*
















*

*

Chúc Mừng Giáng Sinh


Tưởng niệm Camus, 50 năm sau khi ông mất

Bây giờ đọc lại Những Con Dã Tràng, Gấu nhận ra một điều thật là hiển nhiên, nếu chưa từng đọc Kẻ Xa Lạ, không thể nào viết ra được.

Kỹ thuật viết, [lồng ba bốn câu văn vào nhau, Người con gái lớn đứng im lặng, nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm sống lại người đã chết, tóc xõa che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn ngồi vào chỗ của người khác, cúi xuống nhặt một viên sỏi, ném ra xa, cử chỉ lạnh lùng, người đàn bà (bà mẹ) ngạc nhiên nhìn tôi.. ] chưa từng có trong cõi văn Mít, trước Gấu, và cho tới bây giờ, cũng vẫn chưa có!

Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy 

Câu văn mở ra, [khởi đầu là lời], mới lộng lẫy làm sao!

Bất giác nhớ đến câu văn mở ra đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển

Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.
*
Người mở truyện hách nhất, có lẽ là Camus.
Thử coi, có đúng không.
NOCES A TIPASA
Au printemps, Tipasa est habitée par les dieux et les dieux parlent dans le soleil et l'odeur des absinthes, la mer cuirassée d'argent, le ciel bleu écru, les ruines couvertes de fleurs et la lumière à gros bouillons dans les amas de pierres.
Hôn lễ ở Tipasa
Vào mùa hè, Tipasa là nơi trú ngụ của những vị thần, và những vị thần lèm bèm với nhau trong ánh nắng, trong mùi ngải, biển rát bạc, trời xanh tươi, giữa những điêu tàn phủ hoa, giữa ánh sáng sủi cục trong những đống đá.
LE VENT A DJÉMILA
Il est des lieux où meurt l'esprit pour que naisse une vérité qui est sa négation même. Lorsque je suis allé à Djémila, il y avait du vent et du soleil, mais c'est une autre histoire.
Gió về Djémila
Có những nơi chốn mà ở đó, tinh thần chết đi để nẩy ra sự thực, là phủ định chính nó. Khi tôi tới Djémila, thì ở đó có gió, có mặt trời, nhưng đó một câu chuyện khác.
L'ÉTÉ A ALGER
Ce sont souvent des amours secrètes, celles qu'on partage avec une ville. Des cités comme Paris, Prague, et même Florence sont refermées sur elles-mêmes et limitent ainsi le monde qui leur est propre. Mais Alger, et avec elle certains milieux privilégiés comme les villes sur la mer, s'ouvre dans le ciel comme une bouche ou une blessure. Ce qu'on peut aimer à Alger, c'est ce dont tout le monde vit: la mer au tournant de chaque rue, un certain poids de soleil, la beauté de la race. Et, comme toujours, dans cette impudeur et cette offrande se retrouve un parrfum plus secret. A Paris, on peut avoir la nostalgie d'espace et de battements d'ailes. Ici, du moins, l'homme est comblé, et assuré de ses désirs, il peut alors mesurer ses richesses.
Mùa hè ở Alger
Luôn luôn là những mối tình thầm kín, thứ mà người ta chia sẻ với một thành phố. Những đô thị như Paris, Prague, và luôn cả Florence, chúng tự khép lại, và giới hạn cái thế giới của riêng chúng. Nhưng Alger, và, cùng với nó là một vài vùng đặc quyền như những thành phố nhìn ra biển, mở ra bầu trời, như một cái miệng, hay như một vết thương. Điều mà người ta có thể yêu ở Alger, là ai cũng có phần sống của mình: biển ở mỗi ngõ quặt của con phố, một mẩu mặt trời, cái đẹp của sắc dân. Và luôn luôn, trong cái dơ dáng, đĩ thõa, thèm cho không, biếu không, là một mùi phấn hương bí ẩn. Ở Paris, người ta có thể hoài nhớ không gian, những tiếng vỗ cánh. Ở đây, ít ra, con người tràn đầy, no đủ, và một khi, mọi ham muốn đều được bảo đảm, thằng chả bây giờ bèn thẩm định sự giầu có của mình.
*
Gấu, khi mở ra Mùa Hè Miền Nam, đã chắc mẩm, kể như xong, một truyện dài, chẳng thua gì Lumière d’Aout của thầy Faulkner.
Hóa ra tẽn tò!
*
Phi lý của Camus ở đâu mà ra?
*

Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn

Hai mươi năm trước đây, Albert Camus là một tác giả thời thượng; những kịch phẩm, tiểu luận và tiểu thuyết của ông giúp những người trẻ tuổi, sống. Vào lúc đó, bị ảnh hưởng Sartre, say mê những tư tưởng của ông ta, tôi đọc Camus mới ngán ngẩm làm sao, và nhiều khi còn bực bội về cái gọi là chất trữ tình làm ra vẻ trí thức của ông!
Sau đó, khi tác phẩm di cảo của ông, Sổ Ghi [Notebooks], được xb, vào năm 1962 và 1964, tôi bèn đi vài đường tạp ghi, bằng một giọng văn tầm phào, bố lếu bố láo, phiến diện, tôi chụp cho cái xác của ông một cái nón mầu ‘xám chưa đủ xám’[a ‘premature greyness’]. Dựa vào thái độ của ông trước thảm kịch Algeria - một vị trí mà tôi thật sự chẳng hiểu cái chó gì, hò theo những kẻ thù, đối thủ của ông, không chịu đọc thẳng ông, tôi tự cho phép mình vẽ ra một hình ảnh tiếu lâm về ông, một kẻ công chính, một ông bình vôi, the lay saint, mà những đệ tử của ông để lên bệ thờ và cứ thế xì xụp!
Tôi đếch thèm đọc ông, cho mãi tới mấy tháng trước đây, may mắn làm sao, trong khi theo dõi một vụ khủng bố tấn công ở Lima [ở Sài Gòn, do tay khủng bố VC nằm vùng DH, cũng một đệ tử của ông, thực hiện! Hà, hà!]….
Mario Vargas Llosa, Lima 18 May 1975
[còn tiếp]

*


Ui chao, xuống phố, lượm phụ trang văn học của tờ Le Monde:

1959: Gấu trước tác Những Con Dã Tràng ở Sài Gòn
1959: Tiểu thuyết mới đăng quang ở Pháp.
1959: Kẻ Công Chính Cuối Cùng, Le Dernier Des Justes, của André Schwart-Bart, được Goncourt của Tây.
Gấu quả là bảnh thật!

André Schwarz-Bart (1928-2006), prix Goncourt 1959, avait choisi de ne plus publier depuis 1972. L’Etoile du matin, lancé comme une enquête d’une jeune historienne dans les archives du mémorial de Yad Vashem, prend la forme d’un conte hassidique. Le roman posthume paraît aux éditions du Seuil.

Tay này, sau cuốn trứ danh, đầu tiên, và cuối cùng, Kẻ Trung Thực Cuối Cùng, Prix Goncourt 1959, là tịt ngòi, cho tới bây giờ, Ngôi Sao Mai, một di cảo.

*

&

OUR WORLD

IN MEMORIAM W. G. SEBALD

I never met him, I only knew
his books and the odd photos, as if
purchased in a secondhand shop, and human
fates discovered secondhand,
and a voice quietly narrating,
a gaze that caught so much,
a gaze turned back,
avoiding neither fear
nor rapture;
                                                         and our world in his prose,
our world, so calm-but
full of crimes perfectly forgotten,
even in lovely towns
on the coast of one sea or another,
our world full of empty churches,
rutted with railroad tracks, scars
of ancient trenches, highways,
cleft by uncertainty, our blind world
smaller now by you.

One Response to “The Perfect Present for Sebald Readers

  1. Ivo Kievenaar Says:
    February 8, 2009 at 8:14 am
    I just bought: Adam Zagajewski / Eternal enemies, a marvelous book of poems, Farrar, Straus and Giroux, 2008. One of the poems is dedicated to W.G. Sebald.

  2. Trang thơ Adam Zagajewski

Letter from a Reader

Too much about death,
too many shadows.
Write about life,
an average day,
the yearning for order.

Take the school bell as your model
of moderation,
even scholarship.

Too much death,
too much
dark radiance.

Take a look,
crowds packed
in cramped stadiums
sing hymns of hatred.

Too much music
too little harmony, peace,
 reason.

Write about those moments
when friendship's foot-bridges
seem more enduring
than despair.

