*

















Chúc Mừng Giáng Sinh 2009


Adam Zagajewski

Thơ của ông ngợi ca những khoảnh khắc, khi chúng ta thoáng nắm bắt một thế giới mà mọi nhãn hiệu dán lên nó đều là nhảm cả.
-Charles Simic, The New York Review of Books
“Thật hiếm hoi, nàng thơ nói, với bất cứ ai, rõ ràng như thế, khẩn trương như thế, như là trong trường hợp Zagajewski,” Brodsky viết. “Không tận cùng, lọc ra từ những tập có trước đó, có những tập đã tuyệt bản, như Trémor, Canvas, Mysticism for Beginners, ngoài ra còn những bài thơ mới, trong số những bài tươi mát, hách nhất, bảnh nhất của ông. Qua những bản dịch thật sáng suốt của Clare Cavanagh, Renata Gorczynski, Benjamin Ivry, và C. K. Williams, … những bài thơ chia sẻ một thiên hướng, nó cho phép chúng ta, qua những từ của Zagajewski, ‘kinh nghiệm sự kinh ngạc, và đứng sững trong kinh ngạc, trong một khoảnh khoắc, một chốc lát. Hoặc lâu hơn tí nữa: hai chốc lát’.”

Giáng Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!

Một đóng góp cho ngành thống kế

Trong số 100 người

những người luôn luôn hiểu biết,
bảnh hơn người khác
- 52 mạng

nghi ngờ, từng bước chân
- gần như hết, số còn lại

vui mừng vì đưa tay ra,
nếu chuyện đó không mất công,
- 49, nhỉnh hơn một tí

luôn luôn tốt
bởi vì không thể làm khác
- 4 đấng, ồ, may ra có thể 5

có thể ngưỡng mộ,
mà không thèm muốn, hay ghen tị,
-18 mống

đau khổ vì ảo tưởng
tuổi trẻ qua quá nhanh
- 60, hơn, hoặc kém, một tí

không coi nhẹ chuyện đời
- 40 mạng, thêm 4 mạng

luôn sống trong sợ hãi
một kẻ nào đó, hay một chuyện gì đó
- 77 mạng

có thể hạnh phúc
hai chục, cỡ đó, ở trên đỉnh
từng cá nhân vô hại, hoang dại giữa đám đông
- nửa con số trên, ít ra là vậy

độc ác khi hoàn cảnh bắt buộc
- tốt nhất, đừng nên biết
dù con số đại khái

khôn ngoan, sau sự kiện
- chỉ vài cặp khôn ngoan hơn trước

chỉ lấy sự kiện từ đời sống
- ba chục
(tôi mong mình lầm)

còng lưng vì nỗi đau
không ánh sáng loé lên trong bóng tối
- tám muơi ba
sớm hay muộn

ngay thẳng
- ba muơi lăm, vậy là quá nhiều

ngay thẳng và hiểu biết
- ba

đáng thông cảm
- chín mươi ba

ngỏm
- một trăm phầm trăm
con số này cho tới nay chưa thay đổi

WISLAWA SZYMBORSKA
[Nobel văn chương]
Stanislaw Baranczak và Clare Cavanagh
dịch từ tiếng Ba Lan
Partisan Review 1998


