|
30.4.2010
cc 1906
Cái sự bành trướng về phía Nam là
số phần
của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai
hiểm
họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ
quá,
người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng co lại
vì bờ
nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng chặn
hết mọi phù
sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có
Đàng Trong,
là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra
giải
phóng Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc
Kít.
Nhưng không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái
Độc, Cái
Ác của một miền đất.
Chỉ đến khi lấy được Miền Nam
thì Cái Ác mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của
mày, vợ
con của mày, của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của
chúng ông,
tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!
Source
Trời ở nơi nào ta ở đây…
Nguyễn Ngọc Tư
"Wherever I am, Germany
is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!
And I step ashore in a fine
rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to
explain.
But the hills are still the
same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by
home.
Derek Mahon
Giận dữ lưu vong
Và tôi bước xuống bến tầu Xề
Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn
màng
Về với thành phố quá đỗi đổi
thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng
lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn
mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối
cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ
lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận
hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh
thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’
nghĩa là cái quái gì
Note:
Có thể, cái tít bài viết Cô Tư
được ‘gợi hứng’ từ Thomas Mann.
Và nếu như thế, Cô Tư thường ghé... TV?
Karl
Marlantes, cựu binh Mẽo,
đã bỏ ra 30 năm để viết tác phẩm đầu tay về cuộc chiến mà anh trải
qua tại
Việt Nam.
Matterborn,
dầy 650 trang, nhà xb Grove/Atlantis, 2010.
Nó đã bị hơn một nhà xb vứt vô
thùng rác.
GNV
không mê truyện viết về chiến
tranh. Chẳng cần chuông gọi hồn ai, mà cũng dư biết kẻng gọi hồn Gấu đó.
Kẻng tù
VC, và cái kỷ niệm tuyệt
cú mèo, lần phê thuốc lào tại nông trường Phạm Văn Cội Củ Chi, ngay sau
Phỏng Dái. (1)
Nhưng, nhân tiện VC đốt pháo
hoa mừng ngày 30 Tháng Tư, TV sẽ giới thiệu bài viết về cuốn trên, trên
tờ Poets
& Writers May/June 2010. Thử coi, có hách hơn của bạn văn VC
của
GNV, Bảo
Linh, với cuốn Lỗi Buồn Chiến Tranh!
(1)
Sá gì mấy
cuộc bể dâu
Câu thơ
"Nhớ bạn như
đang nhớ thuốc lào", [bạn ở đây là Phan Lạc Phúc, tức ký giả Lô Răng],
của
Thanh Tâm Tuyền, tuy thoát thai từ ca dao (nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã
chôn
điếu xuống lại đào điếu lên), nhưng chỉ những ai đã từng ở tù Vi Xi,
thì mới
cảm thấy hết được cái nỗi nhớ, và cùng với nó, là cái nỗi say, và kẻ
hèn này
cũng đã từng có một kỷ niệm huy hoàng (kinh hoàng, đúng hơn), về nó.
Ở trong tù hút thuốc lào bằng
khẩu ba zô ka, và, tôi không biết trại tù miền bắc ra sao, chứ ở trại
tù miền
nam, thường là cả lán chỉ có một khẩu, và, bạn biết rồi đấy, cái bi
thuốc lào
đầu tiên buổi sáng, khi đang còn mắt nhắm mắt mở (đang còn say ke), nó
mới ngon
làm sao, say làm sao, và mới nhớ làm sao, những ngày sau này, khi không
còn
được ở trong trại tù!
Nhà văn
gốc Do Thái viết văn
bằng tiếng Hung, Imre Kertéz, được giải Nobel năm rồi, đã nói đến những
giây
phút hạnh phúc ngắn ngủi, ở một nơi thỉnh thoảng có mặt trời là Lò
Thiêu, tôi
cứ thử tưởng tượng, nếu ông đi tù vi xi, chắc chắn phải thêm vào "một
chỗ
dưới mặt trời" - mượn cái tên phim có cô đào Taylor và chàng Monty
Cliff –
tức khoảnh khắc hạnh phúc mà điếu thuốc lào mang lại.
