|
Chúc
Mừng Năm Mới
Phu nhân ở
Somerset
That is
not likely to happen.
The Obama administration has taken steps to end torture and released
documents
showing official complicity in carrying it out, but it appears to have
no
interest in any kind of truth commission that would fully investigate
what
crimes our past leaders and high officials have committed. This is
where
Danner's book becomes so valuable. It ought to be read by those who
still see
our wars as moral crusades. They may learn from its pages why so many
ungrateful beneficiaries of our largesse are willing to blow themselves
up in
order to do us harm, and why wars based on delusions only lead to more
delusions and more wars.
Note:
Có đấng VC nào viết
được như trên, về nhà nước VC của chúng?
Chắc chắn không. VC đâu có gây một tội ác nào đâu, làm sao dám so sánh
với đế quốc Mẽo?
Nhà thơ Simic sinh tại Belgrade, Serbia,
lúc đó là một phần của Yugoslavia.
Lớn lên như là một đứa bé của một Âu Châu bị chiến tranh làm nát bấy,
cái nhìn
của ông về thế giới là từ khung cảnh hoang tàn này mà được tạo thành,
ông cho
biết. Trả lời một cuộc phỏng vấn của tờ Cortland Review, ông nói, “Là
một trong
hàng triệu con người bị thất lạc nơi ăn chốn ở, quê hương, bản quán đã
tạo ấn tượng
lên tôi. Cộng thêm vào nỗi bất hạnh nho nhỏ của riêng tôi đó, còn của
biết bao
con người khác, mà tôi nghe được. Tôi vẫn còn sửng sốt về cái độc cái
ác, sự
ngu xuẩn mà tôi đã từng chứng kiến trong đời mình.” Ông dời qua nước Mỹ
vào năm
1954 cùng gia đình khi 16 tuổi, lớn lên tại Chicago, lấy bằng B.A. tại
Đại học
New York […. ]
Hiện là Poet Laureate của Mỹ.
Không chỉ là nhà thơ, ông còn là nhà tiểu luận, viết về đủ thứ trên
đời, nhà dịch
thuật, và có thể nói, triết gia. Câu phán này của ông mà chẳng thú sao:
Nghệ thuật thực sự phải lớn
lao hơn con người tạo ra nó.
Conte de fées pour Kim Thuy
en France
Tình lơ…
Nguyễn Ngọc Tư
*
Note: Truyện này,
trong Liêu Trai Chí Dị toàn tập, Tập II, do Vọng Chi Nguyễn
Chí Viễn và
Trần Văn Từ dịch, nhà xb Văn Hóa Thông Tin, 1996, có tên là Tiểu
Thuý. Nội
dung đôi chỗ có hơi khác, chắc là do chuyển dịch.
Theo Gấu, bản của
Vọng Chi & Trần Văn Từ đọc thú hơn.
Liêu Trai có một số truyện, cũng thường thôi, thành
thử trước đây,
thường bị bỏ đi, không dịch. Tuy nhiên, có rất nhiều truyện, đúng là
người
không thể viết được!
Phải có sự tham dự của hồ, của ma, trằn tinh…. (1)
Truyện ngắn trên, đọc song song với truyện của Cô Tư, cũng đủ sướng một
đời,
nhất là lúc về già, đang chờ đi xa. (2)
(1)
Gấu Cái, được một số bạn bè của Gấu đặt cho cái nick là Quỉ Kiến
Sầu!
Nhắc tới Gấu Cái, là cũng có tí lý do. Gấu đã từng nói với cô phù dâu,
cô mới
là người tôi thương, còn nói với cô dâu, chúng mình không hợp…. Về già,
bị đay
nghiến hoài!
Cái cảnh mếu máo, cô…mới là người tôi thương, là có thực, trong lúc quá
say, thảm
thế!
Lẽ tất nhiên, đâu
phải nói với cô bạn!
(2)
Cứ sống như còn trăm năm nữa!
Nhiều quá!
Ba bốn niên nữa, đủ rồi!
Đi chậm quá, không kịp gặp BHD, rồi lại luân hồi mãi mãi, tìm hoài tìm
hoài,
càng khổ!
