|
Jennifer
lạc vào thời Trung
Cổ!
Thu
2009
Độc
và Đẹp
Tuần lễ
vừa qua, trời đất thật
độc. Và cũng thật đẹp. Độc đến nỗi làm dân Saigon
ốm liểng xiểng. Không một bản tin nào nói đến, nhưng người Saigon
đều biết có một ‘dịch’ cúm trong thành phố. May thay ‘cúm’ Saigon
không ác như ‘cúm’ Phi Luật Tân hay ‘cúm’ Tây ban Nha chẳng làm ai chết
cả. Bệnh
chỉ làm người ta chảy nước mũi, khó chịu ngầy ngật. Người ta vẫn có thể
đi lại,
bằng những bước chân chênh vênh thú vị trong bầu không khí cũng hâm hấp
bàng hoàng
như thần trí. Cái độc của trời đất chính là ở chỗ nó đẹp, càng độc bao
nhiêu càng
đẹp bấy nhiêu.
Mùa thu đó, mùa thu lúc nào cũng vẩn đục,
cũng
hoang
mang, cũng
chập chờn mộng mị, chính là lúc tiêu trầm hấp hối của vạn vật muôn
loài. Nhưng đó
cũng chính là lúc trời đất và lòng người nghe nổi lên nhiều âm vang kỷ
niệm nhất.
Thanh Tâm Tuyền
Vấn Đề, số 15
Tháng 10-1968
Độc và Đẹp
Bài
này, Gió_O vừa post, lần đầu tiên đăng trên Tiền Tuyến, nhân
mùa thu, bão, lụt, và nhân người đẹp, "độc hơn thịt vịt", là Hoàng Hậu
nước Mẽo, Jackie, đang ca bài bye bye nước Mẽo, để bước đi bước nữa.
Ký là ký giả Ba Tê. Trong mục Tạp Ghi do Trưởng Lão Cái Bang, Phan Lạc
Phúc phụ
trách
Độc thì Đẹp. Đó là lẽ đương nhiên.
Chẳng thế mà Đinh Hùng than, khi bị một em chanh cốm hành hạ:
Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội! (1)
(1) Jackie, khi còn con nít, bị một thằng khốn nạn đi cùng thang máy
làm bậy.
Bà trả thù, nhằm... chính ông chồng của mình!
Thế mới thảm. Thế mới độc. Thế mới đẹp!
Nhật Ký Tin Văn
Những
cuộc cách
mạng 1989
Berlin
Wall
November 9th
Wall Stories
No
worthy successor, yet,
to Solzhenitsyn
Chưa
có đệ tử xứng đáng để truyền y bát!
Missing in all this is a
powerful voice from the countries concerned. Writers such as
Solzhenitsyn,
Czeslaw Milosz, a Polish poet, and Czech novelists such as Milan
Kundera, Ivan
Klima and Josef Skvorecky helped the world understand life under
communism. But
no writer from the region, in fact or fiction, has produced a matching
account
of the collapse of the Iron Curtain and its aftermath. The way in which
the
countries of central Europe, the
Baltics and
the Balkans emerged from communist captivity, made peace (mostly) with
their
history, and rebuilt the economic, legal, moral and psychological order
destroyed five decades previously is a gripping story. It has yet to be
fully
told.
Thiếu, trong tất cả ở đây, là một tiếng nói mạnh mẽ từ những xứ sở được
quan
tâm. Những nhà văn như Solzhenitsyn, Czeslaw Milosz, một thi sĩ Ba Lan,
và những
tiểu thuyết gia
Czech như
Milan Kundera, Ivan Klima, và Josef Skvorecky giúp
thế giới
hiểu cuộc sống dưới chế độ Cộng Sản. Nhưng chưa một nhà văn nào trong
vùng, bằng
sự kiện hay bằng giả tưởng, tạo ra được một tác phẩm xứng hợp, ngang
hàng với
những tầm vóc nói trên, để kể cho chúng ta nghe, về cái sự sụp đổ của
Bức Màn
Sắt, và những gì tiếp theo sau. Con đường mà qua đó, những xứ sở vùng
Trung Âu,
vùng Baltics và những con người Balkans vượt ra khỏi sự giam cầm của
chủ nghĩa
Cộng Sản, làm hòa [hầu hết] với lịch sử của chúng, và tái tạo dựng trật
tự kinh
tế, hợp pháp, đạo đức, tâm lý, bị phá huỷ trong năm thập niên trước đó,
thì quả
là một câu chuyện kỳ tuyệt, câu chuyện đó chưa được kể ra một
cách đầy
đủ.
