|
tháng tư
người. đây khuôn mặt. vách. ngăn
tháng tư. về đốt. mùa đông. thắp. người
tàn chưa. một nén. thời gian
thanh xuân. lờ. lượn. lẫn. qua bên. đời
tháng tư. khập. khễnh. khóc. cười
tháng tư. in. dấu cuối. người. nứt. đôi
Đài Sử
*
Người Mỹ nghĩ gì về: Nỗi buồn
chiến tranh
PXN
Note:
Cuốn tiểu thuyết của
Bảo Ninh không phải dễ đọc, ngay
cả đối với độc giả Mỹ. Lối viết theo “dòng ý
thức” của nhân vật Kiên, đảo lộn trình tự thời gian, chắp nối, đứt đoạn
sự
kiện, lồng “truyện trong truyện”, đã khiến nhiều người khó theo dõi nội
dung
tác phẩm.
PXN, trong bài viết trên
1. Câu
trên, là của PXN, hay trích dẫn từ những nguồn của bài viết?
2. Trước “Nỗi buồn”, đã có cái gọi là ‘dòng ý thức’ trong cõi văn Bắc
Kít?
NQT
*
Chuyện
tình Mít
kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc
sản
Miền Nam”,
là Một
Mối Tình.
Truyện ngắn mới nhất:
Lâu
rồi mới viết chuyện tình mà
chẳng hay ư?
Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong
chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi,
và mối
tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ
bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối
Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận]. nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa
con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết
như thế, thì Gấu này phải chịu là Thầy!
Đặc
sản Miền Bắc
thì có em Phương, trong Nỗi Buồn
Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi
tẹt,
mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay….
Hay em gì gì đó, trong Trăng Goá,
do
sặc sụa
mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam
chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ
Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
"Chẳng
còn đêm nào như đêm nay
đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự
nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó
trong
cuộc chiến này".
Gấu
đọc War
Sadness
*
Tại sao Bảo Ninh tịt ngòi?
Gấu tin rằng, chỉ Gấu mới trả lời nổi câu hỏi hắc búa của đám mũi lõ,
về nhà
văn nổi tiếng nhất xứ Mít.
Why Vietnam's best-known author has stayed
silent
Fifteen years after Bao Ninh's admired war novel, he explains his fears
about
publishing a sequel
Suzanne Goldenberg in Hanoi
Sunday November 19, 2006
The Observer
Nhật Ký TV
Tại sao nhà văn nổi tiếng của
Việt Nam
im tiếng sau
cuốn đầu tay?
Đây là câu chuyện
của một người lính được đặt để trong khung cảnh của những trận đánh, và
chiến
trường thì đầy những xác chết đã thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn
bị tra
tấn đến rách bươm ra, của một chàng trai trẻ, lên đường phục vụ xứ sở
của mình,
và khi nó ra lò vào năm 1991, lập tức tác giả nổi lên như cồn tại Việt
Nam.
Tác giả không hề
in gì nữa, mặc dù người ta tin rằng, ông đã hoàn tất một cuốn tiếp theo
về
chiến tranh mà ông đặt tên là Steppe, và ông ngần ngại chưa đưa in.
'I stopped myself. I kept holding myself back,' Ninh told The Observer
in a
rare interview at his home in a section of central Hanoi favoured by middle-ranking
officials.
'I compared everything I wrote to everything I wrote in the past, and
it's not
natural like it was before.'
"Tôi tự kìm tôi lại, tôi tự kìm tôi lui về phía sau", Bảo Ninh nói
với phóng viên tờ Người Quan Sát, trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi tại
nhà của
ông, trong một khu trung tâm Hà Nội, nơi được đám nhân viên nhà nước
bậc trung
ưa thích. "Tôi so sánh mọi chuyện tôi viết với mọi chuyện tôi viết
trong
quá khứ, và nó không có vẻ tự nhiên như trước."
Về kỹ thuật viết,
Nỗi Buồn là một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên, như tình
trạng “da
beo”, của cuộc chiến. Người đọc có thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập
tức toàn
bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay
cả
những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là một sáng tác
dựa trên
cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật
của sự hỗn
độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu
hình
học của tiểu thuyết gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường tượng ra trục thời gian của nó, của
chuyện
tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh, khi Kiên đi vào Nam
chiến
đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi đát” của
cuốn
truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không
thể tha
thứ cho cuộc tình”.
Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có tên “Thân phận tình yêu”.
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi
tưởng về
cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào
như đêm
nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết
định sẽ
phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này
INTERESTING TIMES
POWER
OF THE PEN
by George Packer
What a journalist in Burma
could
teach Politico.
Quyền năng của cây viết
Một ký
giả ở Miến Điện có thể
dậy Bộ Chính Trị điều gì
Những ống
khói tầu mệt lả
Cách viết sóng sau đè sóng
trước này, là được gợi hứng từ một kỹ thuật âm nhạc Ottoman có tên là ara
taksim. Từ “taksim” có nghĩa chia ra, thu gom lại, chia nước ra
thành từng
dòng, từng khe, và đây là lý do tại sao những cánh đồng lớn, nơi Nerval
nhìn
thấy những người bán hàng rong và những nghĩa địa (và nơi này cũng còn
được sử
dụng như là một trung tâm phân phát nước), được những người dân thành
phố
Istanbul gọi là “taksim”.
Họ vẫn gọi nơi đó bằng cái tên như thế, ngay cả bây
giờ, và đó là nơi tôi rong ruổi hết cuộc đời của tôi, là ‘một góc trời
chỉ biết
ăn chơi”, của GNV!
*
Nhân Istanbul ra mắt độc giả
trong nước, TV "khuyến mãi", bằng cuộc phỏng vấn Pamuk, do The Paris
Review thực
hiện.
Orhan Pamuk
Nghệ thuật giả tưởng
Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul,
nơi ông
tiếp tục sống. Gia đình làm giầu trong nghề xây dựng đường xe lửa vào
những năm
đầu của nền Cộng Hòa Thổ, và Pamuk theo học ở trường Robert College,
nơi dành cho con cái của giới tinh anh, sính ngoại. Khi còn nhỏ, ông mê
hội họa,
nhưng sau khi học kiến trúc, ông quyết định viết. Hiện nay, ông là một
tác giả được
đọc nhiều nhất của Thổ nhĩ kỳ.
Người phỏng vấn:
Ông cảm thấy sao về cái
vụ phỏng
vấn phỏng viếc như vầy?
Pamuk:
Đôi khi tôi cảm thấy không
thoải mái, bởi vì tôi đưa ra những câu trả lời ngu đần cho một số những
câu hỏi
vô nghĩa. Chuyện này xẩy ra trong những cuộc phỏng vấn tiếng Thổ nhiều
hơn là
tiếng Anh. Tôi nói tiếng Thổ tồi, và thường phán những câu cực kỳ ngu
xuẩn. Tôi
bị phạng tơi bời trong tiếng Thổ, vì những phỏng vấn hơn là những
cuốn tiểu
thuyết của tôi. Đám bình luận, chính trị gia bằng mồm, những tay biếm
văn đâu có
bao giờ đọc tiểu thuyết, ở đó.
Đám Âu Châu, Mẽo nói
chung đều
gật gù với những cuốn sách của ông. Còn đám Thổ nơi quê nhà thì sao?
Những năm tháng tốt lành thì đã qua. Khi tôi cho xb những cuốn sách đầu
tiên của tôi, đám
già đều đã "Xưa rồi Diễm ơi", và đều đi theo TCS cả rồi, bởi vậy, tôi
được vồ vập, vì là một tác
giả mới.
Khi ông nói, thế hệ
trước, đám
đàn anh, ông nghĩ đến những tay nào ở trong đầu?
Những tác giả cảm thấy họ có
trách nhiệm xã hội, những tác giả cảm thấy văn chương là để phục vụ đạo
đức, và
chính trị. Họ là những nhà hiện thực tầm tầm, flat realistics, không
phải thứ
thể nghiệm, not experimental. Như những tác giả trong rất nhiều xứ sở
nghèo đói,
họ phí phạm tài năng của mình trong cái việc cố gắng phục vụ quốc gia,
dân tộc
của họ. Tôi không muốn như họ, bởi vì ngay cả khi còn trẻ, tôi mê Faulkner, Virginia
Woolf,
Proust – tôi chưa bao giờ mơ trở thành một đấng hiện thực xã hội chủ
nghĩa như
là Steinbeck hay Gorky.
Thứ văn chương được sản xuất vào thập niên 60 và 70 thì trở thành lỗi
thời, bởi
vậy tôi được chào đón như là một tác giả của thế hệ mới.
