|
Chúc Mừng Năm Mới
Giáng
Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!
Cứ theo
lịch sử mà nói, thì
luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao chúng ta không nói ngược
lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến lượt Gấu buộc tội xứ sở
Mít phản
bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của Ha Jin, trong
bài Ngôn ngữ Phản bội, The Language
of Betrayal, trong Nhà văn như là Di dân,
The writer as Migrant.
Ông giải thích thêm:
Rất nhiều xứ sở là những tên
phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ
sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến nhà văn đếch làm sao viết với
sự chân
thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ sĩ.
The worst crime the country
commits against the writer is to make him unable to write with honesty
and
artistic integrity.
'Life has been reborn'
Wanting
to Be Something Else
Adam
Shatz, trên tờ Điểm Sách
London, The London Review of Books, số 7 Jan, 2010, đọc The Museum of
Innocence
của Pamuk.
Bài này thật tuyệt, nhìn ra
những tác giả đương thời cùng dòng, thật giống Pamuk, là Paul Auster và
Haruki
Murakami. Sau cú 911, những cuốn tiểu thuyết của Pamuk được coi như là
những sấm
ngôn [oracles]
Levi-Strauss
No
Longer and Not Yet
Hannah Arendt mở ra bài viết
No Longer and Not Yet, điểm cuốn The Death of Virgil của Herman Broch,
trong
tập tiểu luận Essays in Understanding, bằng nhận xét của Hume:
Trọn văn minh
nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ thì không lui khỏi sàn diễn liền
lập tức
và một thế hệ khác kế tiếp nó, như trường hợp tằm và bướm’. Ở vài điểm
ngoặt
lịch sử, ở vài đỉnh cao của khủng hoảng, một số phận tương tự như tằm
và bướm
giáng xuống một thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới không bắt buộc
phải sinh
ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ, giữa những con người vì lý do này
hay lý do
khác, vẫn thuộc về thế hệ già, và những người hoặc cảm thấy cơn thảm
họa ở
trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng với nó,
sợi ‘sên’
bị gẫy, và một “lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất không người
lịch sử
xuất hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không còn nữa, và chưa
xẩy ra
nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the birth of the new, is
not
necessarily an affair of continuity; between the generations, between
those who
for some reason or other still belong to the old and those who either
feel the
catastrophe in their very bones or have already grown up with it, the
chain is
broken and an "empty space," a kind of historical no man's land,
comes to the surface which can be described only in terms of "no longer
and not yet."]
Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt
đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm
bèm’ của đám
trí thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay thế hệ
bỏ đi nổi
tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự
thực của
nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc
‘tự
do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong
hoặc giật
lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi
sên liên
tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah Arendt,
thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo, bằng
mọi cách, ‘đả
phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn ra cái sợi sên bị
đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Võ Phiến, khi nhắc tới Sáng Tạo, bởi vì trong đầu ông,
cả đám
chết hết, chỉ còn Mai Thảo, cũng cùng ở Mẽo, nên chỉ hỏi Mai Thảo!
Ông có đọc mấy ông kia, trước
1975, hẳn có, nhưng làm sao nhớ, ngoài một số cảm tưởng còn sót lại, và
cùng với
chúng, sự dè bỉu, đố kỵ, chưa kể nỗi hân hoan của kẻ sống sót nói về
nạn nhân:
Nhìn như một cách thế thì
cách
thế Sáng Tạo có những chỗ khó bảo là “tuyệt
đẹp”. Chẳng hạn trong lối “khai tử” nền văn nghệ tiền chiến có một cách
thế kiêu
căng, chẳng hạn trong lối diễn đạt của những vị trong nhóm chủ trương
có một cách
thế kiêu kỳ: hoặc hoa hoè hoa sói, kiểu cách ưỡn ẹo, hoặc tối tăm rối
rắm.
Khi VP viết những dòng trên, đám
ST đang ngồi tù.
Ông không có được một chút xót
thương những người vấp ngã!
Biết ơn, lại càng không!
Cũng được đi. Nhưng, phải chỉ
ra, kiêu căng, õng ẹo, tối tăm, kiêu kỳ, rối rắm ở những chỗ nào, của
ai, trong
nhóm.
Phán như thế, ai phán cũng được.