NQT
*
Tiền
kiếp
của Gấu
*
Hồi nhỏ, sống với ngoại
trong
ngôi nhà thấp tè cũ kỹ bên sông. Buổi tối có rất nhiều ghe hàng bông
neo đậu
lại ngoài bến. Nhờ đám lá dừa nước dày mịt mùng mà ông ngoại tôi trồng
mà khách
thương hồ có chỗ tránh gió giông. Hình ảnh mà mình nhớ nhất, cảm động
nhất, đem
lại cho mình nhiều mơ mộng nhất là những ngọn đèn chong họ treo đầu ghe
le lói
mỗi đêm. Bà ngoại mình cũng đáp lại bằng một ngọn đèn chong ở chái nhà,
cũng
giống như vậy. Mỏng manh. Leo lét. Mà bền dai. Như thông điệp của sự
sống : nơi
ấy có người.
Nguyễn Ngọc Tư: Đèn ảo tắt
bóng
tối là rất thật
Ui chao, đọc một cái,
là bèn
nhớ liền đến những ngọn đèn, hoặc đuốc, ở ven bờ sông, lạch.. như là tín hiệu, để chiếc ghe đón khách ghé vô,
chở về thị xã, những ngày sau giải phóng, Gấu Cái đưa cả đám nhỏ về
vườn, lập cái
chòi trên miếng đất dòng họ bên ngoại chia cho, bên cạnh nhà ông Cậu Tư
Long, xã
Hưng Long, Cai Lậy. Gấu thì vẫn ở Sài Gòn, vẫn làm Bưu Điện, thời gian
chưa bị
tống ra bên ngoài, đang là chủ nhà, bèn biến thành thằng viết mướn, ở
ven nhà,
tức là ở vỉa hè Bưu Điện.
Nơi ấy
có người đang chờ đò.
*
Bên ấy có người ngày mai
ra
trận,
Bên ấy có người ngày mai
đi
xa!
Merde!
Merde!
Gấu
biết tới Miền Nam Sâu
Thẳm, The Deep South, là nhờ… giải phóng. Những đau thương, và thú đau
thương
về Quê Ngoại, giả như không có giải phóng, là chẳng hề được hưởng,
thành thử
lúc nào cũng biết ơn giải phóng!
Chán thế!
Bên ấy có người ngày mai đi tù!
Đi Kinh Tế Mới!
tín hiệu.
sống
Trang
thơ Đài Sử
PTVA vs
VTN vs TH
David
Levine, in memoriam
Arthur
Koestler, Người
của Bóng tối
Yesterday's Man?
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammell
Random House, 689 pp., $35.00
Về cuốn
Đêm giữa Ngọ, nó không
chỉ là một cuốn sách phổ thông: Nhờ nó mà Đảng Ta chẳng bao giờ lên cầm
quyền được
ở cựu mẫu quốc, tức nước Pháp, một chuyện có thể xẩy ra vào thời gian
đó. Bây giờ
nhìn lại, thật khó tưởng tượng được, vào năm 1946, hay, ngay cả vào năm
1956, Tây
Âu và Mẽo có thể gắn bó với nhau những 50 năm trời. Luôn cả chuyện
thắng Cuộc
Chiến Tranh Lạnh.
Thành quả đó, công lao đó, là nhờ ba cuốn Trại Loài Vật của
Orwell, Tôi Chọn Tự Do của Victor Kravchenko, và Đêm giữa Ngọ của
Koestler.
By
Garry Kasparov
Chess Metaphors: Artificial Intelligence and the Human Mind
by Diego Rasskin-Gutman, translated from the Spanish by Deborah Klosky
MIT
Press, 205 pp., $24.95
Perhaps chess is
the wrong game for the times. Poker is now everywhere, as amateurs
dream of
winning millions and being on television for playing a card game whose
complexities can be detailed on a single piece of paper.
Có lẽ cờ là trò
chơi lầm thời. Poker thì ở mọi nơi….
Ui chao nghe Kỳ vương
than, sao mà thảm thế!
Tại
sao
họ tin tưởng vào
Stalin?
Why
They Believed in Stalin ?
Trường hợp
Lê
Công Định
Cái
hiện tượng giao lưu hòa
giải giữa mấy đấng văn nhân trong và ngoài nước, trong, là do mặc cảm
thắng trận,
còn ngoài, là do cần con dấu kiểm duyệt của nhà nước, không phải cho
tác phẩm,
mà cho tác giả.
