Breakfast
@ Bayview
Glen School
April 7, 2010
Paul
Celan và những người
dịch ông
Bruno
Schulz
Nhà thơ
Hữu Loan đã ra đi
Tôi
cùng gió mùa
Virus VC vs Lưu Manh Hóa
Kỷ
Niệm
Trần
Văn Toàn trả lời phỏng vấn
Hannah Arendt
Thực vậy, đây là nỗi khốn khó
của thời đại
chúng ta, mắc míu lung tung, đan xen lạ lùng giữa xấu và tốt, đến nỗi,
nếu
không có "bành trướng để bành trướng" của những tên đế quốc, thế giới
chẳng bao giờ trở thành một; nếu không có biện pháp chính trị "quyền
lực
chỉ vì quyền lực" của đám tư sản, cái sức mạnh vô biên của con người
chắc
gì đã được khám phá; nếu không có thế giới ảo vọng, thiên đường mù của
những
phong trào toàn trị, qua đó, những bất định thiết yếu của thời đại
chúng ta đã
được bầy ra một cách thật rõ nét, như chưa từng được bầy ra như vậy, thì
làm
sao chúng ta [lại có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế, vậy mà
vẫn không
hay, chuyện gì đang xẩy ra?
Và nếu thực, là, trong những giai đoạn tối hậu của chủ nghĩa toàn trị,
một cái
ác triệt để xuất hiện, (triệt để bởi vì chúng không thể suy diễn ra, từ
những
động cơ có thể hiểu được, của con người), thì cũng thực, là, nếu không
có chủ
nghĩa toàn trị, chúng ta có thể chẳng bao giờ biết được bản chất thực
sự cơ
bản, thực sự cội rễ, của cái ác.
Chủ nghĩa bài Do Thái (không phải chỉ có sự hận thù người Do Thái không
thôi),
chủ nghĩa đế quốc (không chỉ là chinh phục), chủ nghĩa toàn trị (không
chỉ là
độc tài) – cái này tiếp theo cái khác, cái này bạo tàn hơn cái kia, tất
cả đã
minh chứng rằng, phẩm giá của con người đòi hỏi một sự đảm bảo mới,
và sự
đảm bảo mới mẻ này, chỉ có thể tìm thấy bằng một nguyên lý chính trị
mới, bằng
một lề luật mới trên trái đất này; sự hiệu lực của nó, lần này, phải
được bao
gồm cho toàn thể loài người, trong khi quyền năng của nó phải được hạn
chế hết
sức nghiêm ngặt, phải được bắt rễ, và được kiểm soát do những thực thể
lãnh thổ
được phân định mới mẻ lại.
Chúng ta không còn thể cho phép chúng ta giữ lại những cái gì tốt trong
quá
khứ, và đơn giản gọi đó là di sản của chúng ta, hay loại bỏ cái gì là
xấu, giản
dị coi đó là một gánh nặng chết tiệt mà tự thân chúng sẽ bị thời gian
chôn vùi
trong lãng quên. Cái mạch ngầm của lịch sử Tây phương sau cùng đã trồi
lên trên
mặt đất, và soán đoạt phẩm giá của truyền thống của chúng ta. Đây là
thực tại
chúng ta sống trong đó. Đây là lý do tại sao mọi cố gắng chạy trốn cái
u ám của
hiện tại, bằng hoài vọng một quá khứ vẫn còn trinh nguyên, hay bằng một
sự lãng
quên có dự tính về một tương lai tốt đẹp hơn: tất cả những cố gắng như
vậy đều
là vô hiệu.
Arendt
Bạn đọc, đọc đoạn trên đây, rồi
áp dụng nó, một cách ‘thông minh và
thiên tài’
vào lịch sử lập quốc của Mít, xem có 'ngay tắp lự', không?
Cái đoạn Gấu gạch dưới là điều Mít cần làm, vào thời điểm Mít "chúng
ta
[lại có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế, vậy mà vẫn không hay,
chuyện
gì đang xẩy ra?"!
Một chuyện không nên kể
Giết
người nhiều hơn chủ yếu
là vì thời gian cầm quyền lâu hơn, nhưng bản chất của chủ nghĩa cộng
sản và Đức
Quốc Xã, như Hannah Arendt phân tích trong cuốn “Origins of
Totalitarianism”
(1958): cả hai đều tàn sát thẳng tay nạn nhân không phải vì những gì họ
LÀM mà
là vì những gì họ LÀ.
