|
Saigon 1965: Hình này thật tuyệt, có đủ cả, nào
taxi,
mobylette, xích lô máy.
30.4.2010
Robert
Frost
Stopping by Woods on a Snowy
Evening
Whose
woods these are I think
I know.
His house is in the village,
though;
He will not see me stopping
here
To watch his woods fill up
with snow.
My
little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse
near
Between the woods and frozen
lake
The darkest evening of the
year.
He
gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the
sweep
Of easy wind and downy flake.
The
woods are lovely, dark
and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I
sleep,
And miles to go before I
sleep
Dừng ngựa bên rừng buổi chiều
tuyết rụng
Rừng
này của ai tôi nghĩ tôi
biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng
ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa
của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung
quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng
băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn
khẩy khẩy cái chuông
nhỏ
Như để nói với chủ của nó,
này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng
mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng
thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa
phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Note:
Bài thơ trên, lần đầu
tiên Gấu đọc, là khi mới tới Trại Tị Nạn Thái Lan, trong một cuốn sách
dậy tiếng
Anh mà cái tít của nó, lấy từ bài thơ:
Promises to
keep.
Cuốn
sách mở ra bằng một số,
gọi ngụ ngôn, gọi ẩn dụ, ám dụ gì gì thì cũng được.
Gấu có thuổng mấy cái post trên
TV.
Một trong số đó, là câu chuyện một cái trứng chim rớt khỏi tổ xuống
đất,
may không bể, và được ông bố bà mẹ vịt nuôi, thế rồi cả đời biết ơn bố
mẹ nuôi,
và cứ nghĩ mình không làm sao bay được như cái lũ chim bay trên trời
kia, là do
chưa đến ngày đến tháng mà thôi.
Bố mẹ vịt, do là vịt, nên đâu có biết cái chuyện,
khi con chim non có đầy đủ lông cánh, là đạp một phát, tống nó ra khỏi
tổ, cho
nó tập bay.
Cái chuyện Bắc Kít thờ bố mẹ
là Đảng CS, y chang bầy vịt, tay Nguyễn Giang, Trùm Bi Bì Xèo, hình như
cũng có
lần viết về họ, đám con ông cháu cha chiếm hết ‘ghế ngồi’ ở cái sân
nuôi gà vịt
Hà Nội, tếu thế!
Đảng do là vịt, làm sao biết
cái chuyện đạp đám con ra khỏi tổ, để cho chúng tập bay đâu!
Nabokov: Fiodor Dostoievski
[1821-1881]
Tư duy
biển
5 năm TTT ra đi
Trong bài viết
mang giọng tự thuật, "Tôi mầy mò viết ra làm sao", đăng trên Người
Nữu Ước, số Tháng Chạp, 2003, Garcia Marquez kể, ông không thể nào
tưởng tượng
ra nổi, chỉ chín tháng sau khi học xong trung học đệ nhị cấp,
truyện
ngắn đầu
tay của ông được tờ Fin de Semanta,
phụ trang văn học của báo El
Espectador, ở
Bogota, đăng. Đây là tờ báo văn học số một của thời đó.
Bốn mươi hai ngày sau, truyện ngắn thứ nhì của ông cũng xuất hiện trên
mặt báo
này.. Sướng chưa!
Sướng quá là sướng.
Đúng là sướng quá cỡ thợ mộc, sướng đến điên lên được: Truyện không chỉ
được
đăng, mà còn được ông phê bình gia số một của thời đại, đi cho một
đường giới
thiệu ở ngay đầu.
Đó là tay chủ bút tờ báo, còn là phê bình gia sáng suốt nhất của Colombia,
me-xừ
Eduardo Zalamea Borda, bút hiệu Ulises. Sáng suốt, theo nghĩa, ông này
chuyên
ngửi ra.... thiên tài!
Đọc tới đây, Hai Lúa nhớ tới trường hợp truyện ngắn đầu tay của mình,
và mắt
xanh của nhà thơ lớn, nhà văn lớn, nhà phê bình lớn (1), và, nói ngắn
gọn, ông
anh lớn trong gia đình, Thanh Tâm Tuyền, tức anh Tâm. Dzư Văn Tâm.
Cả hai thằng nhà văn "trẻ", vừa mới viết truyện đầu tay, và đều sướng
điên lên, vì gặp mắt xanh, hoặc gặp được đại sư phụ, và được sư phụ gật
gù,
nói, được, được!
(1) TTT ít viết phê bình, đọc sách, tiểu luận. Nhưng phạng cú nào là ra
cú đó.
Thí dụ, bài viết về cuốn tiểu thuyết Siu Cô Nương, của
Mặc Đỗ. Mới đây thôi, trên tờ KH, MĐ, khi trả lời phỏng vấn, vẫn còn
đầy hậm
hực khi nhắc đến cú đánh đúng tử huyệt của chàng ngày xưa, và ông già
bây giờ:
Trí thức làm dáng! [Làm Dáng,
Mặc Đỗ trả lời phỏng vấn: Văn Học Miền Nam và nhóm Quan điểm, Khởi Hành, số Tháng Chạp 2004].
Hay là loạt bài viết về vị thần linh của miền nam, là Hồ Hữu Tường, và
cuốn
sách viết trong khi những giờ phút tưởng là cuối cùng của đời ông, Trầm Tư Của Một Tên
Tội Tử Hình.
Lạ.
Phải nói là khủng khiếp. Trong
loạt bài điểm cuốn sách trên, trên tuần báo Nghệ Thuật tại Sài Gòn ngày
nào,
TTT liên tưởng giấc mơ Phật trở lại với thế gian của HHT, với hình ảnh
hiện thực
xã hội chủ nghĩa của Miền Bắc qua đồng bằng sông Hồng bị xé lẻ, nát
bấy, bờ nhiều
hơn ruộng. Ông như "tiên đoán ra được", giấc mơ, hay hiện tượng
"Chúa Sẩy Thai", tức hiện tượng Hoá Thân: Thay vì Đức Phật trở lại,
thì đúng vào ngày cánh đồng kia liền một mối, đất nước liền một giải,
là con bọ
VC ra đời!
Khủng khiếp chưa!
Con Bọ của
Kafka và chiến tranh Việt Nam
Chúng ta đều biết hình dáng con bọ khủng khiếp, hoá thân của một ông VC
thực
tình tin vào Đảng, ngay sau ngày 30 Tháng Tư. Nhưng ngay cả Kafka cũng
không
thể nào tưởng tượng ra nổi con bọ của ông. Ông không bao giờ muốn hình
dạng của
nó được phô bầy ra trước độc giả.
Flaubert đã từng muốn văng tục, khi nhà xb muốn một cuốn sách của ông
có hình
minh họa. "Minh họa là phản văn chương". "Thà chết còn hơn là
minh họa" [Vous voulez que le premier imbécile venu dessine ce que je
me
suis tué à ne pas montrer ? Marthe Robert: Livre de lectures].
Kafka
đành phải chấp nhận bìa cuốn Hoá Thân có hình, nhưng năn nỉ [Marthe
Robert dùng
chữ supplier] nhà xb, bằng mọi cách, không được trương hình con bọ ở
ngoài bìa.
"Gì cũng được, nhưng chuyện này nhất định không" ["Surtout pas
cela, surtout pas cela!"], ông khiếp hãi trước một chuyện thô bỉ như
thế,
trong thư gửi nhà xb. Cuối cùng, độc giả có một con bọ Gregor vẫn còn
mang dạng
người, đứng trơ cu lơ một mình, trong một căn phòng trần trụi, quay
lưng về
phiá một cái cửa hé mở, trên một cái nền đen, tay ôm đầu.
Gấu tui có đọc báo trong nước ở trên lưới [tờ Người Lao Động thì phải],
câu
chuyện một nữ cán bộ, trong lúc mệt nhọc vì công chuyện, bật cái máy TV
nghỉ xả
hơi, và một giọng nói vùng địa phương của bà khiến bà chăm chú theo
dõi, câu
chuyện một bà, suốt từ 30 Tháng Tư, đi khắp một nửa đất nước, tìm hài
cốt
chồng. Bà đau lòng nghĩ, mình may mắn hơn, mà sao thê lương quá. Bởi vì
chồng
bà có về, nhưng đã biến thành một... con bọ. Đúng lúc đó, con bọ bò về
nhà, sặc
sụa mùi rượu Tây, mùi nước hoa nữ loại thượng hảo hạng...
Ai điếu Samsa
Vài nét
về tác giả bộ truyện
gián điệp Z-28
Trước
năm 1975, dân ghiền đọc
sách có lẽ đều có dịp đọc bộ truyện gián điệp của Người Thứ Tám. Trong đó nhân vật chính là Đại Tá Tống Văn
Bình tức Z.28. Nhiều bạn bè của tôi đã
sưu tầm tất cả bộ truyện gián điệp này và trân quý giữ gìn.