Nếu không phải như thế, làm
sao cả một đám xúm nhau thổi "Thơ từ đâu tới, từ hải ngoại về với đất
nước dân tộc"? Đâu phải những thứ làng nhàng, mà toàn những đấng số 1
của trong nước, như Dương
Tường, Hoàng Ngọc Hiến, thí dụ, hay nửa trong nửa ngoài, như bạn hiền
của Gấu là
DT [hà, hà!]. Một nhà thơ dởm hải ngoại, chưa từng có lấy một
bài thơ cho ra thơ, có mùi thơ, [cái này là TTD, bạn văn VC của Gấu
cũng nhận
ra, và anh khuyên NDT lên viết phê bình về thơ, thay vì làm thơ, làm
thi sĩ!], vậy
mà, đùng một cái được đưa lên tận mấy xanh, thử hỏi làm sao mà không…
hoà giải?
Chúng mày, lũ "chống cộng điên cuồng" không coi tao là nhà văn nhà thơ,
thì để cho VC đóng dấu, cấp chứng
chỉ cho tao! NMG, NDT… đều quá cần con dấu kiểm duyệt của nhà nước là
vậy. Gấu
đã kể một lần rồi, hồi ở trại tị nạn, về trường hợp một đấng thi sĩ
dởm, đi
thanh lọc, nhận là nhà thơ về nguồn, bị VC đàn áp, bách hại, phải bỏ
nước ra đi, tay thanh lọc viên, nghe
tay thông dịch dịch thơ
bèn ngỡ ngàng, thơ ngây thơ hồn nhiên trong sáng như thế này mà làm sao
cũng phải
bỏ chạy VC, anh ta lắc đầu, VC sợ nhất dòng thơ về nguồn, bởi vì chúng
vô thần,
rất sợ dân Mít đòi về nguồn… thế là đậu thanh lọc! Nhưng sau đó, đi đâu
anh ta
cũng vỗ ngực xưng tên, ta là nhà thơ, hỏi, thì Cao Uỷ Tị Nạn có đóng
dấu công
nhận đây nè!
Ui chao, sau những bài thổi
của Dương Tường, Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Tiến... bây giờ bố ai dám nói
NDT không
phải là nhà thơ!
Điều Gấu nghi ngờ ở đây, là, liệu mấy đấng trên thực sự nghĩ về NDT,
như thế?
Hay là mặc cảm chiến thắng làm mấy đấng này quá đau, và đã đến lúc rất
cần một tay bò về, để ôm lấy mà hôn hít, mà rằng, "nó đây rồi"!
Thủng thẳng, Gấu sẽ đi một
đường về tài thẩm thơ, tài phê bình thơ, tài làm thơ của NDT. Trong khi
chờ đợi,
tạm mô phỏng Adorno: Sau Lò Cải Tạo mà còn làm thơ thì thật là dã man!
(1)
Lò cải tạo, xưa rồi Diễm ơi.
Nếu vậy, thì trò diễn tuồng của nhà nước, đối với những NTT, LCD.
(1) Đừng nghĩ, thơ phò nhà nước
thì ‘không thơ’, mà thơ không phò nhà nước mới là thơ!
Nói rõ hơn, ở cái đám thơ văn ‘ngoài luồng’ mới có lắm điều cần đưa lên
bàn mổ!
Theo nghĩa này, Kundera chê 1984
của Orwell là tác phẩm chính trị mạo danh văn chương.
Nhưng, nói đi phải nói lại,
Orwell coi "nhà văn chính trị" là đỉnh cao mà ông mong với tới! (2)
Viết, mà đọc không cảm thấy nỗi đau của một đứa trẻ đang chết đói, thí
dụ, thì đừng viết!
*
Văn chương thời quỷ ám
Trịnh Y Thư
21/01/2010
Cái tít gây lầm. Chưa đọc bài
viết, mà chỉ đọc cái tít, Gấu nghĩ là tác giả tính viết về văn học của
thời bị
quỉ ám, tức thế kỷ vừa qua, với những tác phẩm khổng lồ như Gulag,
thí dụ. Đọc, hóa ra là tác giả tính
nói về những tác phẩm ma cà rồng, nhưng nếu như thế, thì vấn đề cũng
không đúng,
và lần này, cái không đúng liên quan tới ‘cái gọi là văn chương’. Nói
rõ hơn,
thứ gọi là quỉ ám đó không phải là văn chương, mà chỉ thuần là giải trí.
