*
















Chúc Mừng Giáng Sinh 2009

*

Wistawa Szymborska
Diễn văn Nobel

Nguyễn Tiến Trung có thể bị kết án tử hình


Nga đưa 'Quần đảo Gulag' của Solzhenitsyn vào học đường

Vợ góa của nhà văn Alexander Solzhenitsyn vừa rút ngắn tác phẩm quan trọng của chồng mình "The Gulag Archipelago" ("Quần đảo Gulag" hay "Quần đảo ngục tù") để tác phẩm này dễ tiếp cận hơn khi được đưa vào học đường ở Nga.
e Van

"Vừa" cái con khỉ, chuyện này xưa rồi, hồi ông chồng còn sống, và chính ông OK chuyện này. Gấu có bản này mờ!
Có thể, bi giờ, nhà nước Nga đưa vô chương trình học. Đúng là bảnh hơn Mít nhiều!

 .*

Ngay ngoài bìa có đề "bản rút gọn được phép của tác giả". Vậy mà "vừa" gì nữa!
Bài viết giới thiệu tuyệt cú mèo!

Tribute to Solz

D.M.Thomas cho biết, Hamlet, ngay từ thoạt kỳ thuỷ của thời đại Stalin, đã bị cấm. Tuy không chính thức, nhưng đám cận thần đều biết, Stalin không muốn Hamlet được trình diễn. Trong một lần tập dượt tại Moscow Art, Stalin hỏi, có cần thiết không, thế là dẹp. Vsevolod Meyerhold, đạo diễn, người ra lệnh Pasternak dịch Hamlet, đành quăng bản dịch vô thùng rác, nhưng ông  tin rằng, nếu bất thình lình, tất cả những kịch cọt đã từng được viết ra, biến mất, và may mắn sao, Hamlet còn, thì tất cả những nhà hát trên thế gian này đều được cứu thoát. Chỉ cần diễn hoài hoài kịch đó, là thiên hạ ùn ùn kép tới đầy rạp. Tuy nhiên, cả đời ông, chẳng có được cơ may dựng Hamlet.
*
Lời giới thiệu ấn bản rút gọn, bộ sách khổng lồ Quần đảo ngục tù, cho biết, vào năm 1994, hai chục năm sau khi bị tống xuất qua Tây phương, Solz trở về Nga. Tại một thành phố, trên con tầu xuyên Sibérie, trên đường trở về, trong cuộc nói chuyện với dân chúng để nhà văn làm quen trở lại với đất Mẹ, ông bị một thính giả phạng: “Nếu là mi, và những gì mi viết đã khơi mào mọi chuyện, khiến xứ sở của chúng ta lâm vào thảm họa, và đang mấp mé trên bờ tiêu vong, thì nước Nga đếch cần mi, hãy trở về với xứ Mẽo yêu quí được chúc phúc của mi đi.”
Solz bèn dõng dạc trả lời, cho đến ngày chết, tớ vẫn tiếp tục chiến đấu với con quỉ Đỏ, [ý thức hệ ma quỉ, nguyên văn], nó đã từng làm thịt một phần ba dân chúng Nga.
Và thế là tất cả mọi người vỗ tay ào ào [The meeting erupted in applause].


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Suốt cuộc đời, Camus luôn tỏ ra trung thành với niềm tin, rằng con người phải hoàn chỉnh trọn vẹn chính mình, sống trọn với bản chất của mình, khi mình tương hợp với thế giới tự nhiên, khi cuộc ly dị giữa nó và thế giới tự nhiên sẽ cắt manh mún cuộc hiện hữu nhân sinh của nó. Có lẽ, đây là niềm tin, kinh nghiệm của một người lớn lên không nương tay nhờ sỏi, đá, bụi bặm, giọt mưa, sợi nắng, và, nó tách Camus ra khỏi cái đám đông khốn kiếp ở thành phố, ở Paris, và hơn thế nữa, tách ông ra khỏi cả một tầng lớp trí thức cùng thế hệ với ông. Tất cả lũ, nào Mác Xịt, nào Ky Tô, nào tự do, nào hiện sinh, đều có một điểm chung: chúng đều thần tượng hoá lịch sử. Sartre và Merleau-Ponty, Raymond Aron và Roger Garaudy, Emmanuel Mounier và Henri Lefebvre, ít ra đều đồng ý về một điểm: rằng con người là một con người xã hội, và, để hiểu nỗi khốn cùng, những khổ đau của nó, và đề ra giải pháp cho vấn đề của con người, việc đó chỉ thế xẩy ra, ở trong cái khung lịch sử. Kẻ thù ở bất cứ đâu đâu, ở bất cứ điều gì khác, nhưng đám này đều chia sẻ với nhau một giáo điều rộng lớn nhất trong mọi giáo điều của thời đại chúng ta: rằng lịch sử là chìa khóa cho câu hỏi nhân sinh [that history is the key to the human question], là nơi chốn, môi trường, ở đó, trọn số phận của con người được quyết định.

