous, touujours partagé entre la
douleur et
la beauté, et voué enfin à tirer de son être double les créations qu'il
essaie
obstinément d'édifier dans le mouvement destructeur de l'histoire.
Qui, après
cela, pourrait attendre de lui des solutions toutes faites et de belles
morales? La vérité est mystérieuse, fuyante, toujours à conquérir. La
liberté
est dangereuse, dure à vivre autant qu'exaltante. Nous devons marcher
vers ces
deux buts, péniblement, mais résolument, certains d'avance de nos
défaillances
sur un si long chemin. Quel écrivain dès lors oserait, dans la bonne
conscience, se faire prêcheur de vertu? Quant à moi, il me faut dire
une fois
de plus que je ne suis rien de tout cela. Je n'ai jamais pu renoncer à
la
lumière, au bonheur d'être, à la vie libre où j'ai grandi. Mais bien
que cette
nostalgie explique beaucoup de mes erreurs et de mes fautes, elle m'a
aidé sans
doute à mieux comprendre mon métier, elle m'aide encore à me tenir,
aveuglément, auprès de tous ces hommes silencieux qui ne supportent
dans le
monde la vie qui leur est faite que par le souvenir ou le retour de
brefs et
libres bonheurs. +
Discours de Suède © Gallimard
Albert Camus
CAMUS said that the only true
function of
man, born into an absurd world, is to live, be aware of one's life,
one's
revolt, one's freedom. He said that if the only solution to the human
dilemma
is death, then we are on the wrong road. The right track is the one
that leads
to life, to the sunlight. One cannot unceasingly suffer from the cold.
So he did revolt. He did refuse to suffer from the unceasing cold. He
did
refuse to follow a track which led only to death. The track he followed
was the
only possible one which could not lead only to death. The track he
followed led
into the sunlight in being that one devoted to making with our frail
powers and
our absurd material, something which had not existed in life until we
made it.
He said, 'I do not like to believe that death opens upon another life.
To me,
it is a door that shuts.' That is, he tried to believe that. But he
failed.
Despite himself, as all artists are, he spent that life searching
himself and
demanding of himself answers which only God could know; when he became
the
Nobel laureate of his year, I wired him 'On salut l'âme qui constamment
se
cherche et se demande'; why did he not quit then, if he did not want to
believe
in God?
At the very instant he struck the tree, he was still searching and
demanding of
himself; I do not believe that in that bright instant he found them. I
do not
believe they are to be found. I believe they are only to be searched
for,
constantly, always by some fragile member of the human absurdity. Of
which
there are never many, but always somewhere at least one, and one will
always be
enough.
People will say He was too young; he did not have time to finish. But
it is not How long, it is not How much; it is, simply
What. When the door
shut for him, he had already written on this side of it that which
every artist
who also carries through life with him that one same foreknowledge and
hatred
of death, is hoping to do: I was here. He was doing that, and perhaps
in that
bright second he even knew he had succeeded. What more could he want?
William Faulkner
[Transatlantic Review, Spring 1961; the text printed here has
been taken
from Faulkner's typescript. This previously appeared in Nouvelle
Revue
Française, March 1960, in French.]
L'âme qui s'interroge - Le
rayonnement
Par William Faulkner
Camus
disait que le seul rôle
véritable de l'homme, né dans un monde absurde, était de vivre, d'avoir
conscience de sa vie, de sa révolte, de sa liberté. Il disait que, si
l'unique
solution au dilemme de l'homme était la mort, nous faisions fausse
route. La
bonne voie est celle
qui conduit à la vie, à la lumière du soleil. On ne peut pas sans répit
supporter le froid.
Aussi s'est-il révolté. Il a
effectivement refusé de supporter le froid sans répit. Il a
effectiveement
refusé de suivre une voie qui ne conduiisait qu'à la mort. La voie
qu'il a
prise était la seule qui pût ne pas conduire uniquement à la mort. La
voie
qu'il a prise conduisait à la lumière du soleil: car elle amenait à
créer de
nos fragiles pouvoirs et de nos absurdes matéériaux quelque chose qui
n'existait pas dans la vie avant que nous l'eussions créé.
Il disait: “Je n'aime pas croire que la mort ouvre sur
une autre vie. Pour moi, c'est une porte qui se ferme.” C'est ce
qu'il
essayait de croire. Mais il n'y parvenait pas. Malgré lui, comme tous
les
artistes, il a passé sa vie à chercher et à exiger de lui-même les
réponses que
Dieu seul connaît; lorsqu'il fut désigné pour le Nobel, je lui adressai
à
Stockholm un télégramme qui disait: “On
salue l'âme qui constamment se cherrche et s'interroge.” Pourquoi
n'a-t-il
pas alors renoncé, s'il ne voulait pas croire en Dieu?