Như
trên đã viết, cả phòng
chỉ có một khẩu ba zô ka, thành thử trước khi đi ngủ, "trại viên"
thường tìm cách giấu khẩu súng, riêng cho mình, để sáng sớm hôm sau, là
người
đầu tiên nhét bi thuốc, châm que diêm bắn một phát, rồi ngã lăn đùng
ra, mặc kệ
trời đất xoay mòng mòng...
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cũng
đã tả cái thú bắn thuốc lào này, trong
Thơ Ở Đâu Xa:
Thơ thuốc lào
Ngồi chơi hút điếu thuốc lào
Tạm quên những lúc gian lao
ưu phiền
Điếu thông đóm nỏ thuốc êm
Thử coi sẽ thấy đảo điên đất
trời
Bạn tù ơi lửa châm rồi
Rít cho ròn rã mê tơi cõi
lòng
Tựa lưng nhả khói thong dong
Tít say lú lấp cả mong với
chờ
Kể chi vợ dại con thơ
Sá gì chuyện cửa chuyện nhà
mai sau
Sá gì mấy cuộc bể dâu
Loay hoay chỉ tổ bạc đầu mà
thôi
Này đây trà đậm chén mời
Long Giao còn thú tuyệt vời
nào hơn
Sáng bữa đó,
"bạn tù", "trại viên", tức kẻ hèn này hân hạnh là người đầu
tiên nạp đạn. Vừa nhả khẩu súng, chưa kịp ngã lăn đùng ra để phê, thì
tiếng
kẻng "tập hợp, chào cờ!" rùng rợn đã ré lên!
Thế là "chàng" cứ thế bò, lăn,
lê, mắt nhắm tít, để "kìm"
cơn say, nhằm hướng sân trại, đâu biết rằng tất cả bạn tù, lẫn quản
giáo, đang
"chiêm ngưỡng" từng bước "lăn trầm" của "chàng"!
Trong Tuyển Tập Tạp Ghi cũng có những dòng "sám hối, giải oan cho một
trận
thuốc lào này," của Lô Răng, khi cô con gái út khuyên ông, "Đừng hút
thuốc lào nữa bố ơi, con chịu không nổi." (trang 66).
Đấy là cô "lịch sự", không nói thêm, "... vì nó ‘hôi’ lắm"!
Source
INTERESTING TIMES
POWER
OF THE PEN
by George Packer
What a journalist in Burma
could
teach Politico.
Quyền năng của cây viết
Một ký
giả ở Miến Điện có thể
dậy Bộ Chính Trị điều gì
Nay
Phone Latt
Imprisoned voice of a
generation
BY SALMAN RUSHDIE
THERE
ARE TWO PHOTOS OF Nay
Phone Latt that I love. In the first one, he's in a vacant lot flying a
kite.
In the other, he's standing in front of a wall-size King Kong vs.
Godzilla
poster, Godzilla lunging for his right ear.
Looking at these, it takes no
great leap to guess what he is: a poet and blogger. And since he lives
in Burma,
you can
guess what else he is: a prisoner.
The recipient of this year's
PEN/Barbara Goldsmith Freedom to Write Award, Nay Phone Latt, 29, is
the voice of
a generation of Burmese who are finding ways around an aging regime's
desperate
censorship. When the junta there cracked down on Buddhist-monk-led
demonstrations
in 2007 and restricted press coverage, Nay Phone Latt's blog was a
go-to source
for international journalists. For this, he was arrested and is serving
12
years.
As Burma
charts its future in this
crucial year, what it really needs is kite flyers who stand up to
giants. Will
the generals let him go free?
RUSHDIE is a novelist
*
Malalai
Joya
Fighting oppression in Afghanistan
BY AYAAN HIRSI ALI
TO BE A
WOMAN GROWING UP IN
AFGHANISTAN UNDER THE Taliban and to survive is in itself a major feat.
