|
Trang TMT
Bây giờ
là đầu tháng Tư.
Người Việt nào ở hải ngoại cũng như đang lên cơn sốt, một cơn sốt lây
lan ra từ
bang nọ đến bang kia, từ quốc gia này sang quốc gia khác, không có
thuốc chủng
nào ngăn được.
Những cánh rừng
Xin hãy ủng hộ một NGÀY NÓI THẬT
Trong tư duy của
người Việt Nam,
ngày 1 tháng 4 là ngày mọi người được quyền nói dối.
Đâu
phải ngày 1.4!
NQT
Chim thiêng hót
lời mệnh bạc
L'oiseau sacré chante le destin tragique
Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam
actuel,
Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines
de ses
êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi
l'éphémère
de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa
méditation sur
la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né
du
passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement
riches du
bouddhisme, du taoïsme. L'évidence esthétique du texte fait corps avec
l'inexistence de l'être.
Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn
lao nhất
của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là
một nhà
thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông
kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu
và cái
đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ
đau,
những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do
chiến tranh
cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải
cực kỳ giầu
có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm
bật ra
nỗi vô thường của kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
*
Hãy hát tình ca của ông, theo
nghĩa mà
Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là
tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình
đã mất.
“Cái từ giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai
chữ:
Tình Yêu.”
*
Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...
He has turned into the
life-giving ear of
grain
Or into the gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó
D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn:
Thế kỷ
ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
Net vs
Dân chủ
« Wikipédia, où est ta
démocratie? »
Pour
beaucoup d'internautes,
l'encyclopédie illustre un processus de démocratisation du savoir. Mais
la part
d'illusion est grande.
« Si
vous regardez aujourd’hui
les citations fournies dans l’article sur Defoe, c’est un méli-mélo
invraisemblable.
»
Thế giới con
người trong Cát Bụi Chân Ai, lạ thay, là đảo ngược thế giới loài vật Tô
Hoài mô
tả, những ngày trước Mùa Thu. Những con vật của ông "người" hơn, so
với những con người sau này (so với cách ông miêu tả con người sau
này). Vẫn theo
bài viết của Levi, từ tiếng nhạc dế có thể suy ra khí hậu của môi
trường sống.
Người ta còn nhận ra một điều: dưới những điều kiện thiên nhiên bình
thường, dế
đực và dế cái cùng một nhiệt độ, nhưng nếu thân nhiệt của dế đực (thí
dụ vậy)
tăng lên chỉ một hay hai độ, tiếng nhạc của nó tăng lên bán-cung, và
bạn lòng
của nó sẽ không trả lời: con cái không còn nhận ra dục tính ở con đực.
Môi trường
thay đổi chút xíu, thế là có một "thảm họa", một bất toàn, một khiếm
khuyết,
một bất xứng đôi, nẩy sinh: phải chăng chúng ta có một mầm (germ) tiểu
thuyết ở
đây? Levi tự hỏi.
Nguyễn Tuân buông một câu: Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách
giải thích
"vấn nạn này", và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách
nào đó, Nguyễn Tuân đã giữ thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa
Thu làm
thay đổi. Và nếu ông nghĩ đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình.
Ở đây,
ta lại thấy vị thiền sư xén tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với
giấc mơ
trừ hết ác ôn tề nguỵ. Và cái câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì
hành động của vị sư già chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy
hai ông sư
giả cầy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ
72
tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy
vọng cải
hóa...
Một
chuyến đi
Đoạn
trên, trích từ một bài
tạp ghi cũ, trên tờ Văn Học, khi GNV còn là một anh làm công cho ông
chủ NMG!
Đó là bài bye bye cái chức làm công, cái mục tạp ghi do Gấu phụ trách,
nhưng
đúng ra, là một viết tạm biệt hai ông bạn nhà văn mà Gấu rất quí trọng,
của
băng đảng Văn Học, là Trúc Chi và Tạ Chí Đại Trường.