Đọc, thấy sao giống GNV và ‘thời
của chàng’ quá xá quà xa: Cũng mê Faulkner, cũng mê Woolf, trừ Proust,
vào đúng
lúc mới lớn. Cũng được dán nhãn ‘tiểu thuyết mới’, hay ‘viễn mơ’, bởi
đám VC nằm
vùng, như Ngài Lữ Phương, thí dụ!
Ngay cái vòng hoa vinh
danh Pamuk, khi ông được Nobel, đám Hàn Lâm Thụy Điển cũng thuổng của
GNV, thế
mới quái! (1)
(1) "Người mà
trong khi tìm kiếm linh hồn sầu
muộn của thành phố quê hương của mình, đã khám phá ra những biểu tượng
mới cho cuộc
đụng độ và quấn quít lấy nhau của những nền văn hoá."
Vòng
hoa trao tặng Pamuk vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó,
là kết hợp của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù
Bangkok
và trại tị nạn Thái Lan:
Trong
những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở
trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường
xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái
phần đời
đó mới đáng kể...
Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua
với
chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông
chủ thuộc
địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ
thù.
Source
*
Chúc mừng Mr.Tin Văn
From:
To:
Bác Trụ,
Cháu rất vui vì bản dịch Istanbul
đã in ở Hà Nội. Cháu ở Đức nên không có điều kiện mua cuốn này, nhưng
qua những
phần đọc được trên trang của bác, cháu rất thích văn phong dịch trong
đó. Hi
vọng đến lúc về Hà Nội chơi, cháu sẽ mua được một bản.
Cháu mong sẽ được đọc thêm
nhiều bản dịch, cũng như các sáng tác khác, của bác.
Cháu kính chúc bác sức khỏe.
Một người đọc.
Tks. NQT
Mèo khen mèo dài đuôi.
Nói ra thì xấu hổ, nhưng Istanbul
bản tiếng Mít phải nói là thần sầu, hay "khiêm tốn" một chút, một "kiệt
tác", như
NL giới thiệu.
Câu bảnh nhất để mà khen nó,
chôm của Brodsky:
Cái phần đẹp nhất của Gấu thì
đã ở đó, ở Hà Nội, rồi: Istanbul
của Gấu! (1)
[Cái
phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó. Rồi: Thơ Của Tôi. Brodsky]
Source
*
Tks all of U.
Again
NQT
(1) Cái phần đẹp nhất của Gấu,
thì đã có ở đó, ở Sài Gòn, rồi: Những
Ngày Ở Sài Gòn
L'écrivain turc publie
«D'autres couleurs», un recueil d'essais, et
parle des
rapports intenses et conflictuels entre son pays et l'Europe par Orhan
Pamuk
prix Nobel de littérature 2006
Âu Châu,
một Đam mê Thổ
Nhà văn Nobel Pamuk viết về mối tình Âu Châu của ông, nhân dịp ra mắt
Những Mầu
Sắc Khác, bản tiếng Tây
*
Nhà văn là một cái
phong vũ biểu của thời của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ phán
như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra
trò,
nhưng lần thứ ba, sắp sửa về, ngửi ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì
không thơm,
thế là bèn đi một cái mail, và được phúc đáp, thời tiết bi giờ không
được đẹp
như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác cái mặt mo về mà khổ cái thân
già, còn
khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ
chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm] bằng gỗ
nhỏ, có
thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng bé còn
thủ
theo, toàn là những kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những kỷ niệm đó, và trên
đường
về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được chúng…
Bà giữ đủ cả, chẳng thiếu một,
nhưng, chị
giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ hơn, cũng những kỷ niệm về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết
Miền
Nam làm cho dịu hết cả đi, và đều như những vết sẹo thân thương của một
miền
đất ở nơi Gấu.
Ui chao, chỉ nội kể về hai
chuyến trở về,
cũng đủ vài trăm trang, dư dả một cuốn tiểu thuyết, "có đầu, có
đuôi", làm mọi người hài lòng, nhất là "Bác Gái"!
