|
Chúc Mừng Năm Mới
Rừng sau nhà, mùng
2 Tết
Đêm Tết
Sài Gòn
Ui
chao, cái phần đẹp nhất của Gấu thì đã ở đó rồi.
Những
Ngày Ở Sài Gòn
*
Happy
Valentine’s
Tình yêu từ cái nhìn đầu
tiên - Thân Trọng Sơn
Tình đầu - Nguyễn Quốc Trụ
Chất liệu viết thư tình -
Cao Nguyên
20 bài thơ gởi tình yêu - Đỗ
Tư Nghĩa
*
…. xem như gửi chút
mùa Xuân cho người xa xứ.
Chúc
anh và gia đình năm mới an lành và gặp nhiều may mắn.
nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Viễn
tượng
Họ đi ngang nhau như hai
kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe
Có lẽ nhói
một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận
Tuy nhiên
chẳng có chi bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là hai đứa đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần
Tôi nhìn hai
đứa từ trên cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía bên trên như thế
Thường hú họa
CM biến mất
quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch
Như chẳng có
gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc
chắn vào lúc đó
Nhìn thấy như vậy
Và cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi nnhững độc giả của tôi
Bằng bài thơ nho nhỏ tình cờ này
Rằng, buồn, buồn thật đấy
[To CM. The Bear]
*
Nghĩ theo dòng
Joseph Brodsky
làm
thơ ở quãng đời đẹp nhất của ông, và lịch sử việc in thơ ông phản ánh
hệ thống chính trị mà ông trưởng thành từ đó. Những cuốn thơ đầu của
ông, do bạn bè hoặc những người yêu thơ ông ở Tây Phương, tuyển chọn và
xuất bản. Chúng đều bị cấm đọc tại quê hương ông. Tại Liên Bang Xô
Viết, tập thơ đầu của ông chỉ được xuất bản sau khi ông được Nobel. Sau
khi chế độ độc tài Cộng Sản sụp đổ vào năm 1991, thơ ông mới được xuất
bản đầy đủ [in full scale].
Một
trong những hậu quả của tư tưởng của ông, rằng, một con người chỉ có
đi, khởi từ đầu một con đường một chiều, là, ông chẳng bao giờ trở về
quê hương. Cách ông suy nghĩ, và hành động, là trực tuyến, thẳng một
lèo, như người Việt mình nói. Từ tuổi ba mươi hai, ông đã là một
“nomad” [một tên lang thang, một kẻ du mục] - một người hùng của
Virgil, bị số phận trù ẻo: Đi mà đừng bao giờ mong, có một ngày trở về.
Khi
được hỏi tại sao không trở về, ông nói, ông không muốn thăm quê hương
như một khách du lịch. Hay là, ông không muốn về thăm quê hương mà lại
phải xin xỏ cái đám khốn kiếp đó. Cho dù là đám khốn kiếp đó ngỏ lời
mời.
Luận
cứ sau cùng của ông là:
Cái
phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó.
Rồi.
Thơ
Của Tôi.
Nhà thơ nổi loạn
Có
em độ lượng với thời gian.
Có
bờ ngực dậy cho tôi thở.
Nguồn
*
Ui
chao, cái phần đẹp nhất của Gấu thì đã ở đó rồi.
Những
Ngày Ở Sài Gòn
Nhập nước Pháp, như là một kẻ
xa lạ chẳng
ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày,
cuốn
sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa
số, ông
chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc
giả Tây
Phương nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc
tài CS.
Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu
châu của Berlin,
sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,”
ông viết
trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có
thể bị
tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự
do Văn
hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống
lại
tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết. Tranh cãi sau đó liên quan tới
hội nghị,
là, liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp.
Scammell,
tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington,
bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét,
như nhìn
rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền
trợ cấp
của Mẽo, trao cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia, có
biết
không? Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không phải lúc thoạt đầu, mà
sau đó,
chắc là do MT xì ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS
tố
nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và luôn cả ở MT, có thể là do
ảnh hưởng
của ông đối với đám viết lách liền sau ông, là HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Mai Thảo không đọc sách, nếu có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là sự
thực. Ông
rành tiếng Tây, nhưng để đọc được đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ
giỏi
tiếng Tây. Gấu đã từng có kinh nghiệm này rồi, với ông anh Hiếu Chân.