Tôi chịu những sách của ông
là về phần tin tức về các thành phố mà ông dùng làm bối cảnh câu chuyện. Không hiểu ông nghiên cứu và khảo sát từ đâu,
nhưng các chi tiết về các thành phố mà Z.28 đi qua, cùng các nhân vật
khác trong
truyện sinh sống, đều đúng y chang như ngoài đời. Tôi
và bạn bè, trong những chuyến du hành, so
sánh tận nơi về các địa điểm nổi tiếng, các nhà hàng, quán cóc, ngỏ
hẻm, chốn
ăn chơi đều đúng y như vậy. Mà tôi thì
không nghĩ tác giả đã đi qua những nơi ấy, lấy ví dụ như các xứ Cộng
Sản.
Tôi nghĩ tác giả đã lấy những
tin tức này từ các quyển chuyên về du lịch nên mới chính xác, và rút ra
những
nét thú vị mà chia sẻ với độc giả. Phải
chi tác giả là người Âu Mỹ, truyện của ông chắc sẽ được nhiều người xem
lắm và
hổng chừng được làm thành phim dài hay phim ngắn cho TV.
Sau năm 1975, ra đến ngoại
quốc, tôi lấy làm lạ là chẳng thấy tin tức gì của ông.
Tôi có hỏi thăm vài bạn bè quen biết ông,
nhưng chẳng ai biết ông đã lưu lạc phương nào.
May quá có anh H.T.Trực là
dân làng báo khi xưa, anh thương và chiều tôi nên đã cố gắng hỏi thăm
giùm. Thật cảm ơn anh vô cùng!
Mặc dù đây chỉ là thư riêng,
nhưng tôi xin mạn phép được đăng lên đây để chia sẻ niềm vui của tôi
với
"dân ghiền Z.28" ngày trước. Hy vọng BDH
Đặc Trưng chấp thuận.
NDT
*********
(trích thư của anh H.T.Trực)
Anh chị em thân mến:
Là
một nhà văn chuyên viết tiểu-thuyết
gián-điệp lẫy-lừng của miền Nam Việt-Nam trước năm 1975 nhưng tiểu-sử
của Người
Thứ Tám, tác-giả cha đẻ điệp-viên hào-hoa phong-nhã Đại-Tá Tống Văn
Bình, bí
danh Z 28 lại rất hiếm người nhắc đến (không như một số nhà văn viết
truyện
trinh-thám gián-điệp khác như Phú Đức, Phi Long, Phạm Cao Củng ...).
Nhằm
đáp-ứng sự tò mò của một vài anh
chị em Thụ-Nhân, tôi đã cố-gắng liên-lạc lại với Cụ Mạc-Kinh Trần Thế
Xương,
năm nay đã 84 tuổi, đang sinh-sống tại Luân-Đôn, để nhờ Cụ cung-cấp
thêm một số
chi-tiết vì chính Cụ Mạc-Kinh là người đầu tiên đã gới-thiệu các
tác-phẩm của
Người Thứ Tám Bùi Anh Tuấn đến với độc-giả từ giữa thập-niên 50. Bài
sau đây do
cháu nội gái 22 tuổi của Mạc Kinh đánh máy và gởi sang. Tôi chỉ sửa một
vài lỗi
chính tả và thêm một ít ghi chú màu xanh khi nào cảm thấy cần thiết.
Xin
mời anh chị em cùng đọc.
Kính gửi Anh Huỳnh trung
Trực,
Dựa theo nội dung Email anh
gửi cho hai ông bạn TQK và ST, tôi được biết anh có ý định tìm hỏi tôi
về “tiểu
sử” nhà văn Bùi Anh Tuấn. (TQK: Giáo-sư Tạ Quang Khôi, sinh 1929, nhà
văn, nhà
thơ, Hiệu-Trưởng Trung-học Nguyễn Trãi Sài gòn - ST: Sơn Tùng Nguyễn
Minh Ngọc,
sinh 1935, Chủ-Tịch Văn Bút Việt Nam Hải-Ngoại, Luật-sư))
Vậy chuyện ấy cũng dễ thôi.
Chỉ có điều trong lúc chưa biết thật rõ về ý định của anh định dùng vào
trường
hợp nào, thành thử cũng hơi khó cho tôi được thanh thản đề cập đến.
Thôi thì, thế này nhé. Tôi
viết theo lời một lá thư thông thường, bình thường. Vắn tắt, giản dị
như chúng
ta đang nói chuyện qua điện thoại với nhau nhắc về một người quen đã
hơn 35 năm
tôi chưa gặp lại.
Minh định với anh như vậy
rồi, tôi xin nêu mấy nét chính về nhà báo, nhà văn BÙI ANH TUẤN như
sau, trong
phạm vi tôi biết:
· Hai chúng tôi là bạn,
là đồng nghiệp cầm
bút trong 21 năm ở Miền Nam (VNCH). BAT cùng một lứa tuổi với tôi.
· Anh Tuấn sinh trưởng ở
đất Bắc (tỉnh Thanh
Hóa – vùng địa đầu xứ Trung Kỳ). Anh có mặt ở Saigon
sau Hiệp định Genève 1954, chia cắt đất nước.
Thời gian ấy anh đã lập gia
đình. Bà Bùi Anh Tuấn là một phụ nữ đất Thần Kinh, thuộc một vọng tộc
tên tuổi.
Hai ông bà sinh hạ được một bé trai vài bốn tuổi. Và, nếu là một ký
giả, một
nhà văn thì Anh Tuấn sớm có một đời sống khá cao ở đất Saigon giữa lúc
đông đảo
lớp người di cư vào Nam
đang phải bận tâm rất nhiều về mặt lo ổn định cuộc sống, lập nghiệp.
· Tính tình anh điềm
đạm, nhã nhặn, nghiêm
túc trong tiếp xúc với bạn bè, trong công việc. Đã hẹn là “đúng giờ”.
Đã hứa là
“làm”.
· Anh không bao giờ la
cà trong các chốn trà
đình tửu quán. Nếp sống của anh dành hoàn toàn cho mái ấm gia đình, cho
sự chăm
sóc bà vợ vốn tình trạng sức khoẻ không được tốt lắm; sau các việc hàng
ngày.
Anh phục sức, mang dáng dấp của một thông tín viên Au Mỹ thời đó đến Saigon . Anh hầu như chỉ thắt “nơ” cánh bướm
thay cho “cà
vạt”. Và, trên các đường phố nhỏ hẹp của Saigon Chợ Lớn - nếu có người
Việt nào
lái chiếc xe Mỹ Plymouth to cồng kềnh, dài ngoằng, màu cánh gián, thì
người đó
không ai khác hơn là Bùi Anh Tuấn.
(đoạn mô tả ngoại-hình và
lifestyles này phù-hợp với hồi-ức của Đỗ Khiêm trong Tống Văn Bình, trên TV
· Thời ở tuổi vừa ngoài
20, Nhật hạ Pháp qua
cuộc đảo chính 9/3/1945, Phong trào Việt Minh (sau này lộ diện là CS)
nổi lên,
và cướp chính quyền trong tay Thủ Tướng chính phủ Trần Trọng Kim đặt
dưới quyền
lãnh đạo tối cao của nhà Vua Bảo Đại, thì Bùi Anh Tuấn đã là một đảng
viên
VNQDĐ. Anh lao mình tham gia các hoạt động chống lại VM. Kịp đến lúc
tiếng súng
mở đầu cuộc chiến tranh Việt – Pháp ngày 19/12/1946, BAT bị Ban Trinh
Sát (tức
Công An-Mật Vụ CS theo tên gọi bây giờ) nhận diện, bắt, và đưa đi an
trí tại
trại giam Đầm Đùn thuộc tỉnh Thanh Hoá (Liên khu IV), nổi tiếng là đia
ngục
trần gian, đã vào đây khó có ngày về. Chốn ngục tù hãi hùng này là nơi
giam hầu
hết các anh em đảng phái QG chống lại CS Việt Minh. (một phần khác đáng
kể, thì
bị đày lên chốn rừng rú Thái Nguyên, Việt Bắc).
Anh Tuấn bị tra tấn tàn khốc,
có lúc tưởng khớp xương đầu gối lìa ra, không còn cho phép anh đi đứng
bình
thường lại nữa.
Nhưng số mệnh cho anh lay lắt
sống.
Cũng như vài năm sau số mệnh
lại cho anh có cơ hội thoát ngục trong đường tơ kẽ tóc. Anh lần mò về
thành. Về
Hà nội, rồi vào Nam
.