NHQ: Blog VOA
Đọc câu
trích dẫn, thấy quen
quen, thì ra nó ở đây, trên TV:
Half a century ago, Hannah
Arendt wrote that both the Nazi and the Bolshevik regimes created
"objective opponents" or "objective enemies," whose
"identity changes according to the prevailing circumstances - so that,
as
soon as one category is liquidated, war may be declared on another." By
the same token, she added, "the task of the totalitarian police is not
to
discover crimes, but to be on hand when the government decides to
arrest a
certain category of the population."
Again: people were arrested not for what they had done, but for who
they were.
Cách
đây nửa thế kỷ, Hannah Arendt viết, cả hai chế độ Nazi và
Bolshevik tạo ra
"địch thủ khách quan" và "kẻ thù khách quan", và, tùy theo
hoàn cảnh, mà đội mũ nón cho chúng, sao cho thích hợp. Khi làm thịt
xong địch
thủ, thì tới kẻ thù, đại khái như thế. Và cũng đại khái như thế, nhiệm
vụ nào
cũng hoàn thành của mấy ông công an chế độ ta, không phải, khám phá tội
ác,
nhưng luôn trong tư thế sẵn sàng còng tay loại người nào vừa được nhà
nước ban
cho nón mũ mới.
Lại nữa: nhân dân bị bắt không phải vì đã làm gì, mà đã là thứ người
gì, [who they were]?
[NHQ hiểu lầm câu này, thành "những gì (what) họ LÀ"]
Gulag,
một lịch sử
Nguồn TV
Câu của
Hannah Arendt, trên TV,
"chắc là" từ Gulag một lịch sử của Anne Applebaum.
Đọc lâu
quá, không nhớ rõ.
Không có nhấn mạnh hai từ LÀ, LÀM.
Chắc tình cờ, không phải đạo [trích] dẫn!
“Những gì họ là”, là cái quái gì?
Đúng, họ là những thứ người gì.
Note:
Gõ Google, câu trên, Applebaum trích dẫn, trong
cuốn Gulag một lịch sử của
bà.
Cái tít
cuốn sách của Arendt
là “The Origins of Totalitarianism”,
1951 ông NHQ ghi sai năm xb, thiến mất chữ “The”.
*
Đọc bài viết mới thấy ông NHQ
này quá ngây thơ, khi viết về chủ nghĩa toàn trị. Cuốn sách đen mà ông
trưng ra
đó, thật sự, với dân “pro”, họ chẳng coi ra là cái gì, cũng một thứ
“phản tuyên
truyền, phản động, diễn tiến hòa bình” gì gì đó mà thôi! Và cái mà ông
gọi là “lý
trí công cụ”, thì có lẽ nên gọi là “sát nhân bàn giấy”, trên bảo sao,
dưới làm
vậy, hay “cái ác tầm phào”, như Arendt gọi nhưng cái đó chỉ giải thích
được phần
hạ tầng cơ sở, ở trên đỉnh, với những ông Trùm sát nhân, như Stalin,
Hitler, Bác
Mao… thì sao?
Không lẽ cũng là... công cụ?
Mà có thể thế thực!
Mailer chẳng
đã viết cả một cuốn sách về tuổi thơ của Hitler, do ông ta phịa ra, và
từ cái
tuổi thơ phịa ra đó, ông tin rằng Hitler được Quỉ chọn!
Trên TV có quá nhiều bài viết
về đề tài này rồi! Và cái câu hỏi, tại sao họ biến chất nhanh như vậy,
ông
không cho biết, nhanh là như thế nào, từ hồi nào, thì TV cũng đã mạo
muội trả lời
rồi, nhanh, là kể từ ngày 30 Tháng Tư trở đi mà thôi! Trước đó, VC là
số 1, sau
đó, là Quỉ!
Nước Nga cũng lâm vào đúng tình
trạng như vậy. Trước Cách Mạng Tháng 10, là Thiên Sứ, sau, Quỉ Vương.
V/v
Nước Đức sau Lò Thiêu, lại
phục hồi trở lại được, liệu Mít sau Lò Cải Tạo, có cơ may nào không?
Amis cho rằng,
vô phương, y chang Liên Xô!
Lý do là, theo Amis, Lenin phá
huỷ xã hội dân sự của nước Nga truyền thống, trong khi Hitler, không.
Cái Ác Bắt Kít, khi gặp chiến
lợi phẩn Miền Nam, xổ lồng, biến thành Hạm Đỏ, Ruồi Đỏ, gây đại họa cho
toàn thế
giới, vô phương cứu chữa!