To be
so lucky as to become literate in a place where girls are shrouded and
denied
even fresh air is close to a miracle. To start underground schools and
educate
girls under the noses of turbaned, self-appointed defenders of virtue
and
forbidders of vice is truly extraordinary.
But to get a seat in
parliament and refuse to be silent in the face of the Taliban and
warlord
zealots shows true fiber. When Malalai Joya did this, her opponents
responded
in the usual way: expulsion from parliament, warnings, intimidation and
attempts to cut her life short. She has survived all of it.
Malalai, 31, is a leader. I
hope in time she comes to see the U.S. and NATO forces in her
country
as her allies. She must use her notoriety, her demonstrated wit and her
resilience to get the troops on her side instead of out of her country.
The
road to freedom is long and arduous and needs every hand.
HIRSI ALI, author of Infidel, has a book, Nomad,
out this month
Time,
May 10, 2010. 100 nhân
vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
TV giới thiệu 2, thay cho 2
Mít.
Tùy bạn chọn: Lê Thị
Công Nhân, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định…
Raging
towards Utopia
Neal Ascherson
KOESTLER:
THE INDISPENSABLE
INTELLECTUAL by Michael Scammell.
Faber, 689 pp., £25,
February, 978057113853 I
WATCHED from a safe distance,
Arthur Koestler's life was like a Catherine-wheel breaking free from
its stake.
Leaping and spinning and scattering crowds, emitting fountains of
alarming
flares and sparks as it bounded in and out of public squares and
unexpected
back gardens, flinging dazzling light into dim minds, Koestler's career
left
scorch marks and illuminations across the 20th century. When it finally
stopped
and the flames died, the darkness suddenly seemed absolute.
London Review of Books, 22 April 2010
Koestler
Nhìn từ một khoảng cách an
toàn, cuộc đời K giống như một trái cầu lửa, bùng lên một cách hung hãn
ngay từ
khởi đầu và, cứ thế lao vào đám đông, quảng trường, những khu vuờn sau
nhà...
phóng ra những tia lửa, những khối sáng vào những cái đầu tăm tối; sự
nghiệp,
cuộc đời của ông để lại những vết cháy nám đen, và những khối sáng lòa
dọc theo
thế kỷ 20.
Khi trái cầu ngưng hẳn, khối lửa
lụi tàn, và bóng đen bất thình lình kể như tuyệt đối.
Cuộc “phần thân” mới khủng
khiếp làm sao!
So với ông, kể như chỉ có nhi
đồng Lê Văn Tám!
*
'I don't believe in
humanity, I
believe in the individual' (1)
Koestler
1
Koestler
2 spinning
Koestler: Con quỉ của sự tuyệt đối
(1)
Tôi không tin vào nhân loại.
Tôi tin vào cá nhân.
Câu này tặng cá nhân Nguyễn Tiến Trung, Lê Công
Định, Lê Thị Công Nhân... nhân
Tết Canh Dần, cũng thấy ấm lòng.
"Nhân loại", cái giống Mít, Gấu, tuy không
là Koestler, nhưng quả thật là quá chán nó rồi!
Hết tin vào nó rồi!
Cũng sắp đi, chán hay không chán, thì cũng đành thôi.
NQT
Raging
towards Utopia, cái tít
bài viết chẳng là chào mừng và tiên tri số phận Mít sao: khùng điên lao
vào không
tưởng, đường ra trận mùa này đẹp lắm, tiếng hát át tiếng bom, xong trận
này là
xong tất cả, là thảnh thơi xây cái nhà Mít ở trên mặt trăng!
Ở đâu ra cái
tít Đêm giữa
Ngọ của Koestler?