Khi Stephen King được trao giải
thưởng, đám nhà văn thứ thiệt đã làm ồn lên, vì họ không tin có văn
chương
ở trong những tác phẩm của ông. Tuy nhiên King xứng đáng là nhà văn,
còn mấy
thứ ma cà rồng không xứng. Cái cốt tuỷ của vấn đề, là, văn chương, dù
muốn dù
không, đều có ý hướng… tải đạo. Với thứ văn chương giải trí, ở những
tay nhà văn
cao thủ, họ giấu kỹ cái tính tải đạo đi, thành thử đám độc giả mắt
trắng dã không
nhận ra. Liêu Trai, Kiều [qua câu nói khiêm tốn của tác giả, mua vui
vài trống
canh], những tác phẩm của King, của Kim Dung... đều là văn
chương, một cách nào đó, sợ còn hơn thứ văn chương thứ thiệt, chẳng thế
mà có một tay phê bình, coi, truyện trinh thám mới đích thị văn chương!
Nhưng, trên tờ TLS, số mới nhất,
Sean O'Brien, qua bài viết sau đây, coi đây là vấn đề thuộc về... ngôn
ngữ:
The social concerns of the
thriller
The distinction between crime
and thrillers on the one hand and "literary" fiction on the other
lies in their attitude to language.
Bài viết thú vị. Tin Văn sẽ lèm
bèm về nó, sau.
(2)
There's more to George Orwell than
politics
It's true that politics
drove much of his
writing, but we should also value his masterly characterizations of
some of
literature's most memorable losers
*
Pourquoi j'écris»
«POLITICAL WRITER», un
écrivain politique, c'est la formule que Berrnard Crick s'efforce de
préciser.
«
Pourquoi j'écris?» Orwell
lui-même pose la question, dans un article, et y répond: «
... Lorsque je revois mon œuvre, je
constate qu'invariablement c'est quand je manque de but politique que
j'écris
des livres sans vie, que je me trahis en me laissant aller à des
compositions
décoratives, des phrases sans signification, des adjectifs colorés, de
la
guimauve trafiquée.»
Il serait donc un écrivain
engagé, le pendant anglais de l'intellectuel de gauche français. En
fait la
comparaison se soutient difficilement et l'originalité singulière
d'Orwell
s'affirme, quand, par exemple, il écrit en 1946, soit deux ans avant la
parution de 1984: « Ce que j'ai le
plus desiré faire tout le long de ces dix dernières années, c'est
transformer
l'écriture politique en art. » De fait, il tranche et se démarque
nettement de
l'écrivain militant, bien qu'il se situe sur la gauche du parti
travailliste et
qu'il y milite. «Farouchement égalitaire,
libertaire et démocrate, mais par comparaison avec le Continent d'une
surprenante
absence de théorie, un mélange d'évangéliste et de séculier »,
voilà
comment Bernard Crick le dépeint. Ce qui frappe chez Orwell c'est cette
vocation, ce désir d'écrire qui s'affirme tout le long de sa vie,
révèle un
mode d'être, une sensibilité aiguë, un pouvoir de découvrir et de
restituer,
par les seules voies de la création littéraire, un climat, un temps, un
monde
donné .•
Edmund AEC Maleh 18 mai 1981
Le Monde Dossiers &
Documents, Sept 2009.
S'il
est un écrivain
politique, c'est bien George Orwell (1903-1950). Impérialisme colonial,
injustice sociale et aliénation du prolétariat, poussées de fièvre d'un
totalitarisme occidental qu'il combat sur tous les fronts, l'écrivain
britannique est un preux qui fait feu de tout genre, roman, reportage,
essai,
pour défendre la liberté humaine. Un art de la guerre contre ce « Big
Brother »
dont il a inventé le concept pour mieux le démasquer
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
V/v mặc
cảm chiến tranh của Mũi
Lõ. (1)
(1)
Brad Adams, người đứng
đầu ban Á châu của tổ chức này, nói chính phủ các nước phương Tây nói
chung lờ
đi tình hình tại Việt Nam
do đất nước này có quá khứ về chiến tranh.
“Tại phương Tây có nhiều
người cảm thấy có lỗi trong các cuộc chiến với Pháp và Hoa Kỳ tại Việt Nam.”
BBC
*
Hai cuộc chiến, với Pháp, và
với Mẽo, cuộc chiến đầu thì còn có thể đổ cho dã tâm của anh Tây muốn
trở lại
Việt Nam.
Và câu của Gordimer vinh danh Camus là lời phê bình đích đáng nhất đối
với mẫu
quốc ngày nào của dân Mít:
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"!
Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
Thạch Chương [thuộc nhóm Sáng Tạo]
Trình
bày và phê bình hai quan niệm nổi loạn của Albert Camus
Nam Le, bestseller
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
*
Cái tít truyện “Love and
Honor”, là từ Diễn văn Nobel của Faulkner:
THE
BOAT is an engaging and
free-wheeling collection of seven short stories by first-timer Nam Le,
organized in a cleverly self-referential package. In the pivotal first
story,
"Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice" (a
title drawn from William Faulkner's Nobel Prize acceptance speech in
1950), a
young Vietnamese American lawyer-turned-aspiring author named Nam is visited by his father, just
arrived from Australia.