Mais les circonstances m'ont
aidé. Pour corriger une indifférence naturelle,
je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil. La misère
m'empêcha de
croire que tout est bien sous le soleil et dans l' histoire; le soleil
m'apprit
que l'histoire n'est pas tout. Changer la vie, oui, mais non le monde
dont je
faisais ma divinité. C'est ainsi, sans doute, que j'abordai cette
carrière
inconfortable où je suis, m'engageant avec innocence sur un fil
d'équilibre où
j'avance péniblement, sans être sûr d'atteindre le but. Autrement dit,
je
devins un artiste, s'il est vrai qu'il n'est pas d'art sans refus ni
sans
consentement.
Albert Camus: L’Envers et l’Endroit.
Préface.
Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng
dưng tự nhiên, tôi để
mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin
rằng mọi chuyện
đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và trong lịch sử, mặt trời làm cho tôi
hiểu rằng
lịch sử không phải là tất cả.
Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm
mặt trời!
NKTV
Đó là khoảng cách
giữa Những ngày ở Sài Gòn và Istanbul
NQT
Chiều
một mình xuống phố, ghé
tiệm sách báo Tây, mua tờ Điểm Sách London, có bài điểm cuốn tiểu sử
Koestler. Tay điểm sách mở ra bài
viết bằng một câu tuyệt cú mèo, để
vinh danh K.
Rồi tiện ghé tiệm chuyên bán
movies, loại hiếm, quí, cũ, xưa.
Thấy cái poster James Dean, với câu phán của
chàng, bèn muợn luôn, để vinh danh Istanbul:
Dream as
if you'll live forever. Live as if you'll die
today.
Hãy mơ mộng như
thể bạn sẽ sống
hoài hoài. Hãy sống như thể bạn sẽ chết ngày hôm nay.
Câu thứ nhì, là để vinh danh Istanbul!
Tương tự câu: Hãy ghé thăm
Venise rồi hãy chết.
Voir
Venise et mourir!
Đọc Istanbul
rồi hãy ngỏm!
*
Thua CM.
Crimson Mai: chú ý, kiệt tác!
ăn cắp cái title của bạn Nhị
Linh.
@NQT: chúc mừng anh.
@all: chúc mừng những người
muốn tìm 1 quyển sách hay và được dịch hay để đọc.
@Crimson Mai: lâu lắm mới có
người sử dụng ngôn ngữ đến mức làm Crimson á khẩu.
Bao Anh: Ngôn ngữ như thế nào
có thể làm Crimson á khẩu?
@BA: thêm 1 chữ thì thừa, bớt
1 chữ thì thiếu, dùng lệch đi thì sai, dùng từ khác thì dở; duyên dáng
mà ko
đến mức làm duyên làm dáng; chuẩn mực mà ko cứng nhắc; gần gũi ,địa
phương mà
ko quê mùa. Tất nhiên là ở 1 số đoạn thôi, người đẹp, nhưng đủ làm ta á
khẩu.
Source
Đọc Istanbul,
á khẩu?
CM muốn nhắc tới
giai thoại về bài thơ Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu.
Tương truyền thi hào Lý Bạch
đến lầu Hoàng Hạc, thấy bài thơ của Thôi Hiệu bảnh quá, bèn á khẩu, ú ớ
phán:
“Nhãn
tiền hữu cảnh đạo bất
đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
(Cảnh trước mặt không thể
nói ra được,
Thôi Hiệu đề thi ở trên đầu)
Tks. NQT
*
Doc bai
dich tren blog hay
qua .
Anh Tru dich "mướt" lam roi .
K
Biet khi nao VN moi co mot tac pham nhu the.
Tks NQT
Nabokov: Fiodor Dostoievski
[1821-1881]
Tư duy
biển
Văn
chương Bắc Kít, nếu nhìn
từ quan điểm của Steiner, trong Dưới
con mắt Đông phương, có gì tương tự với
văn chương Nga, theo tính cách truyền thống, và lại càng giống, vào
thời kỳ toàn
trị của cả hai, trừ điều này:
Ngay cả trong thời kỳ toàn trị, văn
chương Nga vẫn
có tiếng nói phản kháng của nó.
Bắc Kít, không. Có tí ti, là giai đoạn
Nhân Văn
Giai Phẩm.
Bùi Ngọc Tuấn giải thích, đây
là điều kiện 'pha lê hóa' của Miền Bắc, nhờ vậy mà chiến thắng cuộc
chiến.
*
Hòa hợp hòa giải trong lịch
sử
Vương Trí Nhàn
Đáng lẽ
phải tiếp tục tìm về
quá khứ với các vấn đề phong phú của nó, từ đó rút ra bài học cần thiết
thì
chúng ta lại không làm.