Write about love,
long evenings,
the dawn,
the trees,
about the endless patience
of the light.
Adam Zagajewski
Dịch từ tiếng Ba Lan: Clare Cavanagh

*

Từ một độc giả Tin Văn

Đen thui,
Ngoại trừ những dòng
Về BHD
Quá nhiều về chết chóc
Quá nhiều bóng tối
Hãy viết về cuộc đời
một ngày, khoảng đó,
khát khao trật tự


Zadie Smith

Steiner, trong A Death of Kings, cho rằng, trước cái tuổi dậy thì, thì ba món ăn chơi ngỡ ngàng hứng thú, thứ ưu việt, của giống người là âm nhạc, toán học và cờ tướng. Liền đó, ông vinh danh Lévi-Strauss và cơ cấu luận: Levi-Strauss nhìn thấy ở trong sự phát minh ra giai điệu “chiếc chìa khoá mở ra niềm bí ẩn tối thượng’ của con người – nó là cái manh mối mà nếu chúng ta mò theo thì có thể sờ vô được cái máy trời đặc dị, cái thiên tài chủng loại.
[Music and mathematics are among the preeminent wonders of the race. Levi-Strauss sees in the invention of melody "a key to the supreme mystery" of man - a clue, could we but follow it up, to the singular structure and genius of the species].
Cũng trong bài viết, ông nhận xét, bên dưới những giả tưởng của Nabokov, là một cái bàn cờ tướng ẩn dụ, biểu tượng: Chess is the underlying metaphor and symbolic referent throughout Nabokov's fiction. Pnin plays chess; a chance look at the Soviet chess magazine 8 x 8 impels the hero of The Gift to undertake his mythical biography of Chernyshevski; the title of The Real Life of Sebastian Knight is a chess allusion, and the intimation of Master play between two modes of truth runs through the tale; the duel between Humbert Humbert and Quilty in Lolita is plotted in terms of a chess match whose stakes are death. 


Kadaré: Le Diner de trop


Kỷ niệm, kỷ niệm

Cùng lúc đọc, viết. Truyện ngắn đầu tay của tôi, Những Ngày Ở Sài Gòn, thai nghén tại nhà thương sau khi đọc một bài thơ của một người bạn, thi sĩ Cao Thoại Châu, trên báo Văn, tiền thân tờ Văn bây giờ, của Nguyễn Xuân Hoàng. Viết tại đỉnh cồn, một tay bị băng bột, phải tựa lên thành ghế, một tay viết. Ban đêm ngủ phải nằm sát tường, để có chỗ dựa cho cánh tay băng bột. [Vậy mà cũng vác cánh tay đi chơi với ‘Cô Bé’. Thấy mọi người chăm chú nhìn, cô cười nói, họ nhầm anh với một anh lính chiến!]
Xong, gửi báo tuần báo Nghệ Thuật. Truyện được đăng, sau đó được tòa soạn nhắn xuống lấy tiền nhuận bút. Nhân thế, quen Viên Linh, liền sau đó thay Thanh Nam làm tổng thư ký. Anh xúi tôi viết tiểu luận, phê bình, điểm sách, điểm phim! [Mới đây, gặp lại, anh chìa cho tôi xem, một trong những bài điểm sách đầu tiên của tôi, là cuốn Thị Trấn Miền Tây, của Viên Linh, đăng trên báo Văn Học Sài Gòn, không phải tờ Văn Học Cali bây giờ]
Tôi nói với ông anh. Ông bảo sợ gì chuyện đó. Thì cứ viết, bằng cách giới thiệu những trào lưu văn học thế giới. Thấy tôi ngần ngại, ông bảo, Nguyễn Đình Thi cũng viết cuốn Triết Học Nhập Môn theo kiểu đó, vừa đọc, vừa dịch, vừa giới thiệu, vừa sáng tác. Đừng sợ sai, sai thì sửa. Không làm như vậy, chẳng bao giờ có tác phẩm.
Kinh nghiệm của Nguyễn Đình Thi, qua ông anh, đã theo tôi suốt bao năm mê mải với mớ chữ. Tôi cứ thế giới thiệu, nào trào lưu hiện sinh [Tôi còn nhớ tên loạt bài viết cho Nghệ Tthuật: Thế nào là văn chương dấn thân?], tới những tác giả tiếp theo trào lưu hiện sinh như Roland Barthes, Gérard Genette... Tôi giới thiệu Beckett vào năm 1965 - 1966, trước khi ông được Nobel vào năm 1969. Ra hải ngoại, vẫn ‘mửng’ đó, tôi giới thiệu Borges, Steiner, Naipaul, Said... nghĩa là vừa đọc, vừa [tập] dịch [tiếng Anh].

