*
















Thu 2009

*


*

Bếp Lửa

6.7.8 

xa. đường rồi. nhớ. đường xa
ở. trong cái. xó. ngó. ra nụ. cười
xó. chí phèo. nụ. cười. thị nở
một. đàn xuân. tóc. đỏ. cắn kén. chui ra
nghe. buồn. rưng chiều. tắt. đèn
mắt. phượng. mở. hà nội chênh. vênh dưới. vực
nhớ cái. lạnh. chạy luồn. xương. sống
trong. tàn tro thổi. bếp. lửa muộn. màng 

Đài Sử

*

Những con phố sau của Hà Nội

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.

Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.

Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.

Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe thơ của Gấu

Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.

THE BACK STREETS OF MOSCOW



Belle de Jour revealed as research scientist Dr Brooke Magnanti
Bướm ngày Hồng Mao hoá ra là chuyên viên khoa học

Khóc nhà thơ THANH TÂM TUYỀN
Note: Một Khánh khác, của Huế.
Trân trọng giới thiệu.
Tin Văn

Văn Chương Dấn Thân

Một bài toán hắc búa đang làm Gấu đau đầu đó là, TQ có hơn một nhà văn thời hậu Mao, trong khi VC không có lấy một mống sau Hồ!
[Tướng Về Hưu là một ngoại lệ] (1)
Cái gì làm cho nhà văn Mít chúng ta tịt ngòi, tịt đẻ, cả ở trong lẫn ngoài nước?
Với đám nhà văn VC, thì cái lý do, theo Gấu, là, anh nào cũng có tí vinh quang chống Pháp, chống Mẽo, tí bổng lộc, tí chiến lợi phẩm, và do đó, lương tâm đều có tí sạn.
Chẳng anh nào dám nói thật về cuộc chiến, thành ra đếch làm sao viết được.
Dấn thân nhà chính trị, không.
Dấn thân nhà văn, lại càng không!
Còn đám hải ngoại?
Do dốt, đếch chịu đọc! Đếch chịu sống!
(1)
NHT là một ngoại lệ: Như ông tướng về hưu, sau khi đóng góp vào việc xây dựng địa ngục, là về, ăn uống nhờ cô con dâu và đàn lợn vỗ béo bằng thai nhi, NHT xuất hiện để chấm dứt dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa phục vụ chiến tranh của Miền Bắc. Xong, là về, là...  chững lại, nói như Nguyên Ngọc.

Tờ Le Magazine Littéraire số đặc biệt Stefan Zweig, Tháng Năm 2009, có bài Rencontre, của Trần Minh Huy, viết về cuộc nói chuyện với  Dai Sijie, nhân cuốn sách mới nhất của ông được xuất bản: L'Acrobatie aérienne de Confucius, [tạm dịch, Nhào lộn trên không của Khổng Tử, nhà xb Flammarion, trong khi tất cả những cuốn trước, nhà Gallimard].
Ông là tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Balzac và cô thợ may, trên Tin Văn đã giới thiệu. Ông này đã từng sống khá lâu ở Việt Nam, trước khi qua Tây. Ở Việt Nam ông quay được hai cuốn phim, do không thể quay được ở TQ.
"Tôi không phải là một nhà ly khai, tôi còn quá chán một số trong họ, những kẻ quá thèm khát quyền lực làm tôi nghĩ đến những người Cộng sản." Ông nói.

Gấu sợ rằng, nhà văn Nguyễn Viện rớt vào cas này! Ông ta đã từng làm lớn, nghe nói, và sau này, chắc là không ăn ý với Đảng, vì một lý do nào đó, bị tống ra khỏi luồng chính, và trở thành nhà ly khai, trên trán, Đảng hay ông tự đóng, cái dấu "Tự Do"?
Ông này, đã từng đóng góp bài vở ngay từ đầu cho diễn đàn Hậu Vệ, nhưng chỉ đến bây giờ mới được thổi, nào chuyên đề nào lạc đề... Lý do, có thể liên quan tới cái vụ, hết về nước được nữa, của nhà đại phê bình, chăng?
*
Có thể có độc giả phán, thằng cha Gấu này khùng rồi. Tí vinh quang chống thực dân cũ thực dân mới tại sao lại khiến nhà văn VC tịt ngòi?