Những lời tuyên bố hung hăng
nhưng rỗng tuếch của Mai Thảo thật khó mà coi là đại diện cho nhóm
được. Nó chỉ
là mặt nổi, kiểu khoa trương, kèn trống ỏm tỏi khiến mọi người chú ý
tới sự ra đời
của nhóm: vở mới, vở mới, mại dô, mại dô.
Muốn biết chủ trương của nhóm, phải đọc những bài viết của Thanh Tâm
Tuyền, những cuộc thảo luận
của nhóm…
VP viết [trang 184 VHTQ]: Thơ tự do không phải là cái mới
mẻ nữa. Nó không phải là sáng kiến của văn nghệ hôm nay, của cách mạng.
Tại sao?
Ông không cho biết.
Trang 186, sau khi
trích lời phi lộ của Nhất Linh, khi chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay,
trong có câu,
“Sở dĩ ngày nay văn nghệ chưa rung cảm được độc giả vì văn nghệ chưa
nói được lòng
người”, VP hạ một câu: Cách mạng đã bị phủ nhận.
VP rõ ra là đố kỵ nhóm Sáng Tạo!
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
L'ENFANCE DANS
L'AUTOBIOGRAPHIE
Tuổi thơ trong tự thuật
Le passé
inguérissable de
Camus
Cái quá
khứ không thể lành của Camus
“Le Premier Homme” est
l'ébauche du grand roman autobiographique auquel l'écrivain travaillait
"Người thứ nhất", "Le Premier
Homme", là phác thảo của một cuốn đại tiểu thuyết tự thuật mà
nhà
văn
đang loay
hoay, hì hục, thì bị cái chết đánh gục.
Retrouver
l'enfant, les
souvenirs d'enfance, c'est retrouver les germes de l'œuvre à venir et
ce qui a
déterminé la présence de l'adulte au monde. C'est ce qu'ont fait avec
talent,
entre autres, Rousseau, Perec, Camus, Sartre et Yourcenar.
Tìm lại đứa bé, những
kỷ niệm
thời ấu thơ, là tìm lại những cái mầm của tác phẩm sẽ có, và điều quyết
định sự
hiện hữu của kẻ được gọi là người lớn trong cuộc đời. Đó là điều mà
bằng tài năng,
họ đã làm được, trong số “họ” đó, có những nhà văn như Camus, Perec,
Sartre và
Yourcenar.
Cảm xúc không rời chúng ta theo
từng trang sách. Một tuổi thơ thật ngây
thơ, thật hăm hở, từ đó toát ra một sự thuần khiết, gần như một ân
sủng. Cùng với Mặt trái và Mặt phải, Người đàn ông thứ nhất
là một trong bản văn
hiếm, dưới dạng gần như tự thuật, của một nhà văn vốn tởm lợm cái trò
tâm sự ỉ ôi.
Người ta biết, nó phải gồm ba phần: phần thứ nhất dành cho tuổi thơ,
thứ nhì
thuở mới lớn và tuổi trưởng thành (hoạt động chính trị, xứ Algérie,
Kháng chiến),
và phần thứ ba (“mẹ”), đề cập đặc biệt tới “vấn đề Ả Rập,
văn hóa da
trắng ở xứ thuộc địa, và số phận của Tây phương”
Sống
chung với kiểm duyệt?
Kỷ Niệm
Đọc số
báo đặc biệt về Đứa bé
& Nhà văn, Gấu thấy Gấu, ở trong thằng bé chưa thành nhà văn Camus:
cũng có
một ông bố bỏ đi mất tiêu. Số phận ông bố của Camus thì quá rõ ràng,
ông tử trận.
Còn ông bố của Gấu thì bị một đấng học trò thủ tiêu, nhưng thực sự ra
sao, thì
chẳng ai hay. Thế rồi Gấu lại thấy tuổi thơ của mình sao giống của ‘em’
Nathalie Sarraute, bị một miền đất chôm mất!
Đọc,
bồi hồi nhận ra, hình dáng trong trí tưởng tượng về một BHD, là từ cái
tuổi thơ bị
Miền Bắc
giam cầm đó.
Một cách nào đó, có thể nói, BHD bước ra từ cái
bóng của…
Lolita.
1989.
Trong một bài viết ở
phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều
diễm,
thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng
nàng - la
palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu
báo, thuật
câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một
chú khỉ ở
một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương"
là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn
quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một
của
Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch
"Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với
những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư
vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên
nổi
chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần
Cuối Sài Gòn
*
Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền,
tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ
cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước
mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại
‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta!
Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở nào, và Hà Nội của mi
ở trong
con bé con đó!
Khủng khiếp nhất, là, kể từ
khi Gấu lấy một em miệt vườn làm vợ, cái xứ Bắc Kít trả thù mới tàn bạo
làm
sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một em Bắc Kít, là khốn khổ
khốn nạn,
là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD của mi ở trong em đó!
*
Un Exil Fondateur
Một Lưu vong, Trùm.
Dans toute l'œuvre de
Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée.
Trong tất cả tác phẩm của Nathalie Sarraute vang vọng lên tuổi trẻ Nga
của bà, bị chôm mất!
Ui
chao, không lẽ đây là BHD?
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa
mémoire. On
lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est
fini
pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Và nàng có một phản ứng
thật lạ: nàng làm thịt hồi ức của nàng. Người ta chôm mất của nàng một
xứ sở, vậy thì
nàng làm thịt tất cả những kỷ niệm về miền đất đó!
*
Un Exil Fondateur
Dans toute l'œuvre de
Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée.
Il était une fois Nathalie
Sarraute. Il était cette petite fille, le front droit, les yeux
attentifs,
Nathalie, quelque part en Russie.
Le début du siècle. Sa Russie
est là, de tous les côtés, autour d'elle. Par-dessus la barrière de
bois peinte
en vert et les gros soleils aux pétales jaunes et aux graines noires,
il y a,
dans la maison de bois découpé comme une dentelle, derrière la fenêtre
aux rideaux
très blancs, un chat noir qui ne dort pas, mais qui fait semblant, et,
dans une
grosse bonbonne sombre transparente, la confiture de fraises, les
fraises
ronndes ou pointues nagent, aussi netttes que des billes, dans le sirop
rouuge.
Sous les rayons penchés du soir, la couche de neige bleu et rose est
l'édredon
qui garde au chaud l'herrbe de la route, parce que la route, à Ivanovo,
n'est
pas de pavés ni de terre, mais tout en herbe.
Dans la maison, aux murs
faits de troncs d'arbre tout ronds et gris posés les uns sur les
autres, plane
un silence d'une qualité inoubliable, un silence poudreux, céleste, et
sur ce
silence, les paroles se posent en douceur, comme en secret: «Mam,
gdié ? .. », «Vot, tak ... », «
Potchimou ... » ...
Et, d'un coup d'un seul, la
petite fille se retrouve dans la chambre sans vie, sans couleur, d'un
appartement, dans une rue qui n'a pas le moindre caractère, à Paris. Les sons y
cassent les oreilles.
Alors, cette petite fille a
un réflexe très étrange: elle tue sa mémoire. On lui a volé son pays,
eh bien,
elle tue les souvenirs de son pays. C'est fini pour elle. Elle est
morte, haute
comme trois pommes.
Mais elle est là, encore,
avec son front droit et ses yeux attentifs, assise par terre, jambes
repliées,
dans un coin de la chambre noire et, comme rappelle Nathalie Sarraute
qui aime
bien les phrases toutes faites parce qu'elles sont plus humbles, «petit poisson deviendra grand ».
A partir de ce jour-là, la
petite fille dépaysée, dépossédée, l'enfant déportée, se ferme presque
une fois
pour toutes à plusieurs franges d'ondes, plusieurs franges de
sensations. Elle
ne perçoit plus les gens, les choses de la vie que dans un vide de
limbes,
fantomatique. Et, désormais, un seul «phénomène» va lui parvenir, va
l'atteindre, la toucher, la blesser, la surprendre: c'est les mots
qu'elle
entend. Les mots qui sont dits près d'elle.
Tout se passe comme si ces
paroles « précipitaient» en elles-mêmes,
agglutinaient en elles-mêmes, phagocytaient l'ensemble des autres
sensations
visuelles, tactiles, gustatives, et même auditives, que Nathalie
Sarraute
s'interdit, dont elle se prive volontairement puisqu'on l'a privée de
ses
confituures de fraises et du chat noir dans la fenêtre, de sa neige
rose et
bleu et du silence de son isba.
Ce ne sont pas les mêmes paroles.