À l'instant même qu'il a
heurté l'arbre, il continuait à se chercher et à s'interroger. Je ne
crois pas
que dans l'éclat de cet instant il ait trouvé la réponse. Je ne crois
pas qu'on
puisse trouver les réponses, mais je crois seulement qu'il faut qu'il y
ait
sans cesse et constamment, pour les chercher, quelque fragile
participant de
l'humaine absurdité. Il n'y en a jamais beauucoup à la même époque.
Mais il y
en a toujours au moins un quelque part, et ce sera toujours suffisant
pour nous
sauver tous.
On dira qu'il était trop jeune,
qu'il n'a pas eu le temps d'achever. Mais la question n'est pas combien de temps, ni quelle quantité,
mais simplement quoi. Lorsque pour lui la porte s'est
fermée, il avait déjà écrit ce
que tout artiste espère écrire lorsqu'il porte à travers la vie la
connaissance
par avance et la haine de la mort: J'étais
là. Il continuait. Peut-être a-t-il su, dans cette éclatante
seconde, qu'il
avait abouti. Que pouvait-il vouloir de plus?
Traduit de l'américain.
La
Nouvelle Revue française, n°
87, mars 1960
Le
Grand Macabre
The constant voice of a
pivotal writer in the history of the modern novel, who pours out
inhuman tracts
Kỷ
Niệm
Anh
nói: “Nên chơi với người
tử tế!”
Gấu
không có duyên với Lê Đạt.
Gặp,
không chỉ một, mà tới hai lần, vậy mà, may quá,
không có dịp trò chuyện, nhờ vậy, chẳng nợ ông một lời dặn dò nào.
Lạ, là ông đã từng hỏi thăm về Gấu, khá ân cần, qua một người bạn.
Em nói, mọi người làm như anh là của em, hay, em rất rành về anh!
Nhưng,
đọc lời dặn dò trên, có vẻ như ông không dễ
chơi như lời đồn thổi.
Nguyễn
Đức Tùng có lần hỏi Lê Đạt, anh có đọc loạt bài
phỏng vấn “thơ tới từ đâu, hay, thơ từ đâu tới” trên talawas. Lê Đạt
nói, có, nhưng
than, dài quá, nhiều chữ quá, giá ngắn gọn, thì đỡ cho thân già này,
mắt mù dở.
Gấu suy ra, ngắn ngọn nhất, là… đừng có nó! (1)
Lần
này, ông dặn TKD, “chơi với người tử tế”!
Khó hiểu thật!
Gấu thú thực, chưa từng bị ai dặn dò kiểu này cả.
Có vẻ như, bất cứ ai, nhìn Gấu, là biết liền thằng cha này chẳng tử tế!
Thành ra khỏi dặn!
Đọc
bài viết, hết dám làm thơ! (2)
Đành đi kiếm phở vậy. NQT
(1)
Có người chê tôi
là việc nhận giải thưởng là một việc “không anh hùng”, thì từ thuở biết
nghĩ
đến giờ, tôi có bao giờ rắp tâm làm một anh hùng đâu? Nói như
Montaigne, “Tôi
chỉ mong muốn sống một cuộc đời có thể lượng thứ được”.
Lê Đạt [Nguồn: talawas]
Adam Bresnick trên
TLS, số 14 Tháng Chín, khi điểm cuốn Lỗ thủng văn hoá [Cultural
Amnesia: Mất
trí nhớ văn hóa], đã nhắc tới Montaigne. Vào năm 1576, ẩn náu tại
một thư
viện của gia đình tại Bordeaux, tránh chường mặt ra trước công chúng,
Montaigne
kêu người làm một tấm biển nhỏ, đóng trên tường, phiá bên trên bàn làm
việc,
trên khắc mấy chữ: Que sais-je? [Tôi biết gì?].
Một câu tự vấn đầy vẻ bi quan trước tác phẩm Essais, thành quả
lớn lao
của cái đầu của Montaigne qua hai thập niên sau cùng của đời ông [the
great
record of his mind over the last two decades of his life], như Bersnick
nhận
định.
"Bạn đọc, vậy đó, chính tôi là chất liệu tác phẩm của
tôi [Ainsi,
lecteur, je suis moi-même la matière de mon livre]."
Nhưng Montaigne cẩn trọng: "Đó không phải là lý do để bạn sử dụng thời
giờ
nhàn rỗi của mình, cho một đề tài nhảm nhí, vô ích".