Đúng như thế đấy, nếu nhìn dưới Cái Độc Cái Ác Bắt Kít.
Nếu chiếu từ hiện tại thê thảm của đất nước.
Liệu có xứng đáng hay không, khi lao vào hai cuộc chiến?
Những mất mát lớn lao của dân Mít, chỉ có thể biện minh bằng một cái nhà to lớn gấp 10 lần so với trước, theo như lời dặn của Bác Hồ. Một khi không có, thì phải xét lại tất cả, tìm cho ra tại sao.
Cứ ôm riết lấy Lò Thiêu, là ra, Grass đã chẳng từng phán? Trong cứ ôm riết lấy đó, có vụ ông tự thú, đã từng đăng ký vào Thành Đoàn Nazi!

Chứng cớ hiển nhiên, nhãn tiền, là trường hợp nhạc sĩ Văn Cao: ông tịt ngòi sau khi được Đảng ra lệnh, đi làm thịt một ông Việt gian, lấy tí hứng sáng tác Quốc Ca! Không có cái cú làm thịt anh Việt gian Đỗ Đức Phin, làm sao bật ra được lời nhạc đáng giá ba triệu sinh mạng chỉ nội trong cuộc chiến: Thề phanh thây uống máu quân thù?
Chúng ta thử hỏi, bao nhiêu Việt gian 'không gian' bị VC làm thịt thời kỳ chống Pháp?
Cái vụ nhãn tiền hơn cả nhãn tiền, là cuốn Dấu chân dã tràng, của Ban Mai, viết về cả một dân tộc “xe cát Biển Đông, xây cái nhà Mít, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì”, chỉ có nói sơ sơ ra ngoài lề phải về cuộc chiến thần thánh, mà đã bị thu hồi, vậy mà đòi chuyện “dấn thân nhà văn hơn dấn thân nhà ‘chính chị’”!
Viết như thế, cũng là bịp bợm chính mình, tự bịt con mắt mình lại.

Nghe nói ông NN đã từng từ chối anh hùng Núp, đếch thèm nhắc đến anh ta nữa... nhưng như vậy, chưa đủ.
Sắp đi rồi, già hơn cả Gấu, nói thật ra một lần đi:
Bao nhiêu người chết vì anh hùng Núp?
Thì cứ cho đại, con số đại khái, trích từ con số ba triệu!

Có thật, một anh hùng Núp, hay là cũng anh hùng như... Lê Văn Tám?

Một ý niệm về dấn thân của nhà văn Mít hiện nay, theo Gấu, là phải qui chiếu về Cái Đại Ác Bắc Kít. Và nếu như thế, là phải nhổ toẹt mọi chiến công, đánh thắng hai tên đại cường quốc thực dân cũ, thực dân mới!
Đây là quan điểm của Myriam Anissimov, trong một bài viết Phỉ báng để trực diện Lò Thiêu, Blasphémer pour affronter la Shoah, trên số báo Le Magazine Littéraire, số tháng Sáu 2009, nhân sự kiện Romain Gary lại kiếm thấy, retrouvé.

Anissimov nhắc lại một câu của Kertesz, Lò Thiêu khiến “văn chương bị treo lửng”, [“Auschwitz a mis la littérature en suspens”], bởi vì, “chẳng có gì xẩy ra kể từ Auschwitz; nó, Auschwitz đã hư vô hóa Auschwitz, nó, Auschwitz, đã phản biện, refuter, Auschwitz”.
Nói một cách khác, Lò Thiêu không thuộc quá khứ mà hiện tại.

