|
Chúc Mừng Năm Mới
Tết này
con chắc chưa về được
(1)
gởi Cậu Ba Cậu Tư
Tết
này con sẽ không về được
Cậu đốt dùm con mấy nén hương
Lên mồ của ngoại sau vườn
nhãn
Và khấn dùm con nỗi nhớ
thương
Cậu hái
sau vườn mấy nhánh
bông
Đặt lên mồ ngoại ba mươi tết
Và khấn cho con một chút lòng
Bên đó
giờ đây chắc nắng hồng
Cậu còn trải đệm ra phơi lúa
Chờ đón xuân về ngoài bến
sông
Hay là
bên đó nắng hanh vàng
Cậu ra sân trước ngồi hong
nắng
Tỉa mấy nhành mai đón xuân
sang
Tết này
con chắc chưa về được
Bên trời lưu lạc bước gian
nan
Hồn thiêng ước muốn về cố
quận
Quê người gởi lại nắm xương
tàn.
tháng
12 năm 2004
nguyễnthịkimhồng
(1) ý
thơ Nguyễn Bính
NYRB Feb 11, 2010
Ai chỉ định
anh là thi sĩ?
Thứ Sáu,
ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm thi sĩ
Joseph
Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel văn chương
1987, tại
nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã đúng như ý nguyện của
ông. Thay
vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những
chu toàn,
the achievements, ngôn ngữ - the language - của người quá cố:
Death will
come and will find a body
whose
silent peace will reflect death's approach
like any
woman's face
[Tĩnh vật,
trong Phần Lời, Part of Speech]
(Chết
sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình
an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt
của bất cứ một người đàn bà nào).
Tuy sống
lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa
thế kỷ, và
chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được
sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông
khiến
cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.
Ông sang
Mỹ, nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận bằng tiếng Anh.
Nhưng nước
Nga là một xứ đáo để (Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của
mi...): Anh
càng rẫy ra, nó càng bám chặt lấy anh cho tới hơi thở chót....
thơ của lê thị diễm thúy
Phạm Tường Mây chuyển ngữ
Untitled
to my sister lê thi diem
trinh
shrapnel shards on blue water
cho em tôi, lê thị diễm trinh
những mảnh đạn bên biển xanh
everyday i beat a path to run
to you
beaten into the melting
snow/the telephone polls
which separate us like so
many signals of slipping
time
and signposts marked in
another language
my path winds and unwinds,
hurls itself toward you
until it unfurls before you
all my stories at your feet
rocking against each other
like marbles
down a dirt incline
listen
mỗi ngày chị đi qua một lối
mòn
tuyết sền sệt dưới chân những
cột
điện
bảng chỉ đường bằng một ngôn
ngữ lạ
như mốc thời gian những phân
ly
ngõ mòn quanh co, dẫn lối
những câu chuyện chị muốn kể
đến em
ấp ủ như những viên sỏi
nằm yên trong đất, lắng nghe
ma took the train every
morning
sunrise
from phan thiet to saigon
she arrived
carrying food to sell at the
markets
past sunset
late every evening she
carried her empty baskets
home
on the train which runs in
the opposite direction
away from the capital
toward the still waters of
the south china sea
mỗi rạng đông,
mẹ lấy xe lửa từ phan thiết
vào saigon
quảy gánh ra chợ bán
đến mãi tận hoàng hôn
xe lửa lại ngược dòng
xuôi về phía nước xanh lững
lờ
biển nam hải
once ba bought an inflatable
raft
yellow and black
he pushed it out onto a
restricted part of water
in southern california
after midnight
to catch fish in the dark
it crashed against the rocks
he dragged it back to the van
small and wet
he drove us home
our backs turned in shame
from the pacific ocean
có lần bố mua một ghe nhỏ
bằng phao
màu vàng đen
ông đi đánh cá lúc nửa đêm
trong vùng biển cấm ở nam cali
ghe va vào đá
bố lôi nó lên bờ
dáng ông nhỏ nhoi, run rét
bố chở chị em mình về
để lại tủi hổ sau lưng
từ phía biển thái bình
our lives have been marked by
the tide
everyday it surges forward
hits the rocks
strokes the sand
turns back into itself again
a fisted hand
know this about us
we have lived our lives
on the edge of oceans
in anticipation of
sailing into the sunrise
cuộc đời chúng mình được đánh
dấu
bằng những ngọn thủy triều
vươn lên tạt vào đá
mơn trớn bờ cát mềm
rồi trở về lại biển xanh
như bàn tay nắm chặt
như thế đó em ơi
ta sống bên bờ hai đại dương
và lúc nào cũng ước mơ
những cánh buồm chèo xuôi về
phía bình minh
i tell you all this
to tear apart the silence
of our days and nights here
i tell you all this
to fill the void of absence
in our history here
chị kể em nghe
để xóa đi cái thinh lặng
của ngày, đêm ở nơi đây
chị kể em nghe
để làm đầy những trống vắng
sự hiện diện của chính mình
we are fragmented shards
blown here by a war no one
wants to remember
in a foreign land
with an achingly familiar
wound
our survival is dependent
upon
never forgetting that vietnam is not
a word
a world
a love
a family
a fear
to bury
chúng ta là những mảnh đạn
vương vãi đến đây
từ một cuộc chiến không còn
ai muốn nhớ
đất ngoại lai
sống với vết thương đã lên da
nhưng em hãy nhớ rằng:
Việt Nam
không bao
giờ
là một con chữ
là một thế giới
là một tình yêu
là một gia đình
là một sợ hãi
mà phải quên đi
let people know
VIETNAM IS NOT A WAR
let people know
VIETNAM IS NOT A WAR
hãy nói cho họ biết
Việt Nam
không chỉ
là một chiến tranh
hãy nói cho họ biết
Việt Nam
không chỉ
là một chiến tranh
let people know
VIETNAM IS NOT A WAR
but a piece
of
us
sister
and
we are
so much
more
hãy nói cho họ biết
Việt Nam
không chỉ
là một chiến tranh
mà là một mảnh của chính ta
em hỡi,
và chúng mình còn rất nhiều
hơn nữa.
