|
30.4.2010
30.4.1009
Ba Lan
khóc những vị lãnh đạo
của họ
Le
Premier ministre polonais
Donald Tusk s'agenouille devant le cercueil du Président Kaczynski
lors de
l'arrivée de la dépouille à l'aéroport de Varsovie. Photo AFP
«Dorénavant,
le mot Katyn
représentera pour la deuxième fois le malheur de la Pologne», écrit le
journaliste
et historien Adam Michnik dans le grand quotidien polonais Gazeta Wyborcza.
Kể từ nay, Katyn mang thêm một
cái tang nữa cho Ba Lan.
[Từ “Katyn” sẽ tượng
trưng thêm một lần nỗi bất hạnh của Ba Lan]
*
Une cruelle ironie de
l'histoire
Một sự trớ trêu độc địa của lịch sử
*
FEVER
Poland like a dry fever on
the lips of an emigre. Poland,
a map pressed by the steam
irons
of long-distance trains.
Don't forget
the taste of the first
strawberry,
rain, the scent of wet
lindens
in the evening; heed the
metallic sound
of curses; take notes on
hatred,
the sheared coat of
alienation;
remember what links and what
divides.
A land of people so innocent
that
they cannot be saved.
A sheep praised by a lion
for its right conduct, a poet
who always
suffers. Land without sting,
confession
with no mortal sins. Be
alone.
Listen to the song of an un-christened
blackbird. The raw scent of spring is
flowing, a cruel sign.
Adam Zagajewski: Without
End
Sốt
Ba Lan,
cơn sốt làm môi khô đến
nứt nẻ,
một tên di dân
Ba Lan, tấm bản đồ bị bánh sắt
chuyến tầu viễn hành cán bẹp dí.
Đừng quên vị
trái dâu tây đầu tiên, mưa,
và mùi cây đoan ướt
vào buổi chiều; hãy để ý đến âm
thanh trù ẻo
của kim khí, hãy ghi nhận về hận thù,
chiếc áo khoác méo mó của
vong thân;
Hãy nhớ những gì nối kết, những
gì chia rẽ.
Mảnh đất của những con người
quá ngây thơ
đến không thể được cứu vớt
Một bầy cừu được sư tử xoa đầu
vì ngoan ngoãn, dễ bảo,
một thi sĩ luôn đau khổ.
Mảnh đất không châm chích,
thú
tội mà chẳng có tội chết người nào. Hãy cô đơn, một mình.
Hãy nghe tiếng ca của một con
chim đen không được Chúa Ký Tô rửa tội.
Mùi trinh nguyên, trần trụi,
thô thiển của mùa xuân
đang trỗi lên, một dấu hiệu tàn bạo
Adam Zagajewski: Without
End [Không Tận Cùng]
INTERVIEWER
In your interview with Gordon
Lish in Genesis West, you say that
there are two kinds of poetry. On the one hand, there are poems that
give
delight; on the other, there are poems that do something else. What do
you mean
by "something else"?
GILBERT
I think serious poems should
make something happen that's not correct or entertaining or clever. I
want
something that matters to my heart, and I don't mean "Linda left me."
I don't want that. I'll write that poem, but that's not what I'm
talking about.
I'm talking about being in danger-as we all are-of dying. How can you
spend
your life on games or intricately accomplished things? And politics?
Politics
is fine. There's a place to care for the injustice of the world, but
that's not
what the poem is about. The poem is about the heart. Not the heart as
in
"I'm in love" or "my girl cheated on me"-I mean the conscious
heart, the fact that we are the only things in the entire universe that
know
true consciousness. We're the only things-leaving religion out of
it-we're the
only things in the world that know spring is coming.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris
Review Interviews, I
Trong lần trả lời Gordon Lish trên Genesis West, ông phán, có hai thứ thơ,
một, làm sướng điên lên, một, làm một cái quái gì đó. Cái quái gì đó,
là cái
quái gì, hở ông?
GILBERT
Tôi nghĩ có thứ thơ thần, nó làm cho một
điều gì đó xẩy ra, và cái điều này thì đếch có đúng, đếch có mua vui,
đếch có
thông minh, dí dỏm, hóm hóm, hay bất cứ cái chi chi.