Ui chao bao giờ thì Mít có cái sự sụp đổ Bức Màn Tre?
[Mặc dù đếch còn một cây tre nào!]
Nói chi chuyện kể về nó?
Văn Chương Dấn Thân
Tribute
to Levi-Strauss
Về chu kỳ hành kinh, vấn đề
kinh nguyệt của phái nữ, đực rựa không
được phép lèm bèm, nhưng đây quả là một vấn nạn, không chỉ dành riêng
cho một
nửa nhân loại.
Trong bộ Thần Thoại của Lévi-Strauss, [hình như trong cuốn Les
manières
de table, Những cách đặt bàn ăn], ông đã mất công sắp xếp, lắp đặt,
cả một
lô những huyền thoại, thành một con đường - của một chiếc thuyền độc
mộc, theo
những dòng sông dẫn tới mặt trăng - chỉ để chứng minh, chúng nói về con
đường
hành kinh của người phụ nữ.
Cô thiếu nữ, trong Những Dòng Sông,
như con cá hồi lần hồi tìm về con kinh, con rạch ngày nào, khi còn một
đứa con
nít, cô vẫn thường bơi lội, và chợt nhớ ra, lần đang tắm, như một đứa
con nít,
thấy dòng nước hồng hồng ấm ấm từ trong mình tỏa ra con kinh, biết rằng
mình
hết còn là con nít, và lần này trở về, không còn là con nít, là thiếu
nữ, là
phụ nữ, mà là một hạt bụi, cái chu kỳ hành kinh như thế, là cả một đời
người.
Có những đấng đàn ông - phần nhiều là có thiên hướng gay - rất
lấy làm
buồn phiền ông Trời, tại làm sao mà 'delete' một trong những thú đau
thương
nhất nhất tuyệt tuyệt như thế, đối với cái PC của họ. Và cái ông nào
đó, khi
đặt tên đứa con tinh thần chỉ có một nửa, bằng cái tên Trăng Huyết, một
cách
nào đó, là đòi 'save' cái thú đau thường kỳ tuyệt này, ít ra là cho
riêng ông
ta.
Nhưng, đây là một lời nguyền, một sự trù ẻo, hay một ân sủng?
*
Có những giây phút, những thời điểm "lịch sử" giầu có vô cùng. Khi
phải nhìn lại lịch sử văn học miền nam - lịch sử của đám chúng tôi! -
văn học
những năm 1960 quả là giầu có vô cùng.
Chỉ với một vài truyện ngắn của nó.
Nếu đi hết biển
*
Trăng Huyết còn nhiều tên gọi.
Với Tuý Hồng, nó có tên là Vết thương dậy thì. [Lẽ dĩ nhiên vết
thương
dậy thì có thể còn một phụ nghĩa, khác]
Giới khoa học gọi bằng cái tên Vết Thương Khôn, The Wise
Wound: tên
tác phẩm của Penelope Shuttle & Peter Redgrove, bàn về kinh nguyệt
và về
mỗi/mọi đàn bà [everywoman]
Trăng huyết? Does the Moon Menstruate?
Liệu vầng trăng kia cũng có... tháng?
Quả có thế. Trong tiếng Anh cổ, chu kỳ kinh nguyệt, the menstrual
cycle, menstrual từ tiếng La tinh mens, mensis,
có nghĩa là month, month/ moon. (1)
(1) Does the Moon Menstruate?
....
But why? What event in human lives corresponds in any way to the moon's
events?
Is there any connection between human fertility and the moon? It seems
a
strange coincidence, if coincidence it is, that lost of the medical
books say
that the average length of a woman's menstrual cycle is twenty-eight
days. This
might be no more than a coincidence, since, as Paula Weideger has
pointed out,
the figure is only an average one composed of the cycle-length of
thousands of
women added together and divided by the number of women. She says that
it is
quite possible in the statistical samples that no woman had a
twenty-eight-day
cycle, since it is quite normal to have fifteen-day cycles or
forty-one-day
cycles. What she says is true – nevertheless is also true that the vast
majority of cycles cluster round this figure of twenty-eight. Around
four weeks
is a very usual length of cycle. The coincidence is that the length of
the
moon's cycle from new moon to new moon also averages out at about four
weeks,
or 29*53 days (mean synodic month). Even the name of the cycle, the
menstrual
cycle, according to the OED, comes from the Latin mens, mensis, leaning
'month', and the same authority also reminds us that nonth' means
'moon'.
