*
















*

Người Tuyết Sau Nhà


Tết Canh Dần

*

Năm Hổ, Trái Tim Hổ
Le Magazine Littéraire Mai 2002
Tran Minh Huy giới thiệu NHT...



5 năm TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)

Lúc này, tôi nhắc đến Thạch, Ðồng, An, Liên, và Nga là những nhân vật trong cuốn Ung Thư. Và, trong Ung Thư có một chi tiết thật cảm động, tôi rất thích đó là bối cảnh Hà Nội trong cơn hấp hối, thành phố sắp tan rã, suốt đêm Thạch đi tìm Liên khắp Hà Nội, nhưng không có nàng, sau đó anh trở về lại con hẻm cũ nơi có nhà nàng ở, đứng đầu hẻm với nỗi nhớ người yêu Thạch bụm tay lên miệng cất tiếng hú gọi tên Liên... Liên... Liên, tiếng hú vang dội đã làm bầy chó rống lên, sủa ran cả một khu phố. Tôi gợi lại chi tiết nhớ được đó, anh Tâm mỉm cười nhìn qua tôi, tôi đọc được ở trong cặp mắt anh một niềm vui rất thơ trẻ.
NCK: Tưởng nhớ TTT



*
HENRI HUET
Born: April, 1927, in Da Lat, Vietnam
Died: February 10, 1971 in Laos

Son of a French father and a Vietnamese mother, he moved with his family from Da Lat to France when he was five years old.
Educated in Brittany and at art school in Rennes, Huet started out as a painter, then went into the army, which sent him to study photography.
At 22, he returned to Vietnam as a French combat photographer, and stayed on after his discharge as a civilian photographer for the American and French governments.  He went to work for UPI, and later switched to the AP.
Henri won the Robert Capa gold medal in 1967. He was respected for his bravery, dignity and skill, and he was loved for his kindness and sense of humor. He was killed with his colleagues, Larry Burrows of LIFE, Kent Potter of UPI, and Keisaburo Shimamoto who was working for NEWSWEEK, when their helicopter was shot down over the Ho Chi Minh trail in Laos.
(Requiem / Dirck Halstead )
*
Tôi vẫn còn nhớ nhiếp ảnh viên Henri Huet, người Pháp lai, làm cho UPI, sau về AP. Mỗi lần lên Đài, nơi tôi làm việc, anh hay nói chuyện với tôi, và chị Linh, nữ điện thoại viên phụ trách mạch Paris. Bằng tiếng Pháp. Một bữa, anh vừa quay đi, chị Linh ghé tai tôi nói nhỏ: Thằng chả ăn mắm hút ròi, chưa lột lưỡi đã biết tiếng Việt, vậy mà bầy đặt!
Thực tình, cho tới lúc đó, tôi vẫn nghĩ anh không biết tiếng Việt.
Tên của cuộc chiến

Chị Linh như Gấu biết, không ưa Henri Huet.
Nhìn bức hình, là nhớ liền ra anh.
Gấu có một kỷ niệm không thể nào quên được về chị Linh này, những ngày sau khi ăn mìn VC ở Mỹ Cảnh, nằm dưỡng thương ở trên Đài. Đúng ra là được nghỉ, dưỡng thương tại gia, nhưng do làm cho UPI, làm sao nghỉ. Thế là chiếm cái studio dành cho báo chí  làm nơi dưỡng thương. Một lần em BHD đi cùng cô em gái, ở nhà vẫn gọi là Bé, tới thăm, Gấu kéo cả hai vô studio, đóng cửa lại. Khi hai chị em về, bà Linh trách, tại sao lại cho con bé con đó nhìn thấy cái cảnh như vậy?
Gấu ngớ người, hóa ra là bà nghĩ bậy về Gấu!
Ui chao mỗi lần Gấu gặp BHD là biến thành tượng đá!
Thánh nữ mà!
Cái cô Bé này, có lần đang ăn cơm chiều, sực nhớ ra, kéo BHD ra một góc nhà nói nhỏ, sáng nay em thấy chị đi với anh Gấu.
Cũng cô này, ngay từ khi hai chị em còn nhỏ xíu, vậy mà mỗi lần ông bố vô phòng hai chị em, là bỏ ra ngoài, như BHD cho biết.
Sau này cô làm vợ NNN, nhà văn.
*
Cái vụ thánh nữ này, là có thiệt. Mỗi lần Gấu gặp BHD là nhe răng cười mặt thộn ra, đúng như cái cảnh một đứa bé, khi mẹ đi chợ về.
Thoạt đầu, BHD sung sướng, cảm động lắm, nhưng mãi, em đâm ngượng với bạn bè. Có lần em nói xa xa, mấy đứa bạn của em nó chê anh hay cười…
Hay cười thì cũng đâu có sao. Nhưng cười, mặt mày thộn ra, thì quê với bạn bè quá.