Từ
Milton, nhưng không phải
do tác giả chọn, như những dòng sau đây, trong Kẻ Lạ Ở Quảng Trường cho biết:
Chính là khi ở Pentonville mà
tôi nhận được bản in thử của Darkness at Noon, và lần đầu tiên biết
được cái
tít tiếng Anh của cuốn sách - dựa trên một trích dẫn từ Milton, mà
Daphne đề
nghị, và tôi rất thích. Đúng là một sự trớ trêu, ở trong tình trạng tù
đọc bản
in thử của một cuốn tiểu thuyết về một người đàn ông ở trong tình trạng
tù.
Nhưng tôi may mắn hơn, vì ở tù ở Pentonville thì chắc chắn hơn hẳn ở
Lubianka
[nhà tù nổi tiếng của Liên Xô].
Đêm giữa Ngọ, cái tít đúng là
như vậy.
Ngọ, Noon ở đây, là chỉ hiện
tượng nhật thực, giữa trưa mà trời đất đen thui.
*
"...O dark, dark, dark,
amid the blaze of noon,
Irrecoverably dark, total
eclipse
Without all hope of
day!"
Những dữ kiện như trên cho
thấy không dễ gì mà có được cái tít
Đêm giữa ban ngày.
Từ đó suy ra, không dễ gì mà
không tin Ngài VTH cầm nhầm cái tít của Koestler!
*
Khi cuốn sách của VTH xb ở
hải ngoại, và nó nổi lên như cồn, Gấu đã nghi rồi, nhưng thấy cũng
chẳng đáng
khui ra, nhưng bi giờ, hàng nhái lại trở nên bảnh hơn đồ zin, đồ xịn,
thì đành
phải lên tiếng.
Chán thật! NQT
MY
HERO: Samuel Beckett
Người hùng của tôi: SAM
Since then I
must have read Waiting for Godot – of course – a hundred times.
Every
time I go back to Beckett he seems more subversive, not less; his works
make me
feel more uncomfortable than they did before. The unsettling idea, most
explicit in Godot, that life is habit – that it is all just a series of
motions
devoid of meaning – never gets any easier.
It's that willingness to question the things the rest of us take for
granted
that I admire most about Beckett; the courage to ask questions that are
dangerous because, if the traditions and meanings we hold so dear turn
out to
be false, what do we do then?
Beckett
CULTURE
BOOKS
Stars of the stalls
Booksellers on street corners
are a New York
institution. But which books are they most likely to be selling - and
why?
SIMON AKAM works it out
“Số 1” sách vỉa hè: Graham
Greene
The Quartely from The Economist, Spring, 2010
Ui
chao, lại nhớ những
kiosques sách cũ; mua, bán, cho thuê những cuốn série noire… tại đường
Lê Lợi,
hay khu sách cũ Chợ Đũi, gần nhà ông bạn quí HPA...
Nỗi buồn Istanbul
Doc bai
dich tren blog hay
qua .
Anh Tru dich "mướt" lam roi .
K
Biet khi nao VN moi co mot
tac pham nhu the.
Tks NQT
To die for others is
difficult enough.
To live for others is even
harder.
G. Steiner: Errata
Giữa “Đường ra trận mùa này
đẹp lắm” và “Ngày mai đi nhận xác chồng” là chân lý:
Chết vì người đã khó, sống vì
người còn khó hơn?
*
Nhà thơ Lê Thị Ý, người được
độc giả đón nhận bàng hoàng khi biết chính là tác giả bài thơ dội vang
tình cảm
người đọc trong thời chiến tranh khốc liệt. Bài thơ được nhạc sĩ Phạm
Duy phổ
nhạc, được người đọc lấy câu thơ đầu trong bài để gọi tên: “Ngày mai đi
nhận
xác chồng.”
Thực ra, “Ngày mai đi nhận
xác chồng” có tên nguyên tác là “Thương Ca 1” trong một chuỗi năm bài
Thương Ca
được ghi số Thương Ca 1, Thương Ca 4, Thương Ca 5, Thương Ca 6, và
Thương Ca 8.
Nhắc chuyện cũ, tác giả Lê
Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng trên tờ Tranh Ðấu của sinh
viên
Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã gửi cho bạn ông là nhạc
sĩ Phạm
Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến trên các đài phát thanh
lúc bấy
giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.”