Bởi thế, 30 Tháng Tư còn có tên
là Anus Mundi! (1)
(1)
Từ VC
này, trước đây,
được Mẽo
sử dụng, chỉ để gọi đám MTGP, khác Miền Bắc CS, hay cán binh CS... để
chỉ
ông anh Bắc Kít. Bữa trước Gấu có đọc ở đâu đó trên net, có một đấng,
có vẻ bực,
vì [TV] dùng tưới hột sen, VC, để chỉ tất cả mấy thứ đó.
Đúng thế. VC bây giờ được
[riêng Gấu] sử dụng, theo nghĩa "quốc tế", sau cái cú 30 Tháng Tư 1975,
[Milosz gọi là Năm Thế Giới, Hậu Môn Của Thế Giới]: Cả thế giới
bây giờ đều biết tới mùi VC rồi!
Ý nghĩa của chữ cũng
thay đổi
theo mùa, theo thời. Có những chữ già đi rồi chết, có những chữ càng
sống càng
mạnh lên thêm!
Cái từ VC bi giờ chẳng thua gì cái từ HIV!
*
Cái
chết của
Milosz làm Gấu nhớ tới từ Anus Mundi của ông.
Anus Mundi có nghĩa là hậu môn của thế giới. Theo
Milosz, một người Đức
đã viết ra định nghĩa này, để chỉ xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi,
tiếng La
Tinh, có nghĩa là "vào năm của thế giới" [in the year of the world],
tức khi thế giới bắt đầu.
Milosz định nghĩa Anus Mundi: The cloaca of the world.
Như chúng ta đã biết, chỉ có loài vật thượng đẳng mới có cơ quan sinh
dục
riêng, hậu môn, nơi để bài tiết, riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có
cloaca, tức
hậu môn, dùng cho cả hai việc, làm cơ quan sinh dục và làm nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là anus mundi, là theo nghĩa đó.
Khi Gấu mượn từ này của Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết Biển của
Trần Văn Thuỷ, là theo nghĩa của từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới,
và còn
theo nghĩa năm Thượng Đế từ bỏ chúng ta, của triết gia người Do Thái,
Emmanuel
Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975, đối với Việt Nam.
Hậu môn của thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam
là một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.
Nếu đi hết biển
1975: Năm Cái Ác Bắc Kít biến thế giới thành Bãi Đánh Hàng!
Thời của thánh thần
Nhật Ký TV
"La
catastrophe nazie est désormais la référence absolue et radicale de
toute
existence juive."
Tai ương Nazi từ nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để, tất cả hiện
hữu Do
Thái.
Tai ương 30 Tháng Tư 1975, và cùng với nó, Lò Cải Tạo... từ nay
là điểm
qui chiếu, tuyệt đối, triệt để, mọi hiện hữu Mít.
Nhật Ký
TV
Cái kiểu viết, tôi
rất mê mấy
ông VC thời ‘tiền sử’, “thành thực mà nói”, VC đã có công đánh thắng
hai thằng đại
ma đầu thực dân cũ thực dân mới, của Ngài NHQ, có thể là do lòng hồi
tâm muốn
quay về với dân tộc của Người, cũng nên!
Đừng có nghĩ là Gấu này chụp
mũ!
Sợ rằng ông ta đang hoay hoay
kiếm cái mũ nào hợp với ông, cho nó đừng có quá chuế, hoặc là đang
trong thời kỳ
đánh tiếng, này, cho tớ về nhé, đừng đuổi tớ nữa nhé!
Nhờ Milosz mà tôi hiểu ra được
rằng, để
cho lời dối trá trở thành sự thực, thì cứ phải để chính nạn nhân nói ra
'sự
thực' đó!
C’est Milosz qui le premier montre que,
pour que ce mensonge devienne vérité, il était indispensable qu’il fût
confirmé
avec éclat par les victimes elles-mêmes.
Câu trên, là
để dành cho phê bình gia bỏ chạy VC, rồi lại "nhất ông VC"!
Tưởng
niệm Simone Weil
No English word
exactly conveys the meaning of the French malheur. Our word
unhappiness
is a negative term and far too weak. Affliction is the nearest
equivalent but
not quite satisfactory. Malheur has in it a sense of
inevitability and
doom.
Emma Craufurd [dịch Weil qua tiếng Anh]: Waiting for God
Không có từ tiếng Anh nào tương đương với từ tiếng Tây,
malheur, bất
hạnh. Cái từ unhappy, không được vui, thì đúng là một từ
tiêu cực,
và yếu xìu. Trong từ bất hạnh, nó có cái nghĩa [điều] "không thể
nào tránh được", và, "trầm luân", bị trời đầy, số kiếp là như
vậy.