“Khi em đi vô cổng trường, rồi anh đừng có đứng lại lâu vì em sẽ biết anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm cười nhìn anh, lũ bạn vô lớp lại có chuyện để nói...”.

Chỉ đến khi BHD đi rồi, Gấu mới hiểu ra, tất cả những câu nói, những sấm ngôn như bạn C. thường chọc quê Gấu, đều có ngụ ý hết:

Em không muốn anh gọi ông ta là bố. Một mình em gọi là Bố là đã quá lắm rồi.

Này nhé, tại sao em kể cho Gấu nghe cái sự thù ghét đến ghê tởm ông bố của em, của cô em gái?
Tại sao, khi Gấu hỏi thăm về người bạn học cùng lớp sau em lấy làm chồng, anh ta ra sao, em trả lời, anh ta được lòng bố em lắm. Và em kể, cứ mỗi lần Sài Gòn rục rịch đảo chánh, là anh ta khệ nệ bê đến nhà ông bố vợ tương lai vài bao gạo:
-Anh không làm được như vậy đâu!

Ui chao, sao rành về Gấu như thế cơ chứ!
Gấu dư sức làm được, nhưng không nghĩ ra được.

Cái lần gặp cuối cùng, rất ư là tình cờ, khi em đi chợ Sài Gòn trên đường về nhà, cả hai vô một cái quán cà phê hủ tíu Tầu khu rạp Long Thuận, cũng gần nhà em, và khi sắp sửa từ biệt, em nói, anh đưa em mấy chục lẻ bù vào số tiền em tiêu quá lố, em không muốn phải giải thích với mẹ…

Thê lương thật. Chỉ đến khi em đi rồi, Gấu mới giải ra được ý nghĩa của những lời nói, cử chỉ thật là chi ly của em.

ừng chờ đợi em. Bốn năm năm y khoa dài lắm. Kiếm người khác thay em đi.
Cô không nói thẳng, mà qua cô em họ, Vi, nhờ nhắn lại Gấu.

Giá như hiểu, thì cái bữa chạy theo Em nơi cổng trường Đại học Khoa học, đã quì xuống đường mà khóc, mà năn nỉ, như nhà thơ du tử rồi:

Em đi áo lụa mềm lưng phố,
Có động lòng thương kẻ cuối đường?

Em của DTL bye bye DTL đi lấy chồng.
Còn BHD, từ biệt Gấu, từ biệt cõi đời này.


Happy Valentine’s

Buổi đầu gặp gỡ Mr. Koestler mới khó chịu làm sao
How Unpleasant to Meet Mr Koestler
By Cynthia Koestler

Tôi sinh ra tại Nam Phi ngày 9 Tháng Năm 1927. Vào cuối tháng Giêng 1948 tôi rời Cape Town, để tới sống với mẹ tôi tại Paris. Đứng trên boong tầu, nhìn mảnh đất từ từ lùi dần, và cuối cùng lẫn vào vùng sương mù cuối chân trời, tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ trở lại.
Tại Paris, tôi gia nhập Alliance Francaise để làm quen trở lại và thực tập mớ tiếng Tây của mình. Mặc dù đã trải qua những ngày nghỉ hè tại bờ biển Normandy vào năm 1938, tôi chưa từng biết Paris. Tới mùa xuân, tôi bị cảm cúm, do thời tiết thay đổi. Rồi tôi kiếm được một chân thư ký tại cơ sở làm phim Warner Brothers. Tô


TVA vs VTN vs TH

Tribute to Koestler

*

He loved man, not men (or women)

Càng ngày càng có thêm những bài viết thật tuyệt về Koestler, khi điểm cuốn tiểu sử được phép của ông.
Bài mới này cũng thật tuyệt. Nhất là câu trên đây, để bào chữa cho cái nam tính thái quá của ông, thấy gái là quất!