Tôi muốn một điều gì đó xẩy ra cho trái
tim của tôi, và tôi không muốn “BHD bye bye tôi”. Tôi không muốn điều
đó. Tôi
sẽ làm một bài thơ, nhưng đó không phải là điều tôi đang nói tới. Tôi
đang nói
tới điều nguy nàn – nhưng tất cả chúng nguy nàn - chết. Làm sao chúng
ta
có thể trải qua đời mình trong những trò chơi, hay những sự việc được
hoàn tất
thật phức tạp? Và chính trị?
Chính trị thì
OK. Phải có một nơi lo ba cái chuyện công lý trên đời, nhưng đó không
phải là điều
của thơ. Thơ là về trái tim. Không phải trái tim theo kiểu, “Tôi đang
yêu”, hay
“Em lừa dối tôi”. Tôi muốn nói con tim chân chính, con tim ý thức, tức,
sự kiện,
là, chúng ta là những gì độc nhất trên toàn vũ trụ, hiểu ý thức chân
thực. Chúng
ta là những gì độc nhất - gạt tôn giáo qua một bên – chúng ta là những
gì độc
nhất trên thế gian này biết mùa xuân đang đến.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris
Review Interviews, I
RICHARD
DAWKINS, the atheist
campaigner, is planning a legal ambush to have the Pope arrested during
his
state visit to Britain
“for crimes against humanity”.
Dawkins and Christopher
Hitchens, the atheist author, have asked human rights lawyers to
produce a case
for charging Pope Benedict XVI over his alleged cover-up of sexual
abuse in the
Catholic church.
Richard
Dawkins: Tôi
sẽ bắt Đức Giáo Hoàng vì
tội chống lại nhân loại.
Cùng
với nhà văn vô thần Christopher Hitchens, cả hai yêu cầu những luật sư
nhân quyền thành lập hồ sơ buộc tội Giáo Hoàng che chở những vị linh
mục làm bậy
con nít trong khuôn viên Nhà Của Chúa.
'Russia Against Napoleon'
By DOMINIC LIEVEN
Reviewed by JOHN STEELE
GORDON
A
history of the epic French
invasion of Russia
and Napoleon’s undoing, told from a distinctly Russian perspective.
*
Russia Against Napoleon: The Battle for Europe, 1807 to 1814. Nga chống Nã Phá Luân.
By Dominic
Lieven. Allen Lane;
672 pages; £30. To be published in America
by Viking in April 2010
Mr Lieven’s work will transform your view of 1812, especially if you
have been
relying on “War and Peace”. A landmark book, elegantly written.
Đây là một trong những sách mà tờ Người Kinh Tế chọn, trong mục Sách
của Năm, Books of the
Year.
Trên tờ Điểm Sách London, số
3 Tháng Chạp 2009, có bài điểm cuốn trên.
Đọc, có vẻ như là từ trước tới nay, mọi người đều hiểu sai về cuộc
chiến đó,
đúng như Người Kinh Tế viết,
cuốn sách thay đổi cái nhìn của chúng ta về năm
1812, nhất là nếu chúng ta dựa vào cuốn Chiến Tranh và Hoà Bình.
Nhật ký Tin Văn
Tư duy
biển
Paul
Celan và những người
dịch ông
Bruno
Schulz
5 năm TTT ra đi
Bạn đọc
Dọc
Đường sau khi đọc
Trước Pháp Luật (1) thì thật là tuyệt vời. Cái nọ bổ túc cho cái kia.
Có vẻ như,
khi Kafka chấm dứt câu chuyện của ông, là bởi vì biết rằng, sau này, sẽ
có một
người viết tiếp nó!
Theo nghĩa, cái thằng người
nhà quê của ông, sau đó, vô được bên trong, nhưng, tới lúc đó, mới ngã
ngửa ra
là:
-Không phải đây…
-Vậy tía quên hay tía lầm
đường rồi. Tiá ráng đợi đây đón xe sau mà về.
