|
Sao
bac ghet talawas...?
Gấu thực sự quá tởm
mấy đấng
Yankee mũi tẹt thì đúng hơn. Khi diễn đàn này mới xuất hiện, Gấu là
người đầu
tiên viết, trong khi những người khác còn nghi ngại, ấy là vì Gấu nghĩ,
đây là
thời điểm để nối lại mối nối bị đứt với Đất Bắc của Gấu.
Liền
sau đó, là thất
vọng, nhưng
vẫn hy vọng, rồi hoàn toàn tuyệt vọng.
Một
khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận
về cái chuyện ăn cướp Miền Nam,
thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính
cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên
tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không
biết đến
bao giờ mới thoát ra được.
Có
vẻ như sự kiện chúng chẳng
thể nói được điều này, còn là do mặc cảm dốt nát. Cả một diễn đàn như
thế,
trong mấy năm trời như thế, đâu có để lại một cái gì cho ra hồn, ngoài
mớ văn học
Miền Nam
được họ sưu tầm?
Cả
một đám làm cho Bi Bi Xèo
như thế, mà dịch “Bán Đảo” Ngục Tù? Khi có người chỉ cho thấy sự dốt
nát, thì cũng
không biết lên tiếng cám ơn? Chúng 'vô học' đến mức như thế thì làm sao
khá cho được?
Cái
sự băng hoại đạo đức, ở
đám chóp bu như đám này, mới đáng sợ, và vô phương cứu chữa.
Kính.
NQT
*
Cái sự băng hoại đạo đức rõ ràng
là do sự dối trá ngày nào mà ra, tìm nguồn cơn ở đâu nữa? Arendt đã
vạch rõ ra điều
này, trong “Từ dối trá đến bạo lực”. (1) Chỉ một khi dám nhìn thẳng vào
sự
thực, thì
mới có được bước khởi đầu, trong cái sự khôi phục lại niềm tin của dân
chúng, và
từ đó, mới bước tiếp được. Phải đem đến cho chủ nghĩa xã hội Mít một
cái bộ mặt
con người, thì lúc đó mới bắt đầu được.
[Chủ
nghĩa xã hội với bộ mặt
nguời, le ‘socialisme à visage humain’ là một thuật ngữ dùng trong toan
tính huỷ diệt tính phi nhân mà chủ nghĩa xã hội mang tới cho nhân loại].
Que
justice soit faite, même si
le monde doit périr.
Phải
có công lý đã, cho dù thế
giới phải tiêu táng thòng!
Không
lẽ cứ để cái thế giới băng
hoại đó còn mãi?
(1) Du mensonge à la
violence [nguyên tác tiếng Anh: Crises of the republic, Guy Durand
dịch,
nhà xb Calmann-Lévy, 1972, tủ sách Agora]
*
It will not, I
believe, be possible for European culture to regain its inward
energies, its
self-respect, so long as Christendom is not made answerable to its own
seminal
role in the preparation of the Shoah [the Holocaust]; so long as it
does not
hold itself to account for its cant and impotence when European history
stood
at midnight.
G.
Steiner. The
Passion Spent. Introduction.
Văn
hóa Âu châu chẳng thể nào có lại được nội lực, niềm tự trọng của nó,
một khi tín hữu Ky Tô chưa trả lời về vai trò phôi thai của họ trong
việc sửa
soạn Lò Thiêu, một khi chưa tính sổ với chính họ, về cái sự dối trá,
bất lực, và
ngậm miệng ăn tiền giữa đêm trường Nazi của lịch sử Âu Châu.
Cái vụ đạo đức băng hoại mà
cái diễn đàn blog gì gì đó đang bàn tới, và đang cố tìm ra nguyên nhân
của
nó, làm
Gấu nhớ tới cái vụ nhà văn Phi châu da đen Chinua Achebe chửi Conrad là
một tên
thực dân khốn kiếp, một tên phân biệt sắc tộc [racist], do cái cách mà
ông ta
mô tả người Phi Châu: như những con vật! Mấy đấng Yankee mũi tẹt hải
ngoại, khi
viết về chuyện băng hoại đạo đức ở trong nước, cứ làm như đang mô tả về
một xứ
sở đếch có mấy đấng đó ở trong đó. Cái đó cũng làm Gấu tởm!
*
Trong một bài viết thật cũ,
về Hà Nội, Gấu có kể, một bà cụ di cư 1954, khi nghe tin Mẽo dội bom
Miền Bắc,
giật mình lẩm bẩm, thế này thì làm sao ông bà nhà mình ngủ yên.
Câu chuyện đó, không phải Gấu
phịa ra, mà là có thật, chính Gấu đã được nghe, và sau này, khi ra hải
ngoại
rồi, cứ mỗi lần đọc một cái thiên tai, vài cái nhân tai ở trong nước,
và qua
cái giọng kể, giọng viết, hoặc vui mừng [thí dụ trên một tờ báo Chống
Cộng Điên
Cuồng] hoặc thương xót, là Gấu bèn nhớ ra khuôn mặt của bà cụ già Miền
Bắc theo
há mồm ra vịnh Hạ Long, rồi lên tầu Đệ Thất Hạm Đội vào Nam, nhớ về mồ
mả ông
bà còn để lại ở Miền Bắc, chỉ nhớ có thế, ngoài ra bỏ hết.
Đọc những bài tranh
luận, về
băng hoại đạo đức, ở trong nước, ngay cả của mấy ông mấy bà thuộc phe
nhà
nước,
hay gốc gác rau muống, hay chính gốc Yankee mũi tẹt đã từng xẻ dọc
Trường Sơn,
chỉ để ăn cướp Miền Nam, thì Gấu này đều chẳng thể nào thấy ra được cái
nét mặt
bùi ngùi của bà cụ Bắc Kỳ di cư ngày nào. Quái thế!
Cuộc
tranh luận của họ chỉ là
để kèn cựa giữa một anh VC Miền Bắc, với một anh VNCH đã mất VNCH, thí
dụ vậy!
Vậy
mà sao không tởm?
Có ông chưa từng sống ở Miền Nam ngày nào, mà dám so sánh hai chế độ
nhà thương thí của hai miền!
Vả chăng, không thể nào so sánh được. Gấu sẽ giải thích lý do tại sao.
*
Mais
les circonstances m'ont aidé. Pour corriger
une indifférence naturelle, je fus placé à mi-distance de la misère et
du
soleil. La misère m'empêcha de croire que tout est bien sous le soleil
et dans
l' histoire; le soleil m'apprit que l'histoire n'est pas tout. Changer
la vie,
oui, mais non le monde dont je faisais ma divinité. C'est ainsi, sans
doute,
que j'abordai cette carrière inconfortable où je suis, m'engageant avec
innocence
sur un fil d'équilibre où j'avance péniblement, sans être sûr
d'atteindre le
but. Autrement dit, je devins un artiste, s'il est vrai qu'il n'est pas
d'art
sans refus ni sans consentement.
Albert Camus: L’Envers et l’Endroit.
Préface.
Nhưng
hoàn cảnh đã giúp tôi. Để
sửa chữa một sự dửng dưng tự nhiên, tôi để mình ở giữa sự khốn
cùng và mặt
trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin rằng mọi chuyện đều tốt đẹp dưới
ánh mặt trời
và trong lịch sử, mặt trời làm cho tôi hiểu rằng lịch sử không phải là
tất cả.
Đúng
là tâm trạng của Gấu, Bắc
Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm mặt trời!
*
Trước
khi Mẽo đổ quân vô Miền Nam, nền kinh tế, cuộc sống Miền Nam rất ổn
định, các nhà thương thí,
các trường
công lập, các hạ tầng cơ sở… không cần đến
viện trợ Mẽo mà vẫn hoạt động. Đồng lương công chức bảo đảm cuộc sống,
không ai
nghĩ đến chuyện tham nhũng, ăn cắp của công… Gấu ra trường, đi làm rất
sớm, nên
rất rành chuyện này. Thời ông Diệm phải nói là hoàng kim thời đại của
Miền Nam. Tiền ông
Diệm như dân Miền Nam
thường nói, rất có giá. Gấu nhớ, ngay cả sau này, khi ông Diệm mất,
thời thủ tướng
Nguyễn Văn Lộc, ông này một lần lên TV trình bầy rõ ràng, Miền Nam
không hề cần
đến, không hề ngửa tay xin Mỹ viện trợ, và sở dĩ Mỹ đổ tiền vô Miền Nam
vì phải nuôi
quân đội VNCH chống CS. Người Mỹ không hề có dã tâm ăn cướp Miền Nam,
họ nhẩy vô
Miền Nam chỉ vì sợ mất phần đất này, và sau đó, tới phần đất khác.