Nam has
settled in Iowa
to attend the renowned Iowa Writer's
Workshop.
As he struggles to meet its
creative demands and beat his own writer's block, a friend encourages Nam simply to write about Vietnam,
since
"ethnic literature's hot." Another friend differs: "It's a
license to bore. The characters are always flat, generic." It's that
last
friend who tosses out as an aside, "You could totally exploit the
Vietnamese thing. But instead, you choose to write about lesbian
vampires and
Colombian assassins, and Hiroshima
orphans - and New York
painters with hemorrhoids." And thus is THE BOAT.
The second story follows the
perilous life of Juan Pablo Merendez, an adolescent assassin in Medillin, Colombia
as he is called to task by his boss for failing to carry out an
execution. Next
comes "Meeting Elise," the story of an aging, hemorrhoid-afflicted
painter seeking desperately to make amends with his estranged (and
engaged)
daughter as she makes her Carnegie Hall debut as a concert cellist.
Another
story, titled simpy "Hiroshima,"
traces the life of a young Japanese girl moved to the safety of the
nearby
countryside in the days immediately preceding the dropping of the
atomic bomb.
"Hiroshima" is sandwiched between two
other stories, one a "coming of age" story in a coastal Australian
town, the other a "coming to life's purpose" story in Tehran, Iran.
After this whirlwind tour, Nam Le returns for the finale to Vietnam
for his
title story, "The Boat." Not surprisingly, this one is a flight and
survival story, focusing on Mai, a young girl cast adrift for days in
the
Pacific with two hundred other refugees on a smugglers' trawler that
has lost
its engines.
So what to make of the
metastructure? In Nam Le's opening story, the writer Nam
succumbs to the pressure of his
writing assignment and opts to "exploit the Vietnamese thing." He
interviews his father, a survivor of the My Lai
massacre, and converts this horrific story relatively quickly and
easily into
typewritten copy. He awakens the next morning to discover that his
father has
read and then destroyed the one and only copy. Has Nam Le the author
discarded
ethnic literature of his own (the figurative tearing up of the My Lai story by his fictional father in the
first story)
for that of Colombians, Japanese, Iranians, and Australians? And has
he, upon
attempting to step outside his own ethnicity and into the skins of
others,
returned unsatisfied to his own Vietnamese experience for his closing
story? Is
the reader intended to compare the relative merits of Nam's
own
ethnic (Vietnam-based) stories with those drawn from the world at
large? Or are
we to see the opening and closing stories as literary "brackets" of
the immigrant/ethnic literature genre, one a tale of departure or
escape, the
other of adaptation and assimilation?
There seems little doubt that
the opening and closing stories are Nam Le's most affecting. The opener
is
touching in its treatment of intergenerational relationships and
differences in
perception, while the closer is a harrowing tale of sun, salt, thirst,
and
death for the sake of freedom. In between, the other stories show
notable
flashes of literary command, but only the "Cartegena" story in Colombia
engages the reader with anything approaching the story-telling power of
the
opening and closing Vietnamese stories.
Perhaps Nam's fictional
friend in his opening story is correct, that one writes best about what
one
knows best, that it really is best to "totally exploit" ethnic
literature. In Nam Le's case, THE BOAT shows an emerging authorial
talent that
promises the possibility of compelling ethnic literature as well as a
future
range well beyond "the Vietnamese thing." It is quite easy to
recommend this book on its merits and also advise readers to keep a
watchful
eye out for Nam Le's next effort.
Steve Koss (New York, NY United States)
*
The poet's, the
writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to
help man
endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor
and hope
and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the
glory of
his past. The poet's voice need not merely be the record of man, it can
be one
of the props, the pillars to help him endure and prevail.
William
Faulkner: Nobel Prize
Speech
Stockholm, Sweden
December 10, 1950
Như vậy Nam Le này,
cũng một thứ cứ "lải nhải" Faulkner, chăng?
Hannah
Arendt
Kỷ Niệm
Nhà
hàng nổi Mỹ Cảnh, kế bên
Ngân Đình, là nơi Gấu xơi hai trái mìn claymore của VC
[Hình lấy từ Blog Công Tử Hà Đông]
Tự do của nhà văn
|
|