Nói về hoàn cảnh bài thơ được
khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết, “Nhà tôi ở gần nhà xác trên
Pleiku. Khi
ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang diễn ra thật khủng khiếp.
Không ngày
nào nhà xác không nhận thêm được xác những chiến binh QLVNCH hy sinh
tại chiến
trường. Và những người vợ trẻ thì đứng đầy quanh nhà xác với những vành
tang
trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy những cảnh thê lương ấy.
“Em không thấy được xác
chàng,
Ai thêm lon giữa hai hàng nến
trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng
riêng ai...”
Cái chi tiết về NDQ đọc, và
gửi cho PD, tuyệt!
Có lẽ đã đến lúc phải viết về
cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi đấy. Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ
niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo nghĩa, chưa báo cáo độc giả
Tin Văn,
để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải trải qua những cơ may huyền diệu,
sau những
đau khổ khủng khiếp như thế nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD
sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu, trong cái dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho
Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
*
Theo server, thì 3, trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên
môi.
Và:
Ngày mai đi nhận xác chồng.
Ui chao, sao mà tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhà thơ Lê Thị Ý là em của
Vương Đức Lệ, qua bài phỏng vấn trên báo Người Việt cho biết.
-ÐQAThái: Khi phổ thành ca
khúc, hình như Phạm Duy có sửa vài lời trong bài thơ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Ðúng vậy.
Có lẽ ông Phạm Duy sửa vài chữ cho nó hòa hợp với âm điệu bài nhạc hơn.
Có câu
ông Phạm Duy cắt bớt. Thí dụ câu tôi viết, “Chiếc quan tài phủ cờ màu,
hằn lên
ba vạch đỏ au phũ phàng” thì Phạm Duy sửa thành “Bây giờ anh phủ mầu
cờ” và cắt
đi câu thơ kế tiếp.
-ÐQAThái: “Hằn lên ba vạch đỏ
au phũ phàng”, tại sao lại phũ phàng ạ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Khi đau
đớn thì cái gì cũng phũ phàng cả. Phũ phàng là hình ảnh đau đớn, quằn
quại.
Tuyệt! Thơ được trao cho thi
sĩ, là như vậy đó. Đám thi sĩ dởm làm sao biết một chân lý đơn giản như
vậy.
Cái tay ký giả thì bị ám ảnh bởi mấy cái vạch cờ ba sọc, nên mới théc
méc,"tại sao lại phũ phàng ạ"!
Cũng ý này, Lão Tử phán,
thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu [Gấu nhớ đại khái, không biết
có đúng
không, cái này là tán phó mát thêm!]
*
Thật tiện lợi, khi hồi nhớ
làm việc được cả hai chiều”.
“Hồi nhớ của tôi chỉ làm việc
một chiều”. Alice
nói. “Tôi không thể nhớ chuyện, trước khi nó xẩy ra”.
“Quá nghèo nàn, thứ hồi ức
chỉ nhớ chuyện đã qua”. Hoàng hậu nói.
“Bà nhớ rành rọt nhất, là
những chuyện gì?”. Alice
dò hỏi.
"Ồ! Những chuyện xẩy ra
tuần lễ tiếp theo tuần tới”. Bà Hoàng thản nhiên nói.
(Through the Looking Glass).
Bài Ngày mai đi nhận xác
chồng này Gấu đọc lại, mới nhớ ra đây là một bài viết bỏ lửng, tính
viết tiếp,
rồi quên luôn.
Vào lúc đang viết đó, Gấu
đụng vô, cái gọi là sự “chúc dữ của nước”, tạm gọi như vậy, mô phỏng
điều mà
Koestler gọi là sự "chúc dữ của cái vòng tròn", la malédiction du
cercle, giáng lên văn minh Tây Phương.