Chính là do "mơ hồ" nhận ra điều này, mà Gấu phán, cái “đúng” ngày nào gây họa cho ngày này.
Với nhân loại, và nhất là, với dân Mít, hai chiến thắng, một, đế quốc Pháp và Việt gian, và một, Mỹ và Nguỵ mà chẳng ngất trời, đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử, mà chẳng chân lý ngời ngời sao?
Nhưng ẩn tàng trong nó, là Cái Ác Bắc Kít, và chính nó, Cái Ác Bắc Kít, đưa đến đại họa.
Văn chương Mít VC sau 1975 mà chẳng bị treo lửng sao?
Miệng anh nào cũng đầy chiến lợi phẩm, nhà anh nào cũng treo đầy chiến công, làm sao viết về cái băng hoại, cái đi xuống hố, cái "một sự nhịn anh Tẫu, là chín sự lành" ?
Đọc những "ký" viết về những ngày tháng gian khổ chống Pháp, chống Mỹ, Gấu này thấy thương, không một mà tới mười, cho những anh hùng Núp của đất nước chúng ta!
*
When Greene interviewed President Diem, he asked him why he had allowed The to return when he was responsible for killing so many of his own people. Greene recalled that Diem burst into peals of laughter and said: 'Peut-être, peut-être’.
Khi Graham Greene phỏng vấn Tông Tông Diệm, ông hỏi, tại sao lại cho phép Thế [Trình Minh Thế] trở về, khi Thế phải chịu trách nhiệm về việc giết rất nhiều dân chúng, Greene nhớ là, Diệm bật cười lớn và nói, “Có thể, có thể” [bằng tiếng Tây]
Norman Sherry: Cuộc đời Greene, Tập Ba; Chương 33: Chẳng có ai trung lập, No Man Is Neutral

Khi xẩy ra biến động Miền Trung thì Gấu đã cầy hai job, như thuật ngữ hiện đại; một, cán sự kỹ thuật  Bưu Điện, và một, chuyên viên vô tuyến viễn ảnh của UPI Sài Gòn bureau.
Cuộc tham gia biểu tình đầu tiên và cũng là cuối cùng của Gấu, [cho tới khi ra hải ngoại, nhân ghé thăm bạn bè, và tiện thể, tham gia cuộc biểu tình Trần Trường tại Tiểu sài Gòn], là cú tấn công phái đoàn VC Văn Tiến Dũng, tại khách sạn Galliéni, không gặp, bèn tiếp tục tấn công, truy diệt, tại khách sạn Catinat nơi bờ sông Sài Gòn.
Nhưng, do làm cho UPI, có thể nói, Gấu tham gia hầu hết các cuộc biểu tình, các cú biến động lớn trong thời gian chiến tranh qua những bức hình chụp từ khắp nơi, khắp mấy vùng chiến thuật gửi về.
Ngồi trên Đỉnh Cồn, là thượng tầng tòa building số 5 Phan Đình Phùng, [số 3 Đài Phát Thanh], Gấu ‘thấy hết, hiểu hết’, chẳng thua gì Cao Bồi!

Trong lúc Gấu gửi hình chiến tranh, đảm bảo các mạch vô tuyến viễn liên, thì PXA lo đọc lén tài liệu mật tại văn phòng Time, cũng chẳng xa nơi Gấu đang cặm cụi làm việc và mơ tưởng cô bạn!
Gấu đã kể về trường hợp ‘làm quen’ Huỳnh Tấn Mẫm, khi anh ta nằm bất tỉnh trên cáng, được cảnh sát khiêng và, hộ tống, ra khỏi cuộc biểu tình, và, trong khi gửi hình, Gấu hỏi Horst Faas, trưởng phòng hình ảnh AP, anh trả lời, tôi nghĩ anh ta là VC.
Lần đó, Faas đích thân mang hình lên Đài, cho ông Hưng, nhân viên AP, cùng làm một công chuyện gửi hình vô tuyến như Gấu.
Gấu nhớ là, Faas, khi nói như vậy, có vẻ buồn buồn, như thể anh muốn nói, hỏng rồi, hỏng rồi!
Có thể Gấu này quá tếu, tưởng tượng quá mức, nhưng thực sự là anh ta có vẻ buồn, Gấu nhớ rõ ràng như thế.
Chẳng có ai trung lập được. Đúng như thế.
Và còn tệ hơn thế nữa!
*
Note: Tin Văn post mấy chương thật thú vị trong cuốn Cuộc Đời Greene, của Normann Sherry, có liên quan tới Việt Nam, và cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của ông.
Rảnh rảnh, Gấu lôi ra, hầu chuyện quí độc giả, và nhân đó, lèm bèm thêm về ông bạn cũ của Gấu: Cao Bồi PXA.