*
Thế kỷ 20 có ba vị “nữ thần” của nó, đó là Simone de Beauvoir, Hannah
Arendt và
Simone Weil. George Steiner tự hỏi, cho tới nay, liệu có một triết
tưởng nào (a
philosophic imagination), ở trong số những bậc nữ lưu, xứng đáng để kế
bên của
Simone Weil? Ông tin rằng, người ta phải có một chiều sâu tâm lý của
Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới hiểu nổi Weil.
Hai nỗi
đau lớn của bà: thân phận con người, tên nô lệ của con quái vật nhà
máy, và
thân phận người dân xứ thuộc địa, đặc biệt là xứ Đông Dương.
Hannah Arendt thì cố gắng tìm cho ra duyên do cái ác, của thế kỷ hung
bạo,
trong khi dò tìm những cội nguồn của chủ nghĩa toàn trị.
Còn Simone de Beauvoir?
Những năm tháng của S. de Beauvoir thực sự bắt đầu cùng với sự xuất
hiện tác
phẩm Giới Tính Thứ Nhì (Le Deuxième Sexe), vào năm 1949. Và nó bắt đầu
một cách
thật là thê thảm!
Tinh
thần không có
giới tính
Cái sức mạnh Bắc
Kít, lạ lùng thay, như Simone Weil chỉ ra, cũng y chang, của người Hy
lạp, là từ
đất mà ra: Chúng ta chỉ là những nhà đo đất, chia ruộng, tạo bờ. Người
Hy lạp
đã học đức hạnh nhờ đo đất. [Les Grecs furent d'abord géomètres dans
l'apprentissage de la vertu].
Cái giây phút mà sức mạnh biến con người thành một vật, đúng là lúc ở
ngưỡng
cửa thành Troie, y chang Sài Gòn trước biển máu. Trong Troie, không có
người
đẹp Hélène, như những vị thầy tu sau đó cho biết. Hélène khi đó ở Ai
Cập.
Nhưng cần gì chuyện đó. Vào lúc đó, đoàn quân Hy Lạp biết rất rõ một
điều, Sài
Gòn - Troie đang quì trước họ:
De toutes manières, ce
coir-là, les Grecs n'en veulent plus:
"Qu'on n'accepte à présent ni les biens de Pâris,
Ni Hèlène; chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie est à présent sur le bord de la perte."
Il dit; tous acclamèrent parmis les Achéens.
Thế là chúng muốn tất
cả. Tất cả sự giầu có của Sài Gòn, [Miền Bắc nhận
hàng, như là chiến lợi phẩm, comme un butin], tất cả những tòa lâu đài,
tất cả
những đền đài, tất cả những căn nhà, như là tro bụi, tất cả những phụ
nữ trẻ
con như là nô lệ, tất cả những người đàn ông như là những xác chết...
Mô phỏng Simone Weil
Martin
Amis, trong Koba,
the Dread, trích dẫn một triết gia Nga, hai 'thuốc lắc' làm bệ
phóng ác
mộng Bolshevik, two ingredients of Bolshevik elan: chê cái tầm
thường, muốn
cái khác thường, muốn làm kinh ngạc toàn thế giới, [disdain for
the
trivial and the desire to astonish the world].
Theo nghĩa đó, ác mộng lắc, và "giấc mộng lành, hiền", giải phóng
Miền Nam,
là cùng nguồn hứng khởi.
Giấc mộng lành hiền biến thành ác mộng, từ đó đẻ ra mọi ác mộng, mọi sa
đọa ở
trong nước.
Đây vẫn là hiện tượng Chúa Sẩy Thai.
*
Oz viết về phim Shoah của Lanzmann.
Lanzmann phỏng vấn Abraham Bomba, thợ cắt tóc, chứng nhân Lò Thiêu. Ông
này
nói:
"Người Do Thái luôn luôn mơ [rêver]. Họ luôn luôn mơ một ngày nào,
Thiên
sứ sẽ tới dẫn dắt họ tới tự do. Ngay cả ở nơi đó, ở ghetto, họ cũng mơ
chuyện
đó.
Tôi ở trong chuyến di chuyển thứ nhì tới Czestochova. Tôi hiểu liền, có
gì
không ổn [mauvais signe]. Họ nói, tới để làm việc, nhưng việc gì cơ
chứ, việc
gì mà mang theo cả đàn bà, trẻ con với chúng tôi?
