*

















30.4.2010
30.4.1009
30.4.2005

La plus belle pour aller danser

Note: bản nhạc này, thằng em trai của Gấu mê lắm, trước khi bỏ đi
Ngoài ra, còn bản Đồn anh đóng bên rừng mai 


Ba Lan khóc những vị lãnh đạo của họ

*

Lech Kaczyński

Following is a special appeal by Adam Michnik, the editor in chief of the Polish newspaper Gazeta Wyborcza, concerning the April 10 plane crash in Smolensk, Russia, in which Polish President Lech Kaczyński, his wife, and dozens of senior members of the Polish government and military perished. The 94-member Polish delegation was coming to celebrate the 70th anniversary of the Katyń massacre, in which 22,000 Polish military officers were murdered by Soviet security forces. The massacre was named after one of the places in which it happened, the forest of Katyń, close to Smolensk. For many years, the Soviet leadership assigned blame for this crime to the Nazis and, until the recent tragedy, the leaders of post-communist Russia have been reluctant to acknowledge Russia’s responsibility for the killings.
—Irena Gross
April 18, 2010 6:51 p.m.

Something touched our hearts.
Four days after the April 10 tragedy of Smolensk, the Russian President declared: “It is obvious that Polish officers were shot at the command of the then leaders of the USSR, including Joseph Stalin.”

Bốn ngày sau thảm kịch 10 Tháng Tư tại Smolensk, tổng thống Nga phán: "Hiển nhiên là những sĩ quan Ba Lan đã bị bắn vào sọ, theo lệnh của cấp trên, trong có ông Trùm Đỏ"

Mít chúng ta, vào những ngày này, đếch cần VC phân bua, một triệu tên VC dzui, một triệu tên Ngụy buồn, đếch cần đám bỏ chạy ‘nhìn lại, xét lại...’ mà chỉ cần, chỉ một tên Bắc Kít, dám phán tương tự như trên!

Hay, một đấng VC nằm vùng như HPNT, ‘ân hận’, đã gây ra tội ác Mậu Thân!
Hà, hà!


Một ngàn lẻ một đời

Vignettes from a newcomer

Những phác họa nho nhỏ của một người mới tới

Kim Thúy's fiction is closely based on her own experiences
By ANNE CHUDOBIAK, Freelance
April 17, 2010

Ru của Kim Thúy dựa trên những kinh nghiệm của riêng tác giả

In a passage that epitomizes her twin senses of humor and gratitude, Kim Thúy calls Granby a Shangri-la: "I couldn't have imagined a better place on earth, even if the bugs were eating us alive, just like they had in the refugee camp."

Vừa hóm hỉnh, vừa tỏ ra biết ơn xứ sở đã cưu mang bà, Kim Thúy gọi Granby là một Shangri-la: "Tôi không thể tưởng tượng ra được một nơi chốn nào tốt đẹp hơn trên thế giới, ngay cả nếu những con rệp ăn sống nuốt tươi chúng tôi, như những ngày còn ở trại tị nạn"

Thúy's narrator double has two sons, one of whom is autistic. Kim Thúy the author uses autism as a metaphor for the immigration experience - the feeling of not knowing the language or the social customs of the people around you. The metaphor works so well in the book, which is a series of loosely linked vignettes, that I had assumed that the son was a fictional creation, dreamed up out of a desire for a unifying thread. I was wrong. In addition to everything else, Kim Thúy is a special-needs parent who had the artistic sensitivity to see her son's childhood struggles as a literary counterpoint to her own.


Russia's war against Napoleon
How Russia really won
It was not just the cold or the dogged spirit of the Russian people that forced Napoleon and his army to retreat


Adam Zagajewski




Nabokov: Fiodor Dostoievski [1821-1881]