No Man Is Neutral

Yet were Americans not right to be disturbed at Greene's more provocative statements, for example when he said that he would prefer to end his days in the USSR rather than the United States? Greene later said that he meant the comment to be ironic:
I think that the writer is taken more seriously in Russia than he is in the United States. In the US, I could attack anything until the cows come home, as long as my books sold, they wouldn't object. But if in the USSR I wrote as I felt, I would soon find myself in a labor camp or some prison. I would end my days fairly soon but at least I'd have the compliment of being taken seriously.


Trois questions à MO YAN
« Rabelais a eu une grande influence en Chine»

Dans son dernier roman, La Dure Loi du karma, le grand écrivain chinois Mo Yan relate les tribulations de Ximen Nao, propriétaire terrien fusillé par les maoïstes et condamné par le roi des enfers à être réincarné en aniimal. Une histoire fantastique? Plutôt une réjouissante satire de la Chine communiste.

Vos personnages sont entraînés dans un engrenage qui les dépasse. Ils deviennent ennemis pour des motifs idéologiques. Cela peut-il se produire encore aujourd'hui?
MO YAN. La vie des Chinois, ces dernières dizaines d'annnées, a été effroyable. Les relations entre les gens étaient faites de contradictions, et de nombreuses questions qui auraient pu être réglées de façon pacifique l'ont été par la violence, d'où ces prétendues luttes entre les classes. Telle est la cause fondamentale de la forte instabilité qu'a connue la société chinoise. Après tant de souffrances, les Chinois sont maintenant lucides, ils ne veulent plus entendre parler de lutte des classes. Ils aspirent à une société harmonieuse.
Quelle est l'attitude de la censure officielle à votre égard?
Certains, se plaçant sous l'angle artistique, pensaient que je faisais œuvre novatrice, que je représentais une tendance qui a vu le jour dans la littérature depuis les années 1980. Je considère pour ma part que mon œuvre est une partie assez honorable de ce qui s'est fait pendant cette période. Mais, dans le même temps, les critiques sur mon œuvre ne se sont jamais arrêtées. Elles ont atteint leur paroxysme en 1996, quand le manuscrit de mon livre Beaux seins, belles fesses a été interdit en Chine. En 2004, il est sorti sous le manteau. Ceux qui l'ont publié ont certes été punis, mais le livre n'a plus été interdit ouvertement.
L'humour qui traverse vos livres ainsi que leur contexte rural mêlé de fantastique ne sont pas sans rappeler, pour un Français, la littérature populaire, du Moyen Âge au XVI1le siècle, entre autres Rabelais ...
Mon dernier roman a subi de nombreuses influences provenant de la littérature chinoise classique avec laquelle j'ai grandi, comme les Contes extraordinaires du pavillon du Loisir (l) ou Au bord de l'eau (2). Mes livres perpétuent cette veine. Quant au Gargantua de Rabelais, son style a eu une grande influence sur la littérature chinoise contemporaine, car, des années 1950 aux années 1970-1980, notre société ressemblait un peu à celle qui était décrite par Rabelais. Cette déconnexion des réalités, cette folie, ces fanfaronnades, ces exagérations ... Nous avons vécu tout cela et on le retrouve dans mon œuvre. +
Propos recueillis par SERGE SANCHEZ, avec C. CHEN-ANDRO
(1) Œuvre de P'ou Song Ling (1640-1715).
(2) Œuvre de Shi Nai-an, XIve siècle.
À LIRE
La Dure Loi du Karma, MO YAN, traduit du chinois par Chantal Chen-Andro, éd. du Seuil, 762 p., 26 €.
Le Magazine Littéraire Sept 2009
*

*
Sự thất bại của chủ nghĩa CS Tầu, là do áp dụng y bong, à la lettre,
bảng hiệu "Hãy huỷ diệt cái cá nhân, và giữ dịt cái tập thể".