Một bữa,
ông phán, mày đưa tao thử đọc cuốn La Nausée coi. Đọc chưa hết
mấy trang
đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao không hiểu được, tại sao tụi mày lại
mê cuốn
đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích Brahms? Đăng từng kỳ
trên tờ
Điện Ảnh, khi làm tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông đã từng nói ra, khi còn
Sài Gòn,
và sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG cho biết, khi đem bài
tạp ghi
của Gấu viết về ông vô cho ông đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người
gật gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành một chương cho
Hội nghị
Tự Do Văn Hóa, và tiền tài trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện
tiền bạc,
chúng ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô thư ký Cynthia
Jefferies.
Khi họ quyết định cùng chết, K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55,
hoàn toàn
khỏe mạnh. Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed in
the last
period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào
khúc chót
của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K" phán, trên đời này, chỉ có tình là đáng kể, và tình
thật đẹp là tình thật sến, theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh mà anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở nơi cổng trường Đại học
Khoa
học Sài Gòn mà chẳng sến ơi là sến sao?
Bữa đó, Trời cũng khóc, mà khóc cũng thật là sến!
[Vậy mà cũng vưỡn chưa được coi cuốn phim của TNM.]
NQT
Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn
mưa vẫn tiếp
tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng
đứng nói
chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi
vừa đứng
đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt,
chúng tôi
thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi
được một quãng
khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt
kịp nàng,
và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói.
Nàng
nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận,
muốn đánh
nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế
bên đường:
đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ
trên khuôn
mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi
đột
nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo
nàng đi
về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã
hết.
Sơ Dạ Hương
Hết gì đâu mà
hết!
Đến già vẫn
còn chết [vì nó]!
*
… a true
romantic story of total devotion, absolute loyalty, unconditional
surrender and true love.
George Mikes,
Sunday Telegraph
Quả đúng là
như thế, nhưng cái tay viết bài Intro cho cuốn Kẻ lạ ở Quảng trường,
nhận xét, tinh tế hơn:
Cuốn sách này,
trong cõi thâm sâu của nó, in essence, là một chuyện tình, nhưng
“đếch” giống bất cứ một chuyện tình nào mà tôi đã từng đọc. Có lẽ, nên
gọi nó,
đúng hơn, câu chuyện về nỗi ám ảnh [the story of an obsession].
Vào Tháng Bẩy,
1949, Cynthia Jefferies, một cô gái xinh đẹp nhưng đau thương
sầu muộn trong nỗi e thẹn và cũng khá ngốc nga ngốc nghếch, lúng túng
vụng về,
một cô gái từ Nam Phi, trả lời một mẩu tin cần người. Một nhà văn cần
một cô
thư ký tạm, temporary. Nhà văn là Arthur Koestler. Vào lúc đó, ông sống
tại một
căn nhà ở gần Fontainbleau [chỗ Bác Hồ đã từng ngụ ký hiệp định với
Tây?], với
Mamaine Paget, một trong hai cô gái xinh đẹp sinh đôi, sau đó ông lấy
làm vợ,
sau khi cuộc ly dị với bà trước xong xuôi. Cynthia thì sống ở Paris.
Cô có được cái
job thư ký, và trong sáu năm tiếp theo, lúc ở Pháp, lúc Anh, lúc
Mẽo. Trong thời gian này, cô có chồng, và rồi ly dị. Vào năm 1955, cô
từ bỏ
việc làm của cô ở New York, để trả lời một cái message của Koestler, và
trở về
Lơndon làm thư ký toàn thời gian. Vào giai đoạn nào họ trở thành hai
người yêu
nhau, độc giả cuốn sách hãy tự quyết định và rút ra lời kết luận. Nhưng
chẳng
nghi ngờ chi, Cynthia yêu Arthur hầu như ngay lần đầu nhìn thấy ông,
trong cái
cuộc phỏng vấn nhận việc, trong cái dáng điệu ngớ nga ngớ ngẩn của cô,
tại Paris.
Họ chia sẻ
cuộc đời cho nhau, vào năm 1955 đó, và vào năm 1965, họ làm lễ kết
hôn. Vào Tháng Ba 1983, hai cái xác của họ được kiếm thấy, trong phòng
khách
của căn nhà của họ ở Montpelier
Square, [căn nhà mà chúng ta thấy ở bià cuốn
sách]. Koestler ngồi trên ghế bành, ly rượu brandy vẫn còn trong tay.