*
"Chỉ mong sống một cuộc đời có thể lượng thứ được", "tôi
biết
gì", "đừng sử dụng cuộc đời của mình vào một việc làm dễ dải, nhảm
nhí, vô ích..."
Gấu nghĩ Lê Đạt xứng đáng để nhận những "giải thưởng", như trên.
*
Lần về Hà Nội, năm 2000, Gấu có gặp ông, tình cờ, tại tòa soạn báo Tia
Sáng.
Ông, chạy bộ buổi sáng, ghé. Còn Gấu, ghé vội, lấy mấy số báo, trên
đường ra
phi trường, về nhà.
Thành thử chẳng có thì giờ, để chào hỏi, đâu ra thì giờ, nói chuyện.
Nhưng lý do chính, vẫn là, ngại quá, theo Gấu.
Chưa có duyên gặp nhau.
Sau này, nghe Em nói, anh LĐ có hỏi thăm anh, mấy lần.
Mà, lạ thật, sao cứ nhè em để hỏi, làm như anh thuộc về em ấy!
Hà, hà!
Đó là lần về thứ nhì, năm 2001.
*
Ấy đấy, gặp nhau, nhãn tiền, tại một toà soạn một tờ báo văn học mà còn
khó
khăn thế, nữa là mò đến nhà thăm!
Khó.
Khó lắm!
Chẳng thế mà PTH phán, dù có rũ bụi cũng chẳng dám làm quen!
*
Lê Đạt: Các
nhà văn nhà thơ trẻ Việt Nam
hiện nay thích nổi tiếng quá. Theo
tôi là không nên. Người viết không nên quá quan tâm đến sự nổi tiếng.
Nhưng đứng
về mặt phạm trù mà nói: Không tuổi trẻ thời nào kém thời nào cả. Họ chỉ
khác
nhau.
Nguyễn Đức Tùng: Anh có dịp đọc loạt bài “Thơ đến
từ đâu” trên talawas
hay không?
Lê Đạt: Có, tôi có đọc. Các bài phỏng vấn về thơ ấy
rất tốt, rất có ích
cho những người làm thơ và yêu thơ. Tôi nghĩ là trong nước cần phải đọc
nhiều.
Tôi cũng thấy nhiều điều mới. Nên làm. Giỏi lắm (cười). Nhưng
các bài
phỏng vấn Tùng đừng có làm dài, làm ngắn thôi. Tôi già rồi, đọc mỏi mắt
lắm,
mặc dù rất thích.
*
Gấu cũng thích lắm. Nhưng giá mà Lê Đạt nhắc nguyên con câu của
Montaigne, lại
càng thích:
"Đừng sử dụng cuộc đời của mình vào một việc làm dễ dải,
nhảm nhí, vô
ích..."
Đúng là gừng càng già càng cay!
(1) For novelists,
compassion may be the greater part of valour: Với tiểu thuyết gia, lòng
trắc
ẩn, nỗi u hoài, sự lượng thứ... là phần lớn lao của sự can đảm.
Câu trên, trong bài điểm cuốn Run: Sweet and smart, của Ann Patchett,
trên tờ
Người Kinh Tế, số 15 Tháng Chín, 2007
Nguồn
Các nhà văn nhà
thơ trẻ Việt Nam hiện nay thích nổi tiếng quá. Theo tôi là không nên.
Ui chao, vừa gặp một cái là đã ‘bắt hình dong’được liền. Thế
mới tài!
(2)
Tôi xin nhắc lại
và diễn giải một ý của anh Thanh Thảo: thơ không phải dành cho đám
đông, mà
dành cho một số nhỏ người đọc. Thơ không đọc ở quảng trường mà dành cho
sự sâu
thẳm của tâm hồn và như thế chỉ có những người đọc tinh hoa mới hiểu
được thơ
mà thôi.
Nguồn
Trong
một, trong rất nhiều vụ thăm dò ý kiến bạn đọc, năm 1999, của
Folio Society, một câu lạc bộ sách của Anh, về câu hỏi, hãy kể ra 'năm
bài thơ
của thế kỷ', bốn bài được nêu ra, là của những nhà thơ tiếng Anh, [cũng
chẳng
có gì đáng kinh ngạc]: Yeats, Eliot, Auden, Plath. Nhưng bài thơ thứ
năm, là của
một nhà thơ tiếng Đức, Rainer Maria Rilke. Và là một bài thơ khó nhai: Duino
Elegies.