Trong những năm, tháng bị an
trí ở Đầm Đùn, Bùi Anh Tuấn có duyên may gặp một bạn tù đã ở vào tuổi
trung
niên. Thời Pháp thuộc, ông này dạy Anh văn ở Lycée Louis Pasteur Hà
nội. Nay
trong thân phận tù đầy, để cố quên mà tồn tại, mà sống, ông dạy Anh ngữ
cho
Tuấn. Học cho qua ngày. Nhưng sau này, nhờ vậy, BAT có sẵn số vốn cần
thiết về
ngôn ngữ Hoa Kỳ khi người Mỹ thoạt đặt bước vào Miền Nam (Trước kia đại
đa số
người Việt 3 miền Trung Nam Bắc chỉ biết có tiếng Pháp).
· Tôi
nghĩ, điều anh Huỳng Trung Trực muốn
biết trước nhất, có lẽ là những gì liên quan đến nhà văn BAT ở địa hạt
viết
lách. Sao BAT lại viết một loạt truyện gián điệp có đến vài bốn chục
tác phẩm
trong đời cầm bút của Anh? Anh khởi sự viết về ngành Tình báo lúc nào,
và ở
mảnh đất dụng võ đầu tiên, là báo nào? Sao Anh lại mang bút hiệu Z28.
(bút hiệu
chính-thức là Người Thứ Tám). Và có khi ở ngoài đời, thuở Sàigòn còn vô
cùng
hưng thịnh, đầy quyến rũ, thì bạn bè và đồng nghiệp thường ít dùng đến
tên Bùi
Anh Tuấn mà quen gọi đùa vui Z28, hoặc Văn Bình (tên nhân vật gián điệp
hào
hoa, xuất quỷ nhập thần mà tác giả chọn, đặt vào các tác phẩm trinh
thám hữu
hạng của Anh. Cứ như ngày nay, giới độc giả thưởng ngoạn biết đến James
Bond!)
Đúng ra, Bùi Anh Tuấn không
chỉ viết văn “hay”về tiểu thuyết trinh thám mà Anh còn là cây bút bình
luận có
trình độ khá cao. Anh thực sự là một nhà báo chuyên nghiệp! Thực sự là
một nhà
văn, trên ngôn đàn Miền Nam
! Của VNCH!
(Một chút bối-cảnh lịch-sử)
· Lúc
người Mỹ có mặt ở Miền Nam 1954
cũng là lúc muốn hất chân, thay thế chính quyền thực dân Pháp ở VN, ở
toàn cõi
Đông Dương Việt, Miên, Lào. Sớm muộn, quân đội Viễn chinh Pháp cứ rồi
phải cuốn
cờ kéo ra khỏi vùng đất VN trước hết...
Cùng với sự hiện diện của các
phái bộ chính trị, quân sự Mỹ đổ vào Miền Nam ủng hộ nhà lãnh tụ quốc
gia N.Đ.
Diệm thiết lập một tiền đồn chống Cộng ở ĐNÁ, người ta bắt đầu nghe đến
một
tiếng gọi khá lạ tai: XI-AY-Ê (C.I.A)!
Có nghĩa là một đạo quân vô hình trong bóng tối, xuất quỷ nhập thần. Sứ
mạng
của họ là san bằng mọi chướng ngại vật cản trở những bước tiến, những
mục tiêu
cần đạt được của Hoa Kỳ tại các vùng đất người Mỹ muốn đến. Khởi thuỷ,
là Nam
Hàn, Tổng thống Lý Thừa Vãn phải mất chức, lưu vong trốn ra nước ngoài.
Rồi, ở
Phi Luật Tân, Magsaysay được đưa lên làm Tổng Thống. Chẳng bao lâu,
Magsaysay
“giở chứng quốc gia-dân tộc” thì rất mau chóng, nhà lãnh tụ đất Phi bị
gài bom
nổ tan xác trên chiếc máy bay chở ông đi kinh lý! Thế rồi, ở Lào, viên
đại uý
Koong Ly [Khong Le] làm đảo chính toan hạ bệ đương kim thủ tướng –
Hoàng thân
Souvana
Phouma (thân Pháp, chủ-trương Trung-Lập, có vợ là người Pháp)....
Chưa hết. Sát biên giới Miền
Nam, ông Hoàng Sihanouk nước Miên định đóng vai nhà chính trị đi giây,
vốn là
con cưng của người Pháp, xoay chiều theo ngọn gió thời thế, mở đường
rước Nga
sô vào xứ Chùa Tháp, kết thân với Trung Cộng, cùng lúc, hết lời ca tụng
khối
Trung lập Nehru Ấn độ. Và, tận tình giúp đỡ CS Hà nội trong tay ****,
bằng cách
để Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
mở chiến khu trên đất Miên chống lại VNCH. (Sihanouk tuy vốn sợ chế độ
Ngô Đình
Diệm ngoài mặt, nhưng vì lòng căm thù Miền Nam
đến xương tuỷ Sihanouk vẫn âm
thầm thực hiện manh tâm riêng cho bằng được).
Sihanouk biết ngán ngẩm người
Mỹ lắm. Thèm muốn sáp lại với Hoa Kỳ song bị Hoa Kỳ quyết liệt cho đứng
xa...Và, (Hoa-Kỳ) luôn có sẵn giải pháp “hạ thủ” Sihanouk khi thời cơ
đến …
Tại Thái Lan, chỉ cách VNCH
không đầy 1 giờ bay, cảnh đảo chính kế tiếp đảo chính xẩy ra như cơm
bữa. Nhiều
nhóm tướng lãnh quân đội, hết lần này đến lượt khác, thay nhau tạo biến
cố lật
đổ chính phủ. Khiến xã hội chính trị đất Thái luôn sống trong hỗn loạn
bất an.
Giải đất Đông Dương trăm năm
đặt trong tay người Pháp nay đang sống những giờ phút hãi hùng...thay
bậc đổi
ngôi.
Nhìn vào, dư luận bên ngoài
đều liên tưởng đến bàn tay phù thuỷ của cái tổ chức
XIAYẾ (CIA) kia... (xi-ai-ây)
Trên giải đất VNCH, tiếng
vọng “CIA” không ngớt vang dội, người người nghe mãi hóa quen tai, đã
đổi thành
“XIA” cho tiện việc. (cũng phổ-biến với tên gọi Xịa)
May mắn, nhà lãnh tụ Ngô Đình
Diệm đang ở thời dốc toàn lực chống trả đạo quân đặc công miền Bắc xâm
nhập nên
tình huống VNCH buổi đầu chưa đến nỗi nào!
Thời cuộc ấy, chính là lúc
gợi ý cho tác giả Bùi Anh Tuấn chọn con đường sáng tác loại tác phẩm
thích ứng
với tâm lý quần chúng độc giả Miền Nam .
Z. 28 ra đời là vậy!
· Tại
Sàigòn, thuở phôi thai của nền Đệ
Nhất Cộng Hòa, tôi đang chủ trương tờ tạp chí Pháp ngữ Horizon và điều
khiển
tòa soạn nhật báo Dân Chúng (Chủ-Nhiệm của nhật-báo Dân-Chúng là Cụ
Trần Nguyên
Anh, thân-phụ của cụ Mạc-Kinh Trần Thế Xương và là chú của Ngoại-Trưởng
Trần
Chánh Thành) một hôm, Bùi Anh Tuấn ghé thăm tôi và ngỏ lời với tôi thử
xem Anh
có thể đóng góp gì cho một tờ báo chống Cộng không?
Và rất tự tin, thành thực, đi
thẳng vào đề:
- Đã
biết từ lâu và nghe nhiều về anh,
càng biết anh bận lắm nhưng mong anh dành cho tôi 15’. Chỉ cần anh liếc
mắt
nhanh trong khoảnh khắc thời gian ấy, cho hết chapitre đầu vào truyện,
tôi tin
chắc, ở vị trí chủ bút như anh, anh sẽ cho tôi nhận xét “được hay chẳng
được”
(toàn bộ bản thảo cuốn truyện khoảng gần 300 trang). Anh nhận, thì tôi
mừng,
tôi vui lắm. Anh không nhận, vẫn chẳng sao. Vì, xin lỗi anh, tôi có
niềm thú vị
riêng – Anh là người “độc giả” đầu tiên, tôi chọn, tôi trao anh đọc nó.
Hễ được
là được. Hễ chưa được, tức đề tài của truyện chưa đạt. Tôi tự biết sẽ
làm sao
sau đây...
Đấy, tính tình tác giả Z28 là
vậy đó. Tôi mến Anh, cũng vì vậy.