Intellectual fireworks


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

*
*
 Người Dưng

Note: Trần Thiện Đạo là một trong những người mà Trần Phong Giao, và qua ông, tờ Văn, rất tin tưởng, và trông cậy, về việc dịch tiếng Tây. Ông là người đầu tiên giới thiệu Camus với độc giả Miền Nam qua tờ Văn
Post lại ở đây, bài viết của ông liên quan tới vấn đề dịch L'Etranger ra tiếng Việt.

Nói về bản dịch 'Người dưng' [2/2]

Aujourd’hui, maman est morte.

Gấu đã từng dịch như trên.

Trần Thiện Đạo giải thích:
Đây là mấy câu độc thoại nội tâm mở màn cho thiên truyện, Albert Camus đã dụng công dùng từ maman hàm nghĩa má, mẹ, mợ, me, u... nói thầm trong bụng nhơn vật. Chớ không phát thành tiếng để gởi tới một đối tượng nào chung quanh, nên nó tuyệt nhiên không mang ý nghĩa "một từ gọi mẹ thân thiết" (Trần Hinh) hay một "cách nói theo thói quen" (Dương Tường): té ra hai ông đã tranh cãi nhau trên một cái cớ hão huyền.
Thành ra khi Dương Tường chuyển chữ maman thành mẹ tôi thì ngay từ đầu đã trật đường và sai hướng rồi. Chữ tôi kèm theo chữ mẹ ở đây tự dưng biến nó thành lời khai mào cho một câu chuyện thuật lại cho người khác nghe, chớ không còn là suy nghĩ trong đầu nhơn vật nữa. Xóa mất tánh cách độc thoại nội tâm cốt yếu.
[Gấu gạch dưới]
Như vậy là bóp méo văn Pháp của tác giả.
Đúng quá. Quá đúng.
Cám ơn Trần Thiện Đạo.

Bữa nay mẹ mất.
Tuyệt!

TTD giải thích từ “asile”, viện tế bần, quá đúng. Cụm từ "Cela ne veut rien dire", cũng thế.
Tks. NQT

*

Tran Minh Huy:
Albert Camus avait ses maximes en journalisme, dont celle-ci: « En toutes choses, ne pas admettre que la politique l'emporte sur la morale ni que celle-ci tombe dans le moralisme. » Considération révélatrice du fossé qui le sépare de Jean-Paul Sartre ...
Daniel Rondeau:
On ne peut rien créer sur le mensonge, dit un jour Albert Camus. « Le privilège du mensonge est de toujours vaincre celui qui prétend se servir de lui. Et aucune vertu ne peut s'allier à lui sans mourir. » Ce qui va séparer Camus et Sartre, c'est principalement la question de savoir s'il est bon ou pas de dire la vérité sur les camps soviétiques . On peut d'ailleurs faire une lecture rétrospective de la littérature française du xx· siècle sous cet angle particulier: mensonge/ vérité. Ce qui a été engagé avec Barrès (mentir au procès de Rennes (2) pour ne pas désespérer l'armée française) est continué par les valses rouges de Hourrah l'Oural et conduit aux délires de Sartre sur l'URSS (pour ne pas désespérer Billancourt). Rares sont les écrivains qui n'ont pas participé à l'étouffement de leurs contemmporains par le mensonge. Citons quand même Gide, Mauriac, Camus bien sûr, et naturellement Malraux. S'il existe, comme je le pense, une fraaternité distante entre Camus et Malraux, elle est fondée sur l'estime réciproque et par un goût profond des deux hommes pour la vérité. Je sais bien ce qu'on reproche à Malraux: ses invenntions, son art de broder sur le réel, mais au fond, dès qu'il s'agit de choses sérieuses, et malgré des chemins parfois « farfelus », Malraux est toujours en quête de vérité.
[Trò chuyện với Daniel Rondeau, nhà văn. Le Magazine Littéraire Mai 2006]
Tran Minh Huy:
Camus có những châm ngôn của ông khi làm nghề báo, thí dụ, «Trong mọi chuyện, đừng chấp nhận chính trị vượt đạo đức, cũng đừng chấp nhận để cho đạo đức xuống cấp, trở thành rao giảng đạo đức”. Đúng là một nhận xét mặc khải làm bật cái hố phân cách Camus và Sartre....
Daniel Rondeau:
Camus đã từng nói, người ta không thể sáng tạo gì được với nói dối. “Đặc quyền của nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó. Không có một tính tốt nào, một khi đồng minh với nói dối, mà không ngỏm củ tỏi.” Camus và Sartre xa nhau, “anh đi đường anh, tôi đường tôi,” chính là khi cả hai đứng trước câu hỏi, liệu nói hay không nói sự thực về những trại tập trung Xô Viết. Người ta có thể nhìn lại văn học Pháp thế kỷ 20 dưới khía cạnh đặc biệt này : dối trá/sự thật. Điều mà Barrès dấn vô [nói dối ở tòa án Rennes để khỏi làm nhụt chí quân đội Pháp] được tiếp tục bằng những điệu luân vũ đỏ Hourrah Oural và đưa tới những lời nói sảng của Sartre về Liên Xô (để khỏi làm nản lòng Billancourt). Hiếm có nhà văn nào mà không tham dự vào cơn nghẹt thở của những đồng nghiệp đương thời của họ, vì nói dối. Kể luôn Gide, Mauriac, Camus đương nhiên, và tất nhiên Malraux. Theo tôi, nếu có một tình huynh đệ xa xa nào giữa Camus và Malraux thì tình này được xây dựng trên sự tương kính lẫn nhau và cái khiếu sâu đậm của cả hai về sự thật. Tôi biết người ta trách Malraux về những điều ông ta thêu dệt ra, về nghệ thuật chờn vờn chung quanh cái thực, nhưng xét cho cùng, một khi đụng chuyện nghiêm túc, và, mặc dù những con đường đôi khi ‘phù phiếm’, Malraux lúc nào cũng truy tìm sự thật.
*
“Đặc quyền của nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó”
Ui chao, áp dụng vô Mít, mới “thiên tài, thiên tai” làm sao!