Cynthia
nằm sô pha, một ly whisky trên bàn kế bên. Ly nào cũng chứa một liều
cực mạnh
thuốc ngủ barbiturates.
Koestler lúc
đó 77 tuổi. Trong bẩy năm cuối cùng, ông đau khổ với chứng bịnh
Parkinson, lúc đầu còn kiềm chế được, nhưng ngày một tệ hại. Bốn năm
chót, còn
thêm bịnh leukaemia, vào thời kỳ chót. Cynthia, 55, hoàn toàn mạnh khoẻ.
Bên cạnh cái
note của K, là những dòng của Cynthia: Tôi đã tính tính sổ làm thư
ký cho K - một câu chuyện bắt đầu khi đường đời của chúng tôi đụng nhau
vào năm
1949. Tuy nhiên, tôi không thể sống không có Arthur, mặc dù cũng một số
vốn
liếng riêng.
Tôi [Harold
Harris] nghĩ, Cynthia quyết định cùng đi, khi nhận ra Arthur hết
còn chịu đựng nổi gánh nặng cuộc đời.
Nguồn
Sau bức
màn tre
Charlotte Bailey, trên TLS số
12 Tháng Hai, 2010. đọc Hòn đá kiên nhẫn, Goncourt 2008, của
Atiq Rahimi.
Người
đàn bà không
tên, ở
trung tâm cuốn tiểu thuyết Hòn đá kiên nhẫn, The Patience Stone,
không
đem đến cho độc giả một câu chuyện lấy thẳng ra từ cuộc sống tại
Afghanistan
dưới sự cai trị của Taliban. Nó có vẻ như là một bức màn và đằng sau
nó, là
kinh nghiệm riêng tư của một người đàn bà, trong một xã hội Hồi giáo,
và đây là
lần đầu tiên, người đàn bà này kể ra cuộc đời của mình, bằng giọng nói
đích
thực của mình.
Cái chế độ CS ở Việt Nam,
cho dù ác độc
thỉ cũng chỉ giống như chế độ Taliban. Đằng sau nó, mới khủng khiếp.
Với xứ Afghanistan,
là một xã hội Hồi giáo, còn với xứ Mít, chính là cái xã hội mà Tô Hoài
gọi là
Quê Người.
Nhìn như thế, mới thấy cuộc
chiến vừa qua cần thiết đến cỡ nào, đối với một đất nước. Cơ hội đầu
tiên và
sau cùng để biến quê người thành quê mình.
Đại Mộng thành Ác Mộng.
Marie NDiaye’s lost souls
From fantasy to melodrama
with a French-Senegalese literary prodigy
TLS đọc
“Ba bà dũng mãnh”, Trois Femmes puissantes
Chuyện kể là, Jérôme Lindon, ông
Trùm nhà xb lừng danh Nửa Đêm, người đã từng khám phá ra cả một lô
thiên tài
Samuel Beckett, Alain Robbe-Grillet, và Jean Echenoz, ngay sau khi đọc
bản thảo
cuốn tiểu thuyết đầu tay của Marie NDiaye, ông đợi cô gái ở ngay cổng
trường
trung học, với bản hợp đồng, và “ký tên đóng dấu” ngay tại cổng trường:
Quant au Riche Avenir, xb năm 1985,
khi em mới 18. Tiếp theo sau là 8 cuốn, trong đó có En Famille (1991),
Rosie
Carpe (2001), Mon Coeur à l’étroit (2007), and Trois Femmes puissantes,
cuốn
sau cùng được Goncourt 2009.
Dick Francis, former champion
jockey who sold more than 60m books, dies in the Cayman
Islands
Dick
Francis, chuyên viết
truyện trinh thám liên quan đến đua ngựa, mất, thọ 89 tuổi.
Mai Thảo mê tay này lắm. Gấu cũng mê. Có những bữa ngồi La Pagode, cả
hai thi
nhau nói về tay này, về cuốn mới đọc...
“Not to
read Dick Francis
because you don’t like horses is like not reading Dostoyevsky because
you don’t
like God.”
Không đọc Dick Francis vì
không thích ngựa, thì cũng giống như không đọc Dos. vì không thích Chúa!
Tribute
to Koestler
Nhân
đây, nói
chuyện Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến.