*

December 27, 2009 1:42 PM
From:
Hôm qua vào tiệm sách ngày boxing day thấy quyển Les Chuchoteurs của Orlando Figes  -  định mua tặng bác làm quà Noel nhưng thấy số trang : 800 thì dội lui, bác còn thì giờ đâu mà đọc, sách lại in chữ nhỏ.
Thiệt là buồn khi đọc băng in rời ngoài quyển sách lời của Emmanuel Carrère : Quyển sách này thật hay, Figes đặt tên lại cho người chết, cho người bị xóa tên. Đối với chúng ta đó là những câu chuyện, nhưng với họ, đó là cả cuộc đời.
Avec ce livre magnifique, Figes redonne un nom aux morts, aux effacés de la mémoire. Pour nous ce sont des histoires,  eux c’était leur vie.
Tác giả bài thơ tháng 12 là ai vậy?
Thơ hay ghê.
*
Steiner, trong bài trả lời phỏng vấn trên The Paris Review, khi được hỏi, văn chương, khi tới đỉnh cao ngất, thì còn phân biệt được của nam hay nữ, phán, văn chương khi tới đỉnh, thì hết còn phân biệt được.
Sai. Bây giờ thì Gấu nhận ra như vậy.
Chứng cớ là hình ảnh giọt lệ trời ngàn năm trước biến thành giọt lệ người trên lưng bàn tay.
Nam thi sĩ không làm sao tạo ra được hình ảnh này, bởi vì cùng với nó, là cả một lô huyền thoại, nào hòn vọng phu, nào là hòn đá kiên nhẫn (Syngué sabour, Pierre de patirnce, của Atiq Rahimi, giải thưởng Goncourt) ….
Đây cũng là ý mà Claude Lévi-Strauss vinh danh tác phẩm nghệ thuật, ngàn năm trước, ngàn năm sau chỉ là chớp mắt, bỏ đi vài ngàn năm như vậy, vẫn còn được!
Và đó cũng là ý của Brodsky, khi coi thơ là một hình thức tiết kiệm tối tiết kiệm, (1) tối giản [cả một thế kỷ Lò Thiêu, Lò Cải Tạo, nằm gọn trong bài thơ nhỏ xíu Kinh Cầu của Akhmatova, thí dụ], là thời gian được tái cấu trúc, ngàn năm biến thành một phút phù du, đủ khô một giọt lệ...

Gấu, Noel, chẳng biết đi đâu, ngồi nhà ‘đọc chơi’ ba nhà thơ, TMT, Adam Zagajewski, Wislawa Szymborska, và khám phá ra được nhiều điều thú vị…
Thân, kính
NQT
(1)
Trong tiểu luận "Chín Mươi Năm Sau" (in trong "On Grief and Reason"), khi viết về bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" của [nhà thơ Đức] Rilke, Brodsky cho rằng, mọi thực tại đều mong có được cái thân phận, là một bài thơ, ấy chỉ vì lý do tiết kiệm. Tiết kiệm là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những phương cách dồn nén, sao cho ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca, là ngôn ngữ, nghĩa là thực tại, ở dạng nén cao cấp của nó. Nói ngắn gọn, một bài thơ "cho rất nhiều mà chẳng nhận bao nhiêu" [bài thơ không phản ảnh, mà là sản sinh].
Thơ Trẻ ở trong nước
*
Tôi yêu người yêu thật là xa
“Xa”, ở đây, là ngàn ngàn kiếp kiếp, như ý của câu sau, tình trong ngàn kiếp....
Nam thi sĩ, hay nói chung, nam nhi, chí lớn, làm sao có sự chung tình như thế này?
Thơ TMT, nói chung, rất thật thà, đôn hậu, bởi vậy, nhiều người lầm, chỉ vào những lúc ‘sinh tử’ thì dòng thơ thần mới bật ra!
*
Bởi vì làm thơ, in thơ, đọc thơ, đều là những gì liên quan đến hạnh phúc.
Cho dù là thứ hạnh phúc vào lúc xế chiều.
Như nến muộn.
*
Gấu quên một thứ hạnh phúc: viết về thơ.
Nhất là lúc về già, còn vài ngày rảnh rỗi, chờ ới một tiếng là đi.
Không phải để khen để chê, mà để học.
Giống như một triết gia, Gấu quên tên, bị kết án tử, chờ hành quyết, xin được học thổi sáo. (2)
Gấu cũng muốn được như vậy, viết về thơ, viết được chữ nào cười khoái trá chữ đó, để những giây phút cuối, không bị hồn ma bóng quế, không bị cái cô đơn hành hạ, như một lời 'cầu chúc' của một bạn đọc.
Hôm trước, viết đến cái giây phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến thành giọt lệ người, Gấu sướng tê người, bồi hồi nhớ lại những giọt nước mắt ngày nào của Bông Hồng Đen, nhỏ xuống vì Gấu, khi Gấu được mấy anh VC thưởng cho hai trái mìn claymore ở nhà hàng Mỹ Cảnh, ngay bến đò Thủ Thiêm, Cột Cờ Thủ Ngữ, bến tầu Sài Gòn.
Đang nói chuyện thơ, vớ được bài trên Người Kinh Tế, điểm cuốn viết về hai ông thi sĩ nổi cộm nhất ở Anh, đã từng đi học chung, từng là bạn thân, và là hai trong số những người mở ta trường phái Lãng Mạn, coi tình cảm cá nhân mới là số 1, vượt lên khỏi luật lệ của lý trí: The Friendship: Wordsworth and Coleridge, của Adam Sisman, nhà xb Harprrs Press.