Biélinski, trong thư gửi Gogol, 1846, viết: … Sự cứu chuộc nước Nga hệ tại không phải nhờ chủ nghĩa thần bí, khổ hạnh, thuyết kiên tính, nhưng mà là trong những thành công của văn minh, học vấn, nhân ái. Điều cần cho nước Nga, thì không phải là những buổi thuyết giáo [thuyết giáo nhiều quá rồi!], những lời cầu nguyện [cũng nhiều quá rồi], mà là làm trỗi dậy ở trong dân chúng tình cảm về nhân phẩm, le sentiment de la dignité humaine, đã bị chôn vùi quá sâu, quá lâu, hàng bao thế kỷ, ở trong vũng lầy, đống phân, và trong sự áp dụng, càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, những luật lệ và những quyền lợi phù hợp không phải với Nhà Thờ, Luật Chúa, mà là với lương tri và công lý.
Thay vì như thế, thì là quang cảnh ghê rợn của một xứ sở, nơi con người lao vào những thương vụ béo bổ: buôn bán con người, cũng đâu thua gì đám chủ đồn điền Mẽo, khi họ tuyên bố, người da đen không phải là người; khi con người được biết tới không phải bằng cái tên mà bằng những biệt danh ti tiện: Vanka, Vaska, Stechka, Palachka; một quang cảnh, và sau cùng, một đất nước, nơi không còn một chút đảm bảo về sự toàn vẹn của cá nhân con người và những của cải của họ, một đất nước ở đó, trật tự công chúng thì không được đảm bảo bởi cảnh sát; thay vì vậy, người ta chỉ thấy những tập đoàn khổng lồ những tên ăn trộm, ăn cướp, tham nhũng đóng vai công nhân viên chức. Những vấn đề quốc gia nóng bỏng của nước Nga lúc này là: bãi bỏ quyền sở hữu nông nô, huỷ bỏ những hình phạt về thể xác, và trong chừng mực có thể của nó, cố gắng áp dụng triệt để luật pháp. Nhà cầm quyền không phải không biết như vậy, và vì thế, họ đưa ra những luật lệ nửa vời, chẳng đi đến đâu, chỉ để vỗ về đám nhân dân ‘đen một nửa’, demi-nègres, của họ.
Vị thế của tôi đối với Dos thì vừa kỳ cục vừa khó chịu, curieuse et incommode. Trong tất cả những bài giảng [những bài viết ở trong cuốn Văn học/ 2 của Nabokov là những bài giảng cho sinh viên Mỹ về văn chương Nga], tôi tiếp cận văn chương theo góc độ độc nhất mà tôi thích thú: thiên tài cá nhân cưỡng lại thời gian, celui du génie individuel qui résiste au temps. Nhìn dưới góc độ đó, Dos không phải là nhà văn lớn, mà đúng ra phải nói… thực, ông là một tác giả tồi - với những loé sáng thực uyên nguyên, nhưng than ôi, thất lạc ở giữa những thảo nguyên của thứ văn chương tầm phào, nhạt nhẽo [Dos n’est pas un grand écrivain, mais un auteur plutôt médiocre – avec des éclairs de réelle originalité, perdus, hélas, parmi les steppes de platitude littéraire]…
Trong Tội ác và Hình phạt, Raskolnikov giết mụ già cho vay nặng lãi và cô em gái của bà chỉ vì một lý do làm xàm, bá láp, pour une raison quelconque. Công lý, dưới con mắt của một tay cảnh sát nhà nghề, tà tà xiết những sợi dây chung quanh anh ta, và sau cùng, anh ta ‘đành’ thú tội công khai trước đám đông, và được ‘cứu vớt’, nhờ tình yêu của một bướm được trời phú cho những tình cảm cao thượng. Nhờ bướm cao thượng này mà anh ta từ từ tái sinh, đây đúng là một phép lạ, nếu chúng ta nhìn lại thời điểm cuốn tiểu thuyết được viết ra,1866: vào thời điểm đó, bướm với những tình cảm cao thượng như vậy gây sốc nặng nề ở nơi một độc giả sành sỏi, un lecteur averti.
Vấn đề của tôi [Nabokov] là, những độc giả mà tôi đề cập tới trong những bài giảng này, hay những độc giả khác, thì không phải tất cả đều sành sỏi. Tôi có thể nói, một phần ba trong số họ thì đều không rành rọt, để mà phân biệt giữa văn chương thiệt, và giả-văn chương, pseudo-littérature, và đối với họ, những tác phẩm của Dos, đâu phải thứ thường: đó là những tác phẩm có vẻ quan trọng hơn, và thuộc thứ nghệ thuật bảnh hơn, so với ba thứ tiểu thuyết lịch sử ba xu của Mẽo, kiểu Khi còn đàn ông trên trái đất này, Tant qu’il y aura des hommes, [hay Gió Lửa, Sông Côn Mùa Lũ… của đám Mít! (1)]
Tuy nhiên, tôi sẽ lèm bèm khá dài dòng về một vài nghệ sĩ lớn lao – và chỉ với thế giá của những bậc như thế, chúng ta mới có thể đem Dos ra để mà so đo với họ. Tôi là một ông thầy không quá bảo thủ để mà đếch thèm lèm bèm về những tác giả mà tôi không ưa [Trên TV chẳng đã 'bookmark' toàn những thứ Gấu chán ngấy, như talawas, thí dụ, là cũng vì vậy!]
Tôi rất thèm làm cái việc giải hoặc, démystifier, những thứ như Dos, [hay như Sến cô nương, và những trò hề, "nhìn lại cuộc chiến…" của chúng, trong khi ai cũng thấy rõ như ban ngày, đó là tội ác Bắc Kít!]
Hà, hà!