Phạm Tường Mây chuyển ngữ
VHNT
542, 5 May, 2002
J. D
Salinger mất, 91 tuổi
J.D.
Salinger was a writer, not just a myth
Nhà hài hước John
Hodgman nói sau khi nghe tin Salinger qua đời: “Tôi cứ nghĩ J.D.
Salinger chỉ
quyết định trở nên siêu-lánh-đời.”
[theo NY Times] [Trích lại từ Da Mầu]
Happy Catching, chị Phùng Khánh. Quán Như
TLS, Tháng Hai 5, J.C. người giữ mục Sổ Tay, viết về sự ra đi của nhà
văn J.D.
Salinger vào ngày 27 Tháng Giêng, thọ 91 tuổi, với cái tít ‘vỗ một bàn
tay’.
[Báo giấy].
Còn trên net:
Steiner
dùng hình ảnh 'vỗ một bàn tay' để nói
về cái sự rút lui của từ.
Gấu có một bài
viết, cứ ấp ủ mãi, mà không làm sao viết ra được, cho đến lúc thấy cái
tít kỷ
niệm 5 năm talawas !
Bài viết liên can đến một bài hát, Gấu nghe, lần đầu trong đời, những
ngày ở
trại lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.
Chuyện Tình Buồn.
Có hai tay ca bài này thật là tới, một là bạn thân của Gấu, Sĩ Phú, và
một,
Tuấn Ngọc.
Năm năm trời không gặp,
Từ khi em lấy chồng...
...
Anh một đời rong ruổi,
Em tay bế tay bồng..
Chả là, trước khi bị tóm, bị tống đi lao động cải tạo, một buổi tối,
Gấu nhớ cô
bạn quá, mò tới con hẻm ngày xưa, đứng thật xa nhìn vô căn nhà, lúc đó
cũng đã
tối, thành thử cũng chẳng ai thèm để ý, và Gấu thấy cô bạn ngày nào
đang đùa
với mấy đứa con, đứa bò, đứa nằm dưới sàn nhà, tay cô thì bận một đứa
nữa.
Cảnh này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc là lại hiện ra, ngay cả những ngày
sắp sửa
đi xa như thế này....
Thế mới thảm !
Thế mới nhảm !
Thế mới chán ! NQT
Chúc mừng 5 năm
talawas
Talawas bị
tường lửa
Thư tín v/v talawas bị tường
lửa
Ông Nguyễn Quốc Trụ,
Tôi là một người đàn bà
Việt Nam
nhưng tôi
rất lấy làm xấu hổ dùm cho ông.
Tôi là thế hệ sinh sau đẻ muộn hơn ông nhiều và thấy ông thối và vô
duyên quá
nên tôi phải lên tiếng.
Ông bợ bọn VC vừa phải thôi. Biết bao nhiêu trang web của người Việt
Hải Ngoại
bị tường lửa chặn lâu nay sao ông câm như hến. Còn bây giờ Talawas mới
bị tường
lửa thì ông đấm mặt đấm mày chửi toáng lên, khóc như cha mẹ ông
chết…
NQT trả lời:
Cám ơn đã e-mail.
Xin phúc đáp:
Mấy trang web hải ngoại bị tường lửa là chuyện thường ngày ở huyện.
Chửi VC làm
gì cho mệt…
Trang TIN VĂN của tui cũng bị tường lửa, không những bị tường lửa mà
còn bị
kiến lửa:
Mỗi ngày nhận chừng trên chục email có chứa virus.
Còn chuyện talawas, là khác. Đây là đòn Mộ Dung Cô Tô mà.
Best Regards
TB: Xin phép post thư bạn. How?
NQT
The answer is NO. Are you
crazy? I
don't think It's worth posting. Your response has not convinced me at
all. Intellectually, you are bất lực.
[Câu trả lởi là KHÔNG. Mi có khùng không? Thư dzậy mà cũng đăng, hử?
Câu trả
lời của mi không thuyết phục nổi ta. Trí thức mà nói, mi là (một thằng)
bất
lực.]
[Câu trả lời là KHÔNG. Ông có khùng không,
hả? Tôi không nghĩ, email của tôi có thể post, vì nó không đáng. Câu
trả lời
của ông không thuyết phục tôi một chút nào hết. Nói theo kiểu trí thức,
ông thì
bất lực].
Vị nữ độc giả này có vẻ rất
nóng, thành thử
Gấu đành chịu thua, nhịn tới giờ, mới dám phúc đáp, v/v “Câu trả lời
của ông không
thuyết phục tôi”.
Trong chưởng Kim Dung, không chỉ có dòng Mộ
Dung Cô Tô mới rành đòn ‘gậy ông đập lưng ông’.
Còn một tay nữa, sử dụng đòn này,
vào bậc thượng thừa. Bảnh hơn, hách hơn, và nhất là, ‘tràn trề nhân
tính’ hơn Mộ
Dung Phục nhiều!