Không phụ lòng anh. Mỉm cười
thân mật, tôi đọc ngay chương sách đầu.
Một thoáng chốc qua mau.
Giữa lúc, có thể, là anh đang
quan sát tôi kỹ lắm, tôi đặt bản thảo xuống, cất tiếng vừa đủ để anh
nghe:
- Anh
cho tôi giữ chương truyện này nhé.
Và xin giữ luôn toàn bộ bản thảo, sẽ đọc vào lúc khác.
Tôi đang cần 1 feuilleton như anh đã có ngay cho báo Dân Chúng. Số báo
mai, tôi đăng lời giới thiệu.
Và, đầu
tuần tới, “Điệp viên Miền Nam
trên đất Bắc” sẽ lọt vào mắt các độc giả Sàigòn và lục tỉnh. Cám ơn anh.
Bùi Anh Tuấn cất tiếng cười
vang.
Và, tôi cũng cười vang, cùng
vui với anh.
Đấy, tác giả Z. 28 xuất hiện
trên mặt báo Dân Chúng, bên này sông Bến Hải, ở vĩ tuyến 17, như thế đó.
Và, trong 3 năm liên tục
(1957-1960), ngày lại ngày, nhiều cốt truyện gián điệp khác của Z. 28
đã
được
đăng trên tờ nhật báo Dân Chúng (sau đó, mới in thành sách) đem lại
biết bao
sôi nổi, hào hứng cho nhiều từng lớp độc giả thân mến của anh em cầm
bút chúng
tôi.
Và, độc giả vẫn mãi mãi là
những bậc vạn thế sư biểu của giới văn nhân đất Việt!
--------
Gần 40 năm qua, từ sau ngày
Sàigòn thất thủ, BAT hoàn toàn “mất tích” trong đời tôi. Tôi thật muốn
gặp lại anh. Để tâm sự việc đời người, việc thời thế của một quá khứ
đầy thê
lương.
Tràn ngập u uất...
Tôi bị kẹt lại vùng CS 9 năm.
Tôi không đi “trình diện”. Cuối năm 1976, tôi mới bị sa vào tay CACS.
Bị giam
giữ riêng tại Sở CA **** (trụ sở cũ của Tổng Nha Giám
Đốc
Cảnh Sát QG, đường Trần Hưng Đạo). Ngày đêm chịu sự thẩm vấn triền miên
của
“Ban Chánh Trị” trực thuộc Uỷ Ban Quân Quản Thành Uỷ ****. Tháng
4/1984, nhờ sự
can thiệp của Chính phủ Anh quốc, tôi và gia đình được “bước lên máy
bay” sang
Luân Đôn cư ngụ cho đến ngày nay.
Tất cả, chẳng qua vẫn chỉ nằm
trong bàn tay của Thần Định Mạng...
Mac Kinh
Nguồn: Đặc Trưng
TTT
cũng mê Z. 28 lắm lắm. Mấy
truyện đầu thật tuyệt cú mèo, thí dụ Núi đá
tiên tri. Tống Văn Bình có cú atémi thần sầu, nhưng làm sao quên
tài phóng
dao của Lê Diệp!
Đó là thời mới lớn, mới quen
bạn C. Gần như ngày nào Gấu cũng ở bên nhà bạn. Bà cụ C. cũng mê Tống
Văn Bình!
Sau này, Gấu mới biết, nhiều
truyện phóng tác, thí dụ, truyện Tống Văn Bình ra Hà Nội, Gấu không còn
nhớ cái
tít, phỏng theo truyện Gián điệp về từ miền
lạnh của John le Carré.
Sau Z.28 là tới chưởng KD
Trước 1975, Gấu cũng đã nghe nói
tới Bùi Anh Tuấn là cha đẻ của Z.28.
Rửa tay gác kiếm
Tiếu
Ngạo Giang Hồ mở ra bằng
cái lễ Phong Kiếm Qui Ẩn của một tay chính phái; giang hồ đếch chịu,
đâu có được,
mi đã vô giang hồ là chỉ có chết mới ra thoát được thôi!
Bảo Ninh viết rửa tay gác
kiếm là cũng nghĩ, chiến thắng Mỹ Ngụy xong rồi, đâu còn việc gì làm!
Trong khi anh ngồi viết cái
truyện này, hẳn là Gấu đang học tập cải tạo tại nông trường Phạm Văn
Cội, Củ
Chi, và thê thảm thật, cũng nghĩ như anh, bây giờ xương máu hết đổ
xuống rồi,
tha hồ mà xây dựng căn nhà Mít.
Ba cái nhảm đó, thôi bỏ, tuy
nhiên cái truyện ngắn của anh làm Gấu nhớ đến em Mai, đến bà Dì của cô,
đến Những
ngày ở Sài Gòn, và cái giấc mơ ở cuối truyện:
Tôi chờ đợi khi ra khỏi nhà
thương, khi đứng ở trước cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời và khi đó chiến tranh đã hết.
Subject:
Thu hoi am cua Duat
Date: Wed, 15 Sep 1999
22:49:46 -0800
From:
To:
Tôi đã đọc thư E-mail của anh
NQTgửi cho NND qua điện thoại. Ảnh mừng lắm nên vừa nghe xong, ảnh nhờ
tôi ghi
những lời ứng khẩu sau đây bày tỏ tâm tư
của anh và chuyển giùm đến các bạn:
Thân gửi các bạn NQT, NXH ,
NTH.
Ngày
1-9 năm nay, cách đây 14
ngày, mình đã lên bàn mổ và đã mất đi
toàn bộ lá phổi bên phải vì cái bướu ung thư không dung thứ cho lá phổ
bên phải
một chút nào hết. Thôi thì với 35 năm dạy học thì kết quả như thế này
cũng đủ
rồi. Với lá phổi trái còn lại, vào cuối tháng chín này, mình sẽ trở lại
Trung
Tâm Ung Bướu để người ta sẽ rà xét lại và giúp mình truy quét tàn quân
địch tức
là các tế bào ung thư còn sót nếu có, để bảo vệ lá phổi bên trái cho
đến mãn
đời mình. Cuộc đời dạy học theo biên chế Nhà Nước.
của mình sắp chấm dứt tức là
sắp về hưu rồi nên mình cố gắng kéo lê nó cho đến dứt luôn nhưng khao
khát chính
của đời mình là viết được những điều tâm đắc, những điều mà hồi trẻ
mình đã cùng
các bạn Hối, Trụ, Hoàng,Viên Linh, Đặng Phùng Quân,
NDToàn , Huỳnh phan Anh đã từng ấp ủ và đã
từng viết được chút này chút nọ, rải rác trên báo này báo kia và chưa
đâu vào
đâu cả. Điều nhức nhối là mình phải làm sao thực hiện dược những tác
phẩm có tầm
vóc xứng đáng với mấy chục năm trời sống, cảm, nghĩ, đọc và tiếp xúc
với những
người và những tác phẩm đã qua. Điều mình tha thiết nhất là viết về
những hình
thái đặc sắc nhất của văn chương và nghệ thuật, viết về những biểu hiện
sâu sắc
nhất của văn nghệ nói chung tức là viết về mỹ học, nhất là mỹ học về
văn chương đồng
thời những vấn đề lớn của triết học, những vấn đề không ngừng làm thao
thức
những tâm hồn sâu sắc nhất của mọi thế kỷ, những vấn đề mà mình quan
tâm nhất
như ý nghĩa của con người, của cuộc
đời, của tình yêu và cái chết trong cõi nhân sinh này và trong vũ trụ
bao la. Tất
cả những điều đó rốt cuộc còn tồn đọng lại trong ta ý nghĩa gì và giá
trị gì ?
Quãng đời còn lại của mình sẽ
dành cho việc viết về những vấn đề cơ bản nhất của văn học nghệ thuật
và của
triết học như ngày xưa mình cùng các bạn đều đam mê đeo đuổi suy tư và
rung cảm
cùng với chúng.
Mình hứa sẽ không lãng phí
quãng đời còn lại của mình trong im lặng đâu.
Nhớ các bạn lắm và nhớ lại
bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa. Chúng như đang hiển hiện trước mắt mình.
Tuy nhiên
mình nghĩ rằng nhớ đến các bạn thì phải làm sao cho xứng đáng với những
điều
các bạn trông đợi ở nơi mình . Mình cũng
chờ nơi các bạn những sáng tác vá biên khảo thể hiện những rung cảm của
các bạn
trong tình huống mới của cuộc sống riêng tư và cộng đồng .
Những người như chúng ta chỉ
nên sống cuộc sống có ý nghĩa bằng ngòi bút chứ không phải bằng
tịch mịch của phủ định sạch trơn mà thời gian muốn trùm lên mỗi người.
