|
Thu 2009
Những
cuộc cách
mạng 1989
Berlin
Wall
November 9th
by George Packer
Germany observes no official holiday on November
9th, the day
when, twenty years ago, crowds of stunned, delirious East Germans
breached the
Berlin Wall. This is because November 9th is also the date on which
Kaiser
Wilhelm abdicated, in 1918, two days before Germany’s
defeat in the First World
War. On November 9, 1923, Hitler attempted to overthrow the Weimar Republic,
in the Munich Beer Hall Putsch. In 1938, November 9th was the Night of
Broken
Glass, when Nazi gangs attacked Jews and their property across Germany and Austria,
foreshadowing the genocide
to come. The German calendar is appropriately inconvenient: nothing
good is
conserved without the active remembrance of something bad. The British
writer
Timothy Garton Ash has called 1989 the best year in European history.
It
delivered the Continent from its worst century—the new democratic
European
unity that began in 1989 was built on fifty million graves.
The
chain reaction of
nonviolent civic movements in Poland,
Hungary,
East Germany,
and Czechoslovakia
seemed like a
miracle at the time, and it still does. Anyone who grew up knowing
nothing but
the Cold War could scarcely imagine that the world wasn’t eternally
locked in
permafrost. No Hegelian teleology predetermined that Communism would be
left on
the ash heap of history. In 1989, Francis Fukuyama published his essay
“The End
of History?,” in which he predicted “the universalization of Western
liberal
democracy as the final form of human government.” This proved far too
optimistic for the post-Cold War world, and even in Central Europe, where liberal democracy did
emerge, the dramatic events
that brought it about were messier and chancier than the dreams of
neo-conservative philosophers.
The wall came down not
because Ronald Reagan stood up and demanded it but because on the
evening of
November 9th, at a televised press conference in East
Berlin, a Party hack named Günter Schabowski flubbed a
question
about the regime’s new, liberalized travel regulations. Asked when they
took
effect, Schabowski shrugged, scratched his head, checked some papers,
and said,
“Immediately,” sending thousands of East Berliners to the wall in a
human tide
that the German Democratic Republic could not control. Soldiers and
Stasi
agents didn’t shoot into the crowd, but things could easily have gone
otherwise.
The revolutions of 1989 were
made possible by a multiplicity of conditions: the courage of East Bloc
dissidents and the hundreds of thousands of fellow-citizens who finally
joined
them; American support for the dissident movements and containment of
the
Soviet Union; the disastrous economies of the Communist countries; the
loss of
confidence among ruling-party élites; the crucial forbearance of
Mikhail
Gorbachev. For Europe’s Communist regimes to disappear so suddenly and
bloodlessly (Romania
was a different story), everything had to fall into place, above and
below,
within and without. Such circumstances are improbably rare, and they
can’t be
mechanically replicated by the laws of history or by divine design or
by
universal human aspiration. A false lesson drawn from 1989 involves a
kind of
shallow eschatology of totalitarianism: this is how it always
happens—the
people rise up, the regime withers and dies, peace and democracy reign.
The
chaos that followed the overthrow of Saddam Hussein was in part a
consequence
of this thinking. In planning the postwar period in Iraq,
George W. Bush and some of his advisers had 1989 in mind—“like Eastern Europe with Arabs,” as one official put
it.
The last, briefest, and most
thrilling of that year’s peaceful uprisings, the Velvet Revolution,
took place
in Czechoslovakia.
Over the next two decades, it produced a series of successors and
imitators in Serbia,
Ukraine,
and Georgia.
While they all improved the politics of their respective countries,
none of them
had a Václav Havel, and none of them created a stable liberal
democracy.
Whenever things fail to turn out as they did in Central
Europe, people tend to react as if history had
unaccountably
malfunctioned. But if 1989 were the rule and not the exception, then
Burmese,
Chinese, and Zimbabwean dissidents—who have sacrificed far more than
their
European counterparts (in China,
1989 meant Tiananmen Square)—would be
in power
by now.
Perhaps the closest
contemporary analogy to the fall of Communism is the democratic
movement that
is challenging the Islamic Republic of Iran. It has deep social and
intellectual roots, a growing mass following, and an enemy state with a
hollowed-out ideology. But, unlike the East German soldiers and the
Stasi
agents, the Revolutionary Guards and the Basij militia are ready to
kill.
Behind President Mahmoud Ahmedinejad and Supreme Leader Ali Khamenei,
there is
no restraining figure like Gorbachev. Iranians will have to find their
own way
to the fulfillment of their democratic desires. And yet the fact that
the
nearest counterparts to the thinkers and activists of 1989 are to be
found in a
non-Western, Muslim country exposes another false lesson of that year:
that
such things are for Westerners only, that “they” don’t want what “we”
want.