Le grand écrivain revisite soixante ans de l'histoire de la Chine communiste, livre un portrait implacable de son pays et partage les souffrances de son peuple

Mao, Bouddha et moi


L'enfer est une métaphore de la Chine. La seule différence, c'est que les démons ne vous mettent pas une balle dans la tête, ils vous disent: « OK, on va examiner votre cas », et vlan, vous voilà réincarné en ânon ou en goret. ..
Địa ngục là một ẩn dụ về TQ. Có tí khác biệt là quỉ sứ không để một viên đạn vô đầu bạn, mà phán, hãy tái sinh, làm con trâu, con bò phục vụ Đảng tiếp, để chuộc tội!

Người Quan Sát Mới: Ông luôn qui chiếu về những quan niệm Phật giáo: nghiệp, số…. những vòng luân hồi… Đã từ lâu Đảng CS đã tìm cách để khử trừ chúng. Liệu ông có nghĩ rằng, những tư tưởng quan niệm đó là ông chôm từ những cuốn sách mới xb gần đây, trong đó Phật giáo trở thành thời thượng, à la mode?
Mo Yan: Ngay từ khi còn nhỏ, ông bà của tôi, mù chữ, cho nên không đọc được kinh Phật, những họ luôn làm quen, sử dụng những ý niệm của Phật giáo để đương đầu với những hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc sống. Không chỉ Phật giáo. Tâm hồn người TQ thấm nhuần ba tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, và Khổng giáo. Ý niệm về phần số, phúc phần, nhân quả… tức là ý niệm gieo nhân nào thì hái quả đó, làm điều tốt thì được phúc, làm điều xấu thì phải tội, tư tưởng nền tảng này giúp người TQ thoát ra khỏi những giai đoạn nghiệt ngã, và tiếp tin vào điều lành, tránh làm điều dữ.
Thú vị nhất, là Gấu này đã từng phán ẩu, thời kỳ tem phiếu của MB là thời đại hoàng kim của nó, trước khi bị hủ hóa bởi phồn vinh giả tạo của kinh tế Miền Nam.
Mo Yan phán y chang về xứ sở của ông.
Ui chao, đọc bài phỏng vấn, Gấu lại càng nhớ tới Cô Hồng Con của Gấu, khi Mo Yan nói về nhân vật Lan Lian của ông, mà theo Người Quan Sát Mới, có một sự dịu dàng lạ lùng ở nhân vật này. Lan Lian cũng bị giết, nhưng sau sống lại...


NDianye en Diaspora

 Trois femmes puissantes, Marie NDiaye, éd. Gallimard, 320 p., 19 €.

