*
















Thu 2009

*

Breaskfast @ Tim Hortons

*

Bếp Lửa


 http://www.youtube. com/v/0LQFVPMA9r E
Anh chàng Anh này hát Diễm Xưa
Nghe anh ta nói chuyện ở đây

Tks K. NQT


L'ethnologue Claude Lévi-Strauss est mort
Nhà nhân chủng học Claude Lévi-Strauss đã mất

The paradox is irresoluble: the less one culture communicates with another, the less likely they are to be corrupted, one by the other; but, on the other hand, the less likely it is, in such conditions, that the respective emissaries of these cultures will be able to seize the richness and significance of their diversity. The alternative is inescapable: either I am a traveller in ancient times, and faced with a prodigious spectacle which would be almost entirely unintelligible to me and might, indeed, provoke me to mockery or disgust; or I am a traveller of my own day, hastening in search of a vanished reality. In either case I am the loser…for today, as I go groaning among the shadows, I miss, inevitably, the spectacle that is now taking shape.
—from Tristes Tropiques
Sunsan Sontag: A Hero of our Time


Secret Love in the Lost City
By Pico Iyer
The Museum
of Innocence
by Orhan Pamuk

Istanbul, with its many signs of the time when it was the center of the world, becomes something of a museum in the work of Orhan Pamuk, a writer clearly in love with memory itself, and his hometown, and everything that's been lost there. In his 2003 memoir, Istanbul, the five-story Pamuk Apartments in which he spent nearly all his first five decades are described as a "dark museum house," cluttered with sugar bowls, snuffboxes, censers, pianos that are never played, and glass cabinets that are never opened. The people inside the rooms have something of a neglected and left-behind quality, too; they're devoutly attentive to the fashions and perceived habits of Europe, and yet they know (or at least their sharp-eyed chronicler does) that Europe is spending very little time thinking of them.
Istanbul với rất nhiều dấu vết, ký hiệu của cái thời mà nó còn là một trung tâm của thế giới, trở thành một điều gì giống như một bảo tàng viện trong tác phẩm của Pamuk, một nhà văn rõ ràng là tương tư ngay chính cái gọi là hồi ức, kỷ niệm, thành phố quê hương của ông, và tất cả những gì đã mất.
Trong hồi ức xb năm 2003 của ông, “Istanbul”, căn nhà của ông mà ở đó, ông trải qua gần như năm thập niên của đời mình đã được miêu tả giống như một “căn nhà viện bảo tàng âm u”....

At a very early point in The Museum of Innocence, the narrator refers to himself as an "anthropologist of my own experience." Later he will see himself as an "anthropologist" of his own society, as if describing it "to someone who knew nothing about Istanbul.

Ở những đoạn mở ra Bảo Tàng Viện của sự Ngây Thơ,  người kể chuyện tự coi mình như là một nhà “nhân chủng học của kinh nghiệm của riêng anh ta”. Dần dà, anh thấy mình như là một nhà nhân chủng học của cái xã hội của riêng anh ta, và miêu tả nó, cho một kẻ nào chẳng biết một tí chó nào về Istanbul.

Ui chao, câu trên chẳng là của Gấu hay sao, về Sài Gòn, về cái xã hội của riêng Gấu, [trong có Quán Chùa, Quán Đen Cây Da Xà, Nancy, Trại Tù Đỗ Hòa...], và miêu tả nó, cho những kẻ chẳng biết gì về chúng ?

Quái đản thật, ông Pamuk này, thấy Gấu quá bận rộn vì truy đuổi Cái Ác Bắc Kít, bèn viết giùm Gấu, nỗi nhớ Sài Gòn.
Thú nữa, là, Viện Hàn Lâm, khi phát cho ông ta cái giải Nobel, cũng muợn luôn hai vòng hoa của Gấu choàng cho Sài Gòn, để choàng cho Istanbul của ông!
Tuyệt!

"Người mà trong khi tìm kiếm linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương của mình, đã khám phá ra những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn quít lấy nhau của những nền văn hoá."
Vòng hoa trao tặng Pamuk vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó, là kết hợp của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok và trại tị nạn Thái Lan:

Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể...

Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.