VTN
Trong
lịch sử chưa hề xẩy ra
một cú nào như cú 30 Tháng Tư cả. Những sự kiện nêu ra trong bài viết
của VTN, đều thuộc
lịch sử Mít chống Bắc Phương, tức anh Tẫu.
Muốn tìm một thí dụ ‘giông giống’
cách cư xử của Miền Bắc ruột thịt, đối với Miền Nam ruột thịt, như cú
30 Tháng Tư, thì phải
coi cách
cư xử của Gia Long với đám Ngụy Tây Sơn.
Riêng
đối với tôi, sự kiện
cùng TCS hát bài Nối vòng tay lớn vào trưa ngày 30/4/1975 tại
đài phát
thanh Sài Gòn không những có một ý nghĩa đặc biệt đón chào ngày hòa
bình thống
nhất đất nước mà cũng đánh dấu bước khởi đầu cuộc hành trình mới sau
chiến
tranh của thế hệ chúng tôi trong công cuộc làm lành vết thương chiến
tranh, hòa
giải dân tộc.
Nguyễn Hữu Thái
Câu kết
bài viết, trên đây, của tay này,
đúng là “xì tai” của “Người đi trên mây”!
Bởi vì ngày 30 Tháng Tư mở ra vết thương hậu chiến tranh, còn khủng
khiếp hơn
nhiều, so với vết thương chiến tranh!
Vết thương chiến tranh, dù thế nào, còn có “cái lý” của nó.
Vết thương hậu chiến tranh chỉ bầy ra sự vô lý, cái độc, cái ác, cái
phi nhân.
Hận thù bắt đầu từ 30 Tháng Tư, không phải trước đó.
Trước đó, nếu có, thì cũng ba thứ hận thù lẻ tẻ, giữa đám lính chiến,
giữa
những người bắt buộc phải cầm súng.
Sau 30 Tháng Tư, càng không súng, càng căm thù!
Viết kiểu này, mũi lõ gọi là viết một ‘lửa’ sự thực!
Chán quá!
UNDER EASTERN EYES
Dưới con mắt
Đông phương
THERE
IS A contradiction
about the genius of Russian literature. From Pushkin to Pasternak, the
masters
of Russian poetry and fiction belong to the world as a whole. Even in
lame
translations, their lyrics, novels, and short stories are
indispensable. We
cannot readily suppose the repertoire of our feelings and common
humanity
without them. Historically brief and constrained as it is in genre,
Russian
literature shares this compelling universality with that of ancient Greece.
Yet the
non-Russian reader of Pushkin, of Gogol, of Dostoevsky, or of
Mandelstam is
always an outsider. He is, in some fundamental sense, eavesdropping on
an
internal discourse that, however obvious its communicative strength and
universal pertinence, even the acutest of Western scholars and critics
do not
get right. The meaning remains obstinately national and resistant to
export. of
course, this is in part a matter of language or, more accurately, of
the
bewildering gamut of languages ranging all the way from the regional
and
demotic to the highly literary and even Europeanized in which Russian
writers
perform. The obstacles that a Pushkin, a Gogol, an Akhmatova set in the
way of full
translation are bristling. But this can be said of classics in many
other
tongues, and there is, after all, a level-indeed, an immensely broad
and
transforming level-on which the great Russian texts do get through.
(Imagine
our landscape without Fathers and Sons
or War and Peace or The Brothers Karamazov
or The Three Sisters.) If one still feels
that one is often getting it wrong, that the Western focus seriously
distorts
what the Russian writer is saying, the reason cannot only be one of
linguistic
distance.
It is a routine
observation-the Russians are the first to offer it-that all of Russian
literature (with the obvious exception of liturgical texts) is
essentially
political. It is produced and published, so far as it can be, in the
teeth of
ubiquitous censorship. One can scarcely count a year in which Russian
poets,
novelists, or dramatists have worked in anything approaching normal,
let alone
positive, conditions of intellectual freedom. A Russian masterpiece
exists in
spite of the regime. It enacts a subversion, an ironic circumlocution,
a direct
challenge to or ambiguous compromise with the prevailing apparatus of
oppression, be it czarist and Orthodox ecclesiastical or
Leninist-Stalinist. As
the Russian phrase has it, the great writer is "the alternative
state." His books are the principal, at many points the only, act of
political opposition. In an intricate cat-and-mouse game that has
remained
virtually unchanged since the eighteenth century, the Kremlin allows
the
creation, and even the diffusion, of literary works whose fundamentally
rebellious character it clearly realizes. With the passage of
generations, such
works - Pushkin's, Turgenev's, Chekhov's - become national classics:
they are
safety valves releasing into the domain of the imaginary some of those
enormous
pressures for reform, for responsible political change, which reality
will not
allow. The hounding of individual writers, their incarceration, their
banishment,
is part of the bargain
[suite]
G. Steiner: At The New Yorker
Có một nghịch lý
về thiên tài văn chương Nga. Từ
Pushkin đến Pasternak, những vị
sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga, trọn một gói, thuộc về thế giới.