Chúng ta hãy cùng nhắc nhau
sống cho sáng tạo và bằng sáng tạo đến hơi thở cuối cùng .Các bạn có
biết không
ở miền đất như mình đang sống đây có tâm hồn nào đã từng mang nặng ưu
tư với
nhũng nỗi đau đời vá tha thiết với cái đẹp
muôn màu của sự sống mà lại không
khắc khoải , không thao thức trong từng giờ , từng phút của cuộc sống ý
thức ?
Chúc các bạn mọi sự may mắn và chúng ta sẽ được gặp nhau qua rất nhiều
bài viết
trong tương lai.
Đây là những lời xuất khẩu
qua điện thoại trong cuộc nói chuyện với anh bạn đồng nghiệp, của một
người bạn
đang bị bệnh, nhưng chỉ có bệnh về thân xác chứ tâm hồn thì vẫn đủ sức
khang
kiện và nghị lực để còn tiếp tục vươn lên theo với đời, với bạn.
Xin các bạn ghi nhận nơi đây
sự tỉnh táo của mình qua từng câu, từng chữ. Mình không mê sảng chút
nào đâu
các bạn ạ.
NNDuật.
*
Tưởng
niệm Nguyễn
Nhật
Duật
… Thời gian là cái điều tàn
bạo, nó phát triển trong người tôi như cục bướu ung thư, không dễ gì lấy lui lại được.
… que cette chose
atroce: le
temps, se développe en moi comme un cancer, irrévocablement.
(André Malraux, La Voie
Royale, Con Đường Vương Giả)
Subject:
Thư hồi âm của Duật
Date: Wed, 15 Sept 1999
22:49:46 - 0800
From:
To:
Tôi đã đọc thư E-mail của
anh... gửi cho NDD qua điện thoại. Ảnh mừng lắm, nên vừa nghe xong, ảnh
nhờ tôi
ghi những lời ứng khẩu sau đây, bày tỏ tâm tư của anh và chuyển giùm
đến các
bạn:
Thân gửi các bạn...
Ngày 1-9 năm nay, cách đây 14
ngày, mình lên bàn mổ và đã mất đi toàn bộ lá phổi bên phải vài cái
bướu ung
thư không dung thứ cho lá phổi bên phải một chút nào hết. Thôi thì với
35 năm
dạy học, kết quả như thế này cũng đủ rồi. Với lá phổi trái còn lại, vào
cuối
tháng chín này, mình sẽ trở lại Trung Tâm Ung Bướu để người ta rà xét
lại và
giúp mình truy quét tàn quân địch tức là các tế bào ung thư còn sót lại
nếu có,
để bảo vệ lá phổi bên trái đến mãn đời mình.
... Khao khát chính của cuộc
đời mình là viết được những điều tâm đắc, những điều hồi trẻ mình cùng
các
bạn.... từng ấp ủ, và đã từng viết được chút này chút nọ, rải rác trên
báo này
báo kia và chưa đâu vào đâu cả. Điều nhức nhối là mình phải làm sao
thực hiện
được những tác phẩm có tầm vóc xứng đáng với mấy chục năm sống, cảm,
nghĩ, đọc
và tiếp xúc với những người và những tác phẩm đã qua. Điều mình tha
thiết nhất
là viết về những hình thái đặc sắc nhất của văn chương và nghệ thuật,
viết về
những biểu hiện sâu sắc nhất của nghệ thuật nói chung tức là viết về mỹ
học,
nhất là mỹ học về văn chương đồng thời những vấn đề lớn của triết học,
những
vấn đề không ngừng làm thao thức những tâm hồn sâu sắc nhất của mọi thế
kỷ,
những vấn đề mà mình quan tâm nhất như ý nghĩa của con người, của cuộc
đời, của
tình yêu, của cái chết trong cõi nhân sinh này và trong vũ trụ bao la.
Tất cả
những điều đó rốt cuộc còn tồn đọng lại trong ta ý nghĩa gì, giá trị
gì? Quãng
đời còn lại của mình sẽ dành cho việc viết về những vấn đề cơ bản nhất
của văn
học nghệ thuật và của triết học như ngày xưa mình cùng các bạn đều đam
mê đeo
đuổi suy tư và rung cảm với chúng. Mình hứa sẽ không lãng phí quãng đời
còn lại
của mình trong im lặng đâu...
Nhớ các bạn lắm và nhớ lại
bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa. Chúng như đang hiển hiện trước mắt mình...
Xin các
bạn ghi nhận nơi đây sự tỉnh táo của mình qua từng câu từng chữ. Mình
không mê
sảng chút nào đâu, các bạn ạ.
Nguyễn Nhật Duật
Người
chủ địa chỉ e-mail viết
thêm: Đây là những lời xuất khẩu qua điện thoại với anh bạn đồng
nghiệp, của
một người bạn đang bị bệnh nhưng chỉ có bệnh về thân xác chứ tâm hồn
thì vẫn đủ
khang kiện và nghị lực để tiếp tục vươn lên với đời.
Nhưng sau cùng, anh e-mail:
Subject:
Về lễ an táng của
Duật
Date: Thu, 17 Feb 2000 15:25
+0700
From:
To:
Anh... và tôi đã đi phúng
điếu anh Duật lúc 10 giờ sáng nay 17-2-2000.
Chị Duật nhờ tôi báo tin cho
các bạn bên Hoa Kỳ rõ. Chị dặn tôi nhờ anh H. nhắn tin này cho anh Viên
Linh
biết.
Nhìn bản cáo phó dán trên
tường, tôi ghi lại vài hàng:
Nguyễn Nhật Duật 1940, quán
Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, từ trần lúc 6 giờ ngày 16-2-2000, thọ 61 tuổi.
Động quan lúc 6g sáng ngày
19-2-2000; an táng tại nghĩa trang chùa Giác Nguyên, huyện Hóc Môn.
Duật có 8 người con (7 gái, 1
trai)... Gia đình còn chờ người con gái thứ hai ở bên Đức về VN tối
mai, 18-2,
để cháu được nhìn thấy mặt bố lần cuối cùng. Vì vậy thi thể anh Duật
được chích
thuốc, nên mặt nhìn vẫn tươi tắn, và trông mập ra.
Trong
số bè bạn cùng thời hồi
đó, Duật tách biệt hẳn, với dáng điệu chững chạc, mô phạm, không bao
giờ ăn nói
tục tĩu, không bao giờ đề cập tới chuyện gái gẩm, chuyện ghé thăm Ngã
Năm, Ngã
Ba... nhưng suy nghĩ cho cùng, chính tôi mới là một kẻ lén lút xâm
nhập, vị
khách bất đắc dĩ của "bàn tiệc văn học": Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan
Anh, Nguyễn Xuân Hoàng... đều học triết, và sau ra làm giáo sư. Chỉ có
tôi là
dân toán, dân kỹ thuật, "nhẩy dù" qua văn chương, triết học! (Có lẽ
cũng chính vì vậy, cho nên trong Văn Học Tổng Quan, phần tiểu sử tác
giả, Võ
Phiến đã ghi tôi làm nghề dậy học.)
Tôi quen anh qua Huỳnh Phan
Anh. Trong bữa gặp mặt lần đầu đó, Duật là người nói nhiều hơn cả. Tôi
kính cẩn
ngồi nghe. Khi ra về, Huỳnh Phan Anh lắc đầu: không thể tưởng tượng
được, chỉ
một thời gian không gặp mà nó khác hẳn xưa. Mình phải bớt đi chơi banh
bàn, ngã
năm ngã ba, đóng cửa diện bích mới được! Chừng hơn tháng sau gặp lại,
anh khoe,
đã tụng xong bộ Hữu Thể và Hư Vô, của Sartre, (đâu chừng dăm, bẩy trăm
trang!).
Phải ăn mừng mới được! Thằng bạn chẳng cần phải hỏi, cũng biết sẽ ăn
mừng chiến
thắng ở đâu!
Khi cả đám nhẩy lên Đà Lạt
học Sư Phạm, tôi đã ra trường đi làm công chức Bưu Điện. Rồi Huỳnh Phan
Anh làm
đặc san văn nghệ cho trường, lấy tên là Chiều Hướng Mới. Lần gặp lại
mới đây,
tại Paris,
anh
nhắc tôi mới nhớ tên số báo đó. Anh tự hào cho biết thêm: sinh viên làm
báo đặc
san, mượn tiền của mấy linh mục giáo sư, vậy mà bán có lời! Bài tiểu
luận đầu
tay của anh, là trên Chiều Hướng Mới: Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô.