Khi lấy tiền của
Mẽo để viết nó, chắc chắn VP còn nhớ trong đầu, cái vụ Mai Thảo bị
Nguyên Sa tố
lấy tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo. Ông không muốn mang tiếng, và vờ đi,
và thay
vào đó, là lời cám ơn “Uỷ ban Nghiên cứu Khoa học, Xã hội”, nghĩa là
thay vì để
tên thực, bằng tiếng Anh của cơ quan cung cấp tiền, ông dịch cái tên
tiếng Anh
ra tiếng Việt.
Nên nhớ, một cái
tên riêng không thể nào dịch được, và không thể sử dụng bản dịch thay
thế bản
chính được.
Gấu đã từng kể
chuyện, hồi học Đệ Thất trường Nguyễn Trãi Hà Nội, có ông thầy dậy
tiếng Anh tên
là Xuân, và một bữa, có anh học trò hí hoáy vẽ lên bảng một bức hí hoạ,
và ghi
là Mr. Spring. Đúng lúc đó, Thầy bước vô, và định phạt anh học trò,
nhưng anh này
láu lỉnh cãi:
-Spring không phải
là tên Thầy.
Ông thầy gật gù, đúng!
Y chang trường hợp
của Võ Phiến.
Gấu, ra ngoài này,
lần đầu được một người bạn đưa cho đọc, tự hỏi, ở đâu ra cái Uỷ ban
đáng quí này.
Liệu nó có giúp được gì một thằng cha Gấu, với cả lố tác phẩm ở trong
đầu?
Những chuyện này
không thể không viết ra. Gấu đâu có thù hằn gì Võ Phiến, hay Nguyễn
Mộng Giác,
[sử dụng tên HPNT cho một nhân vật của ông] hay bất cứ một ông
bạn quí. Gấu đã tính vờ hết, nhưng, đúng như Gấu đã từng kể,
nhiều lần, về cái bữa nằm mơ nhìn thấy xác Gấu nổi lều bều trên dòng…
Bến Hải,
tỉnh dậy, bèn viết ra tất cả, chẳng chừa một chuyện gì, để thanh thản
mà đi!
Dù thế nào thì thế
nào, Gấu cũng vẫn là một tên Yankee mũi tẹt. (1)
Giả như Gấu không bỏ
chạy vào
năm 1954, thì cũng là một trong những tên ăn cướp, và miệng lúc nào
cũng có mùi
vị chiến lợi phẩm, hẳn thế!
Viết là viết
trong cái thú
đau thương
đó, đâu thù hằn chi ai?
Cái vụ Dọn, là cũng
trong tinh thần đó, nhưng như chàng dũng sĩ hạ san trừ quỉ của Nhất
Hạnh, đúng
vào lúc Gấu sắp biến thành quỉ thì bạn bè hét lên, này coi chừng, thế
là tỉnh dậy,
may quá!
(1)
As a Hungarian Jew and
native
German speaker who wrote in English, he isn't a natural part of
anybody's
literary canon. There is an Orwell Society at Eton, but I doubt very
much that
there is a Koestler Society at any school in Budapest.
[Một tên Bắc
Kít bỏ
chạy vô Nam, viết bằng thứ tiếng Mít của đám Mỹ Ngụy, của đám Chống
Cộng điên
cuồng hải ngoại, đâu phải là một phần tự nhiên của bất cứ một cõi văn
của bất cứ
một người nào? Có một cõi "thơ từ đâu tới', một cõi SCML, thí dụ, ở quê
hương
Mít, nhưng cõi của mi, Gấu nhà văn, ở đâu?
Hà Nội hay Sài Gòn?
Yesterday's Man?
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammell
Mô Phật
Chỉ là đồ
chơi
Những
lầm lẫn của VP, hay của
NMG, theo Gấu, là thuộc phạm trù đạo đức văn học, không liên quan tới
đời
thường. Cả hai, theo như Gấu biết, là những con người mẫu mực, sống
những cuộc sống
mẫu mực. Nhưng khi viết, họ đã vi phạm điều không thể vi phạm. Một khi
vi phạm,
tác phẩm dù có hay cỡ mấy, thì cũng coi như bỏ đi.