Đố bạn, ai?
talawas
tái xuất
giang hồ
Lịch sử Việt Nam
có một nếp gấp, ngay khi Đàng Trong xuất hiện. Có Đàng Trong một cái là
có giấc
mơ đổi đời, giấc mơ thoát ra ngoài luỹ tre làng, thoát ra khỏi một miền
đất
chẳng còn mầu mỡ gì nữa trừ Cái Độc, Cái Bất Nhân, Cái Ác. Thành thử,
chúng ta
phải coi chủ nghĩa CS, với những giấc mơ tuyệt vời, không tưởng của nó,
là giấc
mơ giải thoát khỏi cái ác muôn đời của một miền đất, chứ không phải là
để đắm
chìm mãi vào. Đám Yankee mũi tẹt, qua đám tinh anh của nó, gục ngã
trước Cái Ác
muôn đời, khi hạ nhục Miền Nam,
biến nó thành mảnh đất chiến thắng thay vì mảnh đất giải phóng. Nên
nhớ, câu
nói của Bùi Tín, một phần, là từ đáy lòng của ông bộc phát ra, chứ
không hoàn
toàn là chủ trương của Đảng. Sau này, đám VC cố sửa nó, bằng những câu
nói
khác, thí dụ của Lê Duẩn, Gấu nhớ đại khái, bây giờ là lúc xây dựng cái
nhà
Mít, thay vì xúm nhau ăn cướp hôi của, qua các chính sách đánh tư sản
mại bản,
tống đi Kinh Tế Mới, đi tù cải tạo Siberia Mít, nơi Cổng Trời....
hay của
Sáu Dân, một triệu người vui, thì có một triệu người buồn....
Không phải tự nhiên mà mấy đấng Cu Sài nhỏ máu ngón tay viết đơn xin vô
Nam
chiến đấu. Trong hành động đó, có giấc mơ đổi đời, lột xác của người
dân quê,
đời đời kiếp kiếp, khốn khổ khốn nạn, của cánh đồng xơ xác, của con
sông Hồng,
trong số đó, có cả anh Chí Phèo, và hậu duệ của anh ta, những đứa con
của lò
gạch ngày nào.
Thành thử không thể đổ hết tội ác lên chủ nghĩa CS được.
Giấc mộng giải phóng Miền Nam thống
nhất đất nước, phải nói lại, có, kể từ khi có giống dân Mít.
Nó nằm ngay trong huyền thoại
Bà Âu Cơ đẻ trăm trứng.
Nàng là giống Rồng, ta là giống
Tiên, không ở đời với nhau được.
Ui chao, còn lời nguyền nào
cay đắng thê lương hơn, đối với dân Mít?
Gấu bất giác lại nhớ đến một câu của triết gia Tây Glucksmann: Dân Mít
[Bắc Kít đúng hơn] bị trời nguyền, luôn phải gây chiến!
Nhưng, chính vì thế mà, cứ có
một tên Mít ra đời, là có một giấc mơ giao lưu hòa giải, hợp nhất Đàng
Trong, Đàng
Ngoài, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Kít là ông anh,
Trung Kít,
Nam Kít là hai ông em cùng sống chung trong cái nhà Mít bằng năm bằng
mười ngày
nảo ngày nào.
Chỉ đến khi có ngày 30 Tháng
Tư, tất cả đều đảo lộn. Thiên Sứ biến thành Quỉ Sứ! Kẻ Cứu Vớt biến
thành Đao
Phủ.
Thành thử không phải tự nhiên
mà Bùi Tín nói, chúng ông lấy sạch rồi, chúng mày còn cái gì mà bàn
giao?
Trong thâm tâm ông có một tên
ăn cướp Bắc Kít, với trái tim ‘thống nhất’, hoặc nói theo Bác, với trái
tim để ở
Miền Nam!
Hay ông nhà văn Nê Nựu phán,
giặc Mẽo vô nhà ta, giết hại, hiếp đáp vợ con ta… bảo sao ta ngồi yên?
(1)
Và đúng
như cô người làm
Rose, trong truyện Y sĩ đồng quê của Kafka khều nhẹ ông
chủ của mình,
me-xừ Nê
Nựu không hề biết trong nhà ông có gì.
Chứng cớ: Đọc bài viết mới nhất
về ông,
thì rõ, đến ngay vợ con ông mà ông cũng không biết lòng dạ, và khi biết
rồi thì
chỉ có khóc rống lên, rồi chờ đi!
Nhà văn
Lê Lựu: Cái Tết buồn nhất trong đời người
(1) Lê
Lựu phán như vậy, trong một
cuộc phỏng vấn, về cuộc chiến Việt Nam, Gấu không còn nhớ rõ
nguồn.
Sau
quả đúng như vậy, cái nhà mà ông nói tới, là cái nhà mà ông sẽ có, sau
khi chiếm
được Miền Nam!
Ông tiếc, là tiếc cái nhà Đảng ban cho ông, ở Miền Bắc,
không phải cái
nhà ăn cướp ở Miền Nam!
Cũng vậy, với nhà văn Nguyễn
Khải. Ăn cướp xong là ông vô liền, có cái nhà liền, nhưng chỉ để ở tạm,
sau có
cái hoành tráng hơn nhiều, qua bài viết của Trần Mạnh Hảo, về hai lần
viếng thăm
ông. Gấu đọc trên net, không nhớ rõ ở trang nào, hình như Quê Choa của
NQL.