(1) Note: Trên, có đoạn của Nabokov, có đoạn do Gấu… phịa.
Sorry abt that.
Tuy nhiên, nhắc tới SCML, vì Dos được NMG coi là sư phụ.
Tant qu’il y aura des hommes: Tên tiếng Tây của cuốn From here to eternity

**

Thiêng thật. Vừa nhắc tới, là có ta liền!

Bạn đọc TV, đọc những dòng Nabokov trích dẫn nhà phê bình "Gấu Liên Xô", Biélinski, trong thư gửi Gogol, và tham vọng giải hoặc, [giải bùa mê của Dos], của ông, rồi đối chiếu cái nước Nga khốn khổ khốn nạn đòi cho được một vì Thiên Sứ, với nước Bắc Kít, với giấc mơ ăn cướp Đàng Trong ẩn bên dưới chân lý nước Mít là một, rồi đọc tâm sự của Sến Cô Nương, vừa mới bước vô cõi văn là đã mê ông già râu rậm, và vì Thiên Sứ của Sến…., thế là bạn nhìn ra được toàn cảnh Mít thời hiện đại và hậu hiện đại.
Đâu phải tự nhiên mà Bác Hồ đọc Lênin mà khóc ròng, vì đã tìm ra được con đường cứu nước?
Tất cả những dây mơ rễ má đó, đưa đến đỉnh cao 30 Tháng Tư, và sau đó, đưa xuống hố thẳm Anus Mundi!
*
I am in sympathy with Dostoevsky, who was so infuriated by Russian intellectuals who knew Europe better than they did Russia.
Orhan Pamuk: The Collector
Tôi chịu Dos: Ông cáu lắm khi đám trí thức Nga rành Âu châu hơn nước Nga của họ.



Tư duy biển
Con trai cụ Nguyễn Tuân: "Giao thông = Tranh cướp đường!"

Ông nói thế theo tôi cũng không chắc đã đúng. Các nước phương Tây họ đã có nền kinh tế thị trường từ rất lâu rồi. Hay ngay như trong nước cũng thế. Miền Nam cũng là nơi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh hơn tại sao ý thức giao thông của họ lại tốt hơn ngoài Bắc?

Đúng là thắc mắc hay. Chỉ có điều thắc mắc này nên dành cho các nhà văn hóa. Còn theo tôi thì nền kinh tế thị trường không tạo ra cái đó. Nó do đặc điểm tính cách con người miền Bắc trước đây luôn bị kìm nén bởi sự khó khăn thiếu thốn. Giờ được bật ra là họ bắt đầu thể hiện và "chưa kịp phanh" lại.
*
Câu hỏi hay, câu trả lời cũng.. hay!
Nhưng câu trả  lời đúng nhất  là của… Gấu.
Nó liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!


Orwell
*

Anh Hai, Đại Ca Bắc Kít, Big Brother của Orwell, gốc Nga!
Mục Sổ Tay của tờ TLS, April 16, 2010 cho biết tin động trời trên.
Seeing the future

Một ấn bản của cuốn Orwell, một đời thư tín, tới bàn giấy của chúng tôi, và thế là chúng tôi mò index, vần T, coi ông có lèm bèm gì về TLS không, và vớ được một câu thật ly kỳ: “Tôi đã thỏa thuận là sẽ điểm cuốn We cho TLS, khi bản tiếng Anh ra lò”, Orwell viết cho tay học giả người Nga, Glub Struve.
Mừng quá, chúng tôi lục TLS archives, tẽn tò!