Camus không bao giờ chấp nhận cái sắc lệnh hiện đại này. Không hề chối bỏ chiều hướng lịch sử của con người, ông luôn luôn tin rằng, giải thích số phận con người hoàn toàn bằng kinh tế, xã hội hay ý thức hệ, là không đầy đủ, và trên đường dài, nguy hiểm. Trong Mùa Hè, 1948, ông viết: “Lịch sử chẳng hề giải thích vũ trụ tự nhiên, có trước nó, cũng như cái đẹp, ở trên nó”. Cũng trong bài tiểu luận, ông phản đối sự lãnh đạo của những đô thị, vì nó a tòng [associated: kết hợp] với tính tuyệt đối của lịch sử, và sau này, trong Kẻ Nổi Loạn, ông coi đây là những nguồn gốc đưa đến bi kịch chính trị hiện đại, thời của những chế độ độc tài, chúng tóm lấy [take] những đòi hỏi lịch sử, như là biện minh triết học của chúng


Gấu, nhà văn
Nhà Hội


Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập tành viết lách. Nhưng sự vỡ mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu. Trong bài viết The Mandarin, ông không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre, Buồn Nôn. La Nausée. (1)
*
"Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp mình, tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai cấp vô sản"
TTT: Bếp Lửa
Llosa giải thích, thời của ông, cũng là thời của TTT:
Hoàn cảnh bi thương của đám trí thức tiến bộ những năm 1950 và 60, có thể tóm tắt bằng câu của Sartre, trong một tiểu luận, viết năm 1960:
"Hợp tác với Đảng Cộng Sản, thì, cùng một lúc, vừa cần thiết, vừa bất khả."
*
Đó không phải là cách đọc Sartre của đám Gấu, và đồng bọn, thường được coi là nhóm 'tiểu thuyết mới" ở Miền Nam.
Một cách nào đó, đám Gấu đọc Sartre từ La Nausée, và cũng bắt đầu viết, từ đó, từ những phát giác văn chương, của Sartre, nhưng do quá mê chính trị, ông đã bỏ qua.
Gấu đã từng kể kinh nghiệm đọc La Nausée của Gấu, và của ông bạn HPA. Có những xen, hai đứa đọc, trong những tình huống, thời điểm khác nhau, nhưng, phản ứng, có thể nói, y hệt nhau.


 *

HPA @ home, hẻm Trần Quí Cáp, Saigon, cc 2002


Tôi "biết" Sài-gòn, phần lớn là qua "ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả" dậy tôi chơi banh bàn, bi da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên mất tên, ở khu Ngô Tùng Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là nơi hai đứa nhiều ngày đứng suốt buổi, khi ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau băng qua đường, leo lên gác xép ngủ. Nhà Huỳnh Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn ăn "dã chiến", khi ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói ngọng. Mấy chị em là nguồn kinh tế của hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả dậy tôi "xóm" nghĩa là gì.
Sau này học trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn tôi đã từng căn dặn chớ mò tới. Cái trò đọc sách trong một quán chệt, chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà (hồng trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi. Và hai đứa chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa trước đọc Buồn Nôn, La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville, "một mình mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy, như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường". Tôi cũng có những kinh nghiệm y hệt như vậy.
Qua anh tôi có được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng tác" với báo Điện Tín, là do anh. Thân nhất, có lẽ là lúc anh đang học Sư Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được thư. Anh vốn là một con người rất cứng rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những lá thư là một Huỳnh Phan Anh "đích thực", đối với tôi.
Lần đầu tiên tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một người bạn. Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la, rống dọc theo những con dốc. Lần đó, tôi có cảm tưởng sống lại Hà-nội, và mơ hồ hiểu được tâm trạng của những người lính lê dương nhớ nhà, say sưa giữa thành phố, giữa cuộc chiến "không phải của họ".
Với Huỳnh Phan Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ có một bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho anh hiểu: tại sao bỏ vào Nam.
Nhưng câu hỏi đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.
Chợ Đũi, Huỳnh Phan Anh, và tôi