Ce n'est pas du russe, c'est du français. Ce sont des mots plus secs,
aux
arêtes plus coupantes, et lui chantent moins. Et ces paroles tombent de
partout, montent de partout, comme si les gens, ici, ne savaient vivre
que par elles,
aller et venir que par elles, se sentir être que par elles. Nathalie
est
révulsée et aimantée par ces paroles, qui occupent le champ entier de
ses
facultés perceptives.
Il faut bien reconnaître que
l'une des choses les plus étonnantes de la vie, c'est lorsque vous
surprenez,
dans la rue, dans un autobus, dans un café, deux personnes qui
parrlent, qui
parlent d'affilée, sans pause, de n'importe quoi, comme des machines,
sans
presque s'écouter l'une l'autre, comme si le nœud crucial, le nerf
central du
corps humain, et de la conscience, c'était ça : produire à tout prix
des mots,
et avoir à portée de la main quelqu'un pour les écouter. Comme si les
paroles,
même creuses, même inutiles et nulles, existaient plus que les
personnes,
avaient pris leur place, ici bas.
Et il y a, partout, sans
cesse, mille autres situations, mille autres emplois, des paroles: les
paroles
de piège, de tentative d'investissement, de blessure maligne, de
farfouillage
indiscret ...
A lire Nathalie Sarraute,
oui, nous saisissons mieux qui nous sommes, et comment nous nous y
prenons pour
nous débrouiller dans nos jours. Mais, avant tout, nous tombons sous
l'emprise
de la voix unique de Nathalie Sarraute, une voix plutôt lente, plutôt
calme,
d'un rythme assez régulier, comme si elle «parlait pieds nus» dans un
chemin de
campagne, épousant les formes vivantes du sol.
Il semble pourtant que
l'emprise de la voix de Nathalie Sarraute, il semble, disons carrément
les choses,
que notre amour de Nathalie Sarraute, tienne à une autre raison: c'est
que dans
chaque page, dans la plus petite page qu'elle écrit, se serrent,
blottis,
muets, tremblants, bruissants, souriants ou en larmes, tous les
souvenirs
qu'elle a tués, toute cette enfance qui lui fut volée, et que, même
dans son
livre nommé Enfance, elle n'a pas
dite. Chaque fois que Nathalie Sarraute aura desserré les lèvres, elle
les aura
gardées fermées sur un secret, sur la plus grande souffrannce. Chaque
fois
qu'elle a parlé, elle s'est tue.
MICHEL COURNOT (23 juillet
1986)
Dọn Tiếp!
Những
đoạn của Gordimer nhà thơ Nguyễn Tôn
Hiệt thích, và dịch, xuất hiện cũng đã lâu rồi. Sở
dĩ Gấu đến bây giờ
dám ‘đụng’ tới nó, là vì bài thơ ‘Tôi biết ơn những người vấp ngã’ được
nhà
đại phê
bình mang ra thổi vung vít, khiến Gấu ‘lại đâm bực’!
Hãy thử tưởng
tượng, gia
đình LCD đang ló sốt vó, không biết ông có bị VC đem ra làm vật tế thần
hay không,
mà phải đọc những tình cảm nhân hậu và nhân bản dành cho người yếu
đuối, quá nhẹ dạ, và vấp ngã,
thì có điên
lên không?
Gấu này, người ngoài cuộc, đọc,
mà còn giận điên lên, và như người ta nói, giận mất khôn, mất luôn cả
'tư
cách nhà văn',
mất luôn 'lòng tự trọng', là như vậy.
Dù sao, cũng xin lỗi thi sĩ, một lần nữa.
NQT
Chán thật. Vừa cảnh cáo nhà
phê bình qua đệ tử của Người, coi chừng cắn phải lưỡi, thì cắn ngay
lưỡi của chính mình!
NQT
*
Bài thơ của Nguyễn Tôn Hiệt,
Gấu mầy mò tìm lại xuất xứ, hóa ra là được gợi hứng từ bài thơ của Trần
Tiến Dũng,
và cái từ “vấp ngã”, là của TTD.
Nhà thơ TTD sử dụng từ này, thì OK, ấy là bởi
vì, ông không thể sử dụng một từ khác. Trong tinh thần bài thơ của ông
hình ảnh
‘vấp ngã’ thật đẹp, vì nó không nhắm thẳng vào những cá nhân như LCD,
NTT, mà
chỉ khiến người đọc nhìn ra, và nhập vào khổ nạn của tất cả những người
như họ, được tượng trưng bằng một số nhân vật trong bài thơ (1)
Cũng theo cái dòng đó, mà bài
thơ của Nguyễn Tôn Hiệt đi tiếp. (2).