Kỷ Niệm

Dương Văn Ba
TỪ TỘI “PHẢN ĐỘNG”THÀNH TỘI KINH TẾ

Doanh nhân sinh 1941 tại Bạc Liêu. Sống ở TPHCM (2010).
Nguyên là dân biểu đối lập thuộc nhóm trí thức và nhà hoạt động xã hội tiến bộ Nam bộ – hình thành “Lực lượng thứ ba” không theo Mỹ - Ngụy mà cũng không theo Cộng sản - chống chế độ Thiệu Kỳ đấu tranh đòi hoà bình độc lập ở miền Nam trước 75. Sau đó vẫn ở lại với mong muốn hoà nhập cùng chế độ mới xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.
Ban đầu cùng các chiến hữu cũ (Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung…) tham gia thành lập báo Tin Sáng tại TPHCM, phụ trách làm kinh tế cho tờ báo rồi sau đó chuyển về Ban Biên tập.
Sau khi báo Tin Sáng bị đình bản “hoàn thành nhiệm vụ” năm 1981, trở về quê Bạc Liêu (lúc đó thuộc tỉnh Minh Hải) hoạt động kinh tế rồi được TPHCM cử làm đại diện hợp tác làm ăn với Minh Hải nhận chức Phó Giám đốc Cty Cimexcol do tỉnh thành lập và quản lý có nhiệm vụ hợp tác kinh doanh với Lào.
Comexcol đang phảt triển thuận lợi (thời này nổi tiếng với việc nhập xe Honda cũ – xe “Cub” - giá rẻ từ Lào về bán lại ) thì đùng một cái năm 1987 toàn bộ lãnh đạo Cimexcol và cả lãnh đạo tỉnh (cả… Chủ tịch UBND tỉnh!)ø bị Trung ương bắt giam điều tra đến năm 1989 đưa ra tòa xét xử ở Minh Hải với tội danh kinh tế “tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, buôn bán hàng cấm, đưa và nhận hối lộ, cố ý làm trái gây hậu quả kinh tế nghiêm trọng cho Nhà nước…” Phiên toà do Toà án Nhân dân tối cao xử theo thủ tục đặc biệt hiếm có là xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm luôn không cho kháng nghị! Kết quả trong 21 bị cáo thì đương sự là người duy nhất lãnh án chung thân nặng nhất.
Sau phiên toàn rất nhiều dư luận, ý kiến ngay cả trong hàng ngũ cán bộ cao cấp địa phương lẫn Trung ương lúc bấy giờ không đồng tình yêu cầu xử lại vì nhiều lý do như “xét xử không đúng người không đúng tội, không đúng pháp luật, không được lòng dân và xét về tình tiết, nội dung phán quyết của phiên toà sai trái đến mức nghiêm trọng làm tình tiết và bản chất của vụ án thay đổi một cách cơ bản…”. Nhưng tất cả đều vô ích.