Cái sự tham nhũng, băng hoại đạo
đức sau đó, hoàn toàn do cuộc chiến gây ra, và mọi người đều nhìn rõ,
Miền Bắc
sẽ thắng. Một cách nào đó, Miền Nam, ngay cả khi tham
nhũng, băng
hoại… gì gì đó, là cũng nghĩ theo một chiều hướng ‘tốt’ cho VC. Thế mới
thảm! Mẽo
sẽ cút, chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất, và cả hai miền sẽ
bắt đầu xây
dựng lại tất cả!
Còn
cái chuyện khối CS viện
trợ cho Miền Bắc, theo Gấu, là do cái hợp đồng mà Miền Bắc đã ký kết
với Quỉ Đỏ, đại khái như vầy: Đàn em sẽ đánh Mẽo, cho nó chết mẹ, còn
các đàn
anh rảnh rang tha hồ chiến thắng trên khắp thế giới, thằng sen đầm quốc
tế sa lầy
ở VN rồi! Có thể nói, VC Miền Bắc bán máu nhân dân cho Quỉ Đỏ.
Vậy mà sau này, TQ thí dụ, cũng có cho không, biếu không đâu!
Thành thử cái vụ Gấu
gợi ý,
chính Miền Bắc tìm đủ mọi cách nhử Mẽo vô Miền Nam, là chuyện rất ư
hữu lý. Và cái
vụ đầu độc tù Phú Lợi là hoàn toàn do VC nằm vùng phịa ra!
Tuy nhiên, chẳng bao giờ dân Mít chúng ta biết được sự thực, có đúng
như thằng cha Gấu bói mu rùa, trong khi
Mẽo, khi phịa ra cú Maddox, là đã ghi vô "sổ cái" để sau này, mọi người
đều
biết, và lịch sử sẽ phán đoán thế nào thì là chuyện của hậu thế. Nếu
nhờ một cơ may nào đó, thí dụ đàn anh Liên Xô cho khui hồ sơ mật của
họ liên quan tới vụ nhử Mẽo này, biết đâu đấy, lúc đó nhân dân Mít mới
hiểu ra
và đời đời nhớ ơn Yankee
mũi lõ, nhờ có mày, mà chúng ông đã thống nhất đất nước! (1)
Bởi vậy thật khó mà
so sánh viện trợ Mẽo cho Miền Nam với viện trợ của
khối CS cho Miền Bắc.
(1) Vụ nhử Mẽo vô, rồi sau đó phát động cuộc thánh chiến, là 'một mũi
tên, bắn hai con chim': Vừa biến thành hiện thực giấc mơ ngày nào họ
Trịnh thất bại, vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vô sản.
*
Cái tay so sánh nhà thương
thí hai miền này, bây giờ Gấu mới được biết chân dung, khi 'ta la bà'
tái xuất
giang hồ. Tay này đã từng hiệu
đính bài dịch
của Gấu, về Rushdie, khi Gấu bài gửi đăng talawas đời cũ.
Lần
đó, Gấu lạ quá, khi thấy
tên nhà hiệu đính ở kế bên tên dịch giả, là Gấu, và tự hỏi, mình có bao
giờ nhờ
ông này hiệu đính đâu, thứ nhất, ông đã từng có tác phẩm dịch thuật nào
hách xì
xằng chưa mà đòi hiệu đính?
Hoá
ra là bài dịch của Gấu có
mấy chỗ dịch sai, và chắc là bà chủ quán cá đã đưa cho ông ta, nhờ đọc
và sửa
giùm, và ông là người hiệu đính!
Cái
công việc này, thú thực,
Gấu, và nói chung, ở Miền Nam trước 1975, giới viết lách không gọi nó
là hiệu
đính, mà cũng chẳng bao giờ gọi là gì cả, bởi vì, đó là công việc của
anh thư
ký tòa soạn, khi nhận bài, hoặc tự mình sửa, hoặc nhờ một người nào đó
trong
ban biên tập, hoặc nhờ một người quen, rành ngoại ngữ, thí dụ, để coi
lại giùm.
Chỉ sử dụng tới từ này, khi một người học trò, một người viết mới, đích
thân
nhờ một vị thầy, một vị đàn anh mà người đó kính trọng, xin thầy, nhờ
anh coi
lại bài viết của tôi. "Coi lại", không có nghĩa, chỉ là sửa chữa những
chỗ
dịch sai, mà có khi còn sửa luôn văn phong, cho chỉnh hơn, bỏ những gì
rườm rà. Hồi đó, Nguyễn Mạnh Côn là người Trần Phong Giao tin tưởng và
nhờ sửa những lỗi tiếng Pháp, khi chuyển dịch, của những người cộng tác
cho tờ Văn, nhưng có bao giờ NMC nhận là người hiệu đính đâu.
Gấu
này chắc chắn cái tay hiệu đính Gấu
không thể dịch hay hơn Gấu được, bởi vì ông ta không phải là người
chuyên
về dịch
thuật. Sửa lại vài sai sót khi chuyển từ ngôn ngữ này qua ngôn
ngữ
khác, chưa đủ để để cái tên hiệu đính của mình vào một bản văn. Đây là
trò khốn
nạn của một tòa soạn, khi muốn làm nhục một người cộng tác.
Lần
đó, Gấu lịch sự cám ơn,
và nghĩ thầm, đám này chơi không được.
Nhà
thơ TTT cũng đã từng làm như thế, cho bài viết đầu tay của Gấu, nhưng
ông phôn cho biết,
sau đó, và
còn giải thích thêm, Gấu lầm, giữa hai từ “climatique”, và
“climatérique”, khi
đọc Faulkner.
Gấu
cũng đã từng làm công
việc này, rất nhiều lần, khi giữ trang VHNT cho tờ Tiền Tuyến. Sở
dĩ tay
Nguyễn Mai quí Gấu, ấy là vì anh ta gửi một bài điểm sách, viết quá dở,
vì chưa
quen, nhưng có mấy nhận xét thật tuyệt, thế là Gấu đành viết lại toàn
bài, xoáy
vào mấy nhận xét quá hay, và anh ta mừng quá,
sau này trả ơn Gấu, bằng cách giới thiệu Gấu với ông Nhàn, và, nhờ
dịch sách
cho nhà xb của ông Nhàn, Gấu thoát chết trại tù VC.
Giỏi
ngoại
ngữ, sửa một hai sai sót khi dịch thuật, vậy mà coi ta là người “hiệu
đính” bài viết
của một
người đã có chút tên tuổi, một việc làm như thế làm nhục người "hiệu
đính", chứ
không phải người "được hiệu đính".
Hay
là Yankee mũi tẹt coi đó
là hiệu đính?
Thú
vị hơn nữa, sau Gấu gửi
bài dịch đó cho ông bạn quí, ông mừng quá, nhất là vì cái chi tiết hiệu
đính
đó, bèn đăng liền tù tì, sướng điên lên, có thằng trị được thằng bạn
khốn kiếp
của ta rồi!
Bởi
vậy, khi đạo đức ở cái đám
chóp bu này có gì đáng ngờ, thì thật là đáng sợ.
Trang Tin Văn từ hồi thành lập đến giờ, có rất nhiều độc giả làm cái
công việc "hiệu đính" Gấu, những lần dịch sai, hiểu sai, hiểu không
tới... vậy mà có ai đòi để... tên kế tên Gấu đâu?
*
V/v đạo đức. Kundera vinh
danh Malaparte, mà không bảnh sao, khi lập lại câu của đàn anh, người
‘hiệu đính’
ông:
Et,
dans le même
et inoubliable chapitre intitulé « Le vent noir », il raconte l'agonie
de son
chien aimé Jego (“De lui et non des hommes, j'ai appris que la morale
est
gratuite, qu'elle est une fin en soi, qu'elle ne se propose même pas de
sauver
le monde [même pas de sauver le monde !) mais seulement d'inventer
toujours de
nouveaux prétextes à son propre désintéressement, à son libre jeu”).
Nhờ con chó, không
phải nhờ con người mà tôi học được rằng, đạo đức thì cho không, và nó
là một cứu
cánh nội tại, và nó cũng đếch thèm để ý đến chuyện cứu vớt thế giới….
*
Hoàng Hưng, một
bolgger trên
talawas, cho rằng, do phế bỏ truyền thống đạo đức, thay bằng
đạo đức cách
mạng, mà gây họa.