Milosz không ưa Sartre, lẽ dĩ nhiên, vì Sartre mê Cộng Sản, mà ông từ  phía đó bỏ chạy qua Paris. Ông  hợp với Camus, và cả hai rất thông cảm nhau, về cái tai ương của nhân loại:  Cái Ác Mầu Đỏ đó.
Sau đây là "đầu vào" [input, entry], về Camus của ông trong ABC.
Camus, Albert. Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông, sau khi xuất bản Con Người Nổi Loạn, L'homme révolté. Ông viết như một con người tự do [like a free man], nhưng hoá ra là điều này không được phép, bởi vì đụng vô lằn ranh "chống-đế quốc" [có nghĩa, chống Mỹ, và ủng hộ Xô Viết]. Chiến dịch thô bỉ nhằm phạng Camus của Sartre, và Francis Jeanson, trên tờ Thời Đại Mới, được a dua [joined] bởi Simone de Beauvoir, cú này trùng hợp với thời điểm tôi đoạn tuyệt [break] với Varsaw vào năm 1951. Đây cũng là thời điểm mà Sartre viết về Camus:
"Nếu bạn không ưa cả Cộng Sản lẫn Tư Bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn dung thân là Quần Đảo Galapagos".
Camus thò tay ra, bắt tay tôi, vào thời điểm đó, thật quan trọng, thật chí tình.
Milosz viết về bạn tình, bạn đường, của Sartre.
Beauvoir, Simone de. Tôi chẳng hề gặp, nhưng chuyện không ưa nổi bà ta thì không hề giảm, sau khi bà mất, và ngay cả cho tới bi giờ, khi bà chỉ còn là một cái tiểu chú về thời của bà...  Thì cứ thú nhận, thẳng ra ở đây, một thằng nhà quê miệt vườn, làm sao mà ưa cho nổi một bà lớn [grande dame]...  Tôi không thể tha thứ cho bà ta về những trò hạ cấp, cùng Sartre, nhắm bề hội đồng Camus.
Nói tới Camus, Gấu tôi nhớ, có lần ngồi Pagode, nhà thơ TTT chê Kẻ Xa Lạ, khi so sánh đoạn tử tội Meursault gặp ông thầy tu, với cũng một xen như vậy, trong Đỏ và Đen, thì Camus không đáng là học trò của Stendhal.
Ấy là mấy chục năm sau, thằng em diễn lại câu phán của ông anh, qua... tưởng tượng.
Quả thế thực, nhưng theo Gấu tôi, phải tính tới cái tuổi của người đọc, khi đọc bất cứ một tác giả.
Stendhal là phải già già một chút mới đọc được. Còn me-xừ Meursault không kịp có tuổi già. Những nhân vật như thế, là phải "chết non", mượn lại từ của ông anh.
Và có những tác phẩm, bạn không nên đọc sớm quá, và nên để dành! Lời khuyên của ông bà chúng ta, chớ đọc Phan Trần, chớ đọc Thuý Vân Thuý Kiều, là có thiện ý chứ không liên quan tới đạo đức. Cái cảnh, "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Rành rành trước mắt một tòa thiên nhiên", chỉ 'trở thành hiện thực', khi bạn vừa đọc xong câu đó, là bèn thực hành liền!
Theo nghĩa đó, một độc giả của tờ TLS [số tháng Hai, 2004, mục Sổ Tay] sung sướng la lên rằng, may quá, tới hơn nửa đời người, mới đọc Hamlet. Đúng là một món quà quí báu dành để đọc vào lúc xế bóng về chiều, mái tóc muối tiêu [a mid-life gift to himself].
Sự nổi tiếng của một số tác giả ở trong nước, sau 1975 thí dụ như NHT, DTH, BN, có dư luận hải ngoại cho rằng, họ ảnh hưởng văn chương miền nam trước 1975. Tôi nghĩ, có. Chiến thắng miền nam, và thực thế phũ phàng sau đó, làm sao không ảnh hưởng lên bất cứ một người viết?  Đoạn cuối Nỗi Buồn Chiến Tranh, đọc, thấy phảng phất Tiếng Động của Thanh Tâm Tuyền. Tướng Về Hưu có không khí hiện sinh của một thời hậu chiến ở bên...  Tây. Thiếu, là thiếu một tiếng hát, của Gréco, và một điệu Jazz, thí dụ, some of these days... Một ngày nào, anh sẽ nhớ em...  của La Nausée.
Thiệp có thể "mơ hồ" cảm nhận ra sự thiếu sót đó, và thay bằng tiếng hát... nữ thuỷ thần.

Kinh nghiệm đọc Buồn Nôn
Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập tành viết lách. Nhưng sự vỡ mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu. Trong bài viết The Mandarin, ông  không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre, Buồn Nôn. La Nausée. (1)
Kinh nghiệm đọc Buồn Nôn


*

"Je serai ta femme". LH 16.8.1967
... sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
 Thời gian
 Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.

 

Gấu làm quen với tờ Văn bằng truyện ngắn Thời gian. Truyện thứ nhì, sau truyện đầu tay trên Nghệ Thuật. Những Ngày ở Sài Gòn.

NĐT order, ngay lần đầu gặp, tại phở 44, Phan Đình Phùng.

*
Gấu sống, là nhờ được thay máu. Đêm đầu tiên, nằm phòng hậu-giải phẫu, đau quá, Gấu lăn lộn, vết thương nứt, máu chảy thành vũng dưới sàn giường. Sáng sớm, vừa cho phép thân nhân vô phòng, bà cụ lao vội vô, thấy thằng cu Gấu nằm ngay đơ, sợ quá la lên, y tá tới, tiếp máu liền tù tì, may thoát.