Partridge's dictionary goes further. If you look up 'month' there, you
will be
referred to 'measure'. He tells us that the changes of the icon
afforded the
earliest measure of time longer than a day. Under “Menstruation' we are
referred also to 'measure'. The paragraphs tell s that 'menstruation'
does come
from 'month' which comes from noon'. Moreover, he tells us that the
following
words for ideas come from the measurement that the moon makes in the
sky:
measurement, censurable, mensuration, commensurate, dimension,
immensity, metre,
metric, diameter, parameter, preimeter, meal, and many others. A
suspicion
grows that perhaps many of our ideas come from the moon-measure. All
the words
for 'reason’ certainly come from 'ratus', meaning to
count,
calculate, reckon; and all the words for mind, reminder, mental,
comment,
monitor, admonish, mania, maenad, automatic and even money appear to be
associated with this Latin word mens, or Greek menos,
which both
mean 'mind' or 'spirit'; or the Latin for 'moon' or 'monthly'. The
Greek word
for moon is mene.
The Wise Wound
Trăng Huyết
Đọc TMT
Hồn Ốc
I'M
SORRY
I DON'T RESPOND
I'm
sorry I don't respond
But it isn't, after all, my
fault
That I don't correspond
To the other you loved in me.
Each of
us is many persons.
To me I'm who I think I am,
But others see me differently
And are equally mistaken.
Don't dream me into someone
else
But leave me alone, in peace!
If I don't want to find
myself,
Should I want others to find
me?
26 AUGUST 1930
Fernando Pessoa
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến
nhé,
Bởi vì em đâu có phải là cái
người mà anh yêu, và thấy, ở nơi em?
Mỗi chúng ta, thì là rất nhiều
người.
Với em, em là cái người mà em
nghĩ, em là.
Nhưng anh lại nhìn em, như là
một người khác,
Thế mới khổ cho thân anh!
Đừng yêu em bằng cách tưởng tượng
ra em là một người nào khác.
Cút cha anh đi, để cho em một
mình, yên thân em!
Nếu em đếch thèm tìm kiếm em
Thì làm sao lại có chuyện tầm
phào
Anh tìm em, làm cái đéo gì?
Note: To U, CM.
To celebrate our just chat, in which U said, U think,
I really love U, as a boy loves a girl!
Not as a man loves a woman!
How cool U R!
Tks
NQT
Viễn
tượng
Họ đi ngang nhau như hai
kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe
Có lẽ nhói
một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận
Tuy nhiên
chẳng có chi bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là hai đứa đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần
Tôi nhìn hai
đứa từ trên cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía bên trên như thế
Thường hú họa
CM biến mất
quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch
Như chẳng có
gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc
chắn vào lúc đó
Nhìn thấy như vậy
Và cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi nnhững độc giả của tôi
Bằng bài thơ nho nhỏ tình cờ này
Rằng, buồn, buồn thật đấy
[To CM. The Bear]
Viết
như không viết
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Thư
tín:
Fri, 24 Mar 2006 01:14:44 -0800 (PST)
[…] xin chia buồn với anh về sự ra đi của ông Thanh Tâm Tuyền, một
người dường như đã mang một phần đời của anh.
Hay, anh mang một phần đời của ông ấy?
Một độc giả
Tks.
NQT
From:
Date: Sunday, March 26, 2006 02:23:26
To:
Subject:
Anh co biet ai giu vo kich “Ba chi em” cua anh Thanh Tam Tuyen khong?
MN
Một
câu hỏi
thật thú vị.
Ba chị em của TTT
là kịch truyền thanh. Kịch để đọc. Nó gồm mấy màn độc
thoại.
Hết bà chị ra sân khấu, lại tới cô em, cứ thế nói một mình. Rồi màn
chót, ba chị
cùng ra, trong khi căn nhà cháy đùng đùng. Hình như bà chị lớn, nói, cả
ba hãy
cùng chết với mẹ, một trong hai cô em, nói, tôi không giống bà đó, tôi
không muốn
chết.
Chị Em Hải
của NĐT, theo tôi, là từ Ba Chị Em mà
ra.
Lạ nữa là, sau này, Linda Lê cũng lấy lại đề tài này, viết Les trois Parques. Bà
này chắc chắn chưa từng đọc TTT!
Trong Trăng Huyết của Ngọc
Minh, ba chị em còn... hai anh em.