Phải đến mãi sau này, khi đọc Grass, nhất là sau cái cú ông thú nhận đã
từng
tình nguyện tham gia “thành đoàn Nazi”, đọc Sebald, đọc… rồi tới khi
đọc Ba Người Khác, thì Gấu mới nhìn ra, một cách
đọc khác, Tô Hoài.
Chẳng khác gì Grass và đồng bọn, ông tự nhận, ông có ‘ăn có’ trong cái
ác làm
nên Lò Cải Tạo, từ cái thuở cải cách ruộng đất, tạm tính từ thời điểm
đó.
Rồi tới khi đọc Chuyện Kể Năm 2000,
thì Gấu lại thấy ra một cái mặt khác của Cái Ác Bắc Kít. Nhất là khi
đọc những
lời sám hối của tác giả của nó, khi bị nhà nước cho đi tù, nhờ đó viết
được Chuyện
Kể Năm 2000: Nếu không có cái chính sách “pha lê hóa” đó, thì làm
sao lấy
được Miền Nam?
(1)
Ngay trong bài tạp ghi trên, GNV đã băn khoăn về cái chuyện làm sao
Nguyễn Tuân
thoát được Cái Ác Bắc Kít, làm thế nào ông giữ được sự điều hòa của
thân nhiệt.
Một số vấn nạn, nhân bài viết Việt Nam
một xã hội bị lưu manh hóa của LDD:
Tại làm sao mà xã hội Việt Nam
lại bị lưu manh hóa đến mức ghê rợn như thế?
Tại VC ư?
Tất nhiên rồi. Tuy nhiên, ngay cả khi khẳng định thì vẫn còn tra hỏi:
Tại sao VC, ngày nào tốt như thế, đến nhân loại nằm ngủ, mơ, chỉ mong
sáng thấy
mình biến thành VC, mà bây giờ tệ như thế?
NQT
(1)
Tôi
viết về những người cam chịu
lịch sử
Đây là
thứ lịch
sử "của đám đông" mà Cao Hành Kiện rất tởm.
*
Cái vụ đạo đức
băng hoại mà cái diễn đàn blog gì gì đó đang bàn tới, và đang cố tìm ra
nguyên
nhân của nó, làm Gấu nhớ tới cái vụ nhà văn Phi châu da đen Chinua
Achebe chửi
Conrad là một tên thực dân khốn kiếp, một tên phân biệt sắc tộc
[racist], do
cái cách mà ông ta mô tả người Phi Châu: như những con vật!
Mấy đấng Yankee
mũi tẹt hải ngoại, khi viết về chuyện băng hoại đạo đức ở trong nước,
cứ làm
như đang mô tả về một xứ sở đếch có mấy đấng đó ở trong đó.
Cái đó cũng làm Gấu
tởm!
Sao ghét talawas
*
Ha
Jin khởi sự nghề văn [viết
một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà ông gọi là sự bắt
đầu cuộc đời
của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu nhương’ [‘source of
all
the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông là một bài thơ,
“The
Dead
Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho một xưởng thơ,
poetry
workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa bài thơ cho
Jonathan
Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris Review. Ông này vồ
ngay lấy,
in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin gia nhập chương
trình
MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston.
Tốt nghiệp, đi dậy ở Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết
truyện ngắn,
tiểu thuyết, được mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery
O’Connor
Award dành cho truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The
National Book
Award.
Vào cái thời ông sống dưới chế
độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào mà trở
thành không còn bị tẩy não?
[How did you become un-brainwashed?]
Đó là một tiến trình dài. Thoạt
đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới TQ: như hầu hết
những người
TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở cái phải, cái đúng của
cách mạng
và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại Đại học Shandong, tôi
bắt đầu đọc
một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần nhận ra có rất nhiều đường
hướng
giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống khác hẳn [người TQ]. Và,
viết bằng
một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Tại sao những cuốn sách
của ông
lại bị biếm [banned]?