Giọt Mưa Trời Khóc
(2)
Giai thoại này, là về Socrate – trong tù, ông học một bài hát mới – cai tù hỏi mai chết rồi hôm nay ông còn học à, ông nói, học đầu đời cũng như học bây giờ...
Tks. NQT

V/v giọt lệ trời….
Bản nhạc sến ơi là sến, sến đến chết người đi được, Xin Gọi Nhau Là Cố Nhân, của Song Ngọc, cũng có một hình ảnh thật tuyệt.
Sáng tác năm 1969
Nhịp 2/4 Buồn, tiếc nuối Hợp âm La thứ
1.
Tôi trở về đây lúc đêm vừa lên
Giăng mắt trời mưa phố xưa buồn tênh
Gót mòn tìm dư hương ngày xưa
Bao nhiêu kỷ niệm êm ái
Một tình yêu thoát trên tầm tay
2.
Tôi trở về đây với con đường xưa
Đâu bóng người thương cố nhân về đâu?
Tiếng buồn chợt đâu đây vọng đưa
Công viên lạnh lùng hoang vắng
Ngọn đèn đêm đứng im cúi đầu

Điệp khúc
Thu đến thu đi cho lá vàng lại bay
Em theo bước về nhà ai
Ân tình xưa đã lỡ
Thời gian nào bôi xóa
Kỷ niệm đầu ai đành lòng quên?
3.
Phố buồn mình tôi bước chân lẻ loi
ray rứt trời mưa bỗng nghe mặn môi
Nỗi niềm chuyện tâm tư người ơi
Xin ghi nhạc lòng thương nhớ
Mình gọi nhau cố nhân u sầu.
*
Ray rứt trời mưa bỗng nghe mặn môi!
Giăng mắc trời mưa, phố xưa buồn tên

Phải buồn tên mới được!
Mấy em Nam Kỳ, nửa khuya mà rên bài này, là chỉ có từ chết đến bị thương!

Ngọn đèn đêm đứng yên cúi đầu
Câu trên cũng thần sầu, nhưng nghe, thì nó ra như thế này:
Ngọn đèn đêm đứng yên cuối đầu.

Câu, Em theo bước về nhà ai, Gấu nghe mấy em hát, thành:
Em theo bướm về nhà ai,
Và cứ thắc mắc hoài, em là bướm, tại sao lại còn theo bướm?

Vả chăng, nếu như thế, thì “tình” quá!
Em theo bướm [của em] về nhà ai?

Mãi sau này, nhờ kararoke, nhờ google, mới vỡ ra!
Gấu đã nói rồi, cái hồn của văn chương miệt vườn Miền Nam, là nằm trong những bản nhạc sến!

Hình ảnh Gót mòn tìm dư hương ngày xưa, mà chẳng thần sầu sao?
Gấu đã từng mượn ý này, viết về BHD:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!

*

Author claims political pressure behind cancellation of Stalin book

Historian Orlando Figes: claims publisher of book about life in Russia under Stalin has bowed to 'political pressure'

Russian revelations
Sách viết về Nga dưới thời Stalin, bản dịch qua tiếng Nga bị nhà xb huỷ giao kèo
*

Stalin no better than Hitler?
Well, at least Stalin wasn't as bad as Hitler." How many times have we all heard that said – or said it ourselves? For a variety of complicated reasons I still half-believe it. "At least he didn't butcher the Jews." Hey, no, Joe butchered or enslaved everyone, Jews included. Read The Whisperers, now that Russians can't.
Remember, it's nationalism, not nationalization, that we have to worry about in the economic crisis.
*
Hell