Marie NDiaye a 42 ans, elle écrit depuis trente ans et publie depuis vingt-cinq. Marie NDiaye est une femme puissante. Elle a commencé,
son œuvre au plus loin d'elle-même: les premiers livres qu'elle ne publia pas étaient des livres de genre, des pastiches d'écrivains admirés où elle n'était pas; puis elle publia des romans dont les héros et narrateurs étaient de jeunes hommes blancs, écrits à la troisième personne quand on ne connaissait pas les deux premières. Marie NDiaye est une jeune femme noire, son père est sénégalais et sa mère beauceronne. Peu à peu, lentement, ses livres se rapprochent d'elle, les personnages principaux sont des femmes perdues entre deux rives contrariées, comme si les fleuves telles des routes coulaient dans des sens contraires à vous écarteler, comme si le malheur d'être née sans boussole vous détroussait de la compréhennsion du monde et de l'espérance, vous laissait seule à départir l'instinct de mort de celui de la survie, à vous noyer.
Les femmes des livres de NDiaye, jusqu'ici, n'avaient pas de couleur, sinon celle, grise, de forces et de faiblesses incommpatibles avec les difficultés du monde. Irrémédiablement déclassées. Un jour, l'une d'elles fit un voyage aux Antilles, terre de couleur et d'esclavage (Rosie Carpe, tout juste réédité en poche). Un homme, un père inaccepté, dans une pièce de théâtre (Papa doit manger, à la Comédie-Française), est interrprété par un comédien noir (Bakary Sangaré). Et voici Trois femmes puissantes. Noires ou métisses. Africaines ou exilées. Norah est avocate, elle vit en France, elle est métisse et partage sa vie avec un homme blond venu d’Allemagne. Son père sénégalais est retourné vivre à Dakar, emmenant avec lui Sony, le jeune frère de Norah, sans espoir de retour. Trente ans plus tard, à la demande de son père, elle le rejoint à contrecœur. Il lui faudra tenir tête haute son rôle face au père déchu, face à l'histoire déchirée de deux cultures. Face à cette remarque du début du livre qui ne sera pas répétée: « Sony était donc le seul fils de cet homme qui n'aimait ni n'estimait guère les femmes. Accablé, submergé d'inutiles et mortifiantes femelles pas même jolies, se disait tranquillement Norah en pensant à elle-même et à sa sœur qui avaient touujours eu, pour leur père, le défaut rédhibitoire d'être trop typées, c'est-à-dire de lui ressembler davantage qu'à leur mère, témoignant ainsi fâcheusement de l'inanité de son mariage avec une Française - car, cette histoire, qu'aurait-elle pu lui apporter de bon sinon des enfants presque blancs et des fils de bonne facture? Or cela avait échoué. »
    Fanta est une jeune Sénégalaise; elle enseignait la littérature au lycée Mermoz de Dakar où Rudy Descas, son mari blanc et blond, était lui-même professeur agrégé, fort d'un riche avenir à citer Rutebeuf rubis sur l'ongle. Mais c'est près de Bordeaux qu'on les trouve, après qu'un drame les eut chassés de l'enseignement. Rudy vend mal des cuisines intégrées quand Fanta reste à s'ennuyer dignement dans un pavillon mal fini. C'est Rudy le personnage principal de l'hisstoire, en voie de déchéance et de médiocrité tout humaine; Fanta est presque absente, elle habite les pages dans les doutes de Rudy, dans l'amour qu'il lui porte et qu'il croit mal partagé. Fanta est le point fixe de Rudy, enlisé dans les sables mouvants de son incertaine personnalité.
    Khady Demba ne sait pas grand-chose d'elle-même ni de la vie, sa seule certitude est d'être Khady Demba et personne d'autre, d'exister à part entière puisque ces deux mots inséparables la nomment, même si un faux passeport viendra lui prêter un autre nom dont elle déclinera l'usage. Khady Demba est une jeune veuve sans enfants, navrée de n'avoir pas enfanté; elle est recueillie et mal accueillie dans sa belle famille, qui, pour s'en débarrasser, la contraint à une hypothétique émigration clandestine dont elle ignore tout. Un homme va l'aider sans succès dans cette dramatique épopée, puis la trahir sans avoir vraiment d'autre choix. Quelles que soient les épreuves et la mauvaise fin qui s'imposent, Khady Demba restera toujours Khady Demba, imperméable à toute culpabilité, entraînée dans une déchéance et une souffrance impuissantes contre son immarcescible dignité.

Trois romans qui n'en font qu'un, parce qu'ils se tangentent sans vraiment se croiser (on reconnaît dans le drame vécu par le père de Rudy les circonstances de la fortune de celui de Norah; Khady Demba a en poche l'adresse de Fanta, sa lointaine cousine, au cas où elle gagnerait l'Europe), parce qu'ils présentent une unité de lieu et de temps - Paris-Dakar sur deux ou trois générations contemporaines -, mais surtout parce qu'ils résonnent en se frôlant. À travers ces destins à peine croisés, l’écriture de NDiaye a l'excellence de dire l'indicible: la violence avec douceur, la complexité avec évidence, la rancune avec l'oubli, le sourire par les larmes, la résignation avec dignité, la faute et le pardon, la cruauté et l'innocence. Et le mystère des anges, le présage des oiseaux, la volupté primitive de dormir à la cime des arbres. Noir sur blanc. JEAN-BAPTISTE HARANG
À LIRE AUSSI
Rosie Carpe, MARIE NDIAYE, éd. de Minuit, “Double”, 394 p., 9,$0 €.
Le Magazine Littéraire Sept 2009


Tribute to Levi-Strauss

*

Gấu đọc cuốn này, hồi mới lớn, mê lắm. Lần qua Paris thăm bạn quí, Nov, 1999, mua lại.
Trong có mấy bài thật tuyệt. Thủng thẳng dịch hầu quí vị, bài về Barthes, bài về Lévi-Strauss.