VHTQ vi phạm đạo đức văn học, ngay ở trong cái viễn tượng viết nó của
VP: như
là một bài ai điếu cho một nền văn học, và những tác giả làm nên nền
văn học
đó, thay vì để cứu tử nó, bảo vệ nó. Giọng điệu huênh hoang, tếu táo,
tạp ghi
không ra tạp ghi, khảo luận chẳng ra khảo luận, phê bình lại càng
không, càng
làm hỏng nó.
Bởi thế, khi nhìn lại, vào lúc "cuối cùng", có thể VP ngộ ra, và ngậm
ngùi, "no big deal", "ở về phía đồ chơi".
Có lẽ, đây là phút nói thật của ông.
*
Since then, at an
uncertain
hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale
is
told
This heart within me
burns.
(1)
Coleridge, The Rime of the
Ancient Mariner.
(1) Cynthia Ozick trích dẫn,
trong bài viết về Primo Levi.
Tạm dịch:
Kể từ đó, đâu biết giờ
nào,
Cơn hấp hối đó trở lại,
Và cho tới khi câu chuyện
thê
lương của tôi được kể
Trái tim này trong tôi
bỏng
rát.
Coleridge: Bài hát của người
thủy thủ già.
Trong
bài viết Võ Phiến, nhà
văn Bình Định, Gấu trích lại.
Và, bây
giờ, tự hỏi, liệu VP, vào giờ phút "cuối
cùng", cũng đã ngộ ra, như Primo Levi, "cũng chỉ là đồ chơi, playful",
(2) mà thôi?
(2)
Viết về tập truyện mới xb bản của Primo Levi, A Tranquil Star: Unpublished Stories, [Ngôi sao trầm lặng: Những chuyện chưa xb], của
Primo Levi, dịch từ tiếng Ý, Anita Desai tự hỏi, liệu có thể dùng từ
"playful" [dzui thôi mà] để nói về những tác phẩm của Primo Levi, như Sống
sót Lò Thiêu, Liệu đây có phải một người ?, về cuộc đời mà ông đã
trải qua, nhưng không thể nào, chẳng bao giờ bỏ lại phía sau mình.
Và bà trả lời, playful, đúng là cái tính từ "ấn tượng", "chót", mà một
nhà phê bình có thể nghĩ ra được, khi "đọc" Lò Thiêu, khi đang đi trên
Đại Lộ Kinh Hoàng, khi đang hứng những trận mưa hỏa tiễn của VC giáng
xuống đầu dân Sài Gòn…, bởi vì, đọc tập truyện, quả là bà chỉ nghĩ đến
"một góc trời chỉ biết rong chơi", của TCS!
Tất cả những
truyện ngắn trong đó đều gợi nên cái sự rong chơi, vui đùa, cười cợt!
Ấn tượng thật!
*
Primo Levi là một nhà văn
người Ý gốc Do Thái, sống sót Lò Thiêu, trở về căn nhà mà ông dự định
sẽ sống
hết cuộc đời ở đó, cuối cùng tự huỷ mình, một năm sau khi cho xuất bản
tác phẩm
chót, “Những kẻ chết đuối và những người được cứu thoát”, như là kinh
nghiệm
sau cùng về Lò Thiêu.
Mấy câu thơ trên được ông
dùng làm đề từ cho cuốn sách trên.
Trong một cuộc phỏng vấn dành
cho Risa Sodi, khi người phỏng vấn cho biết, sử gia H. Stuart Hughes đã
liệt kê
ông là một trong sáu nhà văn Ý gốc Do Thái, hay nói gọn nhẹ, “nhà văn
Do Thái”,
và hỏi, “cái định nghĩa ‘nhà văn Do Thái’ có hơi quá đối với ông
không”, Primo
Levi đã trả lời:
- Ở Ý, chụp cái mũ “nhà văn
Do Thái”, hay “nhà văn không Do Thái”, là điều không thể xẩy ra. Cái mũ
này,
người Mỹ ban cho tôi đầu tiên, chứ không phải người Ý. Ở Ý, người ta
biết tôi
là nhà văn, và “chuyện cũng thường thôi,” có người còn biết thêm, tôi
gốc Do
Thái; theo kiểu, ông ấy là con ông A, ông B nào đó. Ở Mỹ lại là chuyện
khác.
Khi tôi tới đó vào năm 1985, người ta làm cho tôi có cảm tưởng, lại
được gắn
cho ngôi sao Do Thái ở trên ngực! Nhưng tôi chẳng cần…. Ngoài ra, tôi
nhớ, sử
gia Hughes đã gọi tôi là “người Do Thái độc nhất”, hay “người Do Thái
thực sự
đầu tiên”, (le premier vrai juif), tôi không nhớ rõ đúng từ ông dùng.