Chúng tôi đâu có chọn lựa nào khác?
Con người cần mơ mộng, hay hy vọng, rêver, espérer. Không có nó, làm
sao sống?
Và thế là chúng tôi cứ tin họ, dù thế nào đi chăng nữa."
*
Giấc mơ giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước là giấc mơ tuyệt vời nhất, lành nhất, hiền nhất,
của Miền
Bắc. Nó biến thành ác mộng, là do cái ác Bắc Kỳ tẩm ở trong đó.
Ôi chao, thay vì thiên sứ, chúng ta có, một con bọ.
13
Janvier 2010 22H03 - Flash
Match
Ukraine: Staline, coupable de génocide
Joseph Staline, ainsi que
d'autres dirigeants soviétiques, ont été reconnus coupables de génocide
par la
cour d'appel de Kiev,
indiquait mercredi un communiqué de cette juridiction. près de 3, 941
millions
d'Ukrainiens seraient morts lors de la grande famine qui a frappé le
pays de
1932 à 1933
Tòa án Ukraine
kết tội
Staline: Diệt chủng
*
Gorky và Trùm Mật Vụ Nga
Trận đói của Lenin, 1933: The Terror-Famine,
cướp đi, theo Amis [trích dẫn Grossman], chừng 5 triệu người ở Ukraine,
2 triệu ở Kuban, Don, Volga, và Kazakhstan, và đây có lẽ là mùa gặt
được mùa nhất tại Liên Xô.
Con số người chết do trận đói năm Ất Dậu, do Nhật gây nên, và do nhử Mẽo vô Việt Nam,
cũng đâu có nhằm nhò gì, theo cái kiểu tính toán của Stalin:
Cái chết của một người thì bi thương, cái chết của một triệu người chỉ
là thống kê.
[The death of one person is tragic, the death of a million is a mere
'statistic']
*
Sở dĩ hai ông bạn vàng Edmund Wilson và Nabokov cắt bào đoạn nghĩa, là
do Lenin gây nên. Để đáp lễ Wilson phạng mình, Nabokov đã lịch sự nghĩ
rằng, bạn hiền của ta, do không hiểu thực tại Bolshevik, nên cũng không
thể nào hiểu được lời sỉ nhục.
[Nabokov is bearing in mind that Wilson, not understanding the
Bolshevik reality, does not understand the insult].
Thật đúng là hòn đất ném đi, cục vàng ném lại!
[Gấu nhớ nằm lòng câu trên, mỗi khi mài dao kéo, sửa soạn đưa lên bàn
mổ, những bạn hiền văn chương của mình!]
*
Thê thảm nhất, là, cuộc chiến Việt Nam không thể nào tránh
được. Như Cách Mạng Nga, cũng không thể nào tránh được!
Pushkin chẳng đã từng van vái, Lạy Trời đừng bao giờ bắt con phải chứng
kiến một cuộc cách mạng Nga!
Dọn
Bức hình trên, từ cuốn Koba
The Dread, của Martin Amis, nhà văn Tây phương đầu tiên viết về Gulag,
theo
Anne Applebaum. Đọc Solz, thì cũng nên đọc thêm Amis, nhất là cuốn Nhà
Hội.
Một tuyệt tác viết về
Gulag.Tay điểm sách trên tờ TLS, đọc Nhà Hội, mà ngửi ra được cái mùi
của
Gulag, thế mới thần sầu.
Amis nhận xét về sự khác biệt
giữa Cái Ác Nazi với Cái Ác Đỏ:
Chủ nghĩa Nazi không huỷ diệt
xã hội dân sự. Chủ nghĩa Bolshevism hủy diệt xã hội dân sự. Đó là một
trong
những lý do cho thấy "phép lạ" của sự hồi phục của nước Đức. Stalin
không huỷ diệt xã hội dân sự. Lenin huỷ diệt xã hội dân sự.
*
Đọc, Gấu nhận ra, điều này
quá đúng với Việt Nam
sau 1975. Sự huỷ diệt xã hội dân sự bắt đầu cùng với chiến thắng của VC.
Chính vì lý do này, sẽ chẳng
thể nào có sự hồi phục.
*
Chủ nghĩa Bolshevism có thể
xuất cảng được, và sản xuất ra những hiệu quả gần như là đồng nhất với
nguyên
bản, ở khắp nơi. Chủ nghĩa Nazi không thể sao chép. So sánh với nó,
những nhà
nước phát xít khác chỉ là trò tài tử.
Amis: Koba The Dread
Nhật Ký TV