Vì quá mê cái vòng tròn mà
văn minh Tây Phương mất mẹ nó mất hai ngàn năm, kể từ Pythagore cho đến
khi
Kepler khám phá ra quỹ đạo của các hành tinh là hình bầu dục [ellipse].
Khi Kepler khám phá ra điều
này, ông nghĩ mình là thằng khùng, hay tên tội phạm, bởi vì đây là điều
cách
đây hai ngàn năm Pythagore đã biết rồi!
Nhà Gấu bị chúc dữ bởi nước!
Vào năm 1946, ông bố bị một ông học trò làm thịt, đòm một phát, thẩy
thầy xuống
sông, kèm cục đá.
Thằng em trai của Gấu chết vì
một viên đạn bắn từ bên kia sông, xuống mặt nước, giống như bắn thia
lia, và
viên đạn nhảy lóc cóc trên mặt nước, qua bên này sông, bay lên, lọt vào
ót
thằng em trai, lúc đó đang cùng tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường
Sóc
Trăng, vào năm 1967, trước Mậu Thân một năm. (1)
Khi thằng em vô quân trường
Thủ Đức, là Gấu đã ngửi ra cái chết của nó.
Và nó sẽ chết vì nước!
Lần Gấu thoát chết vì mìn
claymore của VC ở bờ sông Sài Gòn, là Gấu biết, thằng em vô phương!
(1) Đây là Gấu phóng đại, làm
gì có viên đạn nào đi thia lia, nhẩy lóc cóc, nhưng nếu bạn bắn một
viên đạn
xuống bước, thì bắt buộc nó phải trồi lên, theo một định luật về vật lý
học.
Thằng em Gấu quả là chết vì một viên đạn như thế. Khi nghe tiếng súng
từ bên
kia sông, theo phản sạ, cu cậu cúi đầu né, cái nón sắt, do ẩu tả, không
cài
dây, rớt xuống đất, và khi viên đạn bay hết đà, bèn ghé cái ót cu cậu
nằm nghỉ!
Gấu đã từng gặp viên quân y
sĩ, ông nói, nếu lấy viên đạn ra, thì sẽ nát bấy khuôn mặt, nên tôi để
luôn
trong đó.
Đến khi Gấu bỏ chạy quê
hương, bèn đào mộ ông em, lấy xác, hoả thiêu, đem tro cốt vô chùa, vì
cũng sợ,
mấy ông VC chẳng tha người đã chết.
Và quả đúng như vậy, chúng
cho ủi sạch nghĩa trang quân đội Gò Vấp.
Mới đây thôi, đứa con gái út
của Gấu về Việt Nam, ghé chùa, mang tro cốt của bà cụ và đứa em trai ra
Vũng
Tầu, thả xuống biển.
Bà sư trụ trì chùa nói, Ông
Tướng Râu Kẽm cũng vừa ghé, và cũng làm như Gấu!
*
Tiền nhuận bút Istanbul, được
Cô Xì Lô dùng để lo lần chót cho Bà Nội và Chú, trong chuyến đi trên.
Tks all of U. NQT
NKTV
*
Orhan Pamuk
Nghệ thuật giả tưởng
Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul,
nơi ông
tiếp tục sống. Gia đình làm giầu trong nghề xây dựng đường xe lửa vào
những năm
đầu của nền Cộng Hòa Thổ, và Pamuk theo học ở trường Robert College,
nơi dành cho con cái của giới tinh anh, sính ngoại. Khi còn nhỏ, ông mê
hội họa,
nhưng sau khi học kiến trúc, ông quyết định viết. Hiện nay, ông là một
tác giả được
đọc nhiều nhất của Thổ nhĩ kỳ.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện
hai đợt, vào năm 2004, tháng 5,trùng thời gian ra mắt Tuyết, Snow, và
2005, tháng
Tư, cùng tại London, cùng thời gian Istanbul ra lò.
Người phỏng vấn:
Ông cảm thấy sao về cái
vụ phỏng
vấn phỏng viếc như vầy?