Những Ngày Ở Sài Gòn, thai nghén tại nhà thương sau khi đọc một bài thơ của một người bạn, thi sĩ Cao Thoại Châu…
Không phải như vậy.
Những ngày viết lâu rồi, nhưng bỏ trong ngăn kéo. Chỉ đến khi ăn mìn VC, và, trong khi nằm dưỡng thương trên Đài, đọc bài thơ CTC trên tờ Nghệ Thuật, thế là lôi ra, sửa sửa, rồi nhờ anh bạn Trần Công Quốc, nhân ghé Đài thăm, đưa cho anh Tâm, tức TTT. Anh Tâm đem xuống cho Nghệ Thuật.
Bài thơ của CTC, là một bài thơ viết về chiến tranh. Hồi đầu, thơ CTC đầy không khí chiến tranh, thí dụ như câu Xin lấy máu làm dầu soi sáng, cho đám Mít nhìn rõ mặt nhau.
Sau này, thơ anh đầy đàn bà. Bài thơ nào cũng có đàn bà, hoặc bạn.

Truyện ngắn Những Con Dã Tràng, được viết ra, để giải tỏa một nỗi nhức nhối của đời sống, ngay sau khi đọc Kẻ Xa Lạ của Camus. Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện ngắn Những Ngày Ở Sài Gòn, thì Gấu biết mình sẽ có ngày trở thành nhà văn. Chính cái style, cái không khí truyện, cái giọng văn, cái hình dáng của một câu văn, câu nọ choàng lên câu kia, câu trước chưa thở hết cái hơi thở của nó, thì câu sau đã hăm he choán chỗ, câu trước đẩy câu sau… cho Gấu biết điều này.
Sau này, Gấu để ý, chỉ có hai nhà văn Mít cũng viết như vậy, là Nguyễn Ngọc Tư, và Mai Ninh. Ở NNT, Gấu nghĩ, văn của bà là từ những dòng sông, những con rạch, những cánh đồng bạt ngàn của Miền Nam trước khi đám Yankee mũi tẹt tàn phá chúng, tạo nên.

Văn chương Bắc Kít, y hệt cái ao làng, một thửa vườn, thửa ruộng nhỏ xíu, bị bờ ruộng, bị lòng người, tình người bít chặt đến nghẹt thở. Bạn cứ thử đọc, bất cứ một ông nào, bà nào, là thấy liền tù tì!
Đã thế lại còn hay triết lý, biện luận, giảng giải, lúc nào cũng sợ độc giả ngu, không nhận ra tư tưởng thâm viễn của...  chúng ông!
*

Lời giới thiệu:

Là một nhà văn nổi tiếng ở hải ngoại, nhưng với một độc giả, thí dụ như tôi, và có lẽ, với chính tác giả, đến bây giờ, cả hai mới nhận ra giọng văn đích thực, của mình.
Hy vọng sẽ có dịp nói thêm, về một thứ tùy bút, giống như mưa mùa xa, theo nghĩa chưa từng có, chợt về với khí hậu văn chương Việt Nam.
Nhưng cũng không hẳn như vậy, bởi vì đọc Mưa Mùa Xa, bỗng nhiên tôi liên tưởng tới... Một Mối Tình:
Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê, má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh, tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười...(1)
Như vậy, đâu phải bốn, mà chỉ có hai mùa, mưa và nắng, nhất là mưa, ở trong Mưa Mùa Xa:
"Mưa Sài Gòn độ rất nhỏ.."
Và "nhất là" những câu như thế này:
"Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những chấn động đầu tiên trong đời qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa những tờ truyền đơn ướt nát, những manh biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn vung vãi trên vỉa hè sau cuộc biểu tình tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền rĩ niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn rã vào cửa liếp và những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đã đốn đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút giữa lòng đường."...
Bạn nhận ra ngay, Sài Gòn của những ngày xuống đường, ở trong Mưa Mùa Xa,
Bạn nhận ra ngay, Miền Nam ở trong Một Mối Tình.