Cách đây nửa thế kỷ, Hannah Arendt viết, cả hai chế độ Nazi và Bolshevik tạo ra "địch thủ khách quan" và "kẻ thù khách quan", và, tùy theo hoàn cảnh, mà đội mũ nón cho chúng, sao cho thích hợp. Khi làm thịt xong địch thủ, thì tới kẻ thù, đại khái như thế. Và cũng đại khái như thế, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành của mấy ông công an chế độ ta, không phải, khám phá tội ác, nhưng luôn trong tư thế sẵn sàng còng tay loại người nào vừa được nhà nước ban cho nón mũ mới.
Again: people were arrested not for what they had done, but for who they were.
Lại nữa: nhân dân bị bắt không phải vì đã làm gì, mà đã là thứ gì?
*
One problem is that all the best-known memoirists were trusties-prisoners rewarded with an extra ration or a comfortable job in return for their collaboration with the camp authorities. Solzhenitsyn even claimed that nine tenths of survivors had been trusties. Ginzburg, Razgon, Shalamov, and Solzhenitsyn were all trusties, and everything they wrote must thus be judged with this in mind-that they survived and did so perhaps at the cost of other people's lives. Primo Levi wrote about the Nazi camps, "We, the survivors, are not the true witnesses." The "true witnesses" - those in full possession of the unspeakable truth- are the sommersi: the drowned, the dead, the disappeared.
Chúng tôi, những kẻ sống sót không phải là những chứng nhân thực sự. Những chứng nhân thực sự, những người sở hữu đầy đủ cái gọi là sự thực không thể nói lên được - là những sommersi: những kẻ chết đuối, những người chết, những kẻ biến mất.

But this, it seems to me, is not an explanation of the Western public's general indifference toward the Stalinist terror. That must surely be explained by simple Western prejudice: whereas Hitler's victims were European Jews (read: urbane and educated people like ourselves), Stalin's, in the main, were laborers, peasants, and Communist officials from the provincial back waters of Eurasia. Films and literature are also relevant. Stalin's victims have not found their Steven Spielberg. And while Solzhenitsyn's short novel One Day in the Life of Ivan Denisovich (1962) was very widely read, no Gulag memoir has the standing in the West of Primo Levi's If This Is a Man - though Lev Razgon's True Stories and Eugenia Ginzburg's Journey into the Whirlwind certainly deserve to be bettter known.

Nhật ký Tin Văn


Ân xá Quốc tế kêu gọi hành động khẩn

Trường hợp Lê Công Định



Levi-Strauss

… chúng ta hãy trở về với những câu hỏi triết học. Kết cục của Regarder Écouter Lire, Nhìn Nghe Đọc, giống của Tristes Tropiques, Nhiệt đới Buồn hiu, giống của L’Homme nu, Con người trần trụi, cuốn chót của bộ Mythologiques, Huyền thoại học: chẳng có gì thì, chẳng có gì đáng, tất cả biến mất. [Rien n’est, rien ne vaut, tout s’évanouit]. Cuốn chót coi bộ lạc quan hơn: “Nhìn từ cái nhìn của những thiên niên kỷ, vue à l’échelle des millénaires, những đam mê của con người trùng lập, lẫn lộn, les passions humaines se confondent (…) Bỏ đi [supprimer] một cách tình cờ, ngẫu nhiên, chừng 10 hoặc 20 thế kỷ, điều này chẳng ảnh hưởng gì đến tri thức của chúng ta đối với thiên nhiên, nói về mặt cảm tính [facon sensible]. Cái mất mát độc nhất không thể nào thay thế, là mất mát những tác phẩm nghệ thuật mà những thế kỷ đó đã thấy chúng xuất hiện. Bởi vì con người chỉ khác biệt, và hơn thế nữa, chỉ hiện hữu, nhờ tác phẩm nghệ thuật.
Như tượng gỗ đẻ ra từ khúc cây, chỉ nhờ chúng, mà con người biết rằng, bao nhiêu nước chảy qua cầu, thời gian cứ thế trôi đi, một điều gì đó đã thực sự xẩy ra giữa đám người!
Claude Lévi-Strauss trả lời Cathérine Clément trong bài phỏng vấn:
“De Poussin à Rameau, à Chabanon, à Rimbaud…”
Trong Le Magazine Littéraire, hors-série, 2003, đặc biệt về Lévi-Strauss.
*
Tuyệt!
Nếu như thế, thì những dòng sau đây, “ ngàn ngàn đời sau”, giả như còn giống Mít, và giả như có một tên Mít, tình cờ đọc nó, thế là những ngày Mậu Thân hiện ra mồn một:

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Kiếp khác

Lại… tự sướng!