Nhìn như thế, chỉ được có một nửa vấn đề. Đạo đức
cách mạng, nhìn theo đúng quan điểm
của Marx, những ý niệm
về con người hoàn toàn, vong thân, đạt thân… thật là quá tuyệt vời, và
hoàn toàn
có thể thay thế đạo đức truyền thống của miền đất Bắc Kít.
Thuỵ Khuê, trong một bài viết
trên net, rfi, về Vũ Trọng Phụng, qua những gì mà ông
này miêu tả, đã nhìn ra cái
bất nhân của vùng đất Bắc, từ thời chưa phế bỏ đạo đức truyền thống,
chưa có chủ
nghĩa Marx:
“Bộ
ba tiểu thuyết then chốt: Giông
tố, Số đỏ
và Vỡ đê, đã xây dựng nên vũ trụ Vũ Trọng Phụng,
một vũ trụ đen
tối mà
con người đối xử với nhau không hơn gì loài thú.
Khía
cạnh bất nhân trong nhân
tính, sau này chúng ta thấy lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp".
Tolstaya cũng đã từng nhận
xét,
cái bất nhân tàn nhẫn, thứ ròng, thì nằm dưới những tầng sâu hoang vắng
của lịch
sử Nga, chứ không phải từ trên trời rớt xuống. Với nước Mít, Cái Ác
ròng của nó
là nằm nơi đáy sâu của đồng bằng sông Hồng. Nhờ giải phóng mà Miền Nam
được nếm mùi, và, nhờ nó mà NNT mới viết
nổi Cánh đồng bất tận!
Lịch sử Việt Nam có một nếp
gấp, ngay khi Đàng Trong xuất hiện. Có Đàng Trong một cái là có giấc mơ
đổi đời,
giấc mơ thoát ra ngoài luỹ tre làng, thoát ra khỏi một miền đất chẳng
còn mầu mỡ
gì nữa trừ Cái Độc, Cái Bất Nhân, Cái Ác. Thành thử, chúng ta phải coi
chủ nghĩa
CS, với những giấc mơ tuyệt vời, không tưởng của nó, là giấc mơ giải
thoát khỏi
cái ác muôn đời của một miền đất, chứ không phải là để đắm chìm mãi
vào. Đám
Yankee mũi tẹt, qua đám tinh anh của nó, gục ngã trước Cái Ác
muôn đời, khi hạ nhục Miền Nam,
biến nó thành
mảnh đất chiến thắng thay vì mảnh đất giải phóng. Nên nhớ, câu nói của
Bùi Tín, một phần, là từ đáy lòng của ông bộc phát ra, chứ không hoàn
toàn
là chủ trương của Đảng. Sau này, đám VC cố sửa nó, bằng những câu nói
khác, thí dụ của Lê Duẩn, Gấu nhớ đại khái, bây giờ là lúc xây dựng cái
nhà Mít, thay vì xúm nhau ăn cướp hôi của, qua các chính
sách đánh tư sản mại bản, tống đi Kinh Tế Mới, đi tù cải tạo Siberia
Mít, nơi Cổng Trời.... hay của Sáu Dân, một
triệu người vui, thì có một triệu người buồn....
Không phải tự nhiên mà mấy
đấng Cu Sài nhỏ máu ngón tay viết đơn xin vô Nam
chiến đấu. Trong hành động đó,
có giấc mơ đổi đời, lột xác của người dân quê, đời đời kiếp kiếp, khốn
khổ khốn
nạn, của cánh đồng xơ xác, của con sông Hồng, trong số đó, có cả anh
Chí Phèo,
và hậu duệ của anh ta, những đứa con của lò gạch ngày nào.
Thành thử không thể đổ hết
tội ác lên chủ nghĩa CS được.
Communism
calls to
the nobler impulses of the human
heart, yet in its nature there is something that "breeds lies, makes
people lie and twist facts, imposes deception." Why should that be so?
Lessing cannot say. "These are deeper waters than I know how to plumb"
(p. 65). What she does know is that she gave her allegiance to the
Party. The
Party chose her to visit Russia
as a member of what was supposed to be a representative delegation of
British
intellectuals and she went. Out of dedication to the greater cause, she
did not
afterward publish the truth about what she saw in Russia,
even though she (now)
records that at least one ordinary Russian was prepared to risk his
life to
tell the delegation that what they were being shown was a lie. She was
no mere
rank-and-file member: she served on the committee of a Party Writers'
Group.
("Accustomed as I am to being in a false position - sometimes I think
it
was a curse laid on me in my cradle - this was the falsest”, she writes
forty
years later.) She even wrote fiction according to the Party's
prescription -
for instance, the oft-anthologized story “Hunger” ("I am ashamed of
it," she writes now) (pp. 95, 78).
THE
AUTOBIOGRAPHY OF DORIS LESSING
Chủ
nghĩa CS, mặt trời chân lý chói qua tim,
làm tim đập
nhoi nhói những nhịp đập thật bảnh, thật người, nhưng quái quỉ thay, có
một cái
gì thật tởm lợm ở trong nó, nó nuôi dưỡng dối trá, khiến người ta dối
trá, vặn
vẹo sự thực, đặt để lường gạt. Lessing tự hỏi, bà tự trả lời, nước
sâu quá, gầu
của tôi không làm sao tới.
Coetzee khều nhẹ lại, nhưng bà biết rõ chuyện, nhờ nó
mà bà vô Đảng…
Cái sự Chống Cộng của đám Yankee mũi tẹt hải ngoại, qua diễn đàn tà ma
ác quỉ, có
cái gì đó lấn cấn, y chang thái độ của Lessing. Họ đều đã từng hưởng ơn
mưa móc
của chế độ, đã từng bệ về nhà mình, “cái gọi là” chiến lợi phẩm, sau
khi ăn cướp
được Miền Nam, thành thử há miệng mắc quai. Chắc chắn như vậy.
Liệu chúng ta đã từng, nghe, đọc, một trong những tên này thốt lên, như
Lessing: Tôi xấu hổ vì chuyện đó?
Hình như, độc nhất, chỉ có Bùi Tín, dám nói ra, tôi sám hối?
*
Note: Bài viết đuợc
talawas
post lại.
Bài
viết chưa hoàn tất, và hiện
đang có mấy ý tưởng cũng thú vị, đại khái như sau:
Tại
sao 1954 lại có cú Nhân Văn
Giai Phẩm, mà 1975, chẳng có gì?
Tại
sao diễn đàn talawas đợt đầu,
Gấu coi là thất bại, trong khi BBT lại coi là thành công?
…
Vì
lý do đó, giả như talawas
có ý kiến gì về bài viết, Gấu sẽ vờ, tiếp tục mạch viết.
V/v
Nếu có độc giả talawas ý kiến,
xin miễn xía vô, vì không phải độc giả Tin Văn.
Trân
trọng. NQT
*
Có
một chi tiết thú vị về sự đối đầu cái tôi - cái ta trong cuốn sách
“Giải phẫu cái tự ngã” của chuyên gia tâm thần Nhật Bản Takeo Doi (mà
tôi mới dịch cho NXB Tri thức): các nhà quan sát tâm lý xã hội Nhật
nhận thấy rằng: người Nhật sống trong nước Nhật rất tuân phục kỷ luật
của tập thể “nhóm” - nhiều khi đến mức có thể nói là mê muội, nhưng khi
ra nước ngoài du lịch, họ thường là thành phần “quậy” nhất, có lẽ là để
bù lại sự nhẫn nhịn kéo dài mà mình phải chịu trong vòng cương toả của
nhóm. Phải chăng sự quậy phá mang tên Hoa của ta cũng là một cách giải
toả tâm lý tương tự của người Hà Nội sau những tháng ngày chịu sự cai
quản nhiều khi khiên cưỡng của cả một hệ thống từ nhà trường, đoàn thể,
đến khu phố, làng xóm, gia đình?
Hoàng Hưng [Talawas]
Đúng như thế, nhưng Hoàng Hưng chỉ nhìn thấy một nửa vấn đề. Những ngày
tháng chịu sự cai quản, là vì giấc mơ tuyệt đẹp, giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước.
Chỉ đến khi, người dân thất vọng, vì bị đánh lừa, tới lúc đó, mới có
phản ứng ‘quậy’.