Roland Barthes


Ghi chú về Brodsky


Chăm sóc cô đơn


Dọn Tiếp!

V/v NDT

Theo Gấu, vụ xb “Thơ từ đâu tới”, gồm những bài phỏng vấn của NDT, với một số nhà thơ trong và ngoài nước, là một thiện ý của giới cầm viết ở trong nước.
Họ muốn có được một cú giao lưu như thế. Bởi vì nếu không, chúng ta không thể hiểu được, tại sao những Lê Đạt, Hoàng Cầm lại nhận lời. Không lẽ họ không ‘bảnh’, so với VL, TTY?
Trong thiện ý đó, Trung Trung Đỉnh, đã cố gắng dàn xếp với giới kiểm duyệt, và rất bực, khi bị qua mặt, tình tiết cú qua mặt này xin đọc Blog Nguyễn Trọng Tạo, nhưng vẫn bỏ qua, chứng cớ là màn vĩ thanh, như đăng trên talawas.
Cho nên, cái vụ này, không liên quan tới nhà nước VC, không liên quan tới kiểm duyệt VC.
Còn cái chuyện liên quan tới nhà biên khảo HNT, cũng chẳng mắc mớ gì tới chuyện kiểm duyệt, mà chỉ vì NDT tính muợn tí tên tuổi của mấy ông này, khi "cám ơn" họ đã giúp đỡ này nọ. Mấy ông này, đã trả lời thẳng thừng rồi, là xong, đâu cần phải khoe tao bảnh hơn mày, đếch cho phép nhà nước VC kiểm duyệt tác phẩm?
Toàn chuyện ruồi bu!

Trong vụ này, rõ ra là đám BVVC bảnh hơn đám hải ngoại! (1)
Chán thế!
NQT
(1) Mi lại muốn "làm lợi cho CS", hử ?
*

V/v "chở sách về tù", của đám nhà văn hải ngoại, Gấu là người đầu tiên nếm thú đau thương.
Lần đó, đám BVVC mở lời trước, Gấu nể tình, quả đúng là như vậy, gật đầu. Khi được anh Lê Tự, của báo Đại Đoàn Kết phỏng vấn, Gấu cũng nói ra điều này, nhưng do nghe, rồi về viết lại, anh viết, chuyến này về Gấu mang về theo hai cuốn sách, tính xin xb, khiến Gấu hoảng quá, bèn đi một đường đính chính. Cũng rét vậy. Và sự thực nó không đúng như vậy.
Một trong số những BVVC còn đưa Gấu ra Hội Nhà Văn ở Hà Nội, để gặp ‘mấy anh’, vẫn nể quá, Gấu cũng đi, và may quá, chẳng có anh nào ở đó, bữa đó. Có vẻ như biết Gấu không ham, anh ta đề nghị, tụi này sẽ download bài trên net, tự nguyện cắt xén, đưa kiểm duyệt, rồi lo in ấn, xb, anh vờ đi coi như không biết tới. OK?
Một ông nữa, thì yêu cầu Gấu chuyển bản thảo về, qua email, tới hai lần lận, nhưng sau đó cũng im re. Theo Gấu, anh ta biết, nếu cắt xén, thì coi như chẳng còn gì.
Chuyện xb sách ở trong nước, vào thời điểm bây giờ, chỉ là chuyện ruồi bu. Có cái gì hay, cứ đưa lên net, là trong nước đọc. In, chưa chắc họ đã đọc, vì biết chỉ là cứt đái.
Bởi vì nếu không là cứt đái, thì đã không qua được kiểm duyệt!
Đây là nói chuyện ôm tác phẩm ngoại, về xin đi tù VC, không liên quan gì tới tác phẩm ở trong nước.
Ở trong nước, thì đã có câu của Borges: Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ.
NHT, thí dụ, rất rành chuyện này. Ông bắt Nguyễn Huệ sống dậy, làm giùm ông cái việc ông cần làm.
*