Book of the Year
Sách trong năm
The Secret Lives of Somerset Maugham

Sinh thời, S. Maugham là nhà văn thành công nhất trong thế giới tiếng Anh, the Anglophone world. Vào lúc ông chín bó, 80 triệu ấn bản những tác phẩm của ông được bán ra; ông rất mức nổi tiếng trong quần chúng, [a media celebrity] và rất ư là giầu. Ông cũng sống khá nhiều cuộc đời của mình, theo kiểu ‘under cover’, chìm, theo Selina Hastings, tác giả cuốn tiểu sử về ông, Những cuộc sống bí ẩn của Somerset Maugham. Ông mầy mò, tìm đủ mọi cách, để xóa bỏ, erase, chứng cớ về cuộc đời riêng tư, tiêu huỷ một cách hệ thống những giấy tờ cá nhân, yêu cầu bạn bè đốt bỏ những thư từ, và ra lệnh cho những người thực hiện di chúc của mình phải làm nản lòng đám tiểu sử gia - phê bình gia dởm nữa - lăm le tìm hiểu, có mấy thằng cha Maugham!
Giữa đám người này kẻ nọ, – ít ra là ở khoảng đời trung niên của ông – ông sống như là một tay xa lánh, ở ẩn, đếch ưa một ai: "Một thằng cha khó chịu", ‘an unpleasant man’, P.G. Wodehouse trả lời phỏng vấn, về Maugham, vào những 1970.
Hasting xì ra một điều, “bạn quí”, firm friendship, của Maugham, là Kenneth Clark, và miêu tả Maugham, ‘một nhân vật cực kỳ bí ẩn’. Christopher Isherwood gán ông với "cái bị Gladstone": Chỉ có Thượng Đế mới biết được bên trong có cái gì”.
(Maugham nói y chang như vậy về Isherwood).
Ngược hẳn lại với những toan tính như trên, trong khi viết, ông lại tự mình tố cáo mình!
Và đây là một thứ bịnh ghiền, ở nơi ông, đúng như ông thú nhận: “Hầu hết các nhà văn, viết cái điều từ thua cho đến thua: tự thuật” (1)

Miranda Carter điểm cuốn The Secret Lives of Somerset Maugham trên tờ Điểm Sách London, 17 Dec 2009

(1)
Nguyên văn hơi khác, câu mà Gấu phóng tác, trên, cho hợp với tình cảnh "Gấu nhà văn":
Most of what one writes is to greater or lesser degree autobiographical: Hầu hết điều mà nhà văn viết, thì đều mang tính tự thuật, ít hoặc nhiều.
Về "vấn nạn" này, ý của William Trevor,
người Ái nhĩ lan, chuyên gia viết truyện ngắn, bảnh nhất, theo Gấu:
"They are my memories too, but I am not the character in the story", Những hồi ức là của tôi, nhưng tôi không phải là nhân vật trong truyện, William Trevor, nhà văn Ái-nhĩ-lan nhận xét về nghệ thuật giả tưởng.
Viết, theo ông, là nghiệp (a professional activity), tuy nhiên thành phẩm - giả tưởng khi chín mùi - bắt buộc phải là của riêng.
Khi dấn vào nghiệp, bạn đừng mong trốn thoát cái kẻ là bạn đó, cho dù bạn không hề có ý định tra hỏi về chính mình, cho dù bản năng cho bạn biết, rằng, đừng để dấu tay của bạn lên trang sách chừng nào, tốt chừng đó.
Mọi giả tưởng đều mang mầm tự thuật...
Nhập một, con người (với những hồi ức như thế), với nhà văn, là nghiệp viết.
Ấu thời