*
Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, khi chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình, chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật rõ ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng sẽ được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì giờ để nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó chẳng liên can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu không đã chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng ân hận, là chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết, "Chúng ta không sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta yêu thương nhau nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như vậy, và chẳng thể nào khác.
Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Trong khi lần hồi sống lại, trong những lần nàng vào nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện, khi được tin, nàng đã khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và người trong nhà sẽ biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa hổ thẹn...
Thời gian
*
Bây giờ, sắp xuống lỗ, Gấu nhận ra, không phải đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, mà là đêm đầu tiên, nằm phòng hậu giải phẫu trên.
Thời gian Gấu nằm nhà thương Đô Thành, LH không tới thăm.
Tức là cái đêm tí nữa thì đi, đúng như định mệnh phán bảo, nhưng do LH không làm sao kiếm cớ ra khỏi nhà, nên định mệnh lại phán tiếp, thôi tha cho nó!
*
Gấu ăn tới hai trái claymore của mấy ông biệt động thành. Cú thứ nhất, gẫy cánh tay trái, giống như một nhánh cây bị bẻ, gập đôi lại. Cú thứ nhì, thủng bụng. Khi được đưa vô nhà thương Đô Thành, bác sĩ băng bó tạm cánh tay, lo giải phẫu vết thương bụng. Tay, cùng lắm thì cưa bỏ, bụng để lâu là đi. Một tay bác sĩ người Đức mổ.
Trong khi chờ vết thương bụng lành dần, cánh tay bốc mùi, kiến bu đen kịt mớ băng dính đầy máu. Đúng lúc đó, tổng giám đốc Bưu Điện, cũng là thầy của Gấu, ông Nguyễn Văn Điều, vô thăm, ông lắc đầu, ra lệnh, cho nó vô Grall liền. Tao trả tiền. Grall là nhà thương tư của Pháp. Cỡ Gấu không làm sao vô đó nổi.
Tao trả tiền, có  nghĩa, nhà nước trả tiền, trừ dần vào lương Gấu sau đó. Chỉ có ông mới quyết định được chuyện này.
Thành ra, "tha cho nó", còn sướng như vậy nữa!
Khi nằm nhà thương Đô Thành, tay Dirck Halstead, sếp UPI của Gấu vô thăm, hỏi nhà thương, hết bao nhiêu. Và anh xỉa tiền cho Gấu. Gấu bỏ túi. Đúng là "tha cho nó"!
Nhưng qua tới nhà thương Grall, UPI Nữu Ước lắc đầu, mày là nhân viên part time của chúng tao, không phải staff. Ít thì tao cho, nhiều quá, để VNCH, tức Bưu Điện của mày lo!
Không có thầy Điều, thì cũng thành độc thủ đại hiệp. Độc thủ, độc nhãn, thành Lưỡng Độc Đại Hiệp!
Ông TBT, trưởng đài, sếp của Gấu, may được một anh MP Mẽo, thường lên Đài nói chuyện với gia đình ở Mẽo, nhận ra, gọi xe cứu thương đưa liền vô bệnh viện của Mẽo. Sau đó, anh cũng qua Grall, nhưng chỉ để nằm chờ cho vết thương lành lặn. Anh kể lại, tao thấy tay bác sĩ Danney [hay Daney], vô phòng mổ ngay sáng sớm, tới đâu 4, hay 5 giờ chiều mới ra, đi không nổi, bước loạng choạng!
Phòng của anh nằm ngay phiá bên ngoài phòng mổ.
*
Vào thời kỳ Gấu ăn mìn claymore, nhân loại chưa phát minh ra chất inox. Để thay cho khúc xương bị mìn claymore thổi bay biến vào hư vô, bác sĩ sử dụng một thanh kim loại, không biết chất gì, nhưng được mạ bằng platine, tức vàng trắng. Gấu sau đó phải trả mấy năm mới hết nợ nhà nước.
Gấu lần đầu làm quen morphine, là do những ngày nằm nhà thương, sau vụ mìn nổ.
*

Thú thực, Gấu này chưa từng thấy, một quốc gia nào làm nhục người dân của nó, như đám VC trong nước.
Những người cầm viết, nếu có một chút lương tri, là cảm thấy nhục nhã, hơn lên, không biết bao nhiêu ngàn lần.
Không phải người cầm bút thì khác người dân thường. Nhưng, vì đã chọn cái nghề cầm bút như là nghiệp của mình, thì thường là, nhạy bén hơn, trong cái việc cảm thấy nhục nhã.
Và thường hay bị con bọ lương tâm cắn rứt hơn!
Lấy trường hợp Gấu, làm trang Tin Văn, một mình một chợ, muốn viết gì thì viết, và khi viết, chỉ phải đối diện với lương tâm của mình. Lỡ viết câu nào không đặng, đọc lại, nghe lương tâm phán, câu này không được, là delete.
Bịt miệng người dân, cho cả thế giới nhìn thấy, rồi sau đó bào chữa, làm vậy không đúng, vậy mà còn có kẻ thổi ống đu đủ, Ngài Chủ Tịch nước thật là "bản lãnh", mới dám 'nhận lỗi' như vậy!
*
Tin Văn xuất hiện như vậy là cũng được vài niên, từ 17, Tháng Năm 2003, không kể thời gian ăn nhờ ở đậu bên VHNT của PCL trước đó. Vậy mà, duy nhất chỉ có một lần, cơ quan quản lý tên miền gửi email, nhắc nhở, này, có gì thay đổi không đấy, nếu vũ như cẩn, thì OK, khỏi phải trả lời.
Sắp tới sinh nhật Gấu, nên đi vài đường cảm khái, mong bạn đọc, và VC, thông cảm! NQT
*
Réfugiés
« Le malheur ? Ils s'en accommodaient. L'environnement hostile ? Ils l'acceptaient. Comme la tempête, le froid, la sécheresse. La haine, la cruauté, la mort: on s'y habituait. Tout cela faisait partie de l'exil. Puisqu'il fallait vivre, autant se familiariser avec ses obstacles. »
Elie Wiesel
*
Bernard Kouchner - đại ân nhân của người Việt tị nạn, nhờ có ông mà có con thuyền cứu người vượt biển Đảo Ánh Sáng, ông còn là người sáng lập cơ quan "Y sĩ không biên giới", bất cứ người tị nạn nào đều biết tới, hoặc đã từng chịu ơn - mở ra chương Tị nạn, Réfugiés, trong cuốn Bất hạnh của những kẻ khác, Le malheur des autres, bằng câu trên, của Elie Wiesel, Nobel hòa bình, sống sót Lò Thiêu.
"Bất hạnh ư? Họ làm quen. Môi trường thù nghịch ư? Chấp luôn. Chấp luôn, nào bão tố, nào lạnh lẽo, nào khô cằn. Thù hận, độc ác, cái chết, làm quen luôn. Tất cả những thứ đó, thuộc về lưu vong, làm nên lưu vong. Và, bởi vì phải sống, thì phải làm quen với đủ thứ trở ngại."
*
Ông lập luận, nếu nhân loại tranh đấu, để loài vật, thí dụ loài voi, không bị tận diệt, thì cũng vậy, tị nạn cần được bảo vệ.
Ông vinh danh Sartre, sau khi hết còn bị Cộng Sản bỏ bùa mê, đã cùng với ông tranh đấu cho con thuyền Đảo Ánh Sáng, với câu nói tuyệt vời:
"Trước tiên hãy lo cứu những xác người!" ["D'abord sauver les corps"].
Quả là tuyệt vời, bởi vì đây là câu Sartre mượn Camus.
Một người bạn, và cũng là, kẻ thù, của ông.
*

Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của Pushkin."]
TTT: Trong đất trời

Liệu Gấu này có ngoa ngôn, khi dõng dạc phán: Cả một sự nghiệp 'đường ra trận...', 'mãi mãi tuổi hai mươi', cả một 'nhật ký họ Đặng'... sánh không bằng 'nửa' lời ca của Trần Thiện Thanh: Trong khói súng xây thành, mắt quầng thâm mất ngủ... Sao không hát cho những bà mẹ già, những người còn mải mê, những người vừa nằm xuống chiều qua? (1)
Nếu phải nhìn lại cuộc chiến, thì, một điều hiển nhiên, giải thích thái độ chống đối nhà nước VC, của cộng đồng hải ngoại, là do những gì xẩy ra sau đó, và tiếp tục xẩy ra cho đến ngày nay, đối với dân chúng ở cả hai miền.
Từ đó, suy ra: tất cả những ai dung thứ cho chế độ đó, đều là VC hoặc những kẻ cùng hưởng lợi với họ.
(1) Trong cuốn DVD tưởng niệm Trần Thiện Thanh, người ta được biết, bản nhạc Rừng Lá Thấp, có những lời ca như trên, được Trần Thiện Thanh sáng tác trong vụ Mậu Thân, nhân cái chết của một bạn thân, sĩ quan VNCH.
Nhật Ký
*
Chống Cộng điên cuồng?
Nhưng Cộng nào, mới là vấn đề.
Trước 1975, gần như không có chống Cộng, đừng nói Chống Cộng điên cuồng, trừ một thiểu số, có thân nhân bị họ giết hại, hay một đấng tiên tri, hiểu hơn hết cả mọi người, nếu Cộng thắng, là sẽ khủng khiếp lắm, là sẽ xẩy ra hiện tượng Chúa Sẩy Thai.
Sau 1975, Chống Cộng điên cuồng như thế, vẫn chưa đủ.
Phải làm sao y hệt như trước 1975, nhưng ngược lại, nghĩa là, cả nước, cả trong lẫn ngoài, cả ở trên trời lẫn dưới đất, cả ở thiên đường, lẫn địa ngục, đều Chống Cộng điên cuồng!
Gấu, nhà văn


Kỷ Niệm TV

**

Call For The Dead

Cái đoạn sau đây, thật tuyệt. Nó cho thấy, tài năng của một nhà văn bậc thầy, theo nghĩa, chỉ bậc thầy, vào phút chót, mới tìm ra được sinh lộ, cho mình, và tác phẩm của mình.

Viết, là nó phải như thế, chứ đâu phải cái trò hề, vỗ ngực xưng tên, tao là nhà văn, là nhà phê bình, nhà khảo luận đâu!

Theo nghĩa trên, nhiều người, trong có Borges, coi, tiểu thuyết trinh thám mới thực sự là… văn chương!

Smiley was tired, deeply, heavily tired. He drove slowly homewards. Dinner out tonight. Something rather special. It was only lunch-time now - he would spend the afternoon pursuing Olearius across the Russian continent on his Hansa voyage. Then dinner at Quaglino's, and a solitary toast to the successful murderer, to Elsa perhaps, in gratitude for ending the career of George Smiley with the life of Sam Fennan.
He remembered to collect his laundry in Sloane Street, and finally turned into Bywater Street, finding a parking space about three houses down from his own. He got out carrying the brown paper parcel of laundry, locked the car laboriously, and walked all round it from habit, testing the handles. A thin rain was still falling. It annoyed him that someone had parked outside his house again. Thank goodness Mrs Chapel had closed his bedroom window, otherwise the rain would have ...
He was suddenly alert. Something had moved in the drawing-room. A light, a shadow, a human form; something, he was certain. Was it sight or instinct? Was it the latent skill of his own tradecraft which informed him? Some fine sense or nerve, some remote faculty of perception warned him now and he heeded the warning.
Without a moment's thought he dropped his keys back into his overcoat pocket, walked up the steps to his own front door and rang the bell.
It echoed shrilly through the house. There was a moment’s silence, then came to Smiley's ears the distinct sound of footsteps approaching the door, firm and confident. A scratch of the chain, a click of the Ingersoll latch and the door was opened, swiftly, cleanly.
Smiley had never seen him before. Tall, fair, handsome, thirty-five odd. A light grey suit, white shirt and silver tie - habillé en diplomate. German or Swede. His left hand remained nonchalantly in his jacket pocket.
Smiley peered at him apologetically: 'Good afternoon. Is Mr Smiley in, please?'
The door was opened to its fullest extent. A tiny pause. 'Yes. Won't you come in?'
For a fraction of a second he hesitated. 'No thanks.
Would you please give him this?' He handed him the parcel of laundry, walked down the steps again, to his car. He knew he was still being watched. He started the car, turned and drove into Sloane Square without a glance in the direction of his house. He found a parking space in Sloane Street, pulled in and rapidly wrote in his diary seven sets of numbers. They belonged to the seven cars parked along Bywater Street.
What should he do? Stop a policeman? Whoever he was, he was probably gone by now. Besides there were other considerations. He locked the car again and crossed the road to a telephone kiosk. He rang Scotland Yard, got through to Special Branch and asked for Inspector Mendel. But it appeared that the Inspector, having reported back to the Superintendent, had discreetly anticipated the pleasures of retirement and left for Mitcham. Smiley got his address after a good deal of prevarication, and set off once more in his car, covering three sides of a square and emerging at Albert Bridge. He had a sandwich and a large whisky at a new pub overlooking the river and a quarter of an hour later was crossing the bridge on the way to Mitcham, the rain still beating down on his inconspicuous little car. He was worried, very worried indeed.
*