Giấc mơ giải phóng
Miền Nam thống nhất đất nước là giấc mơ tuyệt vời nhất của Miền Bắc, và
nó càng thêm tuyệt vời khi rong ruổi với giấc mơ Mác Xít về một con
người hoàn toàn, l’homme total, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng
nằm dưới đáy sâu lịch sử của một miền đất, nằm nơi đáy sâu của bất cứ
một con người Miền Bắc, vừa đẻ ra là đã có rồi, kể từ khi có Đàng
Trong, còn là con thú săn mồi sống mà nhân loại có từ thời ăn lông ở
lỗ, và cùng với con thú đó, là cơn đói khát, ao ước
được thoả mãn, thành thử rong ruổi với cái tốt, còn là cái xấu, cái đại
ác của một miền đất quá cằn cỗi vì thiên nhiên khắc nghiệt ảnh hưởng
tới lòng người hà khắc, chai đá.
Tới thời điểm 30 Tháng Tư, thì cái tốt mất hết, chỉ còn cái xấu, con
thú xổ chuồng, khi đẩy được Miền Nam vào thế bại trận, biến cả một miền
đất thành chiến lợi phẩm. Đó là sự thực về cuộc chiến, theo Gấu.
Câu nói của DVM, chúng tôi chờ mấy ông để bàn giao, và hành động trước
đó, đuổi Mỹ ra khỏi Miền Nam trong vòng 24 tiếng, bắt VNCH bỏ súng, nói
lên tấm lòng của người Miền Nam, nhưng câu nói của Bùi Tín, cũng nói
lên "tấm lòng" của người Miền Bắc. Sự thực của cuộc chiến, chỉ cần hai
câu nói, là quá đầy đủ!
Gấu này tin rằng,
ngay trong đám tinh anh của sĩ phu Bắc Hà cũng không nhận ra cái phần
đẹp nhất của giấc mơ giải phóng Miền Nam của Yankee mũi tẹt, chính vì
vậy mà DTH cho rằng, đây là cuộc chiến ngu xuẩn nhất của dân Mít.
Bạn
phải nhìn ra cái phần đẹp nhất của nó, thì mới có thể tưởng niệm những
liệt sĩ của Miền Bắc, như nữ thi sĩ Xuân Quí, như Đặng Thuỳ Trâm được.
Và, ở bên kia thế giới, họ mới bớt đau lòng.
Giấc mơ đẹp biến
thành hiện thực khủng khiếp, chính là do Cái Độc Cái Ác của một miền
đất mà ra.
Chính Cái Độc, Cái Ác này đã đẩy họ vô chiến trường, như chính họ thú
nhận trong nhật ký. Họ quá tởm nó, mà bỏ Đất Bắc, một phẩn.
Sở dĩ Lời Dối Trá được muôn người một một tin theo, ấy chính là vì nó
hợp với giấc mơ của muôn người
Gấu
đã mường tượng điều này, khi viết về bài thơ Điện Biên của Tố Hữu:
"Balzac
mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa
dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong
tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta
phải hiểu như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống
ở mảnh đất Điện Biên.
Như
chúng ta đều biết, giấc mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là những
cay đắng giấu kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.
PXA,
đến giờ chót, đi không được, là cũng vì giấc mơ thất bại đó, chắc hẳn?
Đỉnh Cao Chói Lọi
*
Phở hồi đó ba đồng
một tô.
Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc
nhớ một
hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng
Sản, thảm
hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt. Những buổi sáng hiếm hoi trong túi có mấy
đồng bạc
cắc bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước bán hết mấy món đồ
xi cho
mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, vẫn
thường
xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê chiếc vòng mã não, chiếc cà
rá hình
trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy
nghệ sĩ
cải lương... tôi có cảm tưởng cả con hẻm, khu phố cũng xôn xao cùng tôi
qua những
hương vị buổi sáng của nó: Tô phở nơi đình làng Phú Nhuận, trong hơi
phở có
chút hiền từ của khói nhang, của những lời cầu khấn, mấy bà mấy cô đi
chợ tiện
thể ghé đình lạy Phật và dùng điểm tâm. Dĩa bánh ướt của cô gái trong
xóm với
đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con
hẻm
mươi, lăm phút rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ
nhà, khi
ra tới nơi chỉ còn kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng cử chỉ quen
thuộc của
cô còn nán lại phía sau lưng đòn gánh. Khi đã đi làm, có lương tháng,
có nhà ở,
do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không cho ngoái cổ nhìn lại con hẻm
xưa, có
những buổi sáng chạy xe vòng vòng đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết
đâu còn
sót lại qua dĩa bánh cuốn Thanh Trì, nơi con hẻm đường Trần Khắc Chân,
khu Tân
Định. Thứ bánh cuốn mỏng tanh, không nhân, chấm nước mắm nhĩ màu mật,
cay xè vị
ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa.
Chủ nhật
đổi món bún thang dậy mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng
chút thơm tho
của đôi ba giọt cà cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của thời gian, của thành
phố
trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm
ông chủ
đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới...
cuối cùng
khám phá ra đó chính là kẻ thù...
Lần Cuối Sài Gòn
Tình
cờ Gấu kiếm thấy bản thảo đoạn trên, viết từ hồi ở trại tị nạn Panat
Nikhom Thái Lan, trên tấm fiche của bệnh viện trong Trại
Ngay
hồi ở Trại tị nạn Thái Lan, Gấu đã khốn khổ khốn nạn với Cái Ác
Bắc Kít rồi!
Vào giây 0:11, dù
không có
nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, đoàn biểu tình vẫn hô to “không thích talawas”
rất là
rõ.
Đỗ
Kh. [Talacu]
Tks.
Take care. NQT
V/v Một số thư góp ý của độc
giả talawas khi bài viết ‘Vì sao ghét talawas’ được post lại trên diễn
đàn này.
Tin
Văn là một trang nhà. Không
phải là một diễn đàn. Đừng nghĩ là Gấu này phách lối, nhưng ‘như là một
trang
nhà’ độc giả ghé thăm, thích thì ở lại lâu, không thích, có thể bỏ
đi liền.
Như
đã từng thưa nhiều lần, Tin Văn thực sự không phải là một trang văn học
theo nghĩa thuần túy
của nó. Đào
Hiếu, trong một bài viết cho BBC, đã coi báo chí trong nước có một tổng
biên tập.
Trang Tin Văn cũng thế, cũng có một tổng biên tập, và ông này ra lệnh:
Tất cả
những bài viết trên Tin Văn, bằng mọi cách, cố làm sao trả lời cho được
câu hỏi
hắc búa: Giả như dân Mít
chúng ta biết
đến cái độc cái ác đưa đến Lò Thiêu Người tại Âu Châu, liệu chúng ta có
tránh đi
vào vết xe đổ, nghĩa là không để xẩy ra cú tàn khốc tàn độc 10 ngày Lò
Cải Tạo?
Những
trích dẫn trên Tin Văn
quả là nhiều khi chẳng ăn nhập tới bài viết, và những bài viết thì
không đầu không
đuôi, chẳng có bài nào hoàn tất, như một lần bà chủ talawas đã nhận
xét. Chúng, trên một bình diện rộng, đều nhắm trả lời
câu hỏi trên.
Những
trích dẫn, thường là,
hoặc để cho khỏi quên, vì liên quan tới một vấn đề sắp tới, mà bài viết
đề ra, [câu
hỏi cần hơn câu trả lời, và câu trả lời, nếu có được, lại biến thành
câu hỏi mới,
phát sinh từ bài viết, cứ thế cứ thế], hoặc là, như những qui chiếu về
nhiệm vụ
mà ông tổng biên tập đề ra, ở trên. Chúng, đa số đều là những tài liệu
Tin Văn
bỏ
tiền ra mua, post lên, hy vọng độc giả nào cần
tới, thì lấy ra xài. Bởi vậy, không hề có vấn đề uyên bác, khoe chữ ở
đây. Được gợi hứng bởi Steiner, như Gấu đã từng lèm bèm, lải nhải rất
nhiều lần, sau 10 năm lụi cụi, một mình một ngựa, ý tưởng trên ngày
càng lộ ra.
Còn
chuyện hiệu đính, thì sẽ
trả lời trong lần tới. NQT
*
Koestler trong cuốn
Những Kẻ
Mộng Du viết, đại khái, những hiện tượng thiên nhiên, thí dụ như thuỷ
triều lên xuống
theo mặt trăng, vật thể tung lên trời là bắt buộc phải rớt xuống đất…
chúng có
vẻ chẳng mắc mớ gì tới nhau, cho tới khi Newton xuất hiện, và, như một
vì nhạc
trưởng, giơ cây đũa thần, và thế là, những hiện tượng rời rạc kia,
giống như
những nhạc sĩ, cùng nhau theo hiệu lệnh của ông, tấu lên bản đại hòa
tấu có tên
là ‘vạn vật hấp dẫn’!