Tuy nhiên đến năm 1994 thì các bị cáo lần lượt được… trả tự do – có đuơng sự –vì điều tra lại thì quả đây là một vụ án lớn… xử oan! Bởi chính xác thì Cimexcol chẳng những làm ăn không thua lỗ gì cả mà còn… lời nữa. Chẳng qua đây là hậu quả của cuộc xung đột mâu thuẫn giữa 2 phe mở cửa và bảo thủ trong thời mới Đổi mới như đánh giá của Trường Đảng An Giang: “Quan điểm xét xử không đổi mới , lấy Nghị Quyết 4, NQ 5 xử NQ 6 (đổi mới); lấy cơ chế cũ xử cơ chế mới, lấy tư duy cũ xử tư duy mới đi ngược lại NQ Đại hội VI…” Nhưng các kết quả của phiên toà sau 5 năm bị vô hiệu hóa một cách tự động như trên đều không có thông báo “minh oan” nào chính thức mà chỉ được thực hiện một cách… âm thầm để “né” trách nhiệm!
Ngoài ra vụ án lớn này còn có một nguyên nhân nữa là “đánh” vào bản thân DV Ba quy kết vào tội “phản động” do nghi ngờ nhân vật “Tư lệnh quân đội” Dương Văn Tư của tổ chức phản động Hoàng Cơ Minh lưu vong ở Mỹ đưa quân thâm nhập về VN chống phá chính quyền Cách mạng là… em ruột của ông (theo cách đặt tên của dân Nam bộ, tên “Tư” tất là em của tên “Ba” rồi)! Ngoài ra còn cho ông là thủ phạm giật dây sát hại một cán bộ Minh Hải thuộc quyền nhằm “bịt đầu mối” biết mình là trung gian ở Cimexcol nhận tiền Hoàng Cơ Minh gửi về nước âm mưu phá hoại chế độ mới.
Nhưng sau đó điều tra… không tìm ra bằng chứng xác đáng vì DVT Tư hơn tuổi DV Ba và lại sinh trưởng ở miền Bắc, còn vụ cán bộ thuộc quyền tự tử chết thì chẳng có liên quan gì. Bởi vậy mới tìm cách chuyển tội danh DV Ba qua lãnh vực kinh tế gán cho Phó GĐ Cimexcol này 3 tội danh kinh tế, xem là “người cầm đầu, chủ mưu, có vai trò quan trọng nhất và quyết định nhất trong vụ án”. Cũng vì thế mà phải lấy một vài cán bộ lãnh đạo tỉnh làm “vật hy sinh “ ra tòa (lãnh án nhẹ hơn nhiều) để “xử bọn kia”!
Hiện đã rút vào im lặng nhưng nhờ mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với Lào ngày xưa nên còn âm thầm làm ăn với nước bạn, được mô tả là sống ở Lào nhiều hơn ở… VN!
Cao Huy Khanh

Người đầu tiên dẫn Gấu lên Xóm là Huỳnh Phan Anh và Dương Văn Ba!
Gấu quen anh qua HPA. Liền sau khi quen, HPA được tay Trịnh Văn Thanh giao cho làm trang VHNT cho tuần báo Mã Thượng. Lãnh nhuận bút lần đầu tiên, là kéo nhau lên Xóm. Cả hai vội quá, lên là kiếm em đưa vô phòng liền, bỏ Gấu ngồi ngoài. Gấu lúc đó ngu lắm, lại nghĩ hai đứa chắc là vội đi ị đi đái gì đó. Tới khi bà chủ hỏi, cậu “đi” không, Gấu lắc đầu!