Riêng về phần
tôi, những cuốn sách khoa học giả tưởng chẳng mắc mớ gì tới Do Thái,
cuốn
“Chiếc mỏ lết” cũng chẳng phải là một “cuốn sách Do Thái”. Nhưng nói gì
thì
nói, tôi thoải mái (de bon gré) chấp nhận cái định nghĩa “nhà văn Do
Thái”.
Người phỏng vấn hỏi tiếp, “Ở
đầu cuốn ‘Những kẻ chết đuối và những người được cứu vớt’, ông trích
dẫn những
dòng thơ trong ‘Bài ca của người thuỷ già’; sau khi đọc cuốn sách đó,
tôi [Risa
Sodi] tự hỏi, liệu có thể ngưng ‘kể’ được không”.
Primo Lévi trả lời:
-Người ta có thể tìm thấy câu
trả lời ở trong cùng cuốn sách đó. Một số bạn tôi, những bạn rất thân,
chẳng
bao giờ nói tới [Lò Thiêu] Auschwitz.
Ngược
lại, một số khác, không bao giờ ngưng nói. Tôi thuộc một trong số sau
đó. Tôi
hơi lố (exagéré), khi trích dẫn nhà thơ Coleridge. Trái tim của tôi
không
thường trực bỏng rát…. Có thể nói, tôi hơi làm dáng (rhétorique: sử
dụng tu từ)
khi trích dẫn những dòng thơ đó.
Nhưng quả là những dòng thơ
thật là tuyệt vời!
*
Với riêng Gấu, chỉ với những truyện
ngắn, là xứng đáng để chúng ta vinh danh một “Võ Phiến, nhà văn”.
Ngoài ra, quả “chỉ là đồ chơi”,
thực!
Và, truyện ngắn của ông, chưa
ai lần vô được cõi này. Những gì mà những nhà phê bình Mít, viết về
truyện ngắn
của ông, đều là nhảm cả!
Lần Gấu
đọc Coetzee viết về
Marcellus Emants, và chợt nhận ra, có thể áp dụng những nhận định của
ông, vào
trường hợp Võ Phiến.
Trước hết, xin giới thiệu bài
của Coetzee, sau tìm ra những tương đồng giữa hai tác giả, xoáy vào
điểm này:
Cái con người Mít, đặc biệt là
Mít miền Trung, như được Võ Phiến miêu tả, có những điểm rất ư là kỳ
cục, phải
nói là, hơi bình bịnh, ông lấy ở đâu ra?
*
Trong bài viết [về nhà văn
Hòa Lan], Marcellus Emants: A
Posthumous Confession [in trong Stranger Shores,
nhà xb Viking, NY, 2001], Coetzee cho rằng, nhận xét của Emants, trong
một tiểu
luận về Turgenev, cũng có thể áp dụng cho chính ông ta [và với tôi, cho
Võ
Phiến]: Khi còn trẻ [Emants viết], chúng ta tạo ra một lý tưởng kỳ quái
về một
cái tôi mà chúng ta mong muốn là [cái tôi đó]. Nhưng cuộc đời của chúng
ta, với
những kiểu cọ của nó, khốn thay, được xác định không phải bởi lý tưởng,
mà là
bởi những sức mạnh vô thức ở bên trong chúng ta. Chính những sức mạnh
vô thức
này thúc đẩy chúng ta hành động, và chính những hành động này, sau cùng
làm bật
ra cái con người mà chúng ta thực sự là. Cái sự cố gắng vô ích, làm sao
cho lý
tưởng ăn khớp với những sức mạnh vô thức kia, làm chúng ta vỡ mộng, và
đau, đau
lắm. Nỗi đau càng nhức nhối, khi chúng ta nhận ra, cái hố thẳm không
thể vượt
qua, giữa lý tưởng và cái tôi thực sự.
Áp dụng vào trường hợp Võ Phiến, tôi nghĩ,
việc ông theo CS là nhằm lấy tập thể hủy diệt cái tôi - một cái tôi
bịnh hoạn,
thí dụ như nhân vật mang dấu bàn chân của vợ ghi lên ruộng, ở ngoài
đồng, về
nhà thờ... Và khi thất bại, trở về thành, ông hủy diệt cái tôi đó, bằng
cách
viết ra, theo nghĩa: viết tức là chữa trị, chữa trị bằng cách phơi
bày...