Tôi viết về những đề tài cấm
kỵ: Tibet,
Cuộc Chiến Korean, Cách Mạng Văn Hóa, cú Thiên An Môn. Sau cú TAM, tôi
trở thành
một gã lớn họng, a outspoken…. Tôi chẳng hề muốn dính đến chính trị,
nhưng những
nhân vật của tôi chạy trời không khỏi nắng [my characters exist in the
fabric
of politics]. Nói vậy để thấy rằng, thật vô phương tránh né chính trị,
nhất là ở
TQ.
*
Sự thực mà nói, Gấu chưa hề đọc
được bất cứ một nhà văn Mít, Bắc Kít, trong nước cũng như hải ngoại,
dám nhìn lại
chính họ, như những Đại Hán, thí dụ, Ha Jin, Ma Jian… và
nhất là Cao Hành Kiện.
Có lần Gấu đành phải
phán thật khốn nạn, miệng họ đều có mùi chiến lợi phẩm ["phẩn" cũng
được!], thành thử không làm sao
cất lên tiếng nói, hay viết ra như những đấng Đại Hán trên, là vậy!
*
Giấc mơ giải
phóng Miền Nam thống nhất đất
nước là giấc mơ tuyệt vời nhất của Miền Bắc, và nó càng thêm tuyệt vời
khi rong
ruổi với giấc mơ Mác Xít về một con người hoàn toàn, l’homme total, con
người
mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nằm dưới đáy sâu lịch sử của một miền đất,
nằm nơi
đáy sâu của bất cứ một con người Miền Bắc, vừa đẻ ra là đã có rồi, kể
từ khi có
Đàng Trong, còn là con thú săn mồi sống mà nhân loại có từ thời ăn lông
ở lỗ,
và cùng với con thú đó, là cơn đói khát, ao ước được thoả mãn, thành
thử
rong ruổi với cái tốt, còn là cái xấu, cái đại ác của một miền đất, quá
cằn cỗi
vì thiên nhiên khắc nghiệt ảnh hưởng tới lòng người hà khắc, chai đá.
Tới thời điểm 30 Tháng Tư, thì
cái tốt mất hết, chỉ còn cái xấu, con thú xổ
chuồng, khi đẩy được Miền Nam vào thế bại trận, biến cả một miền đất
thành
chiến lợi phẩm. Đó là sự thực về cuộc chiến, theo Gấu.
Câu nói của DVM, chúng tôi chờ
mấy ông để bàn giao, và hành động trước
đó, đuổi
Mỹ ra khỏi Miền Nam trong vòng 24 tiếng, bắt VNCH bỏ súng, nói lên tấm
lòng của
người Miền Nam, nhưng câu nói của Bùi Tín, cũng nói lên "tấm lòng"
của người Miền Bắc. Sự thực của cuộc chiến, chỉ cần hai câu nói, là quá
đầy đủ!
Gấu này tin rằng, ngay trong
đám tinh anh
của sĩ phu Bắc Hà cũng không nhận ra cái phần đẹp nhất của giấc mơ giải
phóng
Miền Nam của Yankee mũi tẹt, chính vì vậy mà DTH cho rằng, đây là cuộc
chiến
ngu xuẩn nhất của dân Mít.
Bạn phải nhìn ra cái phần đẹp nhất của nó, thì mới có thể tưởng niệm
những liệt
sĩ của Miền Bắc, như nữ thi sĩ Xuân Quí, như Đặng Thùy Trâm được. Và, ở
bên kia
thế giới, họ mới bớt đau lòng.
Giấc mơ đẹp biến thành hiện thực khủng khiếp, chính là do Cái Độc Cái
Ác của
một miền đất mà ra.
Chính Cái Độc, Cái Ác này đã đẩy họ vô chiến trường, như chính họ thú
nhận
trong nhật ký. Họ quá tởm nó, mà bỏ Đất Bắc, một phần.