We viết năm 1920, nhưng đến năm 1927 mới xuất hiện trên một tờ báo của di dân Nga. Bản tiếng Anh, có sớm hơn, nhưng xb ở Mẽo. Theo tay biên tập cuốn Orwell một đời lụm cụm viết thư cho bạn bè, thì Orwell, đến năm 1944 vẫn chưa được sờ vô We, Chúng Tôi, như trong thư ông viết cho Struve, nhân sách của ông được giới thiệu ở Nga. “Tôi biết lơ tơ mơ về văn chương Nga”. Struve bèn giới thiệu We của Zamyatin.
Sau đó, Orwell vớ được bản dịch tiếng Tây, Nous Autres, mê quá, ghi chú tía lia.
Và Benefactor, Ân Nhân, Thiên Sứ, Người Anh Ruột Bắc Kít, Abel...  của Zamyatin, biến thành Big Brother của Orwell, và biến thành Công An Tư Tưởng của Mít chúng ta!


5 năm TTT ra đi

Francis Scott Fitzgerald sinh năm 1896, tại Saint Paul, Minnesota, phía Bắc lạnh giá. Gia đình nghèo [ruinée, tàn tạ, chữ của Philippe Labro & Olivier Barrot, trong Les Lettres d’Amérique. Hai tác giả này viết chung hai cuốn; một, Những lá thư từ Mẽo, và một, Những lá thư Anh, Lettres Anglaises].

Saint Paul là thành phố TTT vĩnh viễn nằm xuống.

Gấu, lần đầu tiên nói chuyện điện thoại, khi mới qua bên này được ít lâu, ông có nói về cái vụ dời Tiểu Sài Gòn lên phía Bắc.
Đó là nhờ số tiền nhuận bút cuốn Thơ ở đâu xa, do Trầm Phục Khắc đưa.
Ông nói, hồi đó tôi [ông hay xưng ‘tôi’, gọi Gấu bằng ‘cậu’] đâu có biết, thơ làm sao mà bán được, nếu biết, chắc là không cầm số tiền đó.
Ông không chịu nổi không khí Tiểu Sài Gòn.
Rồi ông kể khu ông ở, lối xóm da đen, dễ chịu lắm.
*
Tôi luôn luôn coi Những Con Quỉ là một cuốn sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí thức tiến bộ (những kẻ sống xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những giấc mơ Tây Phương của họ, và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng Đế), mong giấu kín, chúng ta.
Pamuk Những Con Quỉ Đáng Sợ Của Dostoevsky.

Ui chao, bạn đọc những dòng trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà khịa với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy học tại một trường đạo...
*

Chúng tôi bước ra sân. Người thanh niên vẫn chăm chú làm việc không để ý đến sự có mặt của tôi. Đại cầm ở tay cuốn Crime et Châtiment. Tôi hỏi:
“Cậu đến trường luôn không?”
“Không.”
“Làm gì ở nhà?”
“Đọc sách và suy nghĩ.”
“Suy nghĩ về phép giết người chăng?” Tôi nói đùa.
Đại không đáp. Chúng tôi đứng nhìn xuống khu xóm lao động phía dưới. Đại bỗng nói:
“Nó đến trường tìm mình dữ lắm.”
“Cậu quyết định thế nào?”
Đại trầm ngâm một phút:
“Chưa.”
Đại là sinh viên khoa học, đã qua được chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi động viên và đang trốn.
“Nghĩ gì về Dostoievski?”
“Bệnh.”
Tôi không ưa lối nói cụt lủn của Đại. Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng sản
*
 “Anh cho là có Thượng Đế hay không?”
Tôi suy nghĩ rồi trả lời:
“Câu hỏi ấy chưa bao giờ làm tôi thắc mắc cả.”
"Tôi không nghĩ đến nó."
Nhiên lại hỏi:
“Anh có nhận rằng ở đời có một cái gọi là Thiện, một cái gọi là Ác, có công bằng, có tự do, bác ái…"
Tôi trông thẳng vào mặt Nhiên đáp:
“Có chứ tại sao không?”
“Vậy mà anh lại không tin Thượng Đế thì lạ thật.”
“Tôi tưởng những ý niệm ấy họp nhau thành một ý niệm hoàn hảo hơn tất cả là Thượng Đế. Thường thường người ta nghĩ một vài ý niệm khó thỏa hiệp với nhau như bình đẳng và tự do, nhưng đạt đến sự hòa hiệp chính là tìm về Thượng Đế rồi còn gì.”
Tôi bước vài bước đắn đo:
“Tôi nhắc lại với anh tôi không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người với người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy. Có mặt khi không cần thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và có thể bị mất ngôi. Mà ngôi Thượng Đế có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng Đế sẽ giải quyết được những vấn đề của loài người nếu loài người biết tìm về Người.”
“Không, tôi không tin như thế, Thượng Đế không sống cái sống xác thịt của nhân loại. Khi Thượng Đế nhập thể thành người như Chúa Jésus hay Phật Tổ thì chính ở những người ấy Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người, và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại…”
*
Ui chao, vô ý đụng vô Dos, thế là khốn khổ khốn nạn với ổng
Post thêm một bài ngắn của Borges, trong đó, ông chỉnh nhẹ Nabokov.