Emants được coi là nhà văn thuộc trường phái
những nhà văn "Tự Nhiên" (Naturalists), bởi vì ông (như anh em nhà
Goncourt) quan tâm tới cuộc sống dục tính che giấu của giới trưởng giả,
và (như
Zola), ông dùng ngôn ngữ của những khoa học mới về di truyền, dòng dõi,
và tâm
lý trị liệu, để giải thích những động cơ của con người, nhưng vẫn theo
Coetzee,
trong khi những nhà văn Tự Nhiên viết loại tiểu thuyết kinh nghiệm
(roman
expérimental), dựa vào những "data", Emants tới với những chất liệu
của ông bằng con đường của hồi nhớ, cơ may, và introspection (xem xét
nội tâm)
[tương tự Võ Phiến], những người đi trước ông thuộc những nhà
văn hiện thực Âu
Châu, đặc biệt là Flaubert và Turgenev.
Nguồn
Huế Mậu
Thân
J. D
Salinger mất, 91 tuổi
V/v Tin
Van : Dung roi, nen
thay doi , keo khong nhu O noi, ba tram nam sau (hihi), co nguoi di tim
tac
pham cua NQT chi thay toan "kit" voi "deo", "nhu
kit" v.v.... thi khong biet se xep tac pham vao loai van
chuong
gi . Hihi .
K
[V/v Tin Văn: Đúng rồi, nên
thay đổi [dẹp cái mục “Dọn” đi, cấm chửi lộn, chửi bậy, không được sử
dụng những
từ thô tục…] kẻo không, như O. nói, ba trăm năm sau có người đi tìm tác
phẩm của
NQT, chỉ thấy toàn ‘…. ', thì không biết sẽ xếp tác phẩm vào loại văn
chương gì.]
V/v Bắt
Trẻ Đồng Xanh.
Tờ TLS
đặt vấn đề, và đề nghị độc giả giúp sức, liệu bản tiếng Anh, xb tại
Anh, đã được
lược bỏ những tiếng thô tục, dơ dáy…
Số TLS tuần lễ liền sau đó, Feb 12, 2010, đích
thân tay biên tập ấn bản Penguin Classics, Tim Bates, phụ trách coi
lại, overseeing,
lần tái bản năm 1993, từ nguyên tác Mẽo: Bản hiện có của The Catcher in
the Rye
đã được biên tập nặng nề bởi Hamish Hamilton, vào thập niên 1950; những
từ thô
tục, chửi thề đã bị kiểm duyệt, và cách ăn nói theo kiểu địa phương của
Mẽo của nhân
vật chính trong truyện cũng được sửa cho hợp với người Anh.
Và bây giờ Penguin
muốn sửa chữa tình trạng này…
“Fuck
you” mà bị thiến còn “… you’, thì làm sao
fuck!
Nhưng
chưa ghê bằng trường hợp
Céline. Ông này khủng khiếp hơn Salinger nhiều. Trên cùng số báo có bài
của
Steiner: Bây giờ lại là giờ của Céline [Once again, Céline’s hour]. Đọc
loáng
thoáng, thấy Steiner nhắc tới một câu của Sartre, phán không lâu, khi
sắp sửa
đi chơi xa: Chỉ có mỗi một tên trong lũ chúng ta là sống nhăn: Céline
[only one
of us will endure: Céline].
Sinh thời, Céline chửi Sartre
như chửi… chó:
Ta tởm mi, một tên chính trị cơ hội, một tên triết
gia dởm, [second-hand philosophy].
Ui chao
chửi như Mít chửi
NHL!
Le
Grand Macabre
The constant voice of a
pivotal writer in the history of the modern novel, who pours out
inhuman tracts
GEORGE STEINER
Céline
LETTRES
Edited by Henri Godard and
Jean-Paul Louis
2,034pp. Gallimard. €66.50.
9782070116041
*
Voyage
au
bout de la nuit
Uncovering
Céline
Note:
Bạn bè, thân hữu xử ép Gấu quá!
talawas
tái xuất
giang hồ
Tình lơ
Hồi
ký Madame Nhu?
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
Kỷ
Niệm
|
|