Lần Cuối Sài Gòn

Lại 'tự sướng', tự huyễn hoặc về mình rồi, ông Gấu ơi!
Tội nghiệp ông quá!

Nói vậy, chứ, rảnh rồi, bi giờ Gấu sẽ tự viết, về Sài Gòn, của riêng Gấu, đếch cần đến ông Pamuk nữa!
Bảo đảm, sẽ bảnh hơn Pamuk, vì Pamuk làm gì có nhà tù Đỗ Hòa, làm gì có Cái Ác Bắc Kít!
Làm gì có Quán Chùa, Quán Đen?


Sách mới xb TMT

Đọc TMT

A poet's prose is the autobiography of ardor. All of Tsvetaeva's work is an argument for rapture; and for genius, that is, for hierarchy: a poetics of the Promethean. "Our whole relation to art is an exception in favor of genius," as Tsvetaeva wrote in her stupendous essay "Art in the Light of Conscience." To be a poet is a state of being, elevated being: Tsvetaeva speaks of her love for "what is highest." There is the same quality of emotional soaring in her prose as in her poetry: no modern writer takes one as close to an experience of sublimity. As Tsvetaeva points out, "No one has ever stepped twice into the same river. But did anyone ever step twice into the same book?"
Susan Sontag”, A Poet’s Prose
*
Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay.
TMT

Brodsky dẫn giải:
Verse meters in themselves are kinds of spiritual magnitudes for which nothing can be substituted," Brodsky writes. [Thơ vần, tự thân là giọt lệ trời, từ hàng ngàn năm trước, bây giờ mới rớt tới bàn tay của nữ thi sĩ, (1) và nếu như thế, làm sao có thể thay thế được?].
Chúng là một cách tái cấu trúc thời gian - ngàn năm trước nối lại với phút giây này, giây phút thần kỳ giọt lệ trời biến thành giọt lệ người: They are "a means of restructuring time".

Kundera dẫn giải:
Iliade hoàn tất trước khi thành Troie sụp đổ, vào lúc mà cuộc chiến còn chưa ngã ngũ, và con ngựa thần kỳ bằng gỗ chưa hề có ở trong đầu của Ulysse. Bởi vì đây là ý muốn, [“Tao thích như thế đấy”, mô phỏng ông Trùm Hàng Không VC, “Tao đếch thích như thế!”], của bậc thầy vĩ đại, tác giả sử thi vĩ đại đầu tiên của nhân loại:
Mi không được để cho trùng hợp [coincider] thời gian của những số mệnh cá nhân, với thời gian của những biến động lịch sử.
Bài thơ sử thi đầu tiên được tạo nhịp [rythmé] bởi thời gian của những số mệnh cá nhân.

Trường hợp của Solz, của Kafka, nếu như thế, thì là do, thời của số mệnh của riêng cá nhân họ trùng hợp với thời của biến động lịch sử.
Y như giọt lệ trời, ngàn năm trước, nhờ ‘thời gian được tái sắp xếp’, ngàn năm sau, trở thành giọt lệ người!

Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.






Kỷ niệm, kỷ niệm

Tưởng niệm họa sĩ Ngọc Dũng

*

Tiểu sử “được phép”, của nhà thơ, do nhà thơ viết về mình, trong
Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta,
[còn có tên Hai mươi năm văn học Miền Nam] do Nguyễn Đông Ngạc xb, trước  1975.

Cái định nghĩa truyện ngắn của TTT, có lẽ chỉ đúng, cho một thứ truyện ngắn nào đó. Bởi vì có rất nhiều truyện dài, đã từ truyện ngắn mà ra đời, y hệt như truyện ngắn là cái dạng lỗ đen của nó, và khi lỗ đen nổ tung, chúng ta có một Big Bang, là truyện dài.
Dẫn chứng, quá nhiều.
Âm Thanh và Cuồng Nộ, chẳng hạn.
Faulkner, thoạt đầu viết, như là một truyện ngắn, thế rồi thì là tác giả quá mê cái cô bé con ở trong đó, không đành để cho cô chết tắc nghẹn như vậy, và viết thành truyện dài.
Những truyện dài của Kafka, đều là những truyện ngắn phóng chiếu lớn ra.