Sở dĩ Lời Dối Trá được muôn người một một tin theo, ấy chính là vì nó
hợp với
giấc mơ của muôn người
Gấu đã mường tượng điều này, khi viết về bài
thơ Điện Biên của Tố Hữu:
"Balzac mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau
những loa dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật
trong
tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta
phải hiểu
như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất
Điện
Biên.
Như chúng ta đều biết, giấc mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là
những cay
đắng giấu kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.
PXA, đến giờ chót, đi không
được, là cũng vì giấc mơ thất bại đó, chắc hẳn?
Đỉnh
Cao Chói Lọi
Sao ghét talawas
Cái sự bành
trướng về phía Nam
là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng
nơm nớp
hai hiểm họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông
Hồng nhỏ
quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng
co lại vì
bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng
chặn hết
mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ
khi có
Đàng Trong, là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất
Hứa. Thành
ra giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc
Kít.
Nhưng không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái
Độc, Cái
Ác của một miền đất.
Chỉ đến khi lấy được Miền Nam
thì Cái Ác mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của
mày, vợ
con của mày, của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của
chúng ông,
tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!
Anger of
Exile
"Wherever I am, Germany
is"
Thomas Mann
Gấu ở
đâu Mít ở đó!
And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.
But the
hills are still the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed
behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at
last
And learnt what is meant
by home.
Derek Mahon
Giận dữ lưu
vong
Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu đó
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại đó
Và sống với Xề Gòn từng trận hoả tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và hiểu ra được, nhà là cái quái gì!
Romania
Herodotus once said that
Our ancestors, the Tracs
Might have become
all-powerful
If each did not against the
other fight.
But for them, there was never
a desire for unity.
Gods in vain have told them
to relent.
They have fought, and fight
again.
We, descendants of their
blood,
Have walked their roads for
centuries.
But never, and nowhere
Have we found the healing
flowers.
To argue is our way
as their cursed schemes
remain.
We are wedded to the
conflicts
That Herodotus knew well.
Alexandru Cetateanu
Asia Literary Review, Winter 2009
Ba Lan/Mít
Horodotus có lần nói
Tổ tiên chúng ta, giống Tracs
Đúng ra là đã hùng cường vô cùng
Nếu họ đừng người nọ choảng
người kia
Đối với họ, chẳng có ước muốn
thống nhất
Ông Trời năn nỉ họ đừng có đánh
nhau nữa, cũng chẳng ăn thua gì
Họ cứ đánh nhau, đời này qua đời
khác
Chúng ta là hậu duệ của họ
Chúng ta bước những con đường
của họ hàng bao thế kỷ
Vậy mà chẳng bao giờ, chẳng ở
đâu chúng ta tìm thấy những bông hoa chữa lành vết thương
Chỉ thấy những bông hoa ‘đường
ra trận mùa này đẹp nắm’!
nhớ. người
năm
thứ năm
giọt nắng. choàng nụ. hôn
rằng. đôi môi xuân. nở
ngày. heo may. mắc cở
lẩn. theo mây vu. vơ
rằng. kéo màn. khung cửa
ngập những. hạt phù du
gió. lộng mùa. con gái
xấn xổ. xuân. con trai
cây. hí mắt tìm. ai
mưa. phất phơ. lật ngửa
giữa lòng. cỏ mơ. màng
rằng người. đi xa. lắm
cũng là. vừa tàn. đông
chim du di. bay. ngược
người. thở. ra nụ. cười
vòng tròn. nối tròn. vòng
cô độc. hoàn cô độc
rằng. chỉ là. cuộc chơi
một. hai. ba. xuân. ngã
Đài Sử
Paul
Celan và những người
dịch ông
Paul Celan and his
translators
J.M. Coetzee
Từ 1938
cho tới khi tự trầm vào
năm 1970, Celan làm chừng 800 bài thơ bằng tiếng Đức; trước đó, là cả
một khối,
a body, bằng tiếng Romania.