Trong cuốn này, có hai cú thần sầu.
Smiley trước khi về nhà, ghé tiệm giặt ủi lấy quần áo. Về tới nhà, tính lấy chìa khoá mở cửa, nhưng "linh tính mách bảo", thay vì vậy, lại giơ tay gõ. Cửa mở, một ông thò ra, anh lễ phép nói, đại khái, tôi là nhân viên tiệm giặt ủi, tới giao quần áo…
Tay sát thủ, do cũng không rành mặt S. nên bị lừa, nhưng liền sau đó, hắn làm thịt, hụt, S.
Cú thứ nhì, là cú xẩy ra trong The Last Act.
Màn này mới đúng là mise en abime, kịch trong kịch.
Một tuyệt cú. Chính cú này mới thực sự cho chúng ta thấy tài nghệ của Le Carré.
Salman Rushdie đọc không nổi Le Carré, chê dài dài, trong một viết in trong Quê hương tưởng tượng. Có vẻ như tay này không mê truyện trinh thám, điệp viên.
Nhưng Ông Trời quả là thương Gấu, sợ Gấu bỏ qua, và sợ Gấu buồn, trong những nằm tù tại nhà tù quốc tế Bangkok, bèn nhờ anh bạn tù người Malaysia nằm kế bên đưa cho Gấu cuốn này.
Nhờ đọc nó, mà hồn ma của Gấu, ở trong những hang cùng ngõ hẻm, những ổ điếm, tiệm hút, những trại tù, sống dậy, và trở thành hồn thiêng của... Sài Gòn!
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…

*
Vòng hoa trao tặng Pamuk (1) vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó, là kết hợp của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok, câu trên, và ở trại tị nạn Thái Lan:
Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.
Lần Cuối Sài Gòn
(1)
"who in the quest for the melancholic soul of his native city has discovered new symbols for the clash and interlacing of cultures."
"Người mà trong khi tìm kiếm linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương của mình, đã khám phá ra, những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn quít lấy nhau, của những nền văn hoá."

Tuyệt!
*

Cuốn tiểu thuyết giới thiệu với chúng ta, anh chàng điệp viên cù lần bị vợ bỏ: George Smiley




Adam Zagajewski


Dọn Tiếp!

Nguyễn Hưng Quốc – Chế độ kiểm duyệt sách báo tại Việt Nam

Note: Lại bổn cũ post lại!
Chán thiệt.

Nhà phê bình ít đọc, thành ra không thể nào hiểu được cái chuyện phê bình ở một chế độ toàn trị, nó khác hẳn với mọi nơi chốn khác.
*

Để chống lại chủ nghĩa toàn trị, bạn chỉ cần nhớ, có mỗi một điều này: Chủ nghĩa toàn trị nhất quyết không thí cho bạn một tí tự do nào.
Hannah Arendt: Về bản chất của chủ nghĩa toàn trị.
Nguyên bản tiếng Anh: In order to fight totalitarianism, one need understand only one thing: Totalitarianism is the most radical denial of freedom.
Không thí cho một tí nào, mấy cha có hiểu, nghĩa là gì không?

Ceux qui ne tirent pas les leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải sống lại nó.
Hannah Arendt.
Bà còn nói một câu hay lắm, để Gấu 'search', sau, đại khái, chủ nghĩa toàn trị thủ tiêu chúnh trị.
Chỉ có Đảng. Chấm hết!

*

Hannah Arendt pendant le procès Eichmann à Jérusalem, en 1961. Elle suit le procès pour le New Yorker. Eichmann va lui inspirer une définition de la nature du mal: ce ne serait ni de la méchanceté, ni de la stupidité, mais quelque chose comme de la bêtise: l'absence de la force de juger.
Hannah Arendt khi đang theo dõi vụ xử Eichmann cho tờ The New Yorker. Nhờ Eichmann bà ngộ ra, về một định nghĩa, về bản chất của cái ác: nó không phải là tính độc ác, cũng không phải sự ngu si, nhưng mà là một điều gì đó giống như sự bố lếu bố láo, chẳng ra cái chó gì hết, lãng nhách, nhảm, đại nhảm, la bêtise: không có sức mạnh để mà phán đoán, quyết định. (1)

Ui chao, đọc chuyện "chở sách về tù VC", thơ từ đâu tới, biên tập, kiểm duyệt… thấy đại, đại nhảm!
Chuyện ruồi bu!
Bà Hannah Arendt nói tiếng Mít, như thế! 