Bạn
đọc Tin Văn, cứ nghĩ mình
là Newton thử xem, coi bản đại hoà tấu diệt trừ Cái Ác Bắc Kít có biến
thành
hiện thực?
Hay
thử coi đây là mê cung
nhốt… dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy ngày nào, sau 30 Tháng Tư, gen đột biến,
biến thành quái thú. Và đến lượt bạn, trở thành
dũng sĩ, xâm nhập mê cung, trang bị sợi dây Adriane, là tấm lòng nhân
hậu của mình…
*
Về ba
bài viết đang gây “sốc” là Trịnh Công Sơn
& Tham Vọng Chính Trị (Trịnh Cung), Sao
bác ghét talawas...? (Nguyễn Quốc Trụ) và Nồi
da xào [xáo, xạo] thịt (Lý Đợi), tôi/ta không cần đọc (ý
kiến) mà
chỉ cần đếm (các tiếng “quấu, quấu, quấu”) trên các web/blog nọ cũng có
thể
đoán biết ai “đúng” (các tác giả) ai “sai” (người góp ý) trong các
trường hợp
này, mặc dù chuyện “đúng” và/hay “sai” thuộc về tỷ lệ của phần trăm
“đúng-sai”,
vì trên cõi thế “ba phải” này phần lớn chẳng có cái gì là toàn “đúng”
hoặc toàn
“sai”.Chấp nhận cả hai phần của tỷ lệ phần trăm là cách duy nhứt để
giúp trí
tuệ trưởng thành.
Cho
dễ hình dung mà cũng để vắn tắt, thiển nghĩ của tôi là các tác giả
Trịnh Cung,
Nguyễn Quốc Trụ, Lý Đợi đã vẽ/viết ba bức chân dung “lập thể” kiểu
Picasso về
Trịnh Công Sơn, Miền Bắc, và Huyền thoại Âu Cơ-Lạc Long Quân.
Tranh
Picasso cũng từng bị quấu quấu... khá lâu.
Nguyễn
Đăng Thường [Tiền Vệ]
Let Me
Think!
*
Let Me Think
You ask me about that country
whose details
now escape me,
I don’t remember its
geography, nothing of its
history.
And should I visit it in
memory,
It would be as I would a past
lover,
After years, for a night, no
longer restless with
passion, with no fear of
regret.
I have reached that age when
one visits the
heart merely as a courtesy.
(Faiz Ahmed Faiz, The Rebel’s
Silhouette)
*
I have reached that age
when
one visits the heart merely as a courtesy
Đó là dòng thơ của Faiz Ahmed
Faiz (1911-1984). Theo Rushdie, ông này là một nhà thơ trữ tình lớn
[the famous
Urdu poet], của Pakistan,
nhiều bài thơ được phổ nhạc và được hàng triệu con tim ngưỡng mộ, ngay
cả những
bài chẳng có vẻ gì là lãng mạn, thí dụ như:
Em yêu, đừng hỏi anh về tình
yêu đã có lần anh dành cho em...
Đẹp biết bao, đáng yêu biết
bao, em, giờ này vẫn vậy...
Nhưng anh đành chịu thua;
bởi vì thế giới còn biết bao
nhiêu âu lo sầu muộn so với tình yêu,
và những thú vui khác nữa.
Đừng bao giờ hỏi anh còn yêu
em như ngày nào...
*
Ông rất yêu đất nước ông, tất
nhiên, nhưng một trong những bài thơ hay nhất của ông, viết bằng một
giọng rã
rời, thứ tình cảm rã rời của một kẻ lưu vong.
Bài thơ này, tuyệt vời thay,
được dựng thành poster ở tường xe điện ngầm ở New York, cách đây vài năm [Rushdie
viết bài
này năm 2002]:
Bạn hỏi tôi về một xứ sở mà
những chi tiết về nó đã chạy khỏi tôi,
Tôi không nhớ địa dư của nó,
cũng chẳng nhớ lịch sử của nó.
Hay là tôi nên viếng thăm nó,
bằng hồi ức,
Chắc là nó sẽ giống như một
tình yêu đã qua,
Mà sau nhiều năm, trở lại,
trong một đêm, không còn thao thức
Vì đam mê,
Vì lo sợ
Vì tiếc nuối.
Tôi đã tới tuổi mà một con
người đi thăm trái tim chỉ vì lịch sự.
Đúng là một bài thơ vừa tình
mình, vừa tình nước "chẳng giống ai", "uncompromising"]!
Rushdie phán.
Đọc, Gấu lại thèm nghe lại
Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, mơ mòng nhìn thấy cái gạt nước xua đi
nỗi nhớ!
Merde!
Nhật Ký Tin Văn
*
1.
On trouve dans le monde
beaucoup d'injustices, mais il en est une dont on ne parle jamais, qui
est celle
du climat.
Camus:
L'Envers et L'Endroit
[Có hằng hà bất công trong thiên hạ, nhưng có một cái người ta vờ đi:
bất công về thời tiết]
2. Ôi nỗi đắng cay
phải từ
giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền
cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa
nắng, không
còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt,
mà từ
lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày
tháng...
Một chuyến đi
Liệu hai câu trên đưa đến kết luận: Bất công thời tiết gây ra cuộc
chiến đỉnh cao?
*
Như
đã từng thưa nhiều lần,
Tin Văn thực sự không phải là một trang văn học theo nghĩa thuần túy
của nó.
Đào Hiếu, trong một bài viết cho BBC, đã coi báo chí trong nước có một
tổng biên
tập. Trang Tin Văn cũng thế, cũng có một tổng biên tập, và ông này ra
lệnh: Tất
cả những bài viết trên Tin Văn, bằng mọi cách, cố làm sao trả lời cho
được câu
hỏi hắc búa: Giả như dân Mít chúng ta biết đến cái độc cái ác đưa đến
Lò Thiêu
Người tại Âu Châu, liệu chúng ta có tránh đi vào vết xe đổ, nghĩa là
không để
xẩy ra cú tàn khốc tàn độc 10 ngày Lò Cải Tạo?
Một độc giả “meo”,
đặt nan
đề, giả như mi kiếm thấy câu trả lời cho câu hỏi trên, thì liệu có thay
đổi gì
cho số phận của dân Mít của mi, nhất là, liệu cái đám Yankee mũt tẹt,
trong có
mi, có ‘khác’ đi không?
Căng thiệt!
*
Nội
chiến là một
bi-zi-nét
đếch có thú vị gì, và câu chuyện tình trên ba chục niên,
qua thư từ và nhật ký của Elizabeth
Bowen và một nhà ngoại giao Canada,
thì khó mà có thể hạnh phúc. Rosemary Hill mở ra bài điểm cuốn Love’s Civil
War, và đặt cái tít bài viết là “Vượt ra khỏi hận thù mà viết”, Written Out Of
Revenge.
Nhưng, nếu
‘cần
gì ai đọc?’, thì ‘cần gì mi viết’?
Câu trả lời sau đây,
là của
một thám tử, nhân vật của Fred Vargas, nữ tác giả người Pháp, chuyên
viết truyện
trinh thám, rất nổi tiếng, trong This
Night’s Foul Work [Lorna Scott Fox điểm,
trên cùng số báo Điểm Sách London, 9 Tháng Tư, 2009]. Tay
thám tử phán: Thì chỉ là một câu chuyện, có gì đâu mà ầm ĩ. Chúng như
nhau. Và
“Chuyện là để chấm dứt, đừng để chúng xẩy ra ở đời thực.” [Just a
story, all
the same. And the point of stories is to stop them happening in real
life]. Tay này khuyên một đàn em bối rối mới vô nghề:
-Kết thúc câu chuyện
đi,
Veyrence.
Liệu tôi có phải làm
như
thế?
[Do I have to?]
-Đúng thế, tao nghĩ
như vậy.
Tại sao?
-Bởi vì nghề của
chúng ta, our
job, là kết thúc những câu chuyện. Nếu mày muốn khởi sự chúng, thì hãy
trở về với
nghề dậy học của mày. Nếu mày muốn kết thúc chúng, thì hãy bằng lòng ở
lại với
cái nghề cớm của mày”.
Làm cớm khác, làm
nghề dậy
học
khác, làm nghề viết văn, lại càng khác!
Gấu cũng sắp sửa kết
thúc
'câu chuyện' Tin Văn, để, 'hiền mà chết"!