*

"Tay này không học bơi, theo chiều, hay nguợc chiều dòng nước"

Giả dụ đường đời bằng phẳng: chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu những kẻ chiến thắng trong cái chết, là những kẻ thành công trong cuộc đời (How different everything would have been "if they had been victorious in life who have won victory in death"). Danh vọng muộn, một điều chi rất ư kỳ cục, cho nên không thể trách cứ, rằng không có mắt xanh (người đời mù hết), hay là chuyện chiếu trên chiếu dưới, xôi thịt, tham nhũng... trong "đám" nhà văn, "ô nhiễm" trong "môi trường văn chương".
Bất tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay đắng cho một kẻ đi trước thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua, người chạy nhanh nhất đã mất hút trước khi người đời kịp nhìn...
Ngược lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù ít oi, giữa những kẻ ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông bán chừng vài trăm cuốn, nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản mạn này (chưa có một cuốn tiểu thuyết nào của Kafka được xuất bản): không nghi ngờ chi, đây là một trong những bậc thầy của văn xuôi hiện đại. Walter Benjamin cũng được vinh dự này. Bertolt Brecht, khi được tin ông mất, đã tuyên bố: đây là tổn thất thực, thứ nhất, mà Lò Thiêu đã gây ra cho văn chương Đức.

Hannah Arendt

Trong bài viết về ông, trên tờ Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín, 2009, có một chi tiết sai: ông mất ở Port-Bou, thuộc Tây Ban Nha, không phải Pháp.

Những Kỳ Tích về Walter Benjamin

"To great writers, finished works weigh lighter than those fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)

Ui chao, câu trên mà đề tặng Gấu Nhà Văn thì thật là tuyệt:
Bài viết nào cũng nhếch nhác, chẳng bài nào hoàn tất, chẳng biết khúc nào Gấu viết, khúc nào Gấu chôm chĩa!
Vẫn thua giấc đại mộng của Benjamin: Viết một đại tác phẩm, toàn trích đoạn, chôm của kẻ khác!


*

Tay văn sĩ Tây này, Gấu cũng tự mình khám phá ra [mình], lần mò mẫm khu sách Tây trong một thư viện Toronto, "vô tình" nhặt lên cuốn L’inespérée, và biết ngay đây là cuốn sách viết về cô bạn.

Bài Cầm Dương Xanh ra đời, đúng khi vừa đọc xong câu văn:
Gấu viết kể từ khi Cô Bạn đọc
Chữ sao muộn màng, so với cuộc đời của chúng ta. (1)

Sau khi gặp Con K. về [tên cô bạn cũng bắt đầu bằng chữ K!], bi giờ viết thêm, vưỡn còn kịp! (2)

(1) Anh viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta.
J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies.
Christian Bobin: L’inespérée.
(2)
Gấu có một kỷ niệm tuyệt tuyệt cú mèo, về cô bạn, kỷ niệm này liên quan đến Yanni, những ngày đầu đến xứ lạnh, cái dĩa CD đầu tiên được nghe, và “Sách Huyền”:
Anh vưỡn còn nghe Yanni?