(1)
La bêtise.
Nếu, chủ nghĩa Cộng sản là một sự sỉ nhục trí thông minh con người, thì cái ngu si, tầm bậy, la bêtise, của nó, giống như sợi chỉ đỏ, xuyên suốt tác phẩm của Raymond Aron. Tiếp theo những nghiên cứu của Élie Halévy về bản chất của những chủ nghĩa toàn trị và sự yếu hèn của dân chủ, Aron nắm lấy đề tài này, ngay từ năm 1937, trong một viết về chính trị kinh tế của Mặt trận bình dân. Áp dụng vào giới trí thức, trong một bài viết trên tờ Le Figaro, vào năm 1948, Aron đề ra, "nghịch lý của chủ nghĩa Cộng Sản": "Coi như giai đoạn giải phóng con người, một chế độ tạo ra những trại tập trung cải tạo, những tờ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, tức những tờ thông hành chỉ để đi lại trong chính quê hương của họ, một hệ thống cảnh sát trị còn khốn kiếp hơn cả dưới thời đại vua chúa, như vậy là vượt quá giới hạn của sự ngu đần, vậy mà về lâu về dài, mấy đấng trí thức cũng đành chấp nhận.”
Điều mà Aron kết án, thực ra, 'nhẹ' về phần đồng ý gật đầu chấp nhận, tham gia vào ý thức hệ [Cộng sản], nhưng 'nặng', về phần mà ông gọi là sự "đồi bại trí thức". Chính sự đồi bại trí thức đã đưa đến hóa trang [maquiller] thực tại, đánh bóng mạ kền, bôi son đánh phấn cho nó, và vặn vẹo, bóp méo tính hợp lý, nhờ nó mà một sử gia theo dõi bước đi của lịch sử. Cú phạng này của ông, là trung tâm tác phẩm Thuốc phiện của trí thức, dữ dằn, nhức nhối đến nỗi, đám trí thức lầu bầu, thà lầm với Sartre còn hơn có lý với Aron.
Nhật Ký Tin Văn: Điềm

11.8.2007
Nguyễn Đức Tùng
1. Bài của Likhachev, “Phẩm tính trí thức”, là bài rất có ích cho các nhà văn. Tôi đặc biệt chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức Nga, cũng như đoạn về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ không phải là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner? Tuy nhiên theo thiển nghĩ của tôi, sự phân chia hướng Âu hay Á-Âu thật ra không quan trọng lắm.
2. Nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc về tuyên bố của Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông rất chính xác, thẳng thắn, mà vẫn có ý vị văn chương. Tôi rất thích đoạn ông bắt bẻ về vụ mười chữ và năm từ. Thật ra từ vẫn gọi là chữ được, vì từ hay chữ chỉ là qui ước của các nhà ngữ pháp sau này thôi, chứ lúc tôi còn đi học không có sự phân biệt đó. Vấn đề chính là, đúng như Nguyên Ngọc nói, nói năm từ hay chữ (đôi) thì đúng hơn là nói mười chữ. Mười chữ đơn lẻ không có nghĩa gì cả. Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
3. Nhờ cái link của talawas mà tôi cũng đọc được bài “ Hồ Anh Thái có sợ giải thiêng?” trên VietNamNet nói về tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Cuốn này có trích đăng trên talawas chủ nhật, tôi chưa kịp đọc, nhưng Hồ Anh Thái thì tôi có đọc qua một hai cuốn khác vì bạn bè khuyên. Tôi cũng chưa đọc Phạm Xuân Thạch bao giờ, không biết ông có ký tên nào khác không, hay chỉ vì tôi ít đọc các nhà văn trong nước. Bài của ông làm tôi ngạc nhiên quá: tôi lấy làm mừng cho nền phê bình văn học Việt Nam. Ít ra cũng phải có những bài review mạnh mẽ, thuyết phục, khen chê rõ ràng như vậy. Thường thì các nhà phê bình Việt Nam chỉ khen các nhà văn nhà thơ chứ không chỉ ra được cho họ các khuyết điểm nghệ thuật cần tránh.
Xin cám ơn La Thành, Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Thạch, và Ban biên tập talawas.
Nguồn

Cái tay thi sĩ, tác giả "thư thi sĩ" trên talawas, là một người, có một thời, rất thân quen với Gấu, ở ngoài đời. Gấu gặp ông lần thứ nhất, khi mới từ trại tị nạn qua, còn ông thì từ một bang khác chuyển về, trong bữa tiệc tất niên, có sự hiện diện của ông nhà văn họ Nguyễn, sau kiêm thêm nghề MC, cũng dân Sơn Tây như Gấu.
Ông giới thiệu cả hai, tuy không ngồi chung bàn, với cộng đồng. Sau đó, có một đêm, thi sĩ ghé building Gấu ở, trong một căn hộ tít trên thượng tầng, ngó ra ngoài trời đầy sao, là cả một vùng trời sáng rực của thành phố, ngủ lại, và cả hai uống rượu, nói về thơ, suốt đêm, tới sáng.
Đó là thời gian Gấu tính bye bye văn chương, chuyên làm một anh bán bảo hiểm. Và đêm hôm đó, là đêm từ giã những con chữ. Cảm khái lắm. Đau thương lắm.
Hoá ra là đêm đó, có tới hai thằng từ giã thơ!
Không hiểu, sau khi đọc những gì mới đây Gấu viết, ông còn tí thiện cảm nào dành cho Gấu không.
Nhưng, như Gấu đã từng viết, về câu cách ngôn Tầu mà Brodsky rất khoái, bệ lên đầu một bài essay của ông:
Cứ kiên trì ngồi bên bờ sông, là có ngày nhìn thấy xác kẻ thù trôi qua.
Tất cả chỉ là cơ duyên. Hết duyên thì tới nợ. Vậy thôi.
*
"Nhưng Lưu Hiểu Ba nói có mấy câu mà giờ thành tội phạm. Ông nói tôi nghe Hiến pháp Trung Quốc viết cho ai. Tôi không biết nữa."
BBC