*
Cutting
Off Dissent:
Cắt ngón
tay li khai: Để phản đối biến cố Thiên An
Môn, 1989, nghệ sĩ Sheng Qi cắt ngón tay, tạo ra một số hình ảnh bàn
tay cụt ngón
tay của mình, trong có tấm hình ở nơi lòng bàn tay, là tấm hình một đứa
bé
trai.
Mất đi
và Kiếm lại được
*
EDITOR'S
LETTER
ALEX CLARK
The vanishing point:
Điểm biến
When something is
lost, our
first instinct is often towards preservation: either of the thing
itself, its
memory and its traces in the world, or of the part of us that is
affected by
what is now missing. The pieces in this issue of Granta reflect on the
complex
business of salvage and try to bring into the light what we discover
when we
come face to face with loss.
It is rarely a
straightforward process.
JeremyTreglown's
thought provoking exploration of the gathering movement to exhume the
victims
of the Spanish Civil War amply demonstrates the tensions created when a
desire
to commemorate clashes with a desire to move forward, and when both
entirely
natural impulses are claimed by other agendas. Although his
investigation
illuminates the continuing aftermath of a particularly dark and
disastrous
episode in Spanish history, it has clear parallels with other
countries'
attempts to recover from traumatic events and forces us to question
whether an
apparently simple urge to remember and to pay tribute can remain
uninflected by
other equally complex concerns.
A similar ambiguity
informs
Maurice Walsh's dispatch from Ireland,
where he travelled to spend time with the Catholic priests whose
numbers have
been diminishing over the past few decades. He reports of a decline in
vocations that coincided with a widespread rise in secularism and an
attitude
towards the Church that hardened - perhaps irreversibly - after the
wave of
child-abuse scandals in the 1990s, which were seen not merely as
instances of
individual wrongdoing but as evidence of a collusion between a powerful
hierarchy and those whom it had sent into the community as trusted
individuals.
This shift in perspective has been well documented and, when the writer
and I
spoke about the piece in its earliest stages, we agreed that a fruitful
focus
would be what the priests themselves felt about this process of
marginalization.
Elsewhere,
we feature some
extremely personal stories, perhaps none more so than Melanie
McFadyean's
'Missing', which relates the experiences, over nearly two decades, of
the Needham
family. Ben
Needham, a child of twenty-one months, disappeared on the Greek island of Kos in 1991; he has never been
found.
The moment of his disappearance - the moment when he was last seen by
members
of his family - resonates through her account with its utter
simplicity; a
child, playing in the sun, running in and out of doors, being
completely
childlike and completely unselfconscious. Then silence, and absence;
and then
the continuing lives of Ben's mother, Kerry, his grandparents, his
uncles and
the sister born after he disappeared. It is a familiar fictional
device, and
often characteristic of the stories we tell ourselves about defining
periods in
our lives, to suggest that everything can change in an instant. Much of
the
time, that is not really true, and rather more likely that a crisply
delineated
sequence of events allows us to cope with chaos and confusion. In the
case of
the Needhams, though, even that world-altering single moment, viewed
through
the prism of different people and the passage of time, can remain
painfully
resistant to closure.
There
is a different kind of
examination of the past going on in Elizabeth Pisani's 'Chinese
Whispers', in
which the author recalls the night that she spent in Tiananmen Square
twenty
years ago, frantically attempting to phone in reports to her news
agency as
tanks (not to be confused with armored personnel carriers, as her
bosses on the
other end of the line curtly impressed on her) rolled in to crush the
ranks of
pro-democracy protestors filling the Square.
But
Pisani's resurrection of
a night that, to her, an inexperienced reporter of twenty-four, was the
most
momentous she had ever lived through, proves rather harder to pin down
in the
retelling. Is her version of events correct to the last detail? Or has
she
embroidered and finessed her memories in the intervening years?
Sometimes, of course,
the
changing of the guard makes room for us to cast a lighter eye over
events, as
in Don Paterson's piece of memoir, which tells of his youthful passion
- and
passion is the right word - for evangelical Christianity, an effort to
exoticize his everyday life that led to fervent prayer sessions
enlivened by
the odd bout of angeloglossia. It seems that what he discovered as his
faith
faded was an unshakeable enthusiasm for rational thought. But he also
conjures,
as the best memoirs do, a portrait of another time - in this case, a
world of
weak tea, Jammie Dodgers and fearsome bullies. Equally evocative are
the pipe
smokers, captured in Andrew Martin's ode to a pleasure in peril, who
have found
themselves defending their commitment to a slower, temptingly detached
way of
life - their special brand of 'hypnotic latency', as Martin puts it.
In among these
surveys of
vanishing worlds come three pieces of fiction: an artfully poignant
story by
Janet Frame, a wry tale of dentistry and disarray by A. L. Kennedy and
two
pieces of work by Altan Walker. Of Earthly Love, Walker's debut novel,
was
several years in the writing, rewriting and recasting and had yet to be
finished when the writer died in 2007. As I began to read the
manuscript,
knowing that it would never now be completed, I felt immediately that
if it
were to remain unseen readers would be deprived of a true delight; one
that
would introduce them to a wild, shifting, ungovernable voice, capable
of great
acts of ventriloquism and imagination. It is a real pleasure to be able
to
publish part of Walker's
manuscript here and to know that, in among the varieties of loss that
we are
often subject to, there remain treasures to find. _
Như số báo Granta mới
nhất viết về "Mất đi và
Tìm thấy lại", về "Điểm biến": Khi
một cái gì mất đi, bản
năng đầu tiên của chúng ta là cố tìm cách níu giữ. Hoặc níu giữ chính
cái điều
mất, hoặc hồi ức, dấu vết của nó trên cõi đời này, hay là cái phần
trong chúng
ta bị cái sự mất mát này đợp cho một cú đau thấu xương...
Liệu
Tin Văn đang làm
cái công chuyện:
Tìm
cách đưa ra
ánh sáng điều chúng ta khám
phá ra khi đối mặt với mất
mát? [Try to bring into the light
what we discover
when we
come face to face with loss]: Giá
mà biết thêm một tí nữa về Cái Ác Bắc Kít!
Tạp chí
Văn Học Pháp, Le
Magazine Littéraire, số Tháng Chín 2005, đặc biệt về Hannah Arendt "Giá
mà
biết thêm một tí nữa về cái ác".
-Người
Việt có câu, nói dối
như Vẹm. Không lẽ dối trá là 'của riêng' của chủ nghĩa toàn trị?
Arendt:
Dối trá không dành
riêng cho chủ nghĩa toàn trị. Chủ nghĩa toàn trị chỉ ban cho nó một
hình thức
khủng bố.
[Le
mensonge n'est pas
réservé aux totalitarismes. Ils lui donnent seulement une forme
terroriste].
Câu
trên, trích từ một đàm
thoại giữa Hannah Arendt và một số trí thức, trong một hội nghị tại
Toronto,
Tháng 11 năm 1972, chưa từng được in ra, bằng tiếng Pháp [inédit], nhan
đề:
"Tôi không thuộc vào một nhóm nào", "Je n'appartiens à aucun
groupe".
Lớp học
tôi có 23 đứa, 11 đứa
có cha mẹ bị bắt. "Khủng bố là yếu tính thực sự của cái kiểu chính
quyền
này", Hannah Arendt viết như vậy, trong "Những nguồn gốc của chủ
nghĩa toàn trị".
"Vào
năm 1950, bà đã có
can đảm viết về sự tương tự giữa hai chế độ giết người, trong khi hầu
hết những
trí thức Tây phương bưng chặt tai, khi thoáng nghe bất cứ ai nhắc tới
sự khủng
bố của Stalin. Như Orpheus xuống vương quốc của người chết, vì tình yêu
Eurydice,
Hannah Arendt đã lặn lội vào trong mớ tài liệu lịch sử và chính trị,
làm bật ra
nỗi kinh hoàng lớn lao, và để lại cho chúng ta cuốn sách của bà Những
nguồn gốc
của chủ nghĩa toàn trị: như là một bài học, và một lời cảnh cáo."
Tàn
dư toàn trị
*
Khác
hẳn với xứ sở láng giềng
là Anh Quốc với những nữ hoàng trinh thám của nó, tuy nổi tiếng là một
trong sáu tác
giả ăn khách nhất ở Pháp, Fred Vargas quả là không giống "đầm" trong
vai
trò nữ văn
sĩ viết truyện hình sự. Tuy nhiên, bà còn viết như một người đàn bà,
nếu
điều này
liên quan tới quan tâm của tác giả về nhân vật, cảm nghĩ, và tình
tiết của
câu chuyện, hơn là ‘sự tàn bạo mà tính dâm dật’ vốn là đặc điểm của
thể loại ‘polar’ [biến thể
của từ policier, trinh thám],
một biến thể của tiểu
thuyết đen,
série noire, thứ này là từ tiểu thuyết găng tơ, hình sự của Mẽo
được
dịch qua
tiếng Tây.