Và
những ai sau này nữa. Hãy tha thứ cho tôi. Hãy tha thứ cho anh
em tôi...
Trăng Huyết
Ghi chú về
Brodsky
Sự hiện diện của Brodsky bảnh,
hách, chẳng
khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay ngọn hải đăng cho rất nhiều bạn
thơ của
ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm và cuộc đời của người đó luôn
luôn
nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài thường lải nhải, phải có
cái
mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện đại’, thì vẫn có đẳng cấp. Đẳng
cấp này, thì không được rút ra từ ba trò tam đoạn luận, hay trao đổi,
đối thoại,
tranh luận cái mẹ gì. Nó là điều mà chúng ta làm mới hàng ngày, bằng
cách sống
và viết. Nó có một điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư là tiểu
học, bình
dân, và cũ xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc ác, tự do
và bạo
tàn. Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc trưởng
thượng, với
điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái hạ
cấp, hạ
vệ!
Những mỹ từ như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’
có thể áp dụng cho thơ Brodsky. Trong số mệnh của ông, như là kẻ đại
diện con
người, có cái đỉnh cao vời vợi của tư tưởng, và đây là điều mà Pushkin
nhìn thấy
ở Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian”. Trong
một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông,
cũng
là một nhà thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa
với dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã khám
phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận cùng. Nhập vào
lòng mê
cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ cái chi, nếu mà sống
sót từ quá
khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý ‘mày khác tao, tao khác nó, nó
khác mày’,
tức nguyên lý dựa trên đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ xoa đầu
hay nâng
bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ, thí dụ
vậy.
Mandelstam,
khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về
bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của mình cho
bạn tù, là
một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
Có hai
bài viết thật tuyệt về
Brodsky mà Gấu từng được đọc. Một, của J.M. Coetzee, trong Stranger Shores, tập
tiểu luận, và một, của Czeslaw Milosz, trong To Begin Where I Am, tập tiểu luận
Cả ba ông, đều ẵm Nobel văn
chương. Hai ông, là thi sĩ.
Tin Văn sẽ nhẩn nha, trích, đọc, và lèm bèm về cả
ba ông, và về thơ. Nên nhớ, hai ông thi sĩ, thì đều bỏ chạy VC cả, và
đều được
cứu rỗi, nhờ thơ và tôn giáo.
Cả hai, Milosz và Coetzee,
khi viết về Brodsky, đều nhận ra, đẳng cấp là cái bảnh nhất trong thơ
của ông.
Brodsky's
system can best be
illustrated from the essay on Thomas Hardy. Brodsky regards Hardy as a
neglected major poet, "seldom taught, less read," particularly in America,
cast
out by fashion-minded critics into the limbo of "pre-modernism" (On
Grief,
pp. 373, 315, 313).
It is certainly true that
modern criticism has had little of interest to say about Hardy.
Nevertheless,
despite what Brodsky says, ordinary readers and (particularly) poets
have never
deserted him. John Crowe Ransom edited a selection of Hardy's verse in
1960.
Hardy dominates Philip Larkin's widely read Oxford
Book of Twentieth-Century English Verse (1973), with 27 pages as
opposed to
19 for Yeats, 16 for Auden, a mere 9 for Eliot. Nor did the Modernist
avant-garde dismiss Hardy en bloc. Ezra Pound, for instance, tirelessly
recommended him to younger poets. "Nobody has taught me anything about
writing since Thomas Hardy died," he remarked in 1934.2
Brodsky's claim that Hardy is
a neglected poet is part of his attack on the French-oriented modernism
of the
Pound-Eliot school, and on all the revolutionary isms of the first
decades of
the century, which, to his mind, pointed literature in a false
direction. He
wishes to reclaim leading positions in Anglo-American letters for Hardy
and Frost
and in general for those poets who built upon, rather than broke with,
traditional poetics. Thus he rejects the influential
anti-naturalist poetics of
Viktor Shklovsky, based on unabashed artificiality, on the fore
grounding of
the poetic device. "This is where modernism goofed," he says. Genuinely
modern aesthetics-the aesthetics of Hardy, Frost, and later Auden -
uses
traditional forms because form, as camouflage, allows the writer "to
land
a better punch when and where it's least expected" (On
Grief, p. 322).
(Everyday, commonsense
language of this kind is prominent in the literary essays in On Grief and Reason, which appear to
have had their origin as lectures to classes of undergraduates.
Brodsky's
readiness to operate at his audience's linguistic level has its
unfortunate
side, including an eagerness to use youthful slang.)