*

Tao Ngộ

L'EXIL LIBÉRATEUR
SELON VERA LINHARTOVA

Vera Linhartova était, dans les années soixante, un des écrivains les plus admirés en Tchécoslovaquie, la poétesse d'une prose méditative, hermétique, inclassable. Ayant quitté le pays après 1968 pour Paris, elle s'est mise à écrire et à publier en français. Connue pour sa nature solitaire, elle a étonné tous ses amis quand, au début des années quatre-vingt-dix, elle a accepté l'invitation de l'Institut français de Prague et, lors d'un colloque consacré à la problématique de l'exil, a prononcé une communication. Je n'ai jamais lu, sur ce sujet, rien de plus non-conformiste et de plus lucide.
La seconde moitié du siècle passé a rendu tout le monde extrêmement sensible au destin des gens chassés de leur pays. Cette sensibilité compatissante a embrumé le problème de l'exil d'un moralisme larmoyant et a occulté le caractère concret de la vie de l'exilé qui, selon Linhartova, a su souvent transformer son bannissement en un départ libérateur « vers un ailleurs, inconnu par définition, ouvert à toutes les possibilités ». Évidemment, elle a mille fois raison! Sinon, comment comprendre le fait apparemment choquant qu'après la fin du communisme presque aucun des grands artistes émigrés ne s'est dépêché de rentrer au pays? Comment? La fin du communisme ne les a pas incités à célébrer dans leur pays natal la fête du Grand Retour? Et même si, à la déception du public, le retour n'était pas leur désir, n'aurait-il pas dû être leur obligation morale? Linhartova : «L'écrivain est tout d'abord un homme libre, et l'obligation de préserver son indépendance contre toute contrainte passe avant n'importe quelle autre considération. Et je ne parle plus maintenant de ces contraintes insensées que cherche à imposer un pouvoir abusif, mais des restrictions - d'autant plus difficiles à déjouer qu'elles sont bien intentionnées - qui en appellent aux sentiments du devoir envers le pays ». En effet, on rumine des clichés sur les droits de l'homme et on persiste en même temps à considérer l'individu comme la propriété de sa nation.
Elle va encore plus loin: «J'ai donc choisi le lieu où je voulais vivre mais j'ai aussi choisi la langue que je voulais parler.» On lui objectera: l'écrivain, quoique homme libre, n'est-il pas le gardien de sa langue? N'est-ce pas là le sens même de sa mission? Linhartova : « Souvent on prétend que, moins que quiconque, un écrivain n'est libre de ses mouvements, car il reste lié à sa langue par un lien indissoluble. Je crois qu'il s'agit là encore d'un de ces mythes qui servent d'excuse à des gens timorés ... » Car: « L'écrivain n'est pas prisonnier d'une seule langue. ». Une grande phrase libératrice. Seule la brièveté de sa vie empêche l'écrivain de tirer toutes les conclusions de cette invitation à la liberté.
Linhartova : « Mes sympathies vont aux nomades, je ne me sens pas l'âme d'un sédentaire. Aussi suis-je en droit de dire que mon exil à moi est venu combler ce qui, depuis toujours, était mon vœu le plus cher: vivre ailleurs.» Quand Linhartova écrit en français, est-elle encore un écrivain tchèque? Non. Devient-elle un écrivain français? Non plus. Elle est ailleurs. Ailleurs comme jadis Chopin, ailleurs comme plus tard, chacun à leur manière, Nabokov, Beckett, Stravinsky, Gombrowicz. Bien entendu, chacun vit son exil à sa façon inimitable et l'expérience de Linhartova est un cas limite. N'emmpêche qu'après son texte radical et lumineux on ne peut plus parler de l'exil comme on en a parlé jusqu'ici.

Lưu vong bảnh hơn giải phóng! (1)
Cả một nửa thế kỷ vừa qua nhân loại cực kỳ quan hoài tới số phận của những kẻ bị săn đuổi, bị đá đít ra khỏi quê hương của họ, nhưng, chính cái ‘bi kịch chính trị’ này lại là một khởi đầu giải phóng, “về một đâu đó, bất cứ đâu đâu, không hề biết đến, đúng như định nghĩa, mở ra mọi khả thể”, theo Vera Linharttova, một nữ văn sĩ Tchécoslavique.
Bà quá có lý, theo Kundera.
Nếu không, thì làm sao cắt nghĩa được cái điều thậm vô lý, là sau khi Đế Quốc Đỏ sụp đổ, đếch có một ông nghệ sĩ đại nghệ sĩ nào tức tốc trở về hôn Đất Mẹ?
Cuộc Trở Về Vĩ Đại của Đại Nhạc Sĩ Phạm Duy, trước cả khi Đế Quốc Mít Đỏ sụm bà chè, thí dụ, có ai thèm nhắc nhở tới đâu? Cứ giả dụ như công chúng Mít ở trong nước thất vọng về ông, hay cái đám nghệ sĩ VC sợ ông về tranh miếng ăn của họ, và đã nhắn nhủ, này, đừng có về, thì ông phải vẫn về, vì đây là trách nhiệm đạo đức của ông?
Linhartova trả lời: Nhà văn trước hết là một con người tự do, và bắt buộc phải giữ cho được độc lập, chống lại mọi trói buộc. Không phải trói buộc mà một nhà cầm quyền khốn kiếp đặt để, mà luôn cả những hạn chế, trong có cái gọi là, hãy về đi, khúc ruột ngàn dặm kia ơi, mi còn bổn phận trách nhiệm đối với quê hương Mít của mi! Mỗi cá nhân Mít chẳng phải là một tài sản của Gấu Mẹ Vĩ Đại, sao?
Bà còn đi xa hơn: “Tôi không chỉ chọn nơi mà tôi sống, mà còn cả cái ngôn ngữ mà tôi viết”
VC chửi bà: Nè, vừa vừa thôi, nhà văn Mít là tên lính canh của văn Mít, thơ Mít, tiếng Mít. Đó là “thiên chức” của mi đó.
(1) Cái tít, Gấu dịch ẩu. Đúng ra là, "lưu vong [như là] giải phóng"