Nói rõ hơn, nhà thơ NTH không sử dụng bài thơ
của ông, để chỉ đích danh, và để nhớ ơn, những LCD, NTT. Thành thử bài
viết của
NHQ, với cái tít: Một bài thơ
cho Lê Công
Định và Nguyễn Tiến Trung,
là sai.
Đây là đòn "mượn hoa hiến Phật", "của người phúc ta", khiến Gấu bị mắc
hỡm!
Bởi vì,
Nguyễn Tôn Hiệt không hề làm bài
thơ cho LCD và NTT.
[Không hiểu, ở những chỗ khác, ông có ghi là "tặng và nhớ ơn LCD, NTT
vì vấp ngã" hay không.]
Khi đọc cái tít, trên, khi đọc
những dòng sau đây, của NHQ, tôi, NQT đã bị lầm.
Ở đây, tôi chỉ xin giới
thiệu một bài thơ viết nhân ngày Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung bị
bắt [Note: Nếu sự kiện chỉ có thế,
thì không
thể ‘giật cái
tít’ như trên được. NQT], và sau đó,
xuất hiện trên màn ảnh truyền hình
với lời
nhận tội và xin khoan hồng. Về sự kiện ấy, rất nhiều người đã lên
tiếng. Người
thì thông cảm, cho họ bị công an lừa gạt hoặc gây sức ép. Người thì
thất vọng,
cho là họ quá nhẹ dạ và yếu đuối.
Tôi thích nhất là thái độ
của
nhà thơ Nguyễn Tôn Hiệt. Trong bài “Tôi biết ơn những người vấp ngã”,
ông đưa ra
một cái nhìn nhân hậu và nhân bản, bày tỏ sự trân trọng đối với những
người
từng dũng cảm lên tiếng chống lại tội ác ngay cả những khi họ bị vấp
ngã.
Về phương diện nghệ
thuật,
đây cũng là một bài
thơ hay. Xin mời quý bạn đọc thưởng thức.
NHQ. Blog VOA
Từ cũng, "đắt"
thật!
NQT
*
Hôm qua, 06.01.2010, sau khi viết
xong bài “Khi một con người không còn biết tự trọng” (trong đó, tại hạ
phê phán
việc ông Nguyễn Quốc Trụ thoá mạ tại hạ một cách vô căn cứ, vô cớ và thiếu
lương thiện về một bài trích dịch Nadine Gordimer)…
NTH
Tôi, NQT, sợ rằng, “thiếu lương
thiện”, đúng ra phải áp dụng cho nhà thơ!
Ông có nguyên tác trong tay, ông giấu biệt, lâu lâu "xón" ra một câu
dịch rất đỗi tức cười, NQT đọc,
nghi quá, mới gõ Google, ra được cái bản tóm tắt. So nó với những
đoạn ông đã dịch, thì nghĩ trong bụng, nhà thơ không đọc nổi bản văn
của Gordimer,
từ đó mới xổ ra một số từ khá nặng nề, bởi thế, khi ông lên tiếng, phải
nhận lỗi
về mình.
Câu văn “All that the
writer can do, as a writer, is to go on writing
the truth
as he
sees it”, có thể nằm trong nội dung bài viết, thì hiểu được, nhưng vì
tách ra,
nên NQT mới bị lầm, và cũng đã nhận lỗi.
Giả như ông NTH để nguyên văn
tiếng Anh, kèm câu dịch, thì đâu có
chuyện.
Chính vì sợ ‘thiếu luơng thiện’ mà Tin Văn mỗi khi dịch, cố gắng kèm
nguyên tác, vậy mà cũng bị hiểu lầm là coi thường độc giả.
Trường hợp “thiếu lương thiện” đã từng xẩy ra trên Hậu Vệ, với
một dịch giả nổi tiếng. Tin Văn đã khui ra, không tiện
nhắc lại.
Cách tốt nhất, là, đề nghị NTH dịch toàn bài, sau đó mới có thể nói
chuyện tiếp được, về những “dịch đại, dịch nhảm”…
V/v Summary, tôi NQT chỉ cần có vậy, nên “đoán ẩu” là của nhà xb,
không đúng như sự thực, của AcaDemon, như NTH sửa lại.
Tks, anyway. NQT
|
|