Truyện
ngắn đầu tay của tôi: Những Con Dã Tràng. Đây cũng là nơi đăng truyện
ngắn đầu
tay của Nguyễn Nhật Duật: Huyền. Kỷ niệm tức cười về Huyền, tôi đã viết
lại,
trong bài Một Chuyến Đi. Tác giả truyện ngắn đã không hề thay tên riêng
Huyền
bằng bất kể một từ khác, và nhà in đành phải nhờ Huỳnh Phan Anh, nhân
dịp về
thăm gia đình ở Sài Gòn, mang lên đủ những con chữ cần thiết. Sau này
đọc
Kundera, khi viết về Kafka, ông đã phân tích "tai họa" mà những nhà
dịch thuật Kafka qua tiếng Pháp, đã tự ý thay đổi chữ cái K (trong
Joseph K)
bằng những nhân vật đại danh tự khác. Theo Kundera: không thể thay thế
được!
Hay nói theo Steiner: "Trong bảng mẫu tự về cảm tính và tri giác của
nhân
loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người."
Tôi cũng muốn mô phỏng
Steiner: Trong cái bảng abc tình ái của anh bạn Duật, mẫu mực, mô phạm
ngay từ
hồi "đó đó", Huyền là... Huyền. Không thể thay thế được!
Sau truyện ngắn đó, Duật nghỉ
hẳn viết. Ra trường, đi dậy học, mãi đến khi Viên Linh làm tờ Khởi
Hành, anh
mới xuất hiện trở lại, qua những bài phê bình, biên khảo, đọc sách...
Anh đoạn
tuyệt với truyện ngắn, như thể: trong thể loại này, vĩnh viễn chỉ có
một truyện
ngắn, và nó vĩnh viễn thuộc về... Huyền!
Trong một truyện ngắn chưa hề in ấn, bản dịch
tiếng Anh lần đầu tiên xuất hiện trên một số báo The New York Review of
Books,
"Bông Hồng của Paracelsus", Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại sư
về huyền thuật có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng Đế của
ông", xin Ngài gửi tới cho ông một đệ tử. Và một đêm kia, có tiếng gõ
cửa,
một kẻ lạ xuất hiện, bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có vẻ hết
sức mệt
mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng chủ nhà là người lên
tiếng
trước:
"Tôi nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ
Đông qua Tây, vậy mà không nhớ ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong gì ở tôi?"
"Tên tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải
qua một cuộc hành trình ba ngày ba đêm để tới nhà của Ngài. Tôi mong
được là đệ
tử của Thầy. Tôi mang tới cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản nghiệp xuống mặt bàn: những đồng
tiền, bằng vàng. Một đống tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại
sư quay
lưng đốt cây đèn. Và khi xoay người lại, ông thấy tay trái vị khách lạ
cầm một
bông hồng. Bông hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ tôi có thể tạo nên cục đá biến
tất cả mọi vật trở thành vàng, tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến cho tôi.
Nhưng
tôi không tìm kiếm vàng, và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao
giờ có
thể là đệ tử của tôi".
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng
tiền này chỉ để nói lên lòng mong ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi
muốn
Thầy dậy tôi Nghệ Thuật. Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi
tới Cục
Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của
bạn, là mục tiêu mà bạn tìm kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư,
giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục
tiêu?"
Vị đại sư cười lớn:
"Mấy kẻ cố tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà
sa số như những tên ngu đần; chúng nói như vậy đó: làm gì có mục tiêu,
và họ
gọi tôi là một kẻ bịp bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết rằng có
Con
Đưòng, có Đạo (a Path)."
Yên lặng một hồi, sau cùng người khách lên
tiếng:
"Con sẵn sàng đi trên con đường đó với
Thầy, cho dù chúng ta có thể sẽ phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm.
Hãy cho
phép con vượt sa mạc. Hãy cho phép con nhìn thoáng thấy, dù từ xa, đất
hứa...
Tất cả những gì con đòi hỏi, là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc
hành
trình"
"Khi nào?" Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây giờ". Người khách quyết
định tức thời.
Suốt từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh.
Bây giờ, họ chuyển qua tiếng Đức.
Người đàn ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi tiếng vì có thể đốt bông hồng
thành tro than, và lại làm nó nở ra thành bông hồng, từ mớ tro than
đó... Hãy
cho con chứng kiến phép lạ. Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá cả tin. Tôi không cần cả tin.
Tôi cần niềm tin."
Người khách nài nỉ:
Bởi vì con không cả tin, nên con muốn
chứng kiến tận mắt, sự huỷ diệt và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư lúc này đã cầm bông hồng trên tay,
và đang vuốt ve nó.
"Anh thật cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có
thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một người nào cũng có sức mạnh
huỷ diệt nó".
"Anh lầm rồi. Anh thực sự tin
rằng một
điều gì đó có thể biến thành hư vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở
Thiên Đàng
có thể huỷ diệt một bông hồng đơn độc, một cọng cỏ đơn độc?"
"Chúng ta không ở Thiên Đàng.",
người đàn ông trẻ tuổi cứng đầu trả lời. "Tại đây, trong thế giới trần
tục
này, mọi vật đều chết".
"Chúng ta hiện đang ở đâu, nếu
không phải
là Thiên Đàng? Bạn tin rằng thần thánh có thể sáng tạo ra một nơi không
phải là
Thiên Đàng? Bạn không tin, rằng Sa Ngã chính là do không nhận ra một
điều:
chúng ta đang ở Thiên Đàng?"
"Một bông hồng có thể bị đốt
cháy",
người trẻ tuổi nói bằng một giọng thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay
chỉ.
......
Người trẻ tuổi cầm bông hồng
trên bàn, và ném
vào lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi bất động. Ông nói, bằng một
giọng giản dị:
"Tất cả những nhà vật lý, dược
sĩ tại
thành phố Basel này nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than
vốn xưa
là bông hồng, sẽ chẳng còn là bông hồng nữa."
Người trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ.
Anh chỉ là một
kẻ lén lút xâm nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền
thuật
của ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì trước vị đại sư và
nói:
"Điều tôi làm thật không
thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ
một
điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở
lại, khi
nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài, và ở cuối Con Đường, tôi sẽ
nhìn thấy
bông hồng".
Anh ta nói với một niềm đam mê thực sự, nhưng
đam mê này chỉ là lòng thương hại vị thầy già. Ta là ai, hỡi Johannes
Grisebach
này? Ta là kẻ, bằng bàn tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa, đã khám
phá ra
rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có một người nào.
Để lại đống vàng có thể là
một hành động làm cho những kẻ nghèo đói "bực mình", anh ta lượm tất
cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và nói anh luôn luôn là vị
khách quí
tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một điều, chẳng bao
giờ còn
có lần thứ hai.
Vị đại sư lại cô đơn một
mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí tro than từ lòng bàn tay
này qua
lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng xuất hiện trở lại.
"Khao khát chính cuộc
đời của mình...", tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng tôi, những giấc mộng,
"vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng còn là những giấc mộng
nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi, hay những bạn bè của tôi, bất cứ
một
kẻ nào, đều có thể là người khách lạ trẻ tuổi, trong câu chuyện của
Borges.
Chúng tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.
Vĩnh biệt bạn Duật!
Nguyễn Quốc Trụ (và bằng hữu).
*
Liệu độc giả tin rằng, trang
TV chính là phép lạ, trên, và BHD xuất hiện trở lại, qua nó?
Dám lắm!
*
Người
viết có một anh bạn, mê văn chương. Mê lắm,
nhưng cứ nay lần, mai lữa, vì còn nhiều việc phải làm. Nào lo cho xong
cái nhà,
kiếm mấy chân hụi cho bà xã để dành tiền lo cho xấp nhỏ… tới lúc rảnh
rang,
tính viết văn, thì phát giác ung thư đã ăn tới tận cổ họng. Văn chương,
ở ngay
“làng kế bên” (The next village, Kafka)* vậy mà cả một cuộc đời dài như
thế,
hạnh phúc như thế, “vưỡn” chẳng nhín ra được một tí thời giờ cần thiết
cho nó!
Đoản
văn trên, là do xúc động trước giấc mộng mỹ học của bạn ta, mà bật ra.
Lại có
ông, cứ mong được người
đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ than: đây là nghiệp của
tôi.
Ông khác thì nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu được. Ôi ngứa
thì gãi,
nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp. Đừng để ba
trăm năm
sau, thiên hạ khóc cho cả… đất nước mình!
Có thể,
nhà phê bình thù GNV, là từ những dòng ‘tôi mà không viết thì ngứa
không chịu được', trên.