Ngay cả ở
trong những bản dịch què quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn
tiểu
thuyết và những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không
có chúng
là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng
bầy ra cái
bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói chung,
nếu không
có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có
văn học
cổ Hy Lạp là có thể so đo được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ
quát. Tuy
nhiên, với một độc giả không phải
người Nga,
khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một
kẻ đứng
bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén
một bản
văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền
đạt
cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương,
cho dù ở
những tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó
mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không
chịu bỏ
nước ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay
chính xác
hơn, đến những gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ
tiếng địa
phương, của giới quê mùa cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và
Âu Châu
hóa được những nhà văn Nga sử dụng.
Vụ
Án
To
Docteur Michel Lechat
Dear Michel,
I hope you will accept the
dedication of this novel which owes any merit it may have to your
kindness and
patience; the faults, failures and inaccuracies are the author's alone.
Dr
Colin has borrowed from you his experience of leprosy and nothing else.
Dr
Colin's leproserie is not your leproserie which now, I fear, has
probably
ceased to exist. Even geographically it is placed in a region far from
Yonda.
Every leproserie, of course, has features in common, and from Yonda and
other
leproseries which I visited in the Congo
and the Cameroons I may have taken
superficial
characteristics. From the fathers of your Mission
I have stolen the Superior's
cheroots - that is all, and from your Bishop the boat that he was so
generous
as to lend me for a journey up the Ruki. It would be a waste of time
for anyone
to try to identify Querry, the Ryckers, Parkinson, Father Thomas - they
are
formed from the flotsam of thirty years as a novelist. This is not
a roman à
clef, but an attempt to give dramatic expression to various
types of belief,
half-belief, and non-belief, in the kind of setting, removed from
world-politics and household-preoccupations, where such differences are
felt
acutely and find expression. This Congo is a region of the
mind, and
the reader will find no place called Luc on any map, nor did its
Governor and
Bishop exist in any regional capital.
You, if anyone, will know how
far I have failed in what I attempted. A doctor is not immune from
'the long
despair of doing nothing well', the cafard
that hangs around a writer's life. I only wish I had dedicated to
you a
better book in return for the limitless generosity I was shown at Yonda
by you
and the fathers of the Mission.
Affectionately yours,
Graham Greene
Trên
đây là cái thư gửi vị bác
sĩ trại cùi của Greene. Nó có cái gì giống thư mở ra Người
Mỹ trầm lặng, có thể chỉ như là một cái cớ, a pretext, để móc
tác phẩm của ông vào thực tại, theo nghĩa câu của Hans Andersen, mà
Greene cũng
mượn, để mở ra tác phẩm The Human Factor
của ông, ‘out of reality are our tales of imagination fashioned’: dù
tưởng tượng
thế nào thì những giả tưởng của chúng ta đều chui ra từ thực tại.
Gấu tôi tự hỏi, tại sao trong
nước không mê, và ít ai dịch Greene trong khi ông mê Miền Nam
của Mít bội phần, hơn cả… PXA.
Hơn nhiều!
Trong cái thư trên, cái câu Gấu
gạch dưới, tuyệt cú mèo, và có thể, lại ‘có thể’, nó giải thích cái
mail của vị
nữ bác sĩ gửi cho TV: ‘Một vị bác sĩ thì cũng không được miễn nhiễm bởi
cái
chuyện quá chán chường vì cứ ì ra không làm bất cứ chuyện gì cho ra
hồn’.
Đó là cơn “cafard” đeo ngay ở
cổ một thằng cầm viết, lẵng nhẵng suốt đời làm khổ nó.
To
Dr
Ngo Phuong Thao,
....
Affectionately yours,
Trân trọng,
NQT
|
|