Pamuk:
Đôi khi tôi cảm thấy không
thoải mái, bởi vì tôi đưa ra những câu trả lời ngu đần cho một số những
câu hỏi
vô nghĩa. Chuyện này xẩy ra trong những cuộc phỏng vấn tiếng Thổ nhiều
hơn là
tiếng Anh. Tôi nói tiếng Thổ tồi, và thường phán những câu cực kỳ ngu
xuẩn. Tôi
bị phạng tơi bời trong tiếng Thổ, vì những phỏng vấn hơn là những
cuốn tiểu
thuyết của tôi. Đám bình luận, chính trị gia bằng mồm, những tay biếm
văn đâu có
bao giờ đọc tiểu thuyết, ở đó.
Đám Âu Châu, Mẽo nói
chung đều
gật gù với những cuốn sách của ông. Còn đám Thổ nơi quê nhà thì sao?
Những năm tháng tốt lành thì
đã qua. Khi tôi cho xb những cuốn sách đầu
tiên của tôi, đám
già đều đã "Xưa rồi Diễm ơi", và đều đi theo TCS cả rồi, bởi vậy, tôi
được vồ vập, vì là một tác
giả mới.
Khi ông nói, thế hệ
trước, đám
đàn anh, ông nghĩ đến những tay nào ở trong đầu?
Những tác giả cảm thấy họ có
trách nhiệm xã hội, những tác giả cảm thấy văn chương là để phục vụ đạo
đức, và
chính trị. Họ là những nhà hiện thực tầm tầm, flat realistics, không
phải thứ
thể nghiệm, not experimental. Như những tác giả trong rất nhiều xứ sở
nghèo đói,
họ phí phạm tài năng của mình trong cái việc cố gắng phục vụ quốc gia,
dân tộc
của họ. Tôi không muốn như họ, bởi vì ngay cả khi còn trẻ, tôi mê Faulkner, Virginia
Woolf,
Proust – tôi chưa bao giờ mơ trở thành một đấng hiện thực xã hội chủ
nghĩa như
là Steinbeck hay Gorky.
Thứ văn chương được sản xuất vào thập niên 60 và 70 thì trở thành lỗi
thời, bởi
vậy tôi được chào đón như là một tác giả của thế hệ mới. Tới những năm thuộc nửa sau thập niên 1990,
khi sách của tôi được bán ra ào ào, tới mức độ mà chưa có ông
nhà văn Thổ nào dám mơ tưởng, thì cũng là lúc tuần trăng mật giữa tôi
và đám báo
chí Thổ chấm dứt. Luôn cả với đám trí thức. Kể từ đó, phản ứng của mấy
đấng phê
bình thì nhắm vào công chúng vào số lượng sách bán ra, chứ không vào
nội dung. Bây giờ, bất hạnh thay, tôi nổi tiếng vì những cái còm chính
trị hầu hết
được đám báo chí Thổ cóp nhặt từ những cuộc phỏng vấn quốc tế, và được
chúng nhào
nặn, cắt xén, để biến tôi thành một thứ ‘cà chớn’, ‘khùng điên ba
trợn’, không đúng
con người thực sự là tôi.
Vậy là có một sự thù
nghịch đối
với cái tiếng tăm bình dân của ông?
Quan điểm mạnh mẽ của
tôi về
vấn đề này, là, đó là một thứ trừng phạt đối với con số lớn lao những
cuốn sách
bán ra, và những lời lèm bèm phạng nhà nước về chính trị của tôi. Nhưng
tôi không muốn
tiếp tục lải nhải theo đường hướng như vậy, vì nghe ra có vẻ chống đỡ,
biện minh,
phân trần. Có thể, tôi trình bầy sai bức tranh toàn thể những sự kiện.
Ông viết ở đâu?
Tôi luôn luôn nghĩ,
cái chỗ bạn
ngủ, và chia sẻ, chung chạ với bạn đời phải tách ra khỏi cái chỗ bạn
viết.
Ui chao, lại y chang GNV!