Sự công nhận tài năng của ông cũng sớm sủa, ngay từ 1952, khi xuất hiện
Mohn
und Gedachtis [tên tiếng Anh, Poppy and Memory], ông củng cố
tiếng tăm
của mình
như là một trong những thi sĩ trẻ viết bằng tiếng Đức, với Sprachgitter
(Speech
Grille, 1959), và Die Nietmandsrose
[The No-One’s Rose, 1963). Thêm hai
tập xuất
hiện khi ông còn sống, và, ba, sau khi ông mất. Mảng thơ muộn, lệch
điệu - ngả qua
tả phái- đối với tầng lớp trí thức Đức
sau 1968, cho nên không được hồ hởi đón nhận.
Về danh tiếng quốc tế của ông,
cho tới 1963, thiên hạ dễ dàng tiếp cận thơ ông, Tuy nhiên mẻ thơ muộn
thật khó
đọc, có thể nói, tối tăm. Đám phê bình gọi thơ hũ nút, do cái phần biểu
tượng bí
hiểm và những qui chiếu mang tính riêng tư, cá nhân. Ông la bai bải:
“Làm gì có
cái chuyện hũ nút”. “Đọc! Tiếp tục đọc, cái hiểu tự nó mò tới” [“Read!
Just keep
reading, understanding comes of itself”]
Hũ nút đúng điệu thơ Celan, là
bài thơ in sau khi ông mất, vô đề, tôi [Coetzee] trích dẫn ở đây theo
bản dịch
của John Felstiner:
You lie
amid a great
listening,
enbushed, enflaked.
Go the
Spree, to the Havel,
go to the meathooks,
the red apple stakes
from Sweden
-
Here
comes the gift table,
it turns around an Eden
-
The man
became a sieve, the
Frau
had to swim, the sow,
for herself, for no one, for
everyone -
The Landwehr Canal
won't make a murmur.
Nothing
stops.
Ở cái mức thô thiển nhất của nó, bài
thơ nói về cái gì vậy? Thật
khó nói,
cho tới khi có
người may mắn vớ được tí thông tin, do chính Celan xì ra cho
nhà phê
bình Karl Liebknecht. Cái cô phải bơi đó, là Rosa
Luxemburg. “Eden” là tên khu nhà xây trên khu đất hai nhà hoạt động bị
bắn vào
năm 1919, mấy cái móc treo thịt là ở Plotzensee, bờ sông Havel River,
nơi mấy kẻ
tự coi là những sát thủ tính làm thịt Hitler bị móc lên, vào năm 1944…
Từ những
thông tin như vậy, bài thơ ló dạng, như là một bình luận bi quan về sự
tiếp tục sát nhân của cánh hữu ở Đức, và sự câm nín của người Đức về
chuyện đó.
Bài thơ Rosa Luxemburg trở thành
một locus classicus nho nhỏ, triết
gia Hans-Georg Gadamer sử dụng nó để bảo vệ Celan, chống những cáo buộc
thơ hũ
nút; ông khẳng định, bất cứ một độc giả đầu óc cởi mở, chịu hấp thụ,
chịu cảm
nhận, receptive, thủ sẵn một nền tảng văn hóa Đức là có thể hiểu được
điều quan
trọng cần hiểu, trong thơ Celan, chẳng cần sự giúp đỡ nào khác, và,
thông
tin nền tảng, background information phải coi như là thứ cấp, second
place, so
với “điều bài thơ [tự thân] hiểu” (“what the poem [itself] knows).
Coeztee viết, lời phán của
Gadamer can đảm, nhưng, thua, [Gadamer’s argument is a brave but losing
one].