A recent Pew poll shows that
Germans, Czechs, and Poles remain relatively enthusiastic about
democracy and
capitalism; Hungarians, Bulgarians, and Lithuanians less so. Former
East
Germans’ hopes of achieving the living standards of their Western
countrymen
have not been fulfilled, and the inevitable disappointments have muted
anniversary celebrations. Last month in Dresden,
a retired schoolteacher acknowledged the pining of some East Germans
for their
simpler, cozier former lives under state socialism. There’s even a
neologism
for it: Ostalgie. But, the teacher
said, “What matters is that I can talk with an American journalist
without
going to jail, that I can travel without filling out forms, that I can
read
what I want to read, that I’m not told what TV station I can watch and
not
watch, that at school I don’t have to say something that I don’t say in
private
at home. This is what is decisive to me today.”
Twenty years after the
revolutions of 1989, Europe’s bitter
half
century of armed division is the object of profitable kitsch. At
Checkpoint
Charlie, in central Berlin,
where an East German guard opened the gate at 11:17 P.M. that November
9th, you
can now pay a euro to pose with hucksters wearing Soviet, British,
French, and
American uniforms. Neighborhoods that used to be separated by the wall
have
become hotbeds of the art scene, the gay scene, and the club scene.
Meanwhile,
Germans widely regarded the recent election campaign, in which
fundamental
issues were avoided, as a snooze. Berlin
will
never again be the hair-trigger focus of global ideological conflict,
and Europe’s place at the center of
modern history is over.
This proves not the failure of 1989 but, rather, its astounding
success. No one
is prepared to die for European unity, and no one will have to. ♦
Văn Chương Dấn Thân
Luận
điệu này, Gấu nghe hoài, nghe quen, và cứ nghĩ là đúng, cho tới khi đọc
Brodsky, thí dụ Diễn văn Nobel,
hay đọc Cao Hành Kiện, thí dụ, Tiếng
nói của một cá nhân.
Có thể ông Nguyên Ngọc hiểu cái từ chính trị,
khác với hai ông còn lại kia. Hoặc có thể, ông chỉ biết cái thứ chính
trị, mà nhờ nó, Miền Bắc chiến thắng cuộc chiến.
Bởi vì cái đúng ngày nào gây
họa cho ngày này. Một khi ông không nhận ra, thì cách dấn thân nào,
cũng là hỏng cả. Trước đó, vẫn chính thể đó, sau đó, vẫn chính thể đó,
thì làm gì có chuyện im hơi lặng tiếng. Trước đó, không im hơi lặng
tiếng, vì còn mải hò theo cái ác, bây giờ, im hơi lặng tiếng, dù sao
cũng nhẹ tội hơn.
Tôi thực sự tin là, chỉ có
mỗi một cách dấn thân, đó là nói đúng về cuộc chiến vừa qua.
Gọi nó là chính trị, hay văn
chương, gì cũng được.
Gấu này thực sự tin
là, Miền Bắc, qua đám VC nằm vùng, ngụy tạo vụ đầu độc tù Phú Lợi, và
từ đó thành lập MTGP, khiến Mẽo hoảng quá nhẩy vô. Người Mẽo không hề
có dã tâm ăn cướp Miền Nam. Như hồ sơ mật sau này
được khui ra, mà trước đó, Graham Greene, bằng sự bén nhậy, đã ngửi ra,
khi trò chuyện với một tay Xịa, và dựa vào đó viết Người Mỹ Trầm Lặng, người Mẽo chỉ
mong làm sao kiếm ra được một thằng Mít hoàn toàn Mít, chỉ vì Mít, một
anh Mít quốc gia thứ thiệt, đếch theo Pháp, đếch theo VC, và qua anh
này, thành lập Lực Lượng Thứ Ba, để ngăn chặn sự bành trướng của CS.
Người mà Mẽo kiếm ra được, vào thời điểm đó, là tướng TMT, như Greene
viết, và rất không ưa ông tướng này. Theo Greene, tướng TMT là người
gây ra vụ nổ tại đường Catinat, một trong chuỗi biến cố, trong có vụ
đầu độc tù Phú Lợi, đưa đến cuộc chiến.
Thành thử thảm họa chiến tranh, thảm họa
Yankee mũi lõ giầy xéo Miền Nam, thảm họa chất độc mầu
da cam… một cách nào đó, là do VC gây nên, khi dụ Mẽo vô.
Chỉ tới khi cuộc chiến chấm
dứt, thì thảm họa Yankee mũi tẹt mới bộc lộ ra.
Cái đúng ngày nào [cuộc
chiến thần thánh] gây họa ngày này, là vậy. Nói rõ hơn, Miền Bắc đã nói
dối về ý nghĩa cuộc chiến. Khi lời nói dối bộc lộ ra, hậu quả khủng
khiếp như hiện nay, và theo Gấu, vô phương cứu chữa, cách dấn thân nào
thì cũng vứt đi, chỉ trừ ra, dám nhìn thẳng vào sự thực.