Hồi ức của Gấu chỉ tới đó. Bởi vì sau này, nhớ lại, Gấu không hiểu tại làm sao hai thằng làm ăn xong rồi, lại kéo Gấu ra về, chẳng thèm hỏi han, mày đi chưa.
Chỉ có thể giải thích, tụi nó nghĩ, Gấu cũng vội như tụi nó!
Nói rõ hơn, cả hai không hề nghĩ, Gấu chưa từng đi xóm!

Cao Huy Khanh là nhà phê bình rất bảnh của Miền Nam trước đây.
Bảnh hơn Võ Phiến nhiều, vì anh là thứ thiệt. VP, bất đắc dĩ.

Giả như anh ra được hải ngoại sớm, chắc đỡ quá! 

84 - Huỳnh Phan Anh
KINH NGHIỆM HƯ VÔ THỰC SỰ

Nhà văn tên thật Huỳnh Thanh Tâm sinh 1940 tại Bình Dương. Sống ở Mỹ (2010).
Trước 75 dạy Triết và viết báo, sáng tác, dịch thuật, từng ra ứng cử Quốc hội ở miền Nam. Sau 75 vẫn ở lại TPHCM không theo gia đình ra nước ngoài.
Từ đó sống đời quên lãng lang thang quán xá bầu bạn với giới văn nghệ trẻ đàn em say sưa quên đời. Bấy giờ mới đích thực được sống “kinh nghiệm hư vô” như nhan đề một cuốn tiểu luận đã viết những năm 60 – “Văn chương và kinh nghiệm hư vô” – lúc ấy vốn mới chỉ là một mớ kinh nghiệm lý thuyết ảnh hưởng văn chương viễn mơ phương Tây.
Bất ngờ đến thời đổi mới được “khôi phục” lại vị trí nhà văn cũ uy tín, bắt đầu dịch và in lại một số tác phẩm văn học Pháp. Thế là được cả chính phủ Pháp công nhận là một chuyên gia về văn hóa Pháp, được mời đi nghiên cứu dịch thuật ở Pháp.
Mãi đến năm 2002 mới chịu qua Mỹ đoàn tụ với gia đình song vẫn thường xuyên về nước đi tìm lại dư âm của bao thời dâu bể đã qua. Với một quan điểm độc lập: “Tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống ở Mỹ một vài năm nay hay trong suốt phần đời còn lại của cuộc đời thì tôi cũng khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong. Tôi đã và vẫn sẽ là một người VN… Tôi nghĩ trong khi chờ đợi làm nhà văn thì hãy làm người đã. Điều đó cũng có ích cho xã hội.”
Cao Huy Khanh 

Tên thật của HPA là Huỳnh Thành Tâm.
Sau 75 vẫn ở lại TPHCM không theo gia đình ra nước ngoài.
CHK
Không đúng. Sau 1975, HPA thực tình tin tưởng vào nhà nước mới, thực sự cộng tác, sáng tác.
Gia đình, vợ con vượt biển, gặp nạn, người sống, người chết.
Qua Mỹ là do cô con gái bảo lãnh.
NQT
*
Nhân nói đến chi tiết, tài quan sát của nhà văn, và nhân đang đọc về Camus, nhân kỷ niệm 50 năm ông đi, Gấu vớ được  bài viết của Simon Leys, trong mục do ông phụ trách trên Le Magazine Littéraire, Mai 2006, đặc biệt về Camus.
Informations saugrenues [Những chuyện kỳ cục quái quái]: Từ những chiếc quần lót của Lỗ Tấn tới chứng say sóng [mal de mer] của Conrad.