*
Trong những ngụ ngôn của
Kafka, Gấu nghĩ rằng, ngụ ngôn sau đây, thuộc thứ khó hiểu nhất, và do
đó, đẹp
nhất, và, muốn ban cho nó, một ý nghĩa nào, cũng được!
Trong cuộc đấu sinh tử, giữa bạn
và thế giới, hãy ở về phiá thế giới
In the duel between you and
the world, back the world.
Sau đây
là câu trả lời của
Roland Barthes.
Kafka's Answer
In the
duel between you and
the world, back the world.
Kafka
A
moment has passed, the
moment of committed literature. The end of the Sartrean novel, the
imperturbable indigence of socialist fiction, the defects of political
theater
- all that, like a receding wave, leaves exposed a singular and
singularly
resistant object: literature. Already, moreover, an opposing wave
washes over
it, the wave of an asserted detachment: revival of the love story,
hostility to
"ideas," cult of fine writing, refusal to be concerned with the
world's significations: a whole new ethic of art is being proposed,
consisting
of a convenient swivel between romanticism and off-handedness, between
the
(minimal) risks of poetry and the (effective) protection of
intelligence.
Is our literature forever
doomed to this exhausting oscillation between political realism and
art-for-art's-sake, between an ethic of commitment and an esthetic
purism,
between compromise and asepsis? Must it always be poor (if it is merely
itself)
or embarrassed (if it is anything but itself)? Can it not have a proper
place in
this world?
This question now receives an exact
answer: Marthe Robert's Kafka.
Is it Kafka who answers? Yes, of course (for it
is hard to imagine a more scrupulous exegesis than this one), but we
must make
no mistake: Kafka is not Kafka-ism. For twenty years, Kafka-ism has
nourished
the most contrary literatures, from Camus to lonesco. If we are
concerned with
describing the bureaucratic terror of the modern moment, The Trial, The
Castle,
The Penal Colony constitute overworked models. If we are concerned with
exposing the claims of individualism against the invasion of objects,
The
Metamorphosis is a profitable gimmick. Both realistic and subjective,
Kafka's
oeuvre lends itself to everyone but answers no one. It is true
that we do not
question it much, for writing in the shadow of his themes does not
constitute a
question; as Marthe Robert says, solitude, alienation, the quest, the
familiarity of the absurd, in short the constants of what is called the
Kafka-esque universe—don't these belong to all our writers, once they
refuse to
write in the service of a world of ownership? As a matter of fact,
Kafka's
answer is addressed to the person who has questioned him least, to the
artist.
This is what Marthe Robert
tells us: that Kafka's meaning is in his technique. A brand new
argument, not
only in relation to Kafka, but in relation to all our literature, so
that
Marthe Robert's apparently modest commentary (is this not one more book
on
Kafka, published in a pleasant popularizing series?) forms a profoundly
original essay, providing that good, that precious nourishment of the
mind
which results from the correspondence of an intelligence and an
interrogation.
For after all, paradoxical as
it seems, we possess virtually nothing on literary technique. When a
writer
reflects on his art (something for the most part rare and abhorred), it
is to
tell us how he conceives the world, what relations he entertains with
it, his
image of Man; in short, each writer says he is a realist, never how.
Now
literature is only a means, devoid of cause and purpose; in fact, that
is what
defines it. You can of course attempt a sociology of the literary
institution;
but you can limit the act of writing by neither a why nor a wherefore.
The
writer is like the artisan who diligently fabricates some complicated
object,
as ignorant of its model as of its use, analogous to Ashby's homeostat.
To ask
oneself why one writes is already an advance over the blissful
unconsciousness
of "inspiration," but it is a despairing advance - there is no
answer. Apart from demand and apart from success, empirical alibis much
more
than real motives, the literary act is without cause and without goal
precisely
because it is devoid of sanction: it proposes itself to the world
without any
praxis establishing or justifying it: it is an absolutely intransitive
act, it
modifies nothing, nothing reassures it.
So then? Well, that is its
paradox; this act exhausts itself in its technique, it exists only in
the
condition of a manner. For the (sterile) old question: why write?
Marthe
Robert's Kafka substitutes a new question: how write? And this how
exhausts the
why: all at once the impasse is cleared, a truth appears. This is Kafka's
truth, this is Kafka's answer (to all those who want to write): the
being of literature
is nothing, but its technique.
In short, if we transcribe
this truth into semantic terms, this means that a work's specialty is
not a
matter of its concealed signified (no more criticism of "sources" and
"ideas"), but only a matter of its significations. Kafka's truth is
not Kafka's world (no more Kafka-ism), but the signs of that world.
Thus the
work is never an answer to the world's mystery; literature is never
dogmatic.
By imitating the world and its legends (Marthe Robert is right to
devote a chapter
of her essay to imitation, a crucial function of all great literature),
the
writer can show only the sign without the signified: the world is a place endlessly open to signification but
endlessly dissatisfied by it. For the writer, literature is that
utterance
which says until death: I shall not begin to live before I know the
meaning of
life.
But saying that literature is no more
than an interrogation of the world matters only if we propose a
technique of
interrogation, since this interrogation must persist throughout an
apparently
assertive narrative. Marthe Robert shows that Kafka's narrative is not
woven of
symbols, as we have been told so often, but is the fruit of an entirely
different technique, the technique of allusion. All Kafka is in the
difference.
The symbol (Christianity's cross, for instance) is a convinced sign, it
affirms
a (partial) analogy between a form and an idea, it implies a certitude.
If the
figures and events of Kafka's narrative were symbolic, they would refer
to a positive
(even if it were a despairing) philosophy, to a universal Man: we
cannot differ
as to the meaning of a symbol, or else the symbol is a failure. Now,
Kafka's
narrative authorizes a thousand equally plausible keys—which is to say,
it
validates none.
Allusion is another matter
altogether. It refers the fictive event to something besides itself,
but to
what? Allusion is a defective force, it undoes the analogy as soon as
it has
posited it. K is arrested on the orders of a tribunal: that is a
familiar image
of justice. But we learn that this tribunal does not regard crimes as
our
justice does: the resemblance is delusive, though not effaced. In
short, as
Marthe Robert explains, everything proceeds from a kind of semantic
contraction: K feels he has been arrested, and everything happens as if
K were
really arrested (The Trial); Kafka's father treats him as a parasite,
and
everything happens as if Kafka were transformed into a parasite (The
Metamorphosis). Kafka creates his work by systematically suppressing
the as
ifs: but it is the internal event which becomes the obscure term of the
allusion.
Thus allusion, which is a pure
technique of signification, is actually a commitment to the world,
since it
expresses the relation of an individual man and a common language: a
system
(abhorred phantom of every anti-intellectualism) produces one of the
most fiery
literatures which has ever existed. For example, Marthe Robert reminds
us, we
have commonplaces such as like a dog, a dog's life, a Jew dog; it
suffices to
make the metaphoric term the entire object of the narrative, shifting
subjectivity to the allusive realm, in order for the insulted man to
become a
dog in fact: a man treated like a dog is a dog. Kafka's technique
implies first
of all an agreement with the world, a submission to ordinary language,
but
immediately afterwards, a reservation, a doubt, a fear before the
letter of the
signs the world proposes. As Marthe Robert puts it, Kafka's relations with the
world are governed by a perpetual yes, but . . . One can fairly
say as much of
all our modern literature (and it is in this that Kafka has truly
created it),
since it identifies, in an inimitable fashion, the realistic project
{yes to the world) and the ethical project
(but .
. .).
The trajectory separating the yes from
the but is the whole uncertainty of signs, and it is because signs are
uncertain that there is a literature. Kafka's technique says that the
world's
meaning is unutterable, that the artist's only task is to explore
possible
significations, each of which taken by itself will be only a
(necessary) lie
but whose multiplicity will be the writer's truth itself. That is
Kafka's
paradox: art depends on truth, but truth, being indivisible, cannot
know
itself: to tell the truth is to lie. Thus the writer is the truth, and
yet when
he speaks he lies: a work's authority is never situated at the level of
its
esthetic, but only at the level of the moral experience which makes it
an
assumed lie; or rather, as Kafka says correcting Kierkegaard: we arrive
at the
esthetic enjoyment of being only through a moral experience without
pride.
Kafka's allusive system functions as a kind of enormous sign to
interrogate
other signs. Now, the exercise of a signifying system (mathematics, to
take an
example quite remote from literature) has only one requirement, which
will
therefore be the esthetic requirement itself: rigor. Any lapse, any
vagueness
in the construction of the allusive system would produce,
paradoxically,
symbols—would substitute an assertive language for the essentially
interrogative function of literature. This is also Kafka's answer to
all our
inquiries into the novel today: that it is finally the precision of his
writing
(a structural, not a rhetorical precision, of course: it is not a
matter of
"fine writing") which commits the writer to the world: not in one of
his options, but in his very defection: it is because the world is
not
finished that literature is possible.