Hình
như, có lần Phạm Thị
Hoài, [vẫn hình như], khi phải giải thích, truyện của bà có hơi hướng
Kafka, đã
trả lời:
-Kafka là người Việt Nam!
Nguồn
(1) Đây là câu chuyện một
người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết,
nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu
nữa
đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước
khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính
vô chơi,
coi cho biết; người lính gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng
đây, cũng
chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn
phận ở đây.
Nói xong anh bỏ đi.
Tưởng
niệm Simone Weil
SIMONE
WElL WATCHES THE RHÔNE
VALLEY
I found
her in front of the
house, sitting on a stump,
sunk in contemplation of the Rhone Valley
... -Gustave Thibon
Suddenly
she doesn't
comprehend,
but only watches:
the Valley of the Rhône opens
in the earth,
old villages appear above it,
broad scrawls of vineyards,
thirsty wells.
The plane trees slowly reawaken,
roosters resume their
stubborn march,
hawks mount the sky again,
and now she almost sees the
light breath of larks,
mounds shouldered up by black moles,
farm roofs, walnut trees,
church towers curled like
tobacco,
dark fields of ripe grain,
scythes glittering,
baskets of grapes.
In the shade of the juniper
death hovers,
war is near.
The broad Rhône's mercury
oozes down the valley
with its barges and boats;
a moment of forgiveness,
an instant's bliss,
the olive tree of
nothingness.
Adam Zagajewski: Without End
*
Le Marxisme
1934
Sollicitée
par un camarade
syndicaliste de donner son avis sur le livre d'Henri de Man, Au-delà du
marxisme (1927), Simone Weil, qui le juge un peu faible, recommmande la
lecture
de Marx: «Avant d'aller "au-delà du marxisme", il serait bon de bien
connaître Marx lui-même, si déformé par presque tous les résumés et
commentaires» (Lettre à Alexandre Burnouf, 1933).
Cette remarque - à laquelle
tous les historiens ou philosophes sont prêts aujourrd'hui à souscrire
unanimement - dénonce l'état de misère théorique de la pensée marxiste
dans la France des
années 30. La culture marxiste était vraiment rudimentaire chez les
militants
qui se contentaient souvent de ressasser des lieux commmuns, rapidement
figés
en slogans.
Simone Weil, pour son compte,
surtout après son rapprochement avec le Cercle de Boris Souvarine, a
entamé une
analyse critique de la doctrine marxiste. Le texte qui suit fait
probablement
partie de ce corpus d'ébauches et fragments produits au moment et en
vue de
l'élaboration des Réflexions, et s'applique à mettre en évidence les
contradictions présentes dans la pensée marxiste, ainsi qu'une tendance
chez
l'auteur du Capital à introduire des concepts prétendument
scientiifiques qui
ne sont en réalité que des hypostases sécularisées de l'ancienne vision
religieuse du monde.
*
Le
marxisme est la plus haute
expression spirituelle de la société bourgeoise. Par lui elle est
arrivée à
prendre conscience d'elle-même, en lui elle s'est niée elle-même. Mais
cette
négation à son tour ne pouvait être exprimée que sous une forme
déterminée par
l'ordre existant, sous une forme de pensée bourgeoise. C'est ainsi que
chaque
formule de la doctrine marxiste dévoile les caractéristiques de la
société
bourgoise mais en même temps les légitime. À force de développer la
critique économie
capitaliste, le marxisme a fini par donner de larges fondements aux
lois de cette même
économie; l'opposition contre la politique bourgeoise a abouti à
revendiquer la
possibilité d'accomplir le vieil idéal de la bourgeoisie, cet idéal
qu'elle n'a
réalisé que d'une manière ambiguë, formelle, purement juridique, mais
de
l'accomplir en luttant contre elle, d'une manière plus conséquente
qu'elle et
vraiment concrète; la doctrine qui devait à l'origine servir à anéantir
toutes
les idéologies en démasquant les intérets qu'elles recouvrent s'est
transformée
elle-même en une idéologie, dont on devait par la suite abuser pour
diviniser
les intérêts d'une certaine classe de la société bourgeoise….