Đọc bài viết của nhà phê bình post lại, mới thấy, Gấu thật ‘la bêtise’ khi lỡ đụng vô ông!
Rõ ràng là cuốn sách của ông chỉ toàn là những cóp nhặt, hết thông tin, thông báo, thông cáo, nghị quyết, cộng thêm ba cái giai thoại nào là về Nguyễn Tuân, Nguyễn Đăng Mạnh…. về chế độ kiểm duyệt của VC.
Trong khi đó, chỉ cần đọc một câu của Hannah Arendt là tỉnh hẳn giấc mơ VC, là cương quyết không thèm len lén về, dủ chỉ một lần, đừng nói đến hai, và ngẩng đầu, ngửa cổ lên trời, than, giá mà ngày ấy Bác cứ ôm mấy cục gạch ấm áp cũng được, đừng đọc Lenin cho dân Mít mhờ!
*
Đau nữa, là bà chị Sến lại còn lôi vết thương ra, mà sát thêm muối vô, khi hỏi khéo anh Triết Mù, tại sao mà VC đối xử, nhất bên trọng nhất bên khinh, một bên thì còi hụ, một bên thì lót lá chuối!
Độc, độc thật!
Có vẻ như bà chị biết trước, thằng em sẽ không thèm nhắc đến Chợ Cá, khi xuống đường, làm cách mạng Mạng Hóa!


A Letter to Su T’ung Po
          by W. S. Merwin

        
Almost a thousand years later
I am asking the same questions
you did the ones you kept finding
yourself returning to (1)
as though
nothing had changed except the tone
of their echo growing deeper
and what you knew of the coming
of age before you had grown old
I do not know any more now
than you did then about what you
were asking as I sit at night
above the hushed valley thinking
of you on your river that one
bright sheet of moonlight in the dream
of the water birds and I hear
the silence after your questions
how old are the questions tonight

Thư gửi Tô Đông Pha

Gần một ngàn năm sau
tôi đang hỏi chính những câu hỏi ông đã hỏi
những câu hỏi ông cứ tự mình tìm kiếm
quay trở lại như thể chẳng có gì thay đổi
ngoài âm sắc tiếng vọng lại của chúng trở nên sâu hơn
và những điều ông biết về tuổi thành niên trước khi ông lớn lên
tôi chẳng biết hiện nay hơn gì ông đã biết khi đấy
về những điều ông đã hỏi giống như tôi ngồi trong đêm
bên trên thung lũng lặng câm nghĩ về ông trên dòng sông của ông
một dải lấp lánh ánh trăng trong giấc mơ về những con chim nước
và tôi nghe thấy sự im lặng sau những câu hỏi của ông
bao nhiêu tuổi những câu hỏi đêm nay.

Bài thơ này, thấy trên Blog Đông A. Theo Gấu, có mấy chỗ dịch chưa tới.
(1) Không phải “ông tự mình tìm kiếm”, mà là “những câu hỏi mà ông tìm kiếm, và ông tự mình trở lại với chúng”
(2) ‘had grown’, past perfect, đi trước “knew”, past. Như vậy nên dịch là, "ông đã từng trải để mà hiểu chuyện đời xấy ra tiếp theo sau đó".
Chúng ta biết, thì hiện tại hoàn hảo là để bảo đảm cho thì hiện tại. Thí dụ, I have just finished my reading when she arrives” Tôi vừa đọc xong thì em tới. Câu đánh số 2, ý nghĩa cũng giống như vậy.
[Cái này là múa rìu qua mắt thợ. Xin nhờ mấy đấng Trùm tiếng Ăng Lê chỉ giáo. NQT]

Solzhenitsyn's widow cuts 'Archipelago' to student size
Alexander Solzhenitsyn's widow has abridged his watershed book, "The Gulag Archipelago", for students in Russia in the latest move to rehabilitate the Soviet-era dissident, newspapers said Friday.
Natalya Solzhenitsyn said she cut her husband's monumental three volume work by 80 percent to be palatable to students and hoped it would be taught as early as next year.
"We had to cut it by about five times.... But I hope that I managed to keep the distinctness of every line and not lose the heat, anger, passion and humor of the original," she told the Nezavisimaya Gazeta.
"The book has become so thin, it seems to me it will not only be possible for school children to get through but also fascinating to them."
Readings from the once-banned book were added to the school curriculum this year by the ministry of education.
Solzhenitsyn's 64-chapter tome on the network of forced labor camps in which millions perished came to symbolize institutionalized repression under Soviet dictator Joseph Stalin.
"Readers must understand (from the book) that the Gulag was a system. They must understand its spread over the country," Natalya Solzhenitsyn said.
Two of the dissident author's other works - the far shorter "One Day in the Life of Ivan Denisovich" and "Matryona's House" which are both equally critical of the communist regime - are already part of the Russian curriculum.
But his writings remain controversial as Russia has yet to face up in full to its traumatic recent history, Soviet secret police archives stay sealed, and Stalin is viewed by many as an unimpeachable hero for his role in defeating Nazi Germany in World War II.
Solzhenitsyn, who died last year aged 89, won the Nobel Peace Prize for Literature in 1970. He was expelled from the Soviet Union in 1974 after authorities discovered manuscripts for "The Gulag Archipelago".
He lived in exile for 20 years in Germany, Switzerland and later the United States before returning in 1994 after the fall of communism.
Nguồn

Note: Quả có cái vụ eVăn loan báo thiệt. Nhưng không phải cuốn đã được Solz cho phép rút gọn. Cuốn mới này còn mỏng hơn nữa.