PROLOGUES TO A PERSONAL LIBRARY

Fyodor Dostoevsky, Demons
Like the discovery of love, like the discovery of the sea, the discovery of Dostoevsky marks an important date in one's life. This usually occurs in adolescence; maturity seeks out more serene writers. In 1915, in Geneva, I avidly read Crime and Punishment in the very readable English version by Constance Garnett. That novel, whose heroes are a murderer and a prostitute, seemed to me no less terrible than the war that surrounded us. I looked for a biography of the author. The son of a military doctor who was murdered, Dostoevsky (1821-1881) knew poverty, sickness, prison, exile; the assiduous exercise of writing, traveling, and gambling; and, at the end of his days, fame. He professed the cult of Balzac. Involved in an indeterminate conspiracy, he was sentenced to death. Practically at the foot of the gallows where his comrades had been executed, Dostoevsky's sentence was commmuted, but he spent four years in forced labor in Siberia, which he would never forget.
He studied and expounded the utopias of Fourier, Owen, and Saint-Simon. He was a socialist and a pan-Slavicist. I imagined at the time that Dostoevsky was a kind of great unfathomable God, capable of understanding and justifying all beings. I was astonished that he had occasionally descended to mere politics, that he discriminated and condemned.
To read a book by Dostoevsky is to penetrate a great city unknown to us, or the shadow of a battle. Crime and Punishment revealed to me, among other things, a world different from my own. When I read Demons, something very strange occurred. I felt that I had returned home. The steppes were a magnification of the pampas. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky were, despite their unwieldy names, old irresponsible Argentines. The book began with joy, as if the narrator did not know its tragic end.
In the preface to an anthology of Russian literature, Vladimir Nabokov stated that he had not found a single page of Dostoevsky worthy of inclusion. This ought to mean that Dostoevsky should not be judged by each page but rather by the total of all the pages that comprise the book.
1985
Jorge Luis Borges: Selected non-fictions.
Edited by Eliot Weinberger

Fyodor Dostoevsky, Những Con Quỉ

Như ngộ ra tình yêu, khám phá ra biển, sự khám phá Dos đánh một cái dấu ngày tháng quan trọng lên đời một người, và cú này thường xẩy ra khi vừa mới lớn; đám lớn tuổi mò tới những tác giả thanh thản hơn. Vào năm 1915, tại Geneva, tôi ngốn ngấu Tội ác và Hình phạt, qua bản dịch tiếng Anh rất dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết này, mà những nhân vật của nó là một tên sát nhân và một em điếm, đối với tôi, có vẻ khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây quanh…
Borges 

Nếu chúng ta coi cuốn Buồn Nôn của Sartre được viết trên cái nền là khúc nhạc Jazz, Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới, Some of these days, I will miss U, honey, thì cái bóng của cuốn Tội Ác và Hình Phạt, mà tay Đại khư khư cầm trên tay phủ lên toàn thể những ngày tháng ở Hà Nội, của Tâm, của Đại, "khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến vây quanh" những ngày 1954,  và sau cùng là,“đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.”


DTL vs GNV

Đã đọc "lời chọc quê DTL" cuả GNV trên TV.
How nice!!
GNV không phải là một người đọc "thượng vàng hạ cám", GNV là một "great reader".
Xin cảm ơn.
*
Đa tạ.
NQT
*
Từ ‘great reader’, nghe quen quá!
Thì ra vị độc giả lấy trên TV:

Nhà độc giả vĩ đại thì hiếm lắm, hiếm hơn, so với nhà văn nhớn, Borges phán.
Bản thân Ngài, là một nhà độc giả nhớn. Montaigne đọc Seneca và đọc lại chính mình, Coleridge đọc Jacobi và Schelling....
G. Steiner: "Critic/Reader"
Giá như mà có thể thêm vô: Gấu đọc Steiner và đọc Gấu!