Vargas
lúc đầu coi viết truyện
trinh thám như là một thú vui, hobby. Nghề của bà, một
archaeozoologist, một
chuyên gia về những liên hệ giữa con người và thú vật. Sinh năm 1957,
cha rất rành
về đám siêu thực, và nghệ thuật nghiên cứu, studied art, và có thể đây
là yếu tố
di truyền tới bà. Bà giải thích, những câu chuyện trinh thám của tôi
là một thứ
truyện thần tiên đương thời,"dựa trên
vô thức tập thể: những câu chuyện chúng ta cần, để sống. Chúng được
xây dựng
trên cùng một cấu trúc, chờn vờn chung quanh một sự nguy hiểm sống
động, hoặc
là một quái thú trong mê cung, một con rồng giấu mình ở trong rừng, hay
là một
tên giết người hàng loạt ở thành phố. Tiểu thuyết hình sự không phải là
về cái
tốt hay cái xấu, trật tự hay vô trật tự, chúng là những tiểu thuyết về
cái
chết. Sau cả một chuỗi những dây mơ rễ má dởm, sai lạc, người hùng sẽ
chiến
thắng. Đây là một tiến trình thanh tẩy.”
Liệu
bạn có thể đọc
Tin Văn, theo cung cách như trên: Một câu chuyện thần tiên đương thời.
Một câu chuyện về cái chết?
Và tự coi mình là như là một dũng sĩ diệt quái thú
Minotaur?
Dũng sĩ
diệt Ruồi, những đồng
chí cũ của Đào Hiếu, thì cũng được! NQT
Tin Văn: Một trang net mà chúng ta cần để sống!
Tuyệt!
*
The destruction of someone's
native land is as one with that person's destruction. Séparation
becomes
déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home is the
land
of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself,
even if
he has learned not to stumble about in the foreign country as if he
were
drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants
no
more to do with that particular pays—in this connection he quotes a
dialect
maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma
nimmer
eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go
back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of
our
yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un
dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un
caractère
dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester
contre
l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in
line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry:
Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible.
[Sự huỷ
diệt quê nhà của ai
đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là
rách nát,
và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và
trai trẻ
của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai
tai, chính
bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng
muốn sầu
với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn
bị
người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở
lại' -
thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của
chúng
ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha
công an
gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự
vượt thoát
cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái
gì hung
hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động
theo kiểu
phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng
nhớ nhà
của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử].
*
Nhà
văn
là một cái phong vũ
biểu của thời của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ phán như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà
hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra trò, nhưng lần thứ ba, sắp sửa
về, ngửi
ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì không thơm, thế là bèn đi một cái mail,
và được phúc đáp,
thời tiết bi giờ không được đẹp như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác
cái
mặt mo về mà khổ cái thân già, còn khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm]
bằng gỗ
nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng
bé còn thủ theo, toàn là
những
kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những
kỷ niệm
đó, và trên đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được
chúng…
Bà giữ
đủ cả, chẳng thiếu một, nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ
hơn, cũng những kỷ niệm
về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết Miền Nam làm cho dịu hết cả
đi, và đều
như những vết sẹo thân thương của một miền đất ở nơi Gấu.
Y như kỷ niệm sau đây,
lần đầu làm quen thành phố Sài Gòn.
*
1965. Những ngày cuộc chiến
tuy chưa dữ dội nhưng đã hứa hẹn những điều khủng khiếp. Người Mỹ đổ
quân xuống
bãi biển Đà Nẵng, liền sau đó là lần chết hụt của tôi tại nhà hàng Mỹ
Cảnh. Tất
cả những sự kiện đó, mỉa mai thay, chỉ làm cho bóng ma chiến tranh thêm
độc,
đẹp, thêm quyến rũ và trở thành những nét duyên dáng không thể thiếu
của cô bé.
Của Sài-gòn.
Chỉ có
những người vội vã rời
bỏ Sài-gòn ngay những ngày đầu, họ đã không kịp sửa soạn cho mình một
nỗi nhớ
Sài-gòn. Còn những ai ở trong tâm trạng sắp sửa ra đi, đều tập cho quen
dần với
cơn đau sẽ kéo dài. Đều lựa cho mình một góc đường, một gốc cây, một
mái nhà...
để cười hay để khóc một mình. Một mẩu đời, một đoạn nhạc, một bóng
chiều, một
giọt mưa, một sợi nắng... để gọi thầm trong những lúc quá cô đơn. Để
mai kia
mốt nọ, trên đường tha phương cầu thực, nơi đất khách quê người, những
khi ngọn
gió heo may bắt đầu thổi, những khi ngồi bó gối bên trời, nhìn lá vàng
rơi đầy,
lấy tay che thời gian không nổi, hay những đêm tàn nghe bếp lửa réo
gọi... sẽ
nhâm nhi những cọng cỏ tưởng tượng của quê hương. Ôi,"Ôm em trong tay
mà
đã nhớ em ngày sắp tới" (1). Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonard, nơi
có
bót Hàng Ken (2), chú bé di cư ngày nào ngơ ngác, rụt rè làm quen, tự
mình khám
phá Sài-gòn. Gần gốc cây chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn
ông đánh
đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy
vào trong
bót. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh vợ, mắc mớ
chi tới
mày. Đồ con nít Bắc kỳ di cư, vô đây làm tàng. Ôi bài học đầu tiên khi
tìm cách
làm quen thành phố, được thời gian gọt giũa trở thành một nốt ruồi son
đáng yêu
biết là chừng nào trên khuôn mặt cô bé. Trên khuôn mặt Sài-gòn.
Một thành phố mà tôi đã chết
ở trong,
nay sống lại,
chỉ để kể về nó.
Lần Cuối Sài Gòn
"Khi
bạn
bị
người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở
lại".
*
Nhà văn là một thứ phong vũ
biểu. Thứ dữ dằn, một loài chim báo bão.
"Gấu nhà văn", về nhà hai lần,
nhưng lần thứ ba, tính về, ngửi thấy có gì bất an, hay là do quá rét,
bèn đi một
cái mail, hỏi thăm thời tiết nơi quê nhà, và được trả lời, không được
đẹp, thế
là bèn đếch có dám mò về!
*
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm]
bằng gỗ
nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng
bé còn thủ theo, toàn là
những
kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những
kỷ niệm
đó, và trên đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được
chúng…
Bà giữ
đủ cả, chẳng thiếu một, nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ
hơn, cũng những kỷ niệm
về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết Miền Nam làm cho dịu hết cả
đi, và đều
như những vết sẹo thân thương của một miền đất ở nơi Gấu.
*
Khi được hỏi về phản ứng gay
gắt trong một tiểu luận về cuốn Trái
Tim Của Bóng Đen của Conrad, và ý nghĩ của
ông về hình ảnh Phi Châu ngày nay trong đầu Tây phương, Achebe trả lời:
Cái
hình ảnh Phi Châu bây giờ
có vẻ thay đổi chút đỉnh trong đầu người Tây phương. Khi tôi nghĩ về
thế giá, về
sự quan trọng, và về sự uyên bác của tất cả những đấng chóp bu như vậy,
khi họ
chẳng hề nhìn thấy gì, về tính phân biệt chủng tộc ở trong Trái tim của bóng đen,
thì tôi đành đi đến một kết luận là, chúng ta hẳn là đã sống trong
những thế giới
khác biệt. Vả chăng, nếu bạn không thích câu chuyện của một người nào
đó, thì hà
cớ làm sao không viết ra, cái của riêng mình? Có thể có một số người
nghĩ là điều
tôi muốn là, “Đừng đọc Conrad”. No! Tôi đã từng dậy Conrad, I teach Conrad. I đang dậy Trái tim của bóng
đen [I teach Heart of Darkness], trong đó, điều mà tôi đang nói
là, hãy nhìn cái
kiểu người đàn ông này đối xử với những người Phi châu. Bạn có nhận ra
cái gọi
là nhân loại ở trong đó? [Look at the way this man handles Africans. Do
you
recognize humanity there?].