Coetzee, nêu sự kiện này, trong bài viết về Rilke, và
giải thích, cho dù
cái thứ tiếng Đức khó nhá đó, cho dù cái bài thơ khó nhai đó, thế mà
vưỡn lọt
vào danh sách "top five", điều này chứng tỏ, thơ, cho đến khi nào mà
nó còn, tự nói lên, bằng thứ tiếng nói của đam mê, và của sự khẩn
thiết, về những
vấn đề lớn của hiện hữu con người, thì nó vẫn là của đám đông chứ không
phải của
thiểu số.....
"Không dành cho đám đông", quả đúng là phần số hiện nay của văn
chương ở trong nước.
*
Sự thất bại của văn chương "trẻ" trong nước, không phải do thiếu trí
tưởng tượng, mà do vờ những vấn đề khẩn thiết, thứ văn chương đó không
phải thứ
tiếng nói của đam mê, của sự khẩn thiết, về những vấn đề lớn của hiện
hữu con
người.
Chừng nào văn chương còn tránh né nhìn thẳng vào bóng đen, thì chừng
đó, nó vẫn
không phải là văn chương, cho dù có rồi rào tưởng tượng cách mấy.
*
Chính trị mới là đỉnh cao của văn chương, chính trị như là "mỹ tín mà
cuộc
sống đạo đức của dân chúng được xây dựng trên nền tảng đó". [Brodsky]
Đừng bao giờ nghĩ, nói đến bóng tối là "bẻ queo qua chính trị", là
"đâm sầm vào chính trị".
Tôi tin rằng, chính trị mới là đỉnh cao của văn chương, nhất là ở những
nước
thiếu tự do dân chủ.
Khi cho rằng, "trình độ dân Mít không bằng thế giới, cho dân Mít được
tự
do dân chủ là loạn liền", là làm nhục dân Mít!
Bịt miệng người dân là làm nhục tới "quốc thể", tới "nhân phẩm
của toàn thể dân Mít", chứ không phải "làm như thế là không
đúng"!
Bởi vì bất cứ một tên Mít nào, khi nhìn thấy bức hình bịt miệng đó, là
đều
[phải] cảm thấy, chính tên Mít đó, bị xúc phạm!
Bởi vì bức hình đó được toàn thể thế giới nhân loại nhìn thấy trên màn
hình TV.
*
Theo nghĩa đó, Steiner phán, chính những phương tiện truyền thông hiện
đại, khi
cho khán giả tận mắt chứng kiến những tội ác "người làm thịt người",
là, một cách nào đó, biến khán giả thành chứng nhân, kẻ đồng phạm, kẻ
đồng lõa.
Brodsky cho rằng, một khi bạn bắt đầu 'biên tập' đạo hạnh của bạn, liệu
cái này
được hay không được, chiếu theo hoàn cảnh, thế là bạn đang tán tỉnh
thảm họa
[When you start 'editing' your ethics, your morality - according to
what is or
isn't allowed today - then you're already courting disaster].
Ông nhắc tới Susan Sontag. Một lần bà nhà văn Mỹ này nói, phản ứng đầu
tiên của
một con người, khi đứng trước thảm họa là hỏi, tôi có làm điều chi lẫm
lỗi, và
bây giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng xẩy ra nữa.. Tuy
nhiên, bà nói,
còn một cách nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn
lại đứng
lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the phoenix principle. Và, ông rất tâm
đắc với
nó.
Theo truyền thuyết, phượng hoàng tái sinh, từ tro than của nó.
Nhật Ký TV
Và có
lần, tôi băng đồng chỉ
sá đi tìm một vang vọng của thơ. Thơ không phải chỉ nỗi
buồn mà còn là một sự phản kháng – như nhà
thơ Lê Đạt : “Chết là hết, hết đau hết khổ. Nhưng cũng hết vầng trăng
soi sáng
trên đầu…”
TKD
Câu
phán của Lê Đạt, ‘phản
kháng’ ở chỗ nào?
Đời
của ông, của nhóm của
ông, là một phản kháng, nhưng câu phát biểu này, thì không, theo Gấu.
Bài
viết này của TKD rất… lạ:
Tác giả viết về một thứ thơ thần thơ thánh, thơ siêu thoát, vượt ra
khỏi cõi
nhân gian, vậy mà lại đặt tên bài viết là “Thơ giữa đời”.
Cái
cuộc gặp muộn, lần thứ
nhì, về, tính gặp, tính rủ nhau đi ăn phở, bạn đi trước, thì bèn đi làm
một tô
trước khi về nhà, ý này cũng ngược hẳn.. thơ!
Hay
là đây là ẩn dụ của bài
viết: Thơ, [hay phở thì cũng thế, cũng vần ơ], ở giữa đời?
|
|