Hồi
còn trẻ, còn Sài Gòn, nhà thì nhà nước cấp, đâu có chia ra thành phòng
ăn, phòng
ngủ, phòng làm việc, tất tất chỉ có một phòng, GNV cứ phải đợi cả nhà
ngủ ngon,
rồi mới len lén bò dậy, ra cái bàn, bật cái đèn bàn nhỏ xíu chiếu sáng
vừa đủ
trang giấy, rồi cắm cúi viết, như một tên trộm!
Nabokov: Fiodor Dostoievski
[1821-1881]
Tư duy
biển
Kỷ
Niệm
Re: Hi
Sunday, October 11, 2009
I am fine. Tks…
Vui thấy anh Trụ vẫn ra sức ... đọc và viết
K
Vẫn ra sức?
Độc thiệt!
Đọc và viết, thôi, sao?
Còn... trả đòn nữa chứ!
Tks, anyway!
NQT
Vụ
Án
To
Docteur Michel Lechat
Dear Michel,
I hope you will accept the
dedication of this novel which owes any merit it may have to your
kindness and
patience; the faults, failures and inaccuracies are the author's alone.
Dr
Colin has borrowed from you his experience of leprosy and nothing else.
Dr
Colin's leproserie is not your leproserie which now, I fear, has
probably
ceased to exist. Even geographically it is placed in a region far from
Yonda.
Every leproserie, of course, has features in common, and from Yonda and
other
leproseries which I visited in the Congo
and the Cameroons I may have taken
superficial
characteristics. From the fathers of your Mission
I have stolen the Superior's
cheroots - that is all, and from your Bishop the boat that he was so
generous
as to lend me for a journey up the Ruki. It would be a waste of time
for anyone
to try to identify Querry, the Ryckers, Parkinson, Father Thomas - they
are
formed from the flotsam of thirty years as a novelist. This is not
a roman à
clef, but an attempt to give dramatic expression to various
types of belief,
half-belief, and non-belief, in the kind of setting, removed from
world-politics and household-preoccupations, where such differences are
felt
acutely and find expression. This Congo is a region of the
mind, and
the reader will find no place called Luc on any map, nor did its
Governor and
Bishop exist in any regional capital.
You, if anyone, will know how
far I have failed in what I attempted. A doctor is not immune from
'the long
despair of doing nothing well', the cafard
that hangs around a writer's life. I only wish I had dedicated to
you a
better book in return for the limitless generosity I was shown at Yonda
by you
and the fathers of the Mission.
Affectionately yours,
Graham Greene
Trên
đây là cái thư gửi vị bác
sĩ trại cùi của Greene. Nó có cái gì giống thư mở ra Người
Mỹ trầm lặng, có thể chỉ như là một cái cớ, a pretext, để móc
tác phẩm của ông vào thực tại, theo nghĩa câu của Hans Andersen, mà
Greene cũng
mượn, để mở ra tác phẩm The Human Factor
của ông, ‘out of reality are our tales of imagination fashioned’: dù
tưởng tượng
thế nào thì những giả tưởng của chúng ta đều chui ra từ thực tại.
Gấu tôi tự hỏi, tại sao trong
nước không mê, và ít ai dịch Greene trong khi ông mê Miền Nam
của Mít bội phần, hơn cả… PXA.
Hơn nhiều!
Trong cái thư trên, cái câu Gấu
gạch dưới, tuyệt cú mèo, và có thể, lại ‘có thể’, nó giải thích cái
mail của vị
nữ bác sĩ gửi cho TV: ‘Một vị bác sĩ thì cũng không được miễn nhiễm bởi
cái
chuyện quá chán chường vì cứ ì ra không làm bất cứ chuyện gì cho ra
hồn’.
Đó là cơn “cafard” đeo ngay ở
cổ một thằng cầm viết, lẵng nhẵng suốt đời làm khổ nó.
To Dr
Ngo Phuong Thao,
....
Affectionately yours,
Trân trọng,
NQT
|
|