[suite]
Simone
Weil khác Simone Veil,
một chính trị gia Pháp, sống sót Lò Thiêu.
Paris Match
13 & 19 Janvier
2005
Hannah Arendt
Virus VC vs Lưu Manh Hóa
Viết
như không viết
Kỷ
Niệm
Vợ chồng GNV tới thành phố Toronto đúng vào
mùa lạnh
năm 1994.
Và cái chuyến đi ra khỏi thành phố đầu tiên, là để đến Montreal, gặp
Nguyễn Đông Ngạc, nhưng chủ yếu, là để nhận 500 đô Mẽo, của Sĩ Phú để
lại cho,
sau chuyến ghé thành phố cho một show ca nhạc, mấy ngày trước đó. Trong
phôn,
anh nói, tụi mày qua sớm, khi tao còn business, thì khá hơn.
Đó là món tiền lớn nhất từ bạn
bè, những ngày mới qua xứ người.
Lần đó, vợ chồng cô bạn chở đi.
Gặp Nguyễn Đông Ngạc, và một
số bạn văn qua anh.
Chuyện đời nhiều khi thật lạ.
Người lo lắng nhiều nhất cho vợ chồng GNV, là Nguyễn Đông Ngạc, khi tụi
này còn
ở trại tị nạn Thái Lan. Nhưng, cái chuyện có được địa chỉ của anh, thì
thật là
một tình cờ của định mệnh!
Gấu đã kể là, cái thư đầu tiên,
Gấu nhận được từ bạn văn, là của một nữ văn sĩ nổi tiếng lắm trước
1975. Bà viết
thư, còn trách móc, qua trễ quá, hết mùa vượt biển rồi, và kèm thư của
bà, là cái
thư của nhà văn chủ tịch Văn Bút Mít, gửi cho bà, trong đó viết, bà
biểu tôi lo
cho một nhà văn gì gì đó, ở trại mà lại không cho tôi địa chỉ của ông
ta, thì làm
sao tôi lo.
Không có tiền gì hết. Ý bà
là,
tao cho mi cái địa chỉ nhà văn chủ tịch PEN Mít, rồi tùy mày liên lạc
với ông
ta, nhé.
Món tiền đầu tiên nhận được
từ
bạn bè, là của một ông bạn quí, cất công đi từ Mẽo qua trại, là 300
bath, bằng
10 đô Mẽo, so với món tiền của Sĩ Phú mới xa vời làm sao.
Viết như thế, để thấy tấm
lòng
của ông bạn Sĩ Phú của GNV!
Trại
Sikiew. Thái Lan
Trần
Văn Toàn trả lời phỏng vấn
Đọc Tim
O’Brien ở Hà Nội
Chào – không còn gặp lại một
nơi lịch sử từng đi qua
DTQ
Note:
Đập Givral, cũng được.
Nhưng đừng tạc tượng PXA, nhé! (1)
Ui
chao, lại nhớ Brodsky:
Give me
another life, and
I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or
simply
sitting
there. Or standing there,
as
furniture in the corner,
in case that life is a
bit
less generous than the former.
Cho tớ
một đời khác, và tớ sẽ
hát
ở Quán Chùa.
Hay giản dị ngồi ở đó.
Hay đứng ở đó, như cái
bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau
không rộng lượng bằng cuộc đời trước....
Cuộc
đời trước, khi còn
Givral, Gấu có vài kỷ niệm, tuy không nhiều bằng Quán Chùa.
Một,
với cô bạn.
Ui chao, lại thèm kể ra, mà lại
tiếc quá!
Cái sự
tiếc quá này, mới đây
thôi, đọc một bài viết của tay Alberto Manguel, Borges si tình, Borges in Love, trong Into Looking-Glass Wood, mới nhận
ra cái lý của nó....
(1)
Nay, quán café Givral đã
"qua đời". Chỉ mong rằng sau này, nơi đây, trước cửa quán café Givral
cũ, sẽ có một bức tượng nhỏ của một người đàn ông mảnh khảnh bên cạnh
một chú
chó berger cao lớn với dòng chữ: "Phạm Xuân Ẩn - nhà tình báo huyền
thoại".