Leys mở ra bài viết bằng một ‘giai thoại’: Trong lần gặp vua Phổ, Napoléon chăm chú nhìn cái quần dài của nhà vua, và sau cùng lên tiếng, “Thưa Ngài, Ngài ngày nào cũng phải cài tất cả những nút quần? Nhưng, xin lỗi tính tò mò của tôi, Ngài cài chúng, từ trên xuống dưới, hay từ dưới lên trên?”
Giai thoại tuyệt vời này, giữa hai đấng vương giả, được lưu giữ trong Hồi Ký của Louise de Prusse. Claudel chôm một lần, trong Nhật Ký của ông. Và bây giờ đến lượt tôi [Leys]. Chính ba thứ giai thoại kỳ cục này làm nên nét quyến rũ của Nhật Ký của Claudel.
Sau đó, Leys nhắc tới Orwell, ông này thú nhận: Tôi không thể, không muốn, và chẳng bao giờ từ bỏ cái nhìn thế giới mà tôi có được hồi trẻ thơ. Khi mà tôi còn sống là tôi còn mê bề mặt của trái đất [la surface de la terre], mê cú đụng chạm, sờ mó lên những đồ vật cứng [chérir le contact des objets solides], và chẳng bao giờ bỏ đi cái thú sưu tầm những thông tin kỳ cục.
Tôi, Leys. rất chia sẻ với cái thú thu gom chuyện quái. Đã từ lâu, tôi mơ viết một cuốn về Lỗ Tấn, nhà văn uyên nguyên nhất của những nhà văn TQ thế kỷ 20, và trong vòng mười lăm năm, tôi thu lưọm được cả một mớ những câu chuyện đủ loại về ông ta….
Một bài viết thật quái. Dưới entry “Bêtiser”, ông viết: Trong những điều cà chớn, sotties, nói về Conrad, tôi thật buồn phải nhắc tới hai tác giả đáng yêu.
Orwell phán: “Trong những dấu hiệu thật chắc chắn về thiên tài của Conrad, là phụ nữ không mê đọc ông”. Ở đây, theo Leys, Orwell muốn nói tới tính ghét đàn bà, ghét hôn nhân của chính ông ta.
Nabokov: “Conrad là nhà văn của đám hướng đạo sinh, boys-scouts”
Leys giải thích, sự thù nghịch của Nabokov không mắc mớ đến văn chương, mà là do chính trị. Ông của ông, Dimitri, bị Sa Hoàng ra lệnh đàn áp sự nổi dậy của những người Ba Lan, vào năm 1862, còn ông bố của Conrad lại là một trong những thủ lĩnh của đám nổi loạn. Gần như toàn thể gia đình Conrad bị tàn sát trong vụ này. Tuy không dám thú nhận thẳng ra, nhưng chẳng bao giờ Nabokov tha thứ cho Conrad, về cái chuyện đã tiên tri ra được “Cái Ác Niên Xô” [Sans pouvoir l’avouer, ce que Nabokov ne pardonne pas à Conrad, c’est sa dénonciation prophétique (et passionnément européenne) de la barbarie russe.] (1)
Ui chao, thảo nào đám Bắc Kít thù Gấu.
Thảo nào Gấu mặt dầy xin cắp rổ theo hầu Sến Cô Nương, vẫn bị đuổi ra khỏi 'Chợ Cá!’
Hà, hà!
Conrad, Ba Lan. Còn mi, cũng Bắc Kít. Sao giống nhau?
Cả một miền đất ruột thịt, gia đình Conrad làm sao so được?

(1)
Joseph Conrad, sống 17 năm tại Ba-lan, và tại Russia, lưu vong cùng với gia đình. 50 năm còn lại, ở Anh, hay trên những con tầu Anh. Đương nhiên, ông viết văn bằng tiếng Anh, về đề tài Anh. Ông bị dị ứng, khi đụng phải những gì có "mùi Nga": dấu vết Ba-lan độc nhất ở nơi ông. Tội nghiệp Gide, không thể hiểu tại sao Conrad "không thiện cảm" với Dostoevsky.
Mùa Thu

Gấu có nhiều kỷ niệm thật tuyệt về Dương Văn Ba. Từ từ kể.

Gấu về lại Sài Gòn, gặp ông bạn quí, được ông đưa đi gặp DVB, khi đó làm chủ một nhà hàng khiêu vũ nổi tiếng, khu Nguyễn Thông. Đại ca Ba [hồi làm Mã Thượng, tụi này thường gọi anh bằng cái nick Ba Bù Long, Gấu không dám phiên âm tiếp, cái từ Bù Long này, do bị cấm dùng từ thô tục!], lúc này có rất nhiều đệ tử, em út. Gấu nài nỉ, chia cho thằng bạn ngày nào một em đi. Mà em nào thật ngon, còn zin thì càng tốt! Ba Bù Long bật cười, chỉ một em đẹp ơi là đẹp, ghé tai cho biết giá cả, Gấu quay qua em, xin cái hẹn… Thôi, không dám kể tiếp.