Tờ Granta, số 64, Mùa Đông, 1998, đặc biệt về Miền Đông Hoang dã của Nga xô, Russia, The Wild East, Tin Văn đã từng chôm một vài đoạn ở trong đó. Trong bài Intro, được scan dưới đây, và nếu có thể sẽ được dịch, có đoạn:
Về văn chương, Nga có một truyền thống hiện thực chủ nghĩa, lớn, có lẽ lớn nhất, và có vẻ như nó đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ thực tại, chính nó, vào lúc này thì hơi bát nháo, và sự thực về nó, thì cũng hết còn bị dồn nén, cho nên những nhà văn mới của Nga thường khoái biếm văn và những trò kỳ quái mang tính ám dụ. Những thể loại văn học mà một khi mất nội dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Nhận xét trên thật quá đúng đối với văn chương Mít ở trong nước. Nào là rung chuông tận thế, nào là ẩn dụ "cởi truồng", chờ hoài chờ huỷ không thấy kinh, và chỉ thấy kinh, [có tháng] vào ngày lễ ra trường ngợp cờ đỏ, hay bị bóng đè, bị hồn ma tiền nhân, hay ma net hiếp...
[Note: Những dữ kiện nêu ra ở đây, chỉ có tính minh họa, không nhằm khen chê bất cứ tác giả nào].
Theo Gấu có một sự băng hoại khủng khiếp ở trong văn chương trong nước. Nhà văn hàng ngày phải chứng kiến những tội ác chưa từng có trong lịch sử nước Mít, thí dụ, đại gia xả xui bằng cách lấy trinh hàng loạt trẻ em, ông hàng xóm hiếp đứa con nít 5 tuổi nhà kế bên bằng mồi nhử là ba cục kẹo...  Khủng khiếp hơn nữa, những con quái vật này không bị trừng phạt, hoặc trừng phạt thật nhẹ. Khủng khiếp hơn nữa nữa, chính nạn nhân năn nỉ khoan hồng cho chúng, bởi vì đành phải chấp nhận một tí tiền bồi thường bên ngoài tòa án, nếu không, chẳng được gì. Và do sợ hãi, do bổng lộc, do hèn hạ...  nhà văn đành câm miệng trước tội ác, và để quên nhục nhã, viết biếm văn, viết ẩn dụ cởi truồng.
Cứ giả dụ, nhà văn ý thức được những cái ác nhan nhản trước mắt, nhưng do không kiếm ra nổi một thứ ngôn ngữ trung tính, một cách viết trắng, như cách viết của Camus, thí dụ, và sử dụng thứ ngôn ngữ ô nhiễm, [nào đại gia, nào máu, nào đạn...], hoặc ngôn ngữ dối trá nâng bi quá khứ, tác phẩm cũng không thể nào đọc được.
Cái sự băng hoại của ngôn ngữ, cái sự dối trá mới đáng sợ làm sao!
Làm thế nào để làm điêu tàn một xứ sở?

Trang Yiyun Li

Trong chợ sách, ở bên Tây, DCT ca ngợi hai tác giả cùng có mặt, Bảo Ninh, và Thuận.
Bảo Ninh, thì ‘xưa rồi Diễm ơi’, nhưng Thuận, với Chinatown, theo tôi, không phải là cõi văn Mít.
Phải coi nó là một tác phẩm ngoại, ngay cái tên của nó, đã cho thấy.
Nếu coi đây là hai tác phẩm tiêu biểu, thì sẽ có một lời giải thích liên quan tới cả hai:
Chính cái sự bế tắc của Bảo Ninh, và cùng với nó, văn học Mít sau 1975, đẻ ra thứ văn chương ngoại lai, tả pí lù Chinatown.

Những đứa trẻ bị những đại gia phá trinh, những người dân Mít bị chà đạp, mất nhân phẩm, những Lê Công Định, thí dụ, không hề có mặt ở trong Chinatown.
Thứ ngôn ngữ ở trong đó, không chấp nhận họ.
Những thể loại văn học mà một khi mất nội dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Câu trên, có thể áp dụng cho Chinatown, và rất nhiều tác phẩm khác, kể cả thứ viết cho nhi đồng, như Vừa nhắm mắt vừa mở cửa, thí dụ, của một tay giả đò làm con nít, trong khi giả đò nhắm mắt coi phim sex diễn ra nhan nhản trong xã hội.
Nhật Ký Tin Văn