Paris Review 4
5 năm TTT ra đi
ONE DAY
IN THIS EPOCH, THE
MID-FIFTIES, OLGA IVINSKAYA received a phone call from
her lover, Pasternak. His voice sounded shaken and he began to speak in
a voice
choked by tears. 'What's wrong?" she asked in alarm. "He's dead, he's
dead, I say!" he groaned several times over.
He was speaking about Yuri
Zhivago. The harrowing chapter in which he suffers a fatal heart attack
on a
tram (not far from where later a so Pasternak would die at his car
wheel) was
now finished; and soon the whole novel would be completed.
Art, he wrote, is always
meditating upon death and thereby creating life.
D.M. Thomas: Solzhenitsyn
Một
bữa, trong cái thời kỳ
này, vào giữa thập niên 1950, OLGA IVINSKAYA nhận được cú điện thoại
của người
yêu là Pasternak. Giọng ông run rẩy, như sắp bật khóc.
-Chuyện gì thế anh?
Nàng hoảng hốt hỏi.
-Ông ta chết, ông ta chết
rồi.
Nhà thơ
muốn nói tới nhân vật
của mình là Bác sĩ Zhivago. Chương sách viết về cái cú đau tim quật ngã
ông
trên chiếc xe điện (cũng không xa nơi sau này đứa con trai của
Pasternak bị xe
cán chết), vào lúc này, kể như xong.
Nghệ thuật, Pasternak viết,
luôn là suy tư về cái chết để sáng tạo ra đời sống.
*
Sau này, nếu có ai còn nhớ
cái đám Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC, chắc chắn là sẽ qua hình ảnh của
Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, bỏ chạy thoát cuộc
chiến, nhưng lại mò về để chết lãng nhách
vì bị lầm là Cộng Quân.
Và như thế, chắc chắn là hậu
thế sẽ tha thứ cho chúng!
Bởi vì sẽ chẳng ai còn nhớ,
thí dụ một tên chó săn, ”người của chúng ta ở Paris”, đệ tử của bạn của Gấu, là Cao
Bồi!
Hà, hà!
*
The
explosion of grief and celebration at
Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history"
Sự
bùng nổ của nỗi đau [về sự ra đi của nhà thơ], và của ngợi ca [thơ ca
của ông],
tại đám tang Paternak vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử
Liên Xô.
Đây là một cách rất Nga, để nói
lời giã
biệt với một thi sĩ lớn. Có vẻ như, một sự tưởng nhớ như thế chỉ có thể
xẩy ra
ở một xã hội mà sự đàn áp quá dữ dằn, khốc liệt; tuy nhiên điều này
cũng không
phải tuyệt đối. Dưới chế độ Stalin, không thể xẩy ra một trường hợp như
thế.
Trong những chế độ dân chủ tiêu thụ êm ả của Tây Phương, dân chúng chắc
là
chẳng muốn như thế, và cũng chẳng cần như thế, và cũng chẳng cảm thấy
cực kỳ
cần thiết như thế.
Nhưng có lẽ chúng ta phải đọc cả chương
sách Cái chết của một thi sĩ, trong cuốn Solzhenitsyn, thế
kỷ ở trong
ông ta thì mới có một cái nhìn tổng quát vấn đề.
Pasternak đã từng bị nhà nước Liên Xô hành hạ đủ điều, khi ông được
Nobel. Và
đây là cách trả lời của dân chúng Nga, đối với nhà nước CS của họ.
Đâu phải tự nhiên khi TCS mất đi, cả thành
phố Sài Gòn [lập lại, thành phố Sài Gòn] đổ xô ra đường tiễn đưa ông.
Philip
Roth once contrasted,
slightly enviously, the American writer, who can say anything he wishes
but is
usually ignored, with his Eastern Bloc counterpart, who, since nothing
is
permitted to him, receives respectful attention for everything he
writes.
Roth có lần lầu bầu, giả như mình là nhà văn Mít nhỉ!
Bởi vì theo ông, nhà văn
Mẽo tha hồ viết, cái gì cũng được, nhưng đếch ai thèm để ý tới, còn Mít
ư, viết
cái chó gì cũng xúm lại đọc!