*
“Gấu nhà văn” thường ưu tư về
một vấn nạn: Giải pháp chót,
[mượn chữ của Hitler, khi quyết định làm cỏ sạch Do Thái] đưa đám Nguỵ
đi lao động cải tạo, cho đến
khi lại thành người Mít trở lại, hẳn phải do Bắc Bộ Phủ quyết định,
nhưng, vào thời
điểm nào?
Cái vụ đổi tên Sài Gòn thành
Thành Phố HCM rực rỡ tên Người, qua một số hồi ký của VC, thì là có sự
đồng ý của
Bác.
Bác sướng điên lên, chứ còn gì nữa!
Bi giờ,
là ưu tư mới: Liệu có,
“chỉ một tên Bắc Kít", cảm thấy ân hận vì cuộc chiến thần thánh giải
phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước?
Bất giác Gấu lại nhớ đến một
bài viết của… Gấu, về trường hợp Hoàng Ngọc Hiến.
Trong phim Xử Án
Tại Nuremberg, những nhà trí thức Nazi, khi được hỏi về Lò Thiêu, đã
trả lời,
"Chúng tôi không biết". Toà nói, các ông phải biết, bắt buộc phải
biết, vì các ông là những nhà trí thức của chế độ đó.
Tôi cũng tưởng tượng ra một vụ Xử Án Lò Cải Tạo, và một ông HNH đã được
gọi ra
để làm nhân chứng.
Thay vì nói, "Tôi Không Biết",
Ông nói: "Tôi Xin Lỗi".
Đó là tinh thần bài viết của ông, theo tôi.
*
Bài viết post lên,
NTV đọc, thú quá, khen um lên, nhất là cái câu “Tôi xin lỗi”, của HNH,
mà Gấu
phịa ra. Anh nói, đại ý:
Phải đẩy ‘họ’ vô
cái thế, không thể nói ngược lại, nghĩa là không làm sao phản biện được!
Ui chao, giá có một
tên, chỉ
một tên Yankee mũi tẹt, thực sự thốt lên câu đó, thì cũng đỡ tủi công
lao
Gấu làm trang Tin Văn trên 10 năm trời!
Bất
giác lại nhớ đến câu chuyện
“Cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng” của Selma Lagerlof, trong có xen mô tả
anh cu
Nils lạc vô một thành phố bị Trời đọa đầy, vì ăn chơi sa đọa, với lời
nguyền,
chỉ một khi có một người bỏ tiền ra mua, một món đồ, do bất cứ một cư
dân thành
phố, do lao động mà làm ra, thì khi đó, lời nguyền của Ta mới hết hiệu
lực.
Giả sử
có một tên Yankee mũi
tẹt ân hận nói lên,“Tôi xin lỗi”, thì số phận Mít sẽ đổi khác!
Sướng chưa!
Tôi xin lỗi!
HISTORY
Diminished responsibility
Guilt, denial and
indifference among senior Nazis before Nuremberg
RICHARD J. EVANS
Richard Overy
INTERROGATIONS
The Nazi elite in Allied
hands, 1945 664pp. Allen
Lane
The Penguin Press. £25. 0713
993502
At the
end of the Second
World War, the victorious politicians of Britain,
France,
the USA and the Soviet Union
were faced with the problem of what to do with the surviving Nazi
leaders who
had fallen into their hands. Some favored shooting them out of hand;
but
eventually saner counsels prevailed, and it was decided to put them on
trial.
Many leading Nazis had already been arrested when Allied troops finally
rounded
up the shadowy "government" set up by Hitler's designated successor,
Admiral Donitz, in the North German town of Flensburg after Hitler's suicide.
Others
evaded capture for f longer. Rudolf Hoss, for example, commandant of Auschwitz
from 1941 to the end of 1943, was not arrested until March 1946.
TLS Oct 26 2001
*
For One Man, War's End Was
Trivial Next to His Travails
FALL OF SAIGON
20 YEARS LATER.
Communism's victims were not just in the South. A Hanoi intellectual
suffers for speaking out.
By Cameron W. Barr
Staff
writer of The Christian Science Monitor / April 27, 1995
HANOI, VIETNAM
Tuong
says, the war's end had
''no significance.''
Chấm dứt cuộc chiến thì đâu
có gì là ghê gớm?
Communism's victims were not
just in the South
Nạn nhân của CS đâu chỉ ở trong Nam?
In an October 1956 speech,
Tuong declared: ''We have let die, in a horrible way, old people and
children
whom we did not want to suppress,'' according to an account later
published by
the South Vietnamese government.
Chúng tôi đã để cho người
già, trẻ con chết, một cái chết ghê rợn, những người mà chúng tôi không
muốn
trừ khử.
Nguyễn Mạnh Tường
Ui
chao, trong những người mà ‘chúng tôi để chết một cái chết ghê rợn’, có
cô Hồng
Con của Gấu.
Bài phỏng vấn này, thực hiện vào 1995, tức 20 năm sau khi Sài Gòn thất
thủ, và
cái câu ‘đâu chỉ ở trong Nam’, theo Gấu, có thể coi là một lời, "Tôi
xin lỗi"
của NMT, vì ông biết, ông có phần trách nhiệm của mình, như là một nhà
trí thức
của Miền Bắc.
Không hẳn "Tôi xin lỗi", mà là, "Tôi cũng chịu chung "nỗi
đau ở trong Nam".
Tình lơ
Trang Nguyễn Ngọc Tư
Dịch và Cắt
(Ký sự
một chuyến đi)
Nguyễn Quốc Trụ
"We
come to terms with
and reconcile ourselves to reality, that is, try to be at home in the
world."