Về Kinh Bắc


Phụ nữ và giả tưởng


Kun @ Mít


Tâm Tài Mỹ

Nguyễn Du nói, tâm bằng ba tài.
Brodsky, trong diễn văn Nobel, mỹ là mẹ của đạo hạnh (1).
Kafka, kỹ thuật là  “hữu thể”, [être], của văn chương.
Có vẻ như mấy ông này ăn nói ngược ngạo, giữa họ, nhưng, theo Gấu, cả ba, “tâm” “kỹ thuật”, “mỹ” đều liên quan tới, chỉ một câu hỏi, ‘viết thế nào’[comment écrire].
*
Et je pense à Soljenitsyne. Ce grand homme était-il un grand romancier? Comment pourrais-je le savoir? Je n'ai jamais ouvert aucun de ses livres. Ses retentissantes prises de position (dont j'applaudissais le courage) me faisaient croire que je connaissais d'avance tout ce qu'il avait à dire.
Kundera: Une rencontre

[Tôi nghĩ đến Solz. Con người vĩ đại này là một tiểu thuyết gia lớn? Làm sao tôi biết? Tôi có bao giờ đọc ông ta đâu? Cái trò lèm bèm tối ngày, xác định vị trí, thái độ của ông (tôi rất chịu sự can đảm của ông), khiến cho tôi có cái cảm tưởng là mình biết tỏng, từ khuya, ông viết lách ra làm sao rồi!]

Note: Câu này, [tặng bạn NL!], sai, theo Gấu.
Hoặc đúng, chỉ có một nửa.

Trước khi đọc Solz, Gấu cũng nghĩ như Kundera. Nhưng, đọc, mới vỡ ra là, Solz, “có thể” không phải là một tiểu thuyết gia lớn, nhưng là một nhà văn cực lớn, cực kỳ vĩ đại. Tác phẩm của ông chửi bố những Chuyện Kể Năm 2000, thí dụ, bởi vì, như cái tay Lý Trác Ngô đã từng phán, cái thứ nhà văn đích thực, họ đéo có thèm viết văn!
Ông Trời khốn kiếp đẩy họ vào cửa tử, không chỉ họ, mà còn toàn nhân loại, biểu họ đừng viết, đừng báo động ư?
Kafka cũng thế, ông nói, tuy ngược hẳn lại, vậy mà cũng theo nghĩa đó, thế mới quái đản, Ông Trời năn nỉ tôi, biểu đừng viết, nhưng tôi vẫn phải viết!

Cũng vẫn nằm trong câu cảnh cáo của Adorno:

Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có thêm sự huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability – (Phỏng vấn G. Steiner).
Đây cũng là lý do tại sao những vần thơ mộc mạc của Nguyễn Chí Thiện vẫn chuyển tải được Cơn Kinh Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực tại Việt Nam:

Còn Đảng là còn Khổ, 
Hết Đảng là có Phở!

 Chuyện Kể Năm 2000": Cái Đẹp và Con Thú

Khi Solz mất, Tin Văn đã đi một đường tưởng niệm thật chi ly về ông, chính là do ở trong nước Mít chưa hề biết đến ông!
Thảm thế đấy!
Bạn văn VC PXN của Gấu thì rất mê văn học Nga, nhưng mê toàn đồ dởm!