“Beyond Criticism”: Vượt quá phê bình
*

Bạn DTL của Gấu hình như càng ngày càng lậm đám nhà văn nhà thơ Bắc Kít. Trên trang net của ông sau cú phỏng vấn ông nhà văn VTH, tới nhà thơ NTT đếch thèm phỏng vấn đám bạn Ngụy cũ của ông, quái thế.

Hay là đến tuổi ngựa Hồ hí gió Bắc rồi!
Lần phỏng vấn VTH, Gấu tính đi một đường hỏi ông ta, có phải chôm cái tít “Đêm giữa ban ngày” của Koestler? (1)

(1) VTH vs Koestler

Cái tay nhà thơ NTT này, có lần trên trang net của ông, post một bài về Murakami, cái tay viết bài đi một đường cà chớn, ông nhà văn Nhựt bổn này, vì quá mê văn học Niên Xô, khi còn trẻ đã dịch qua tiếng Nhật cuốn Ruồi Trâu!

Cuốn sách ưa thích của ông là gì?
Ruồi Trâu.
Tôi tự dịch lại cuốn sách đó vài năm trước. Tôi vẫn muốn tự dịch cuốn sách đó từ những năm 20 tuổi nhưng khi đó tôi chưa đủ sẵn sàng.
Nguồn: Hội ngộ văn chương

Đây là nguyên văn 10 Questions for Haruki Murakami
What's your favorite book?
Sarosh Shaheen Ottawa, Canada
 The Great Gatsby. I translated it a couple of years ago. I wanted to translate it when I was in my 20s, but I wasn't ready.
Cuốn sách gối đầu giường của ông?
Gatsby vĩ đại
(1). Cách đây mấy năm tôi đã dịch nó. Tôi muốn dịch nó từ những năm đôi mươi của mình, nhưng lúc đó tôi chưa sẵn sàng.

Của Mẽo mà thành của Liên Xô. Thế mới ghê!
(1) The Great Gatsby is a novel by the American author F. Scott Fitzgerald. First published on April 10, 1925, it is set in Long Island's North Shore and New York City during the summer of 1922. Wikipedia

*

Một nhà thơ nổi tiếng như NTT, post một bài viết về một nhà văn nước ngoài nổi tiếng như Murakami, gán cho ông này một điều nhảm nhí, ngay từ khi còn trẻ đã từng dịch tác phẩm nổi tiếng Ruồi Trâu, vậy mà có người chỉ cho biết, vẫn vờ!, thì quái đản thật!
Còn một ông nổi tiếng như VTH, có người nghi ngờ là đã chôm chĩa tên sách của người khác, cũng vờ!


Rồi ta sẽ kể cho người nghe về sương. Sương nơi cố quận có khi mỏng manh như một chiếc khăn voan, lúc ẩn lúc hiện và lạnh nhè nhẹ. Có những buổi sáng mùa đông sương trắng sữa như mây bồng bềnh khắp các đỉnh núi thấp và tràn xuống đầy những vùng trũng. Có những đêm sương phủ kín mịt mù, trăng run rẩy trên cao cũng mờ đi vì lạnh. Và có những ngày mùa đông sương rơi như mưa giăng mắc, đi một lát đã thấy ướt đẫm áo khăn, cái lạnh ngấm vào tận xương, buốt giá. Ở mảnh đất cao nguyên nghèo nàn ấy, những ngày nắng đẹp hiếm hoi biết bao nhiêu!

Người ơi, người còn nghe ta đấy chăng?

Note:
Bài viết này, đang hot, trên TV, theo server.
Khó hiểu thật.
Làm sao mà độc giả TV mò ra nó? 

Ui chao Gấu Cái quá mê bài viết này.
Hỏi ai đấy.
Bạn Gấu đấy.