(Qua sông lụy đò,
Hãy cố coi đây là nhà).
Annah Arendt
...
and when "the
future" is uttered, swarms of mice
rush out of the Russian
language and gnaw a piece
of ripened memory which is
twice
as hole-ridden as real
cheese.
After all these years it
hardly matters who
and what stands in the
corner, hidden by heavy drapes,
and your mind resounds not
with a sepharic "doh",
only their rustle.
Life, that no one dares
to appraise,
like that gift horse’s mouth,
bares its teeth in a grin at
each
encounter.
What
gets left of a man
amounts
to a part. To a spoken part.
To a part of speech.
(... Và
khi "tương
lai" được thốt ra, những đàn chuột nhắt
ùa ra khỏi tiếng Nga, gậm mẩu
ký ức chín ruỗng, lỗ chỗ gấp
hai lần miếng phó mát thực.
Sau tất cả những năm tháng
đó, đâu hề chi, là ai
hay là cái gì, còn đứng trong
xó, che bởi những tấm màn nặng nề,
và trong đầu bạn bạn vang
lên, không phải một âm "đô" thần tiên, mà chỉ là những tiếng gậm
nhấm.
Cuộc đời mà không ai dám
lượng định,
giống như miệng của chú ngựa
tặng kia
nhe răng cười mỗi lần
gặp gỡ.
Những
gì còn lại của một
người dồn
một mảnh. Mảnh ngôn. Mảnh
lời.)
Joseph
Brodsky (A Part of Speech).
Ta còn
để lại gì không
Kể non đá lở, nọ sông cát
bồi.
....
Ta van
cát bụi bên đường,
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót
này.
Để ta trọn một kiếp say,
Cao xanh liều một cánh tay
vói trời.
Nói chi thua được với đời,
Quản chi những tiếng ma cười
đêm thâu.
Tâm linh đốt nén hương cầu,
Nhớ quê rằng rặc ta sầu đó
thôi
Bao giờ ta trở về ngôi,
Hồn thơ còn lại luân hồi thế
gian.
Một phen đã nín cung đàn,
Nghĩ chi còn mất hơi tàn
thanh âm.
Vũ Hoàng Chương (Nguyện
cầu).
Nhà thơ
Nga Joseph Brodsky,
trong cuộc hành trình xuyên qua thế kỷ 20, có thời gian làm nghề cắt xẻ
xác
chết tại một bệnh viện tỉnh. Ông nói với ký giả Mỹ, David Remnick: "Bạn
biết không, tôi lại khoái nghề đó. Thật xấu hổ, khi bỏ nghề".
Ông giải thích lý do bỏ nghề,
trong một lần trò chuyện với Solomon Volkov. "Đó là một bệnh viện địa
phương, và vào mùa hè, họ mang tới một ít trẻ con. Mùa này (lúc đó là
tháng
Bẩy), trẻ con chết bộn, do ăn uống bậy bạ. Bữa đó, một tay bô hê miêng
tới nhà
xác, và tôi (Brodsky) đưa cho anh ta hai đứa nhỏ – hai đứa sinh đôi,
nếu tôi
không lầm. Khi nhìn thấy hai đứa con được cắt xẻ ngon lành, anh ta bỗng
nổi
điên, và, tay cầm dao, dượt đuổi vòng vòng, giữa mớ tử thi. Một cảnh
tượng siêu
thực như thế, nhà thơ, thuộc hàn lâm viện Pháp Jean Cocteau cũng phải
chào
thua!" Sau cùng ông bố tóm được nhà thơ-tên đồ tể, may sao Brodsky vớ
được
cây búa và khiền vào cổ tay cầm dao, ông bố xuội lơ, ngồi bệt xuống, và
cứ thế
ôm mặt khóc. Và nhà thơ cảm thấy có một điều gì đó không ổn...
Đó là một trong những lý do
ông bỏ nghề.
Michel Foucault: Nguồn gốc
vấn đề người Việt tị nạn.
Lời người giới thiệu: Sau đây
là chuyển ngữ, từ bản tiếng Pháp, cuộc phỏng vấn đặc biệt triết gia
người Pháp,
Michel Foucault, đăng trên tạp chí Nhật Bản, Shukan posuto, số đề ngày
17 tháng
Tám 1979. Nhan đề tiếng Nhật: "Nanmin mondai ha 21 seiku minzoku daiidô
no
zencho da." ("Vấn đề người tị nạn là điềm báo trước cuộc di dân lớn
lao mở đầu thế kỷ 21"). Người phỏng vấn: H. Uno. Người dịch ra tiếng
Pháp:
R. Nakamura.
Người phỏng vấn: Theo ông,
đâu là cội nguồn của vấn đề người Việt tị nạn?
Michel Foucault: Việt Nam
không ngừng bị chiếm đóng, trong một thế kỷ, bởi những thế lực quân sự
như
Pháp, Nhật, và Mỹ. Và bây giờ cựu-Miền Nam bị chiếm đóng bởi cựu-Miền
Bắc. Chắc
chắn, cuộc chiếm đóng Miền Nam bởi Miền Bắc thì khác những cuộc chiếm
đóng
trước đó, nhưng đừng quên rằng, quyền lực Việt Nam của Miền Nam hiện
nay, là
thuộc về Việt Nam của Miền Bắc. Suốt một chuỗi những chiếm đóng trong
một thế
kỷ như thế đó, những đối kháng, xung đột quá đáng đã xẩy ra ở trong
lòng dân chúng.