Chứng cớ?
Chợ Cá đó!
Hà, hà!
*
“Cái chết của Lucien de
Rubempré là một bi kịch lớn, the great drama, trong đời tôi”, Oscar
Wilde nhận
xét về một trong những nhân vật của Balzac. Tôi luôn coi lời phán này,
this
statement, là thực, literally true. Một dúm nhân vật giả tưởng đã ghi
dấu thật
đậm lên đời tôi hơn những con người bằng xuơng bằng thịt, bằng máu bằng
mủ mà
tôi đã từng quen biết.
Llosa
mở ra cuốn tiểu luận
của mình The Perpetual Orgy, Đốt
đuốc chơi Em, như trên. Cả một cuốn tiểu luận,
dành cho Em Bovary, chưa đủ, sau ông còn viết cả một cuốn tiểu thuyết, Gái Hư,
The Bad Girl, để vinh danh Em! (1)
(1) Sự
thực, là để vinh danh
Flaubert, và cuốn Giáo dục Tình cảm:
At
one point, as if aware
of something missing in the substantiation of his heroine's allegedly
irresistible charm, Vargas Llosa comes up with a Vietnamese orphan,
unable to
talk since his traumatic childhood. The mute boy meets the bad girl and
lo, he
speaks. It is a moment of unforgivable schmaltz that merely makes
Otilia seem
more improbable than ever.
The name "Mme
Arnoux", Otilia's third alias, is also that of the object of Frederic
Moreau's infatuation in Flaubert's Sentimental Education. Vargas Llosa has
written extensively of his love of Flaubert, and The Bad Girl is in
part an
homage to Sentimental Education. Some elements, such as the
tenuously
incorporated running commentary on Peruvian politics, really only make
sense if
understood as allusions to the original - in this case the backdrop of
French
political turmoil. Stylistically, however, the book couldn't be less
like
Flaubert, whose injunctions against cliche, generic description, idees
recues,
it flouts with apparent glee, tossing out such lines as "He was the
incarnation of the careless, absent-minded intellectual" by way of
characterisation, and off-the-peg accessories (high-end, of course) -
Guerlain
toothbrush, Vuitton dressing case - by way of furnishings.
Source
Nhân
vật Kiệt, trong Một Chủ
Nhật Khác, chắc chắn sẽ còn sống mãi với độc giả Mít, như một
tay Bắc Kít di
cư, bỏ chạy Đất Bắc một lần, rồi bỏ chạy cuộc chiến, rồi trở về, để
chết cùng
với Miền Nam mà anh ta đã chọn.
Liệu có thể viết như thế, về
Kiệt?
*
Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu
Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà
mẹ ngã
bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ
Thùy ở
nhà. Thùy gọi Kiệt về. Kiệt chần chừ: về để làm gì? Làm gì ở đấy? Em
nhìn chung
quanh em xem? Sang với anh. Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể
bỏ em;
không phải anh chọn lý tưởng hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ
chọn em,
một mình em và đứa con sắp chào đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng
kêu xốn
xang của em sao?
Kiệt
nghe tiếng kêu xốn xang
của Thùy. Chàng trở về.
Một
Chủ Nhật Khác
Nhà thơ
Hữu Loan đã ra đi
Kỷ
Niệm
Bữa nay
đẹp trời, nắng như nắng
Sài Gòn, [làm sao mà như được!], Gấu đi lang thang, vớ được số The
Paris Review,
Winter 2009, ngỡ ngàng, vì cứ nghĩ ba thứ này tuyệt bản ở Toronto,
do
cái vụ suy thoái kinh tế.
Hồi Gấu mới qua, 1994, thành
phố hiển hách với một vài tiệm sách cực kỳ lâu đời của nó, sách báo cỡ
gì cũng có, rồi cứ thế
mất dần,
như nó muốn biểu Gấu, mi già rồi, sách mới báo làm gì nữa!