1960
Roland Barthes
Câu
trả lời của Kafka.
...
but we make no mistake:
Kafka is not Kafka-ism... For the [sterile] old question: why write?
Marthe Robert's Kafka substitutes
a new question: how wrtite? And this how exhausts the
why:
all at once the impasse is cleared, a truth
appears. This is Kafka's truth, this is
Kafka's answer [to all
those who want to write]: the being of literature is nothing but its
technique.
(1)
Roland Barthes: Kafka's
Answer.
Câu văn trên, [the being of literature...], Hai Lúa đọc qua bản tiếng
Tây, ngay vào lúc chập choạng bước vào cõi văn,
quả là
một câu văn mặc khải.
Về già, Hai Lúa hiểu thêm ra
là, cái mà Kafka gọi là kỹ thuật đó, chính là đạo, đạo ở đời.
Viết, đối với mấy tên nhà văn
nhà thơ, là đạo ở đời.
Theo nghĩa đó, Nguyễn Du
viết, "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài."
"Chữ
tâm kia",
chính là kỹ thuật của nhà văn, vậy.
(1)
Tạm dịch:... Nhưng chớ có
lầm: Kafka không phải là chủ nghĩa Kafka.... Đối với câu hỏi cũ kỹ,
kiệt mọi
đường sinh đẻ, tại sao viết?, [tác phẩm] Kafka của Marthe Robert thay
bằng câu
hỏi mới viết thế nào? Và chính cái thế nào quật cho cái tại sao một
trận mê
tơi, đến kiệt thở. Và thế là cùng tắc thông, sự thật xuất hiện. Sự thật
của
Kafka, câu trả lời của Kafka [cho tất cả những ai muốn viết]: Hữu
thể [Linh hồn] của văn
chương, chính là kỹ thuật của nó.
Nhật
ký
Trong ẩn dụ của Kafka, có ẩn
dụ của sáng tạo, allégorie de le création, và đây là một đề tài thú vị,
của một
phụ trang văn học của tờ Le Monde, liên quan tới những bí ẩn văn học
«Oulipo pièces détachées »,
spectacle conçu et mis en scène par Michel Abecassis, avec Nicolas
Dangoise,
Pierre Ollier et Olivier Sai ène par Michel Abecassis. avec Nicolas
Dangoise.
Pierre Ollier et Olivier Salon.
Un
tableau, un manuscrit, une
édition devenue introuvable, une partition moins harmonieuse qu'il n'y
paraît...
La littérature adore
s'emparer des œuvres d'art pour le plaisir du jeu, l'exercice virtuose,
la
plongée vertigineuse aussi vers des vérités cachées
ou interdites. Invitation au
voyage donc dans un monde où l'écriture se joue des règles
Trong
số phụ trang văn học này, có mấy bài thật thú, về những bí ẩn văn học,
về
mắc mớ giữa nghệ thuật, triết học và cờ tướng.
Có thể phán thật ẩu, mấy tay chơi cờ tướng bảnh, thí
dụ như GNV, thường viết văn
được!
Kafka, người chiêm nghiệm một
cách tới đáy, thật sáng suốt, về sự bất lực của mình, cả về văn, về
đời, về cờ
tướng, tự chọn cho mình là một con tốt của
con tốt, “le pion du pion”, một hình tượng không có, không biết chơi,
une
figure qui n’est pas, qui ne saurait jouer.
*
Les deux
Borges
Dans
«La Bibliothèque de
Babel» - l'univers total -, tous les livres existent déjà. La lecture
précédera
donc toujours l'écriture, et il n'y a pas d'auteur a priori. Mais
alors, qui a
écrit le premier livre? Et à quoi bon en écrire un supplémentaire qui
ne peut
jamais faire que répéter, commenter ou déchiffrer inutilement un de
ceux qui
sont enfouis de toute éternité dans quelque recoin du labyrinthe
littéraire?
Raphaël Lellouche prend le risque de pulvériser l'aporie borgésienne et
malgré
la certitude que tout est écrit persiste à se glisser, comme lui, sur
un
rayonnage de la bibliothèque. Il fait bien, car cet essai-là n'a
sûrement pas
été rédigé, du moins aussi magistralement.
L'Hypothèse de
l'auteur s'appuie sur une
autre hypothèse, ou une autre
conviction, borgésienne elle aussi: celle
selon laquelle l'écriture restera toujours “indigne”,
en deçà de ce qui la suscite. L'illuminaation qu'engendre « 'Aleph»
dans le
conte de Borges, “ce point de l'espace
qui contient tous les points” et qui est aussi la première Lettre,
c'est le
vertige de l'infini auquel ne pourront succéder que la mort ou l'oubli
absolu,
et face à quoi l'écriture est sans voix. D'où l'impossible transmission
de la
Lettre: l'ineffable ne se dit pas, ne s'écrit pas et resste sans auteur.
Reste à lever l'hypothèse: et
si l'auteur était lui aussi dans la fiction, dans l'infini littéraire
où le texte
s'écrit? Peut-être qu'en dépit des apparences, «Borges est un autre».
Ni
seulement l'auteur, ni seulement le personnage, mais, dans le conte,
l'auteur
qu'invente le perrsonnage pour les besoins de la cause. «Borges
n'est pas seulement une "vaste littérature'; c'est aussi
l'autre fameux, le personnage fictif "Borges" que l'écrivain Borges a
créé, doublant ses lettres et considéré officiellement comme leur
auteur. On
confond généralement les deux, mais Borges, lui, les distingue
soigneusement.”
L'Hypothèse de l'auteur part
du principe que, chez Borges,l'auteur renverse
les valeurs de la gloire (“fama”) épique: il n'est plus «fameux» mais
infâme,
indigne de tout témoignage authentique, impuissant à se distinguer de
son récit
et à en garantir la vérité. L'auteur ne trouve son salut qu'en
s'effaçant, dans
«l'infamie».
Loin de se contenter d'une
analyyse des morceaux thématiques récurrents chez Borges, le superbe
essai de R. Lellouche se lit
comme un roman policier où l'énigme serait le plaisir de la raison, ou
plutôt de
l'humble inquiétude de la raison devant le mystère insoluble. Il
s'engouffre
dans le puzzle de l'œuvre sans prétendre le reconstituer et, en traçant
la
totalité continue de son mouvement, il donne la raison d'être des
fictions.
Comme sur un dessin d'Escheret à la manière de l'univers de Borges, les
entrées
sont multiples. La parole rebondit avec fulgurance, pénètre sans
scrupule les
paradoxes borgésiens et le casse-tête qui définit l'innclusion
réciproque entre
l'histoire et son écriture .•
Marion Van Renterghem 12
janvier 1990
Borges ou
l'hypothèse de l'auteur, de
Raphaêl Lellouche, Balland.
*
La
bibliothèque de Babel
«
L'écriture méthodique me
distrait heureusement de la présente condition des hommes. La certitude
que
tout est écrit nous annule ou fait de nous des fantômes ... Je connais
des
districts où les jeunes gens se prosternent devant les livres et posent
sur
leurs pages de barbares baisers, sans être capables d'en déchiffrer une
seule
letttre. Les épidémies, les discordes hérétiques, les pèlerinages qui
dégénèèrent inévitablement en brigandage, ont décimé la population. Je
crois
avoir mentionné les suicides, chaque année plus fréquents. Peut-être
suis-je
égaré par la vieillesse et la crainte, mais je soupçonne que l'espèce
humaine
-la seule qui soit - est près de s'éteindre, tandis que la Bibliothèque
se
perpétuera: éclairée, solitaire, infinie, parfaitement immobile, armée
de
volumes précieux, inutile, incorruptible, secrète.
Je viens d'écrire infinie. Je
n'ai pas intercalé cet adjectif par entraînement rhétorique; je dis
qu'il n'est
pas illogique de penser que le monde est infini. Le juger limité, c'est
postuler qu'en quelque endroit reculé les couloirs,les escaliers, les
hexagones
peuvent disparaître - ce qui est inconcevable, absurde. L'imaginer sans
limites, c'est oublier que n'est point sans limites le nombre de livres
possibles. Antique problème ou j'insinue cette solution: la
Bibliothèque est
illimitée et périodique. S'il y avait un voyageur éternel pour la
traverser
dans un sens quelconque, les siècles finiraient par lui apprendre que
les mêmes
volumes se répètent toujours dans le même désordre - qui, répété,
deviendrait
un ordre: l'Ordre. Ma solitude se console à cet élégant espoir. ».
Vụ
Án
|
|