Strong poets have always
created their own lineage and, in the process, rewritten the history of
poetry.
Brodsky is no exception.
Coetzee: The Essays of Joseph Brodsky
Đoạn
trích dẫn, trên, cho thấy,
truyền thống, tradition, và thể loại
[form, như lục bát, thất
ngôn bát cú,
tứ tuyệt… ] mới quan trọng, chứ không phải cái mới!
Hai
cái mới nhất, trong văn
thơ Mít, ở hải ngoại, được thổi lên tới tít mù trời, là thơ tân hình
thức, và chủ
nghĩa hậu hiện đại, thì cả hai chưa ị ra được một cục kít nào, ngửi
‘đường được’!
Tân
hình thức thì chết mất xác
rồi, còn cái diễn đàn ‘hậu vệ’, chắc cũng chẳng mấy chốc!
Borges,
trong bài viết về Thơ,
đã cảnh cáo mấy nhà thơ dởm con nít chỉ muốn huỷ bỏ truyền thống, huỷ
bỏ thể loại,
và bắt đầu bằng thơ tự do.
Thơ
tự do, theo Gấu, là thứ
khó nhất, trong các thứ thơ. Bạn phải thật rành hữu chiêu, thì mới vô
chiêu được.
Đây
là một công án thiền: Chưa
học thiền thì thấy rừng là rừng, cây là cây. Học, thì thấy rừng không
phải là rừng,
cây không phải là cây. Ngộ, thì thấy rừng vẫn là rừng, cây vẫn là cây.
Vô
tri/tri/vô tri: Đó là con đường
tu thiền, vậy.
*
Q:
Về thơ vần, ông có nghĩ
là, tất cả tùy thuộc vào loại thơ mà ông đã trưởng thành?
Borges:
Câu hỏi thật kỳ cục.
Có vẻ như ông có quá ít tò mò, về quá khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh,
thì đó
là một truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền thống. Tại sao
không theo
truyền thống thật dài, thật xuất sắc của những nhà thơ sonnet, thí dụ
vậy? Tôi
nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà
thơ làm
thơ tự do hay, nhưng rất nhiều nhà thơ bậc thầy, ở những thể thơ khác.
Ngay cả
Cummings cũng có nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số bài.
Tôi
không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá khứ. Nếu làm vậy, ông sẽ gặp
rủi ro khi
khám phá ra những điều đã được khám phá rồi. Điều này là do sự thiếu tò
mò.
Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá khứ? Không tò mò về những bạn thơ thế kỷ
này? Thế
kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng là gì đối với ông? Hay là Milton?
Thật sự
tôi không thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi của ông.
Q:
Liệu chúng ta có thể đọc
những nhà thơ quá khứ, rồi diễn giải những gì học được, bằng thơ tự do?
Borges:
Điều tôi không hiểu
được, đó là, tại sao ông lại muốn bắt đầu, bằng một điều thật khó, thí
dụ như
thơ tự do?
Q:
Nhưng tôi thấy không khó.
Borges:
Well, tôi không biết
thơ bạn làm, thật khó mà nói. Vấn đề có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc
thì khó.
Trong hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ nhiên, có những ngoại
lệ. Thí
dụ Whitman, Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những lập luận của
thơ tự
do, đó là người đọc biết, đừng trông mong lấy ra được từ đó một thông
tin nào;
hoặc phải tin vào một điều gì đó - khác với một trang thơ xuôi, vốn
thuộc về
văn chương của tri thức, chứ không phải văn chương của quyền lực.
Q: Ông
có nghĩ, có thể tạo ra
những thể thơ mới?
Borges:
Lý thuyết có thể
đúng. Nhưng điều tôi muốn nói, và chưa nói ra được, đó là bắt buộc phải
có một
cấu trúc; và nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như vậy vẫn dễ
dàng hơn.
Phải có cấu trúc thôi. Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi
(prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó trở thành thơ (verse)."
Stevenson cũng nói đại khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ xuôi
là
do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể thơ cổ điển - "bạn mong
một điều, thế là bạn có".
Nói
ngắn gọn, sự khác biệt
giữa một sonnet của Keats, với một trang thơ tự do của Whitman, thí dụ
vậy, đó
là bài sonnet, cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm - trong khi
nếu bạn
thử làm một bài thơ như "Children of Adams" or "Song of
Myself", bạn phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng bạn. Không
có
cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể chịu
nổi một
chuyện như thế đâu.
Nói
về thơ
|
|