Hay là nó muốn nói, như cô bạn
đã từng nói, cũng những ngày tháng mới gặp lại đó, đọc như vậy đủ rồi,
viết về tôi đi!
Ui chao có mấy kỷ niệm về cô
bạn, thật tuyệt cú mèo, mà cứ không dám viết, vì sợ uổng!
Trong
số báo có hai bài phỏng
vấn thật tuyệt, một, Ha Jin, the Art of the Fiction, và một, Mary Karr,
the Art
of the Memoir.
I am
profoundly
devoid of cool. I remember a poem about a suicidal dog, which began,
‘Don’t do
it, dog.’
[Cái này là dịch ẩu:
Tôi chẳng còn tí ‘cool’(nghĩa đen: mát mẻ) nào.Tôi nhớ tới một bài thơ
về một
con chó tự tử, bắt đầu bằng, “Đừng làm thế, chó". Nếu thực tình mày
muốn như vậy,
thì chờ tao kiếm tí lá mơ đã!]
Mary Karr
The Art of the Memoir
Winter 2009
CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ
phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp
thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ
thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình
thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nào lòng bỗng
bâng khuâng
em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm
mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc bên đồi biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên
Vũ Hữu Định (1942-1981)
Trích blog Mang Viêng Long,
Note:
Từ đắt nhất, là
từ “lắc”, trong "mai xa lắc'
Câu thơ
Da em mềm như mây chiều
trong
Gấu nghe hát,
thành ra:
Nên em buồn như mây chiều trôi
Đến lúc coi lại, thì trong, chứ không trôi.
Lại thắc mắc, mây trời trong thì làm sao mà buồn?
Đến giờ thì mới biết, nó là:
Da em mềm như mây trời trong!
Foucault
viết, vào thời hoàng
kim của nghệ thuật, con người ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật: Tại
sao
trời mưa? (1), thí dụ vậy. Đó là thời kỳ Barthes gọi là ‘nhà văn không
văn chương’,
cứ viết ra chữ là thành văn rồi.
Văn
chương sau này, theo
Foucault, bắt đầu bằng cơn điên cuồng gọi tên sự vật, với sự tiếp tay
của con
quỉ tương tự, le démon de l’analogie, của những từ "như, hình như, có
vẻ…."
Hình
như là tình yêu!
(1) Truyện đầu tiên, tôi chẳng
còn nhớ nổi
tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, trang văn học nghệ thuật cuối tuần,
do nhóm
chúng tôi chủ trương, khi đó đều còn học trung học, có Huỳnh Phan Anh,
Dương
Trần Thảo, tức Dương Văn Ba, sau làm dân biểu, làm báo Tin Sáng, và
tôi. Chính
trên trang báo này, Huỳnh Phan Anh và Dương Trần Thảo đã cho đăng lá
thư gửi
nhóm Sáng Tạo, tranh luận về "nghệ thuật hôm nay" (bạn đọc có thể đọc
bài viết này trên trang Tin Văn do Nguyễn Quốc Trụ phụ trách). Lúc đó,
nhóm
chúng tôi chủ trương nghệ thuật hôm nay là nghệ thuật mô tả cuộc sống
như nó
là, gợi ý từ cụm từ "Tel Quel" của Pháp. Truyện ngắn đầu tay của tôi,
lạ lùng thay, lại rất hợp với chủ trương của nhóm (Tôi còn nhớ, HPA gật
gù,
đúng là "tel quel" thật!). Câu chuyện một anh chàng chủ nhật khơi
khơi đi ra đường, rồi khơi khơi ghé nhà em, nhìn em nhặt rau, rửa chén,
rồi
phơi phới ra về. Ra ngoài đường, trời mưa, và anh chàng băn khoăn hỏi
trời, hỏi
đất, hỏi người qua đường, hà cớ chi mà trời mưa?
Nhật ký Tin Văn
|
|