Con số những người cộng tác với kẻ chiếm đóng, không nhỏ, và phải kể cả
ở đây,
những thương gia làm ăn buôn bán với những người bản xứ, hay những công
chức
trong những vùng bị chiếm đóng. Do những đối kháng lịch sử này, một
phần dân
chúng đã bị kết án, và bị bỏ rơi.
-Rất nhiều người tỏ ra nhức
nhối, vì nghịch lý này: trước đây, phải hỗ trợ sự thống nhất đất nước
Việt Nam,
và bây
giờ, phải đối diện với hậu quả của việc thống nhất đó: vấn đề những
người tị
nạn.
Nhà nước không có quyền sinh
sát - muốn ai sống thì được sống, muốn ai chết thì người đó phải chết -
với dân
chúng của mình cũng như dân chúng của người – của một xứ sở khác. Chính
vì
không chấp nhận một thứ quyền như thế, mà [thế giới đã] chống lại những
cuộc
dội bom Việt Nam của Hoa Kỳ và, bây giờ, cũng cùng một lý do như vậy,
giúp đỡ
những người Việt tị nạn.
-Có vẻ như vấn đề người Căm
Bốt tị nạn khác với của người Việt tị nạn?
Chuyện xẩy ra ở Căm Bốt là
hoàn toàn quái đản trong lịch sử hiện đại: nhà cầm quyền tàn sát sân
chúng của
họ, theo một nhịp độ chưa từng có, chưa từng xẩy ra, chưa từng đạt tới.
Và số
dân chúng còn lại, lẽ dĩ nhiên, coi như là sống sót, và họ đang sống
dưới sự
đàn áp của một quân đội chỉ lo việc hủy diệt, và tỏ ra tàn bạo. Hoàn
cảnh như
vậy không giống Việt Nam.
Ngược lại, điều quan trọng ở
đây là sự kiện này: trong những tổ chức, lực lượng đoàn kết tương trợ,
được
thành lập trên khắp thế giới, nhằm hỗ trợ những người tị nạn vùng Đông
Nam Á
Châu, người ta đã bỏ qua, không tính tới sự khác biệt về những hoàn
cảnh lịch
sử và chính trị. Như vậy không có nghĩa là, người ta có thể tỏ ra rửng
rưng,
không thèm để ý tới những nghiên cứu lịch sử và chính trị của vấn đề
người tị
nạn, nhưng điều khẩn thiết cần phải làm liền, là cứu những con người
đang gặp
nguy hiểm.
Bởi vì, vào lúc này, bốn chục
ngàn người Việt Nam
đang chới với trên biển Đông, trước khi tới được đảo, cận kề với cái
chết. Bốn
chục ngàn người Căm Bốt đang ngột ngạt tại Thái Lan, và cũng đang cận
kề với
cái chết. Như vậy là không kém con số tám chục ngàn người đang ngày đêm
cận kề
với cái chết. Mọi tính toán so đo, về sự cân bằng tổng quát những sứ xở
trên
trái đất, những khó khăn chính trị và kinh tế đi cùng với sự cứu trợ
người tị
nạn – tất cả những so đo tính toán như vậy không thể nào biện minh cho
việc
những nhà nước [trên thế giới] bỏ rơi những con người, ở ngưỡng cửa của
cái
chết.
Vào năm 1938 và 1939, người
Do Thái chạy trốn khỏi Đức Quốc và Âu Châu, nhưng do chẳng có ai đón
tiếp họ,
cho nên đã có những người trong số đó bị chết. Bốn chục năm đã qua, kể
từ đó,
không lẽ bây giờ người ta lại đem cái chết đến cho hàng trăm ngàn người?
-Về một giải pháp mang tính
toàn cầu đối với vấn đề người tị nạn, những quốc gia gây ra tình trạng
này, đặc
biệt là Việt Nam,
phải thay đổi đường lối chính trị. Nhưng bằng cách nào, theo ông, người
ta có
thể có được một giải pháp toàn cầu?
Trong trường hợp Căm Bốt,
tình hình bi đát hơn là so với Việt Nam, nhưng lại hy vọng có
được một
giải pháp, trong tương lai gần. Người ta có thể tưởng tượng ra, sự
thành lập
một chính quyền có thể được dân chúng Căm Bốt chấp nhận, và từ đó, giải
pháp ló
ra. Nhưng với Việt Nam,
vấn đề phức tạp hơn nhiều. Quyền lực chính trị đã được tạo dựng, thế
nhưng mà,
quyền lực này coi là ngụy (exclure: đuổi, khai trừ) một phần dân chúng,
và lẽ
dĩ nhiên, những con người bị khai trừ này không muốn điều đó. Nhà nước
đã tạo
ra một tình trạng là, những con người bị khai trừ bắt buộc phải chọn
cái tình
thế bấp bênh, hiểm nghèo như là một cơ may sống sót, tức là trao thân
cho biển
cả quyết định, thay vì ở lại Việt Nam. Rõ ràng là phải tạo áp
lực để
cho Việt Nam
thay đổi đường lối chính trị. Nhưng "tạo áp lực" nghĩa là gì?
Tại Genève, trong hội nghị
của Liên Hiệp Quốc về vấn đề người tị nạn, những quốc gia thành viên đã
đưa ra áp
lực đối với Việt Nam, áp lực theo nghĩa đòi hỏi, yêu cầu, hoặc gợi ý,
cố vấn
(conseil). Nhà cầm quyền Việt Nam
do đó đưa ra một số nhượng bộ. Thay vì bỏ rơi những con người muốn ra
đi, trong
những điều kiện bấp bênh, và có thể mất mạng, nhà cầm quyền Việt Nam đề
nghị
xây dựng những trại chuyển tiếp, để gom lại những người muốn ra đi:
những người
này sẽ ở đây hàng tuần, hàng tháng, và hàng năm, cho tới khi có quốc
gia nhận
họ.... Nhưng đề nghị này tương tự, lạ lùng làm sao, với những trại cải
tạo.