Cô con gái cưng của
Marx: Tussy
Bà xã tớ tính cho tớ một thằng
cu, chứ không phải cái hĩm!
Tribute
to Levi-Strauss
Gấu đọc cuốn này, hồi mới lớn,
mê lắm. Lần qua Paris
thăm bạn quí, Nov, 1999, mua lại.
Trong có mấy bài thật tuyệt.
Thủng thẳng dịch hầu quí vị,
bài về Barthes, bài về Lévi-Strauss.
Cũng là một cách tưởng niệm Đỗ Long Vân, cũng
quá mê cơ cấu luận
Đọc TMT
I lost
two homelands, but I
sought a third: a space for the imagination, a domain that held room
for
artistic needs that were still not entirely clear to me. I lost a real
city,
but I sought a city of the imagination. I picked poetry as my province
relatively
late, later than many others do
Adam Zagalewski: Another
Beauty
[Tôi
mất hai quê nhà, nhưng tôi kiếm quê nhà thứ ba: một không gian cho
sự tưởng tượng, một miền cư ngụ của những nhu cầu nghệ thuật chưa hoàn
toàn rõ
ràng đối với tôi. Tôi mất một thành phố thật nhưng tôi kiếm một thành
phố của sự
tưởng tượng. Tôi lượm lên thi ca khá muộn, so với những người khác, và
coi đây
là quê nội của mình.]
All
writing is a species of remembering
Mọi cái viết thì đều là một thứ
chủng loại
của hồi nhớ
ADAM
ZAGAJEWSKI
The Greenhouse
In a small black town, your
town,
where even trains linger
unwilling,
anxious to be on their way,
in a park, defying soot and
shadows,
a gray building stands lined
with mother-of-pearl.
Forget
the snow, the frost's repeated
blows,
inside you're greeted by a
damp anthology of breezes,
and the enigmatic whispers of
vast leaves
coiled like lazy snakes. Even
an Egyptologist
couldn't make them out.
Forget
the sadness of dark
stadiums and streets,
the weight of thwarted
Sundays.
Accept the warm breath
wafting from the plants.
The gentle scent of faded
lightning
engulfs you, beckoning you
on.
Perhaps
you see the rusty
sails of ships at port,
islands snared in rosy mist,
crumbling temples' towers;
you glimpse what you've lost,
what never was,
and people with lives like
your own.
Suddenly
you see the world
lit differently,
other people's doors swing
open for a moment,
you read their hidden
thoughts, their holidays don't hurt,
their happiness is less
opaque, their faces
almost beautiful.
Lose
yourself, go blind from
ecstasy,
forgetting everything and
then perhaps
a deeper memory, a deeper
recognition will return,
and you'll hear yourself
saying: I don't know how-
the palm trees opened up my
greedy heart.
Letter from a Reader
Too
much about death,
too many shadows.
Write about life,
an average day,
the yearning for order.
Take
the school bell as your
model
of moderation,
even scholarship.
Too
much death,
too much
dark radiance.
Take a
look,
crowds packed
in cramped stadiums
sing hymns of hatred.
Too
much music
too little harmony, peace,
reason.
Write
about those moments
when friendship's
foot-bridges
seem more enduring
than despair.
Write
about love,
long evenings,
the dawn,
the trees,
about the endless patience
of the light.
Long Afternoons
Those
were the long
afternoons when poetry left me.
The river flowed patiently,
nudging lazy boats to sea.
Long afternoons, the coast of
ivory.
Shadows lounged in the
streets, haughty manikins in shop fronts
stared at me with bold and
hostile eyes.
Professors
left their schools
with vacant faces,
as if the Iliad had finally done them in.
Evening papers brought
disturbing news,
but nothing happened, no one
hurried.
There was no one in the
windows, you weren't there;
even nuns seemed ashamed of
their lives.
Those
were the long
afternoons when poetry vanished
and I was left with the
city's opaque demon,
like a poor traveler stranded
outside the Gare du Nord
with his bulging suitcase
wrapped in twine
and September's black rain
falling.
Oh tell
me how to cure myself
of irony, the gaze
that sees but doesn't
penetrate; tell me how to cure myself
of silence.
Translated
from the Polish by
Clare Cavanagh
The
Partisan Review, Winter 1998
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Nghe tiếng mưa khi mưa
hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang
ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì
mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào
đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người,
lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy
Câu văn mở ra, [khởi đầu là
lời], mới lộng lẫy làm sao!
Bất giác nhớ đến câu văn mở ra
đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển
Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.
*
Người mở truyện
hách nhất, có
lẽ là Camus.