Cũng là một cách tưởng niệm Đỗ Long Vân, cũng quá mê cơ cấu luận




Sách mới xb TMT

Đọc TMT

CHUYỆN KỂ

Chuyện hôm nay chỉ còn là chuyện kể
Quãng đời qua hay là quãng chiêm bao
Tình yêu đó ta thắp bằng tim nến
Sao ai châm đuốc lửa đốt hai đầu.
tmt
Viết cho 30/4/2009

*

"My voice can ring out pure and clear only when absolutely solitary," Pasterrnak tells his father in a letter.
Ardor inflected by intransigence drives all of Tsvetayeva's writings. In "Art in the Light of Conscience" (1932), she writes:
The poet can have only one prayer: not to understand the unacceptable - let me not understand, so that I may not be seduced ... let me not hear, so that I may not answer ... The poet's only prayer is a prayer for deafness.
Susan Sontag: 1926 ... Pasternak, Tsvetayeva, Rilke

Câu của Tsvetayeva có thể dùng để giải thích sự đôn hậu trong thơ TMT:
Tôi cầu sao, không hiểu cái ‘không thể hiểu được’.
Đừng bắt tôi hiểu nó, để tôi khỏi bị mê hoặc...
Đừng cho tôi nghe thấy, để tôi khỏi trả lời...
Cái Đại Ác Bắc Kít!
Hà, hà!
*

Separation had made everything replete. What would Rilke and Tsvetayeva have said to each other had they actually met? We know what Pasternak didn't say to Tsvetayeva vhen they were briefly reunited after thirteen years, in June 1935, on the day he arrived in Paris in the nightmarish role of official Soviet delegate to the International Writers' Congress for the Defense of Culture: he didn't warn her not to come back, not to think of coming back, to Moscow.
Giả như Pasternak ra dấu, báo động
Tsvetayeva khi tới Paris cùng Phái Đoàn Nhà Văn Liên Xô tham dự Hội Nghị Nhà Văn Quốc Tế: Này, đừng có về! Về là khốn nạn đấy! ?

Giả như cái tay nhà văn VC, bạn Gấu, không báo động Gấu, nè, về là chết đấy, thì Gấu bi giờ ra sao, nhỉ ?
Giả như Cô Rơm không bỏ chạy Đất Bắc vào năm 1954 ?
Giả như chồng Cô Rơm không tử trận, thì cô cũng trở về Đất Bắc thăm nuôi ông chồng sĩ quan VNCH như bao người đàn bà khác rồi!
Sure!

I lost two homelands, but I sought a third: a space for the imagination, a domain that held room foe artistic needs that were still not entirely clear to me. I lost a real city, but I sought a city of the imagination. I picked poetry as my province relatively late, later than many others do
Adam Zagalewski: Another Beauty

Đọc thơ TMT, nhớ đến Adam Zagalewski. Susan Sontag có một bài viết về cuốn Another Beauty của ông, và trích dẫn một số thơ, thật gần gũi thơ TMT.

All writing is a species of remembering
Sontag viết về cõi thơ A.Z.

We find comfort only in
another beauty, in others'
music, in the poetry of others.
Salvation lies with others,
though solitude may taste like
opium. Other people aren't hell
if you glimpse them at dawn, when
their brows are clean, rinsed by dreams.
This is why I pause: which word
to use, you or he. Each he
betrays some you, but
calm conversation bides its time
in others' poems.

And here it is as it appeared in 1985 in Tremor: Selected Poems, Zagajewski's first collection of poems in English, translated by Renata Gorrczynski, where it is entitled
"In the Beauty Created by Others":
Only in the beauty created
by others is there consolation,





Kỷ niệm, kỷ niệm

Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy 

Câu văn mở ra, [khởi đầu là lời], mới lộng lẫy làm sao!

Bất giác nhớ đến câu văn mở ra đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển

Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.