Kỷ Niệm

*

Nhớ về Tân Định

Bài viết của Nguyễn Đạt về khu phố Tân Định làm Gấu 'ngứa' viết quá, bởi vì đây là đất của Gấu, từ khi còn ở Hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ngay cái quán cà phê hình trên, là cũng được Gấu đưa vô truyện, vì chủ cũ của nó là nhà thơ Huy Tưởng. Nguyễn Đạt hẳn là biết điều này?
Gấu lần đầu diện kiến nhà thơ Bùi Giáng ở đây. Quen nhạc sĩ Vũ Ngọc Giao, băng Nguyễn Đình Thuần, ở đây. Nhà thơ “Chân Cầu Sóng Vỗ” đã từng làm bồi bàn ở đây. Nhiều lắm lắm, toàn những kỷ niệm quí hiếm cả.
Nguyễn Đạt là dân ngoại đạo, thành thử bài viết quá thiếu lửa hồi ức.
Trên Blog Hoàng Hải Thuỷ cũng có một bài về khu Tân Định. Ông là dân vùng này, nên bài viết tới hơn nhiều.
Từ từ Gấu sẽ viết tiếp về khu phố này, vì còn cả lố kỷ niệm về nó!
Mỗi bức hình trong bài viết của Nguyễn Đạt, là Gấu đều có những giai thoại tuyệt vời về nó cả!

TTT cũng có kỷ niệm về Tân Định, cùng với Mai Thảo.
Trong bài tưởng niệm bạn mình ông có nhắc đến một con phố ở Xóm Chùa, nằm phía bên trái con đường Trần Quang Khải:, nếu đi từ phía đường Hai bà Trưng:

Hồi ấy anh mới vào Nam, còn ở chung với gia đình anh Viên trong một căn phố đường Jacques Duclos, thuộc khu Tân Định (đường này song song với đường Trần Quang Khải, trong khoảng từ nhà hát bội đến lối vào Xóm Chùa. Tôi nói bỡn: “Anh ở trúng vào con đường mang tên một tay tổ Cộng Sản Pháp”).
Trong đất trời
*
Tôi gặp K. khi anh từ một trại cải tạo ở miền Bắc về, tại chợ sách phía sau rạp Đại Nam, điểm không hẹn mà gặp của những kẻ chỉ cần nhìn lại một cuốn sách cũ là cảm thấy bạn bè vẫn còn đủ, Sài-gòn vẫn là Sài-gòn. Bẵng thật lâu, trước chuyến đi xa chừng nửa năm, tôi gặp lại anh, lúc này làm nghề bán sách dạo. Anh thận trọng ghé chiếc xe đạp với chồng sách cao ngất ngưởng, vào lề đường, rồi đến bên tôi, thường là buổi chiều, tại cà phê "Bà Lê Chân", cũng một quán đặc biệt vỉa hè Sài-gòn, của một anh bạn xưa thi sĩ. Chủ quán cười cười như để bào chữa cho vai trò mới mẻ của mình:
Quán là khởi đầu của mọi khởi đầu. Và khởi đầu, cho dù buồn, vẫn còn hơn kết cục vui.
(Le début même triste, c'est mieux que la fin heureuse. Cantique des cantiques).
Câu nói của anh còn là lời trách móc nhẹ nhàng cái tật của tôi, khi viết, thường hay lấy một câu của một nhà văn nước ngoài làm khởi đầu.

Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang đàng, dù có đi xa chân trời góc bể nào cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt.
Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...

Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Lần Cuối Sài Gòn

Thời Tập
5.5.1974
Gấu Nhà Văn đọc Tắt Lửa Lòng

Khi viết Tắt Lửa Lòng, Nguyễn Công Hoan có lẽ chỉ muốn cuốn sách của ông nằm trong dòng văn chương xã hội…. nhưng đã vô tình ‘điểm thêm mắt rồng’ cho nó, khi hoàn thành tác phẩm, nó bay mất và lạc vào thế giới tình yêu, một thế giới hoang đường với những Tiểu Nhiên Mị Cơ, Mỵ Châu Trọng Thủy… và Lan và Điệp.

… Đây là chiếc chìa khoá để cho các tiểu thuyết gia chuyên viết truyện tình dùng để mở căn nhà mồ Lương Sơn Bá: Hãy làm sao cho nhân vật trong truyện tình chết đi [ở trong tiểu thuyết] để rồi sống lại [trong huyền thoại]...
NQT 

Ui chao, liệu ‘ba trăm năm sau’, (1) truyện tình của BHD và anh cu Gấu cũng sẽ ‘chết đi ở trên không gian ảo’ và rồi ‘sống lại ở trong huyền thoại’?
Hà, hà!

(1) TV: Đúng rồi, nên thay đổi, kẻo không như O nói, ba trăm năm sau (hihi) có người đi tìm tác phẩm của NQT chỉ thấy toàn ‘kít’ với ‘đếch’, ‘như kít’… thì không biết sẽ xếp tác phẩm vào loại văn chương gì?
Hihi
K


Hình Tượng I
Figures I
Gérard Genette