Nguồn
Ui
chao, tới bây giờ Gấu mới
hiểu được tại sao Cao Bồi ở những giây phút cuối cùng đã không làm sao
mà đi được:
ông chỉ sợ đám VC hậu duệ của ông dựng tượng, ở ngay cái nơi ông được
phong tướng,
và người qua kẻ lại chỉ vào tượng mà.... thì thầm:
-Tướng Givral không còn
Givral!
Hay:
-Kẻ làm mất Sài Gòn!
1.
Căn
phòng của René Berval,
đường Catinat, nơi có căn phòng được sử dụng cho Fowler và Phượng,
trong Người
Mỹ Trầm Lặng
2. Granger ở ngoài đời, Larry Alllen, ký giả Mẽo, nguyên mẫu của nhân
vật
Granger, trong truyện.
3. Greene & Le Roy & nhân vật Q.A. Q.A, theo Norman Sherry, tên
thực là
Leo Hochstetter, ở Bến Tre.
4. Phượng và René Berval.
Cú
này, theo Greene, là kiệt
tác của Trình Minh Thế
When Greene interviewed
President Diem, he asked him
why he had allowed The to return when he was responsible for killing so
many of
his own people. Greene recalled that Diem burst into peals of laughter
and
said: 'Peut-etre, peut-être'!
The
manager of the Majestic,
who was also the owner, was a Corsican called Mathieu Franchini. He was
very
influential in Saigon, and had
married into a
Vietnamese family. Franchini was a 'fixer' and must have been a source
of
information for Greene. Greene's diaries prove that they often drank
together
at both the Continental
Palace
and the Majestic.
In a sense Greene had no luck
with the original for 'Phuong'; for one thing he met her on the last
full day
of his first visit to Saigon. On
Sunday, 4
February 1951 he was very tired and missed Mass. He had coffee with
Elaine,
'wife of absent journalist' (who was to become Hugh Greene's wife), met
the
Toppings, had dry martinis with them and took them to lunch at the
Vieux
Moulin. After a siesta, he went to 'terrible reception by Alliance
Francaise'.
'Anna, the ugly Chinese journalist', he writes in his journal, 'had
brought her
beautiful sister, but hemmed in with Lycée teachers.’ This
sister became Phuong in The
Quiet
American.
Norman Sherry: The Life of
Graham Greene
Volume 2: 1939-1955
Chính
vì lẽ đó, tôi cho Bùi Giáng là nhà thơ tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hư
vô ở
Việt Nam.
NHQ: Blog VOA
GNV sợ rằng, nhà phê bình “lại”
phán ẩu về
Bùi Giáng, vì, đúng ra phải nói ngược lại, như GNV đã từng
Tưởng niệm ông:
Với Bùi Giáng, một phận người
thật yêu
thương, đôi khi thật ngậm ngùi. Và hình ảnh nhà thơ nhập vào, là ca
dao, Truyện
Kiều, lục bát, trên tất cả, là tiếng Việt với tất cả những thăng trầm
của nó.
Nói về khùng điên, phải có tài
của một thi
sĩ.
[Bản dịch tiếng Anh: To speak of madness one must have the talent of a
poet].
Michel Foucault
Xin vĩnh biệt nhà thơ.
NQT
Trong bài tưởng niệm Bùi Giáng,
Gấu có
nhắc tới Foucault, trên, như một đầu mối, để sau này có dịp viết tiếp
về trường
hợp nhà thơ Bùi Giáng.
Rồi quên luôn.
Bùi
Giáng: Hồn
Thơ Bị Vây Khổn
Có lẽ đã đến lúc
viết tiếp về ông.
*
Văn hóa blog: Cuộc khởi
nghĩa của đám đông
Gần
đây, mỗi lần tôi nói chuyện với
bạn bè hay có khi chỉ là người quen tình cờ gặp gỡ đâu đó, đề tài hầu
như bao
giờ cũng xoay quanh các bài viết của tôi trên blog này.
Thì cũng bình thường.
Trước kia, cũng thế.
NHQ VOA Blog
No
còm!
|
|