Solz mới đích thực là nhà văn hiện thực và đây là lời phán của ông Trùm phê bình Mác Xít, G. Lukacs, chứ không phải Gấu.

The Old Days
ZINOVY ZINIK
đọc
THE SOLZHENITSYN READER
Cuốn sách còn được viết như là một luận đề về sự sống sót. Giọng văn thì đã có từ tuyệt phẩm đầu tiên được xb, Một ngày (không có trong ấn bản The Solz Reader). Không giống một thiên tài khác cùng loại, Varlam Shalamov (một thứ Primo Levi của Nga), ông này coi trại tù là địa ngục hết thuốc chữa, nơi chất người kể như tiêu, giọng kể chuyện của Solz, là của một ngụ ngôn đạo đức của một linh hồn bị kết tội, tìm kiếm, bằng kinh nghiệm nhọc nhằn của cuộc sống tù đầy, ánh sáng của sự tươi trẻ trở lại.

Tribute to Solz

Điều tuyệt vời nhất, về Solz, Brodsky, là cả hai đều là tín hữu Ky Tô. Một cách nào đó, [cũng như Gấu này], nhà tù Liên Xô đã cứu thoát Solz! Nếu không đi tù là ông không làm sao tìm lại được niềm tin của mình. Thú thế!
Brodsky thì khỏi nói.
Milosz cũng là một tín hữu. Ba ông này đều khốn nạn vì…  VC cả!
Và đều thoát ra bằng niềm tin tôn giáo.

*

Bài điểm cuốn sách mới nhất về Solz, trên tờ Điểm Sách London, 11 Sept, 2008
Nhiệm vụ của Solz: Solz's Mission.
Nhiệm vụ gì?
Chàng ra đời, với số mệnh làm thịt Xô Viết, cũng như Lenin, ra đời, để xây dựng nó!
Like any prophet - like Lenin... he knew himself born to a historic destiny... In the end, his mission, like Lenin, succeeded. In fact, one might say that it succeeded at Lenin's expense, a triumphant negation of Lenin's success.
Cuốn sách khổng lồ, về tiểu sử Solz: gần 1 ngàn trang, với những tài liệu mới tinh, từ hồ sơ KGB.
Một David vs Soviet Goliath
What a fighter!
Chàng dũng sĩ tí hon chiến đấu chống anh khổng lồ Goliath Liên Xô mới khủng khiếp làm sao. Niềm tin của chàng mới ghê gớm thế nào: Tao lúc nào cũng đúng!
Chính trại tù đã làm nên Solz. Nhờ lao động cải tạo mà ông được cứu vớt, mất đi niềm tin Mác xít Lêninít, và tìm lại được niềm tin Chính thống giáo khi còn nhỏ, và nhận ra lời gọi [the calling]: ta sẽ là một ký sự gia của trại tù và kẻ tố cáo hệ thống Xô viết [the camps’ chronicler and the Xoviet system’s denouncer]
Đây có lẽ là cuốn tiểu sử mới nhất, đầy đủ nhất [sửa chữa những sai sót trước đó về Solz]. Và tuyệt vời nhất. Tin Văn sẽ scan bài điểm hầu quí vị!
*
Nhìn ra số mệnh của Solz như thế, và gắn nó với số mệnh của Lenin như vậy, thì thật là tuyệt. Mi sinh ra là để hoàn thành Xô Viết, còn ta sinh ra để huỷ diệt nó, và tố cáo với toàn thế giới cái sự ghê tởm, cái ác cực ác của nó.
*

Ngoài Gấu ra, thì ai là người nhìn ra Cái Đại Ác Bắc Kít, và tố cáo nó, với toàn dân Mít ?
Hà, hà!

Alexa cho biết, trong ba tháng vừa qua, số lượng độc giả Tin Văn tăng 100 %
Có vẻ như, tăng là do ba 'chuyện thị phi', không phải do 'phẩm chất' của Tin Văn!
Cứ đà này, chẳng mấy chốc mà bằng Chợ Cá!
Đáng ngại thật!
Nay tuyên bố, huỷ bỏ mục Dọn!
NQT