Người ta sẽ nói với bạn là ông ta chống lại chủ nghĩa
thực dân thuộc địa. Nói, tôi chống lại chủ nghĩa thực dân thuộc địa, là
chưa đủ,
là chẳng đi tới đâu. Hay là, tôi chống đối cái chuyện những con người
này - những
con người nghèo khổ này - bị đối xử như vậy. Nhất là khi ông ta cứ vô
tư mà gọi
là họ “những con chó ngồi trên những cái chân sau của chúng”. Cái kiểu
viết như
thế đó. Hình ảnh thú vật tràn lan, đại trà trong cuốn truyện. Ông ta
chẳng thấy
gì là sai trái với chuyện miêu tả như thế. Và nếu như thế, thì chúng ta
đành phải
nghĩ là, chúng ta sống trong những thế giới khác biệt. Khi mà hai thế
giới đó gặp
gỡ nhau, thì chúng ta mới khốn khổ khốn nạn.
*
Và nếu
như thế,
thì chúng ta đành phải nghĩ là, chúng ta sống trong những thế giới khác
biệt.
Khi mà hai thế giới đó gặp gỡ nhau, thì chúng ta mới khốn khổ khốn nạn.
Until these two
worlds come together we will have a lot of troubles.
Đúng là
cái tình cảnh Gấu, khốn
khổ khốn nạn, a lot of troubles, khi lọ mọ mang mớ kỷ niệm về cái đói
xuống tầu
há mồm ngày nào, hơn nửa thế kỷ sau, lại lọ mọ mang về, để kế bên, cũng
những kỷ niệm
về cái đói
đó, của bà chị ruột còn ở lại Đất Bắc.
*
Về nhà
Nhớ
một giai
thoại về Hemingway, chẳng nhớ ai hỏi ông câu gì, nhưng ông nói: “Thì đi
về để
treo cái mũ.”
Có những câu văn
phải nhờ cơ may mới hoàn tất nổi.
Thí dụ như câu này, nửa đầu, viết lúc nằm tù nhà tù quốc tế Bangkok,
cùng với
ông bạn vừa nằm xuống, Nguyễn Phước.
*
Bạn
không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, tôi đã nhớ
Sài Gòn tới
mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan" tới… Sài Gòn!
Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị sếp
dựng dậy,
bắt phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn
còn đang
ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa
thành
phố London:
"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món
hàng
chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm tháng
Giêng ẩm ướt.
An toàn, vì không thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên
đường phố
Luân Đôn…"
(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband,
smuggled
from his bed and hoarded against the wet January night. Safe because
unreal: it
was his ghost that ranged the London
streets….)
Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây
trạng thái
chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà tù
quê
hương. Không thực, vì chung quanh là cả một khối hỗn độn người ngợm lạ
hoắc… cứ
thế, một đoạn văn ở trong tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con
chữ:
Trong những đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây
là hồn
ma của chính mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải
hồn ma của
mình, mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là
tôi ráp
lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức
giấc
ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên
những đường
phố cũ…". Tới đó tịt luôn.
Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau đó, tôi mới kết
thúc nổi
câu văn:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc
ở
trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang
trên những
nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn,
bởi cái
phần đời đó mới đáng kể."
Một
thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về
nó…
Đêm
Thánh Vô Cùng
*
Hay câu này.
Mãi sau này, khi vô tình nghe bản nhạc Kẻ Ở Miền Xa, Gấu mới
nhận ra một
trong những song sinh của nó.
Những
ngày Mậu Thân căng
thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt
thay cho
cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố
cùng với
tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu.
Cái nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái
chết,
thì có khác chi:
Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen, tầm đạn thay [cho]
tiếng em?
*
2. Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn
vẻ. Tôi bị ảnh
hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn
chương Tàu
hay ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm
tai,
nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra
những câu
như thế và cho ngay là truyện của tôi hay.
Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng mới trong rừng xuân:
"Đôi
bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành
thông như
tiếng than vãn của buổi chiều". Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở
nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có
nhưng đừng
"văn vẻ", "sáo" quá như thế, giản dị hơn như những câu
trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác,
đúng
những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ
cảm giác,
nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không.
Nhất Linh: Viết
và đọc tiểu thuyết.
*
Những câu văn ở trên, bảo rằng văn vẻ quá, và là một lầm lẫn thì...
sai. Cái
văn vẻ của nó, là do đời sống [theo nghĩa "cơ may"] ban cho.
Giả như Gấu không nhớ cô bạn đến như thế, giả như không có những tiếng
xèo xèo
của những trái hoả tiễn bay ngang đầu như thế, làm sao có câu văn trên ?
*
Mỗi người, ông và nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía
sau, vung
cao hai tay như trên một cây đu, nàng quay đầu để tránh bụi bay mù,
nàng nheo
mắt và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông? Tôi biết thói quen
của nàng
quá mà? Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại thoạt đầu
gập đôi,
sau đó gập tư, và trong lúc làm việc đó, nàng luôn miệng nói đùa và nô
giỡn chứ
gì? Phải vậy không ông? Phải vậy không ông?
Bác
sĩ Zhivago [VN thư quán]
Đây có lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu, của cuốn tiểu
thuyết.
Anh chàng VC Nga, Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt,
trở về căn
nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago. Hai người đàn ông tranh nhau nói về
người
đàn bà.
Câu văn trên Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên được.
Có một cái gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh nào đó, làm Gấu nhớ
hoài.
Chỉ tới khi về già, Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.
*
Đoạn ngay trên, về chủ nghĩa Mác, về nước Nga, về thế kỷ hung bạo, qua
hình ảnh
của Lara, mà chẳng tuyệt vời sao?
Tôi hay lui tới khu nhà kia và thường gặp nàng ở đó. Nàng còn là một
thiếu nữ,
một cô bé, nhưng đã có thể đọc thấy trên vẻ mặt và ánh mắt nàng tư
tưởng căng
thẳng, nỗi lo âu của thời đại Tất cả các đề tài của thời đại, toàn bộ
nước mắt
và sự hờn giận của thế kỷ, tất cả những thôi thúc, toàn bộ nỗi thù hằn
chồng
chất và niềm kiêu hãnh của thời đại đều được ghi trên khuôn mặt và
trong dáng
điệu của nàng, trong sự pha trộn giữa tính ngượng ngùng thanh tân và sự
cân đối
táo bạo của nàng. Có thể nhân danh nàng, qua đôi môi nàng mà đưa ra lời
buộc
tội thế kỷ. Ông phải đồng ý với tôi rằng đó không phải là chuyện tầm
thường. Đó
là thứ giống như một thiên chức, một phẩn thưởng quý giá. Phải có cái
đó từ lúc
bẩm sinh, phải có quyền mới được hưởng cái đó.
*
Ôi chao, "có thể nhân danh nàng, qua đôi môi nàng, mà đưa ra lời buộc
tội
thế kỷ".
*
Ôi chao, Hai Lúa lại nhớ Bông Hồng ở làng Thanh Trì, Thanh Lạng, Quốc
Oai, Sơn
Tây, của thằng bé mắt lác [lé], tức Hai Lúa ngày nào .
Cô con gái địa chủ bị cả một miền đất bỏ đói, khát, bịnh, trong căn nhà
của bố
mẹ cô để lại, sau khi hai ông bà bị đấu tố đến chết. Cô gái khát quá,
cố vượt
"tường lửa", bò ra ao làng, ngay đầu ngõ, nhưng vừa đến bờ ao, là đi
luôn.
Lần Hai Lúa về lại Bắc, về lại làng, hỏi, bà chị nói, Hai Lúa cảm thấy
chưa bao
giờ thù ghét cái làng của Hai Lúa như là lần đó.
Và cũng chính trong cơn đau đớn để cho lòng thù hận lấn áp tất cả, Hai
Lúa nhớ
ra tên họ đầy đủ của cô. Luôn ánh mắt của cô, lần gặp gỡ cuối cùng, Hai
Lúa về
làng trước khi bỏ vào Nam.
Đó là ánh mắt nói, anh đi đi, hãy cố mà tự cứu lấy thân, đừng bao giờ
trở về
làng này nữa.
Và nói, tên của tôi là Trương Thị Hồng.
Sống ở trên đời, thèm miếng thịt kẻ thù, là vậy.
Không thèm, không làm sao nhớ ra tên của Cô Hồng Con.
*
Mi
đâu có thương ta. Mi thương con bé con mười một tuổi, là ta, từ đời
thuở
nào. Và Hà Nội của mi, ở trong con bé đó!
…
chuyện ông Loan rút súng
bóp cò làm tù binh xịt máu và văng óc, chúng ta đều đã có ý kiến...
Đỗ Kh. talawas
Không ngờ xuống cấp đến mức
như thế này!
Hết
thuốc chữa!
|
|