-Vấn đề người tị nạn đã từng
xẩy ra nhiều lần trong quá khứ, nhưng, giả dụ như có một khía cạnh lịch
sử mới
mẻ, trong trường hợp những người Việt tị nạn, theo ông, khía cạnh này
mới mẻ
này là gì?
Thế kỷ 20 xẩy ra nhiều vụ
diệt chủng và bách hại sắc tộc. Tôi nghĩ là, trong một tương lai gần,
những
hiện tượng này lại tái diễn, dưới những hình thức khác. Bởi vì, thứ
nhất, những
năm mới đây, con số những nhà nước độc tài cứ tăng lên mà không giảm
đi. Bởi vì
tự do diễn đạt tư tưởng chính trị là điều không thể có được tại những
quốc gia
như vậy, và lại chẳng làm sao có được một lực lượng kháng chiến, những
con
người bị khai trừ bởi chế độ độc tài đành phải chọn cách trốn khỏi địa
ngục.
Thứ hai, trong những xứ sở
cựu thuộc địa, người ta tạo nên nhà nước bằng cách tôn trọng biên giới
như là
đã có từ hồi còn thuộc địa, đến nỗi, những sắc dân, những tiếng nói,
những tôn
giáo cứ thế trộn lẫn vào nhau. Hiện tượng này tạo nên những căng thẳng
nghiêm
trọng. Trong những xứ sở như vậy, những đối kháng ở trong lòng dân
chúng có nguy
cơ bùng nổ, đưa đến tình trạng di chuyển một số lượng lớn dân chúng, và
sự sụp
đổ cơ chế nhà nước.
Thứ ba, những sức mạnh kinh
tế tại những xứ sở phát triển, do cần lực lượng lao động từ thế giới
thứ ba, và
từ những xứ sở đang trên đà phát triển, đã kêu gọi di dân từ Bồ Đào
Nha,
Algérie, hay Phi Châu. Nhưng, ngày nay, những xứ sở này, do kỹ thuật
tiến bộ,
đã không cần tới lực lượng lao động chân tay, và lại tìm cách xua đuổi
di dân.
Tất cả những vấn đề trên đẻ
ra cơn lũ di dân, hàng trăm hàng triệu người. Và thật bi thảm, thật
nhức nhối,
với những người chết, những vụ sát nhân. Tôi sợ rằng, chuyện xẩy ra tại
Việt Nam
không chỉ
là một tiếp nối của quá khứ, mà nó tạo nên một điềm báo cho tương lai.
Jennifer Tran chuyển ngữ.
VHNT 3.3.2002
Tôi sợ rằng,
chuyện xẩy ra tại Việt Nam
không chỉ là một tiếp nối của quá khứ, mà nó tạo nên một điềm báo cho
tương lai.
Bảnh thật. Biết
trước thảm họa của dân Mít mở ra thảm họa của nhân loại.
Post lại, nhân đọc
bài viết trên Books, số tháng
Giêng & Hai, 2010 về thảm họa Pol Pot.
Trên Tin Văn đã có một bài
rồi. Bài mới này, của Simon Leys, dịch từ một bài tiếng Anh, cũng của
tác giả, điểm cuốn Vụ án Khờ Me Đỏ,
Le Procès des Khmers rouges, của
Francis Deron: Một trường hợp tự
diệt chủng: Khờ Me Đỏ
Bài viết, nếu đọc theo cái dòng
tiên tri như bài của Foucault, có vẻ như tiên đoán sự tự diệt của dân
Mít.
TV post
và dịch sau.
*
Un cas
d'autogénocide: les
Khmers rouges
[Một trường hợp tự diệt
chủng: Khờ Me đỏ]
Article de Simon Leys
The Monthly
D'une rare clairvoyance et
d'une étonnante érudition, Simon Leys est un écrivain, essayiste et
traducteur
belge, spécialiste de la Chine. La parution en 1971 de son livre Les Habits neufs du président Mao, le
premier à dénoncer la Révolution culturelle, lui valut la haine des
maoïstes
français. Il nourrit aussi une passion pour la mer. Il vit à Canberra.
Paroxysme de folie
collective, la tragédie cambodgienne éclaire d'une lumière crue la
dynamique
fondamentale qui a nourri la grande tradition hitléro-stalino- maoïste.
LE LIVRE
Le Procès des
Khmers rouges. Trente ans d'enquête sur
le génocide du Cambodge,
Gallimard,
2009.
L'AUTEUR
Journaliste, spécialiste de
l'Asie où il a vécu plus de vingt ans, Francis Deron était notamment un
grand
connaisseur de la Chine et de son histoire. Ancien correspondant du
Monde à
Pékin, il est mort en juillet 2009, peu après la parution de son
ouvrage de
référence sur le génocide cambodgien.
*
Qui ne se souvient des
dernières lignes du Procès de
Kafka? Joseph K., citoyen innocent tombé dans un
incompréhensible engrenage de poursuites judiciaires interminables,
pour des
raisons qui ne lui seront jamais révélées, est finalement emmené dans
une
carrière abandonnée par deux messieurs à l'apparence de fonctionnaires.