Timothy Garton Ash at the intersection of journalism, history and literature
Timothy Garton Ash
FACTS ARE SUBVERSIVE
Political writing from a decade without a name
446pp. Atlantic Books. £25.
978 1 8488 7089 5


Arthur Koestler, Man of Darkness

Arthur Koestler, Người của Bóng tối
Không nhà văn nào của thế kỷ 20 có được những tao ngộ ly kỳ như Arthur Koestler: chơi toàn quái chiêu, gặp toàn những đấng hách xì xằng, có mặt - ở đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc - thảm họa xẩy ra!
27 tuổi Đảng, ông trải qua trận đói mùa đông 1932-33, ở Kharkov, giữa hàng triệu người dân Ukrainians ngắc ngoải và chết đói. Chạy kịp về phía nam nước Pháp, khi những binh đoàn Nazi xâm lăng nước Tây, ngay sau gót chân, vào năm 1940; chộp được Walter Benjamin, cưa đôi với ông mẻ “ken”, và chỉ vài tuần sau, triết gia người Đức này chơi quá “liều” [liều lượng], tự mình cho phép mình đi luôn. Tay guru ghiền, dân Harvard, Timothy Leary đã từng chia cho Koestler những mẻ thuốc psilocybin, vào giữa thập niên 1960, “Phu nhân sắt” Margaret Thatcher, đã nghe theo những lời cố vấn của ông, trong cuộc tranh cử của bà vào năm 1979.
Simone de Beauvoir đã có lần được 'hầu hạ' Koestler, nhưng sau đó lại tỏ ra thù ghét ông và hư cấu thành một nhân vật cực kỳ thông minh, có tài làm đàn bà vãi linh hồn, đầm đìa hai chân!
V/v tài chăn gối, "trường túc bất chi lao", của nữ hoàng hiện sinh de Beauvoir, thì khỏi chê. Như đoạn sau đây, trên tờ TLS, trong bài điểm cuốn hồi ký của Lanzmann chứng tỏ:
The young Claude was, for several happy years, Le Castor’s live-in lover, if not her only one: before they first went to bed, she warned him that six other people were already in the frame.
Claude Lanzmann's liberated memories


Albert Camus, 50 năm sau khi mất
Camus và đạo đức học của những giới hạn

Le Magazine Littéraire:
Albert Camus là một khuôn mặt trí thức nổi cộm trong đời sống tinh thần của nước Tẩy… Ngoài ra còn là một nhân vật, một huyền tượng…
Olivier Todd: Tôi mất năm năm với thằng chả, để viết cuốn tiểu sử về hắn ta. Trong đời thường, cũng cay đắng ngọt bùi lắm [sucrées-salées: đường ngọt, muối mặn]. Một bữa, vào những năm 1950, tôi đang ngồi Cà phê Marie, chỗ quảng trường Saint-Sulpice, với bà vợ tuyệt trẻ của tôi [avec ma très jeune femme]. Camus tới, ngồi ở quầy, và nhìn bả như muốn lột trần truồng bả ra, [qui n’arrête pas de la déshabiller des yeux.] Tôi tức điên lên…
Alain Finkielkraut: Tức điên, hay sướng điên lên? [Furieux ou flatté?]



Chí Phèo vs Julien Sorel [Đỏ và Đen] vs Tâm [Bếp Lửa]

Loạt bài tiểu luận đầu tay của Gấu từ thời còn ‘ở truồng’, viết vào thập niên 1960, trên tờ Nghệ Thuật, có tên là Thế nào là văn chương dấn thân?
 Dấn thân, thì bây giờ lỗi thời rồi. Phải hậu hiện đại cơ. Nhưng có lẽ cũng nên 'thanh toán' dòng văn chương hiện thực trước đã, rồi tới hiện thực xạo hết chỗ nói, rồi mới có thể làm thịt hậu vệ được!
Bởi vì có vẻ như mấy ông Trùm ở đó, mù tịt về chúng!
Về cả ba!
Cũng là một cách tưởng niệm ông Trùm phê bình Mác Xít G. Lukacs