Là,
avec une sorte de raideur bureaucratique imbécile, sans violence, sans
colère
et sans un mot, ils entreprennent de l'exécuter. Tandis que l'un des
deux
messieurs retourne par deux fois un couteau dans son coeur, K. a un
dernier
sentiment conscient: « C'était comme si la honte allait lui survivre. »
Cette dernière phrase a
laissé perplexes bien des lecteurs. Mais c'est cette perplexité même
qui
laissait perplexe Primo Levi, qui explique dans son court essai sur
Kafka : «
Cette dernière page me coupe le souffle. Moi, qui ai survécu à Auschwitz, je ne l'aurais jamais écrite, ou pas
comme
cela: par incapacité ou manque d'imagination, certainement, mais aussi
par un
sentiment de décence face à la mort (que Kafka méconnaissait ou
rejetait); ou
peut-être simplement par manque de courage. La célèbre formule, source
de tant
de discussions, qui clôt le livre comme une pierre tombale ("C'était comme si la
honte allait lui survivre") ne présente aucune énigme à mes yeux. De
quoi
Joseph K. devrait-il avoir honte? Il a honte de maintes choses
contradictoires.
[ ... ] Je sens pourtant qu'il y a, dans sa honte, un autre élément que
je
connais bien. À la fin de son douloureux parcours, le fait qu'un tel
tribunal
corrompu existe et qu'il contamine tout alentour lui fait honte. [ ...
] Après
tout, ce tribunal a été créé par l'homme, pas par Dieu, et K., avec le
couteau
déjà enfoncé dans le cœur, connaît la honte d'être un homme.»
Hồi
ký Madame Nhu?
Voyage
au
bout de la nuit
Uncovering
Céline
In the
next TLS
George Steiner:
The old Céline still
hisses
PTVA vs
VTN vs TH
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
Kỷ
Niệm
Săn
chuột
Ui
chao, lại nhớ đến những ngày
tháng thiên đường ở nơi địa ngục, là nông trường cải tạo Đỗ Hòa, thuộc
khu vực
Cần Giờ, Nhà Bè, Rừng Sát…
Một Miền Nam Sâu Thẳm nhờ VC
giải phóng mà có được!
*
Trên vẹt-xì-tốp-đi-thôi, có
bài viết về Phạm Duy:
Bài
viết cũng
thường thôi.
Tuy nhiên,
nó làm Gấu nhớ tới hai lần được nghe nhạc của ông ở nông trường cải tạo
Đỗ
Hòa.
Cả hai
kỷ niệm đều thuộc loại khủng khiếp, trứ danh, thần sầu, tuyệt cú mèo
cả, và
chúng làm Gấu hiểu ra một điều rất ư thú vị, là, ngay cả một chuyện, dù
rất ư
tình cờ, cũng phải có sự tính toán, sắp đặt của Thượng Đế!
Cái lần
nghe bản Thuyền Viễn Xứ không thể nào có được, nếu thiếu cây
đàn
Tây ban cầm độc nhất của Đội Ba, vật trấn sơn, để tại đỉnh núi Thiếu
Thất, là
Bộ Chỉ Huy Đội.
Để cho Gấu sờ được vô nó, thì, bảnh như… Thượng Đế cũng phải chờ
Gấu Cái lo
cho thằng con lớn - vượt biên bằng đường bộ, bị bắt, bị đưa về khám Chí
Hòa, tất
tưởi lo tin tức, lo thăm nuôi, chờ được tha - xong xuôi, mới có dịp lo
cho Gấu.
Nhiêu khê lắm!
Trong khi đó, Thượng Đế cũng còn phải chờ… Gấu, do bặt tin nhà,
đói quá,
lo quá, bèn vượt trại, bị bắt lại, bị tống vô tổ trừng giới, và khi Gấu
Cái thăm
nuôi lần đầu, Gấu còn ở tù trong tù, nhờ vậy mà gặp được cứu tinh: Cái
anh chàng
cán bộ chuyên khám đồ thăm nuôi của tù tổ trừng giới, rất mê Cronin,
nhà văn y
sĩ Hồng Mao, rất mê cuốn Khách Lạ ở Thiên Đàng do Gấu dịch. Thế
là anh
ta ra tận hiện trường, nơi Gấu đang lao động là vinh quang, lôi về, vừa
đi vừa
biểu Gấu, có mấy trăm bạc ở trong bị gạo, dím liền đi, mấy bữa nữa
tính. Gặp
người thân, tranh thủ ăn, về tổ là chúng làm sạch.
Nhưng bức hình trên đây, cộng
bài viết, chỉ nói được một nửa kỷ niệm.
Phải thêm bức hình dưới đây, nhất là cái bị đeo trên vai Gấu nữa mới đủ
bộ... nhớ!
Cái bị trong bức hình làm Gấu nhớ cái bị đeo trên vai, ngày đầu tiên
hai vợ
chồng Gấu tới được Bangkok, lần bỏ chạy quê hương, đúng cái ngày 16
Tháng Năm,
như ghi trong hình, [tức ngày sinh của Bác Hồ], năm 1989, hoặc 1990.
Chắc là
1990, vì Gấu nhớ là, khi đang trên đường chạy trốn quê hương qua Xứ
Phật, thì
xẩy ra cú Thiên An Môn.
Cái bị này làm nhớ tới cái bị
Gấu Cái đựng gạo thăm nuôi. Một cái bị cói.
Phải bị cói mới được. Và cái
này là doThượng Đế sắp xếp.
Chính là nhờ nó mà
bẫy được chuột.
|
|