Thử coi, có đúng không.
NOCES A TIPASA
Au printemps, Tipasa est
habitée par les dieux et les dieux parlent dans le soleil et l'odeur
des
absinthes, la mer cuirassée d'argent, le ciel bleu écru, les ruines
couvertes
de fleurs et la lumière à gros bouillons dans les amas de pierres.
LE VENT
A DJÉMILA
Il est des lieux où meurt
l'esprit pour que naisse une vérité qui est sa négation même. Lorsque
je suis
allé à Djémila, il y avait du vent et du soleil, mais c'est une autre
histoire.
L'ÉTÉ A
ALGER
Ce sont souvent des amours
secrètes, celles qu'on partage avec une ville. Des cités comme Paris, Prague, et
même Florence
sont
refermées sur elles-mêmes et
limitent ainsi le monde qui leur est propre. Mais Alger, et avec elle
certains
milieux privilégiés comme les villes sur la mer, s'ouvre dans le ciel
comme une
bouche ou une blessure. Ce qu'on peut aimer à Alger, c'est ce dont tout
le
monde vit: la mer au tournant de chaque rue, un certain poids de
soleil, la
beauté de la race. Et, comme toujours, dans cette impudeur et cette
offrande se
retrouve un parrfum plus secret. A Paris,
on peut avoir la nostalgie d'espace et de battements d'ailes. Ici, du
moins,
l'homme est comblé, et assuré de ses désirs, il peut alors mesurer ses
richesses.
Gấu,
khi mở ra Mùa
Hè Miền Nam, đã chắc mẩm, kể như xong, một truyện dài, chẳng
thua gì
Lumière
d’Aout của thầy Faulkner.
Hóa ra tẽn tò!
*
Mùa Hè Miền Nam
Căn nhà
gỗ, vách ván, nền
tráng xi măng, mái thấp, đứng ở ngoài hiên, hơi kiễng chân có thể lùa
tay dọc
theo con máng, lùa mớ lá khô, rồi sau đó, lấy rẻ ướt vét sạch lớp bụi
cát do
những chuyến xe đò chạy trên đường lộ lùa tới, lưu cữu dưới lòng máng
sâu, mùi
xăng nhớt lẫn trong luồng hơi nóng bị vách ván cùng những cánh cửa sổ
đóng kín,
ngăn chặn, quanh quẩn trong hiên, đánh thức những giấc ngủ trưa chập
chờn, bài
hoải trên chiếc ghế bố ở cuối hiên, đánh thức luôn những xúc động nhỏ
nhặt,
những ước muốn mơ hồ, không rõ rệt... Một lần giở một khúc máng gỉ nát
tính sửa
chữa, tình cờ tìm lại được cả một tập thư tình viết cho L.H. Những bức
thư tình
viết đầu tiên trong đời, trong đêm khuya, dưới ánh đèn lén lút chiếu
sáng vừa
đủ trang giấy, lo sợ, không phải ánh sáng đèn, nhưng mà là những xúc
động rồn
rập (nhiều lúc làm nghẹt thở), làm mọi người thức giấc; càng về khuya,
chữ càng
thêm năng nề, nhưng vẫn không thể nói hết, thỉnh thoảng viết được một
vài điều
thật cảm động, (những kể lể sướt mướt, những lời nói họa hoằn của nàng
vẫn còn
đọng lại, tiếng cười, cử chỉ của nàng khi vẫy tay từ giã, hẹn kỳ hè tới
sẽ gặp
lại...), vội vã tắt đèn, ngồi yên lặng trong bóng tối, sợ hãi chính nỗi
xúc
động của mình, chúng có thể gây nên những tiếng động lịch kịch như
tiếng bàn
ghế di chuyển, làm ngọn đèn cháy sáng trở lại, nỗi xúc động giống như
nỗi cô
đợn nhiều khi đột nhiên thái quá, làm ngây ngất, khó chịu. Những bức
thư viết
nhưng không bao giờ gửi, không phải sự sợ hãi, không phải quá rụt rè
khi gặp
nàng, nhưng mỗi lần tính đưa, thì một cử chỉ vô tình của nàng làm khựng
lại,
ngay chính người đưa thư cũng nhận ra sự vô ích, thừa thãi, nhưng tại
sao
vẫn.... Tưởng tượng nếu nàng đọc những bức thư đó, có cảm giác chết
cứng vì tủi
hổ, nỗi cô đơn đột nhiên bị tước đoạt, cảm giác trần truồng trước mặt
nàng,
trước người khác... Những bức thư được giấu kỹ trong đống sách vở, ở
dưới đệm
giường, ở dưới lòng máng, chỗ an toàn nhất không sợ chị Thu lục lọi
ngăn kéo
hộc bàn tìm mẩu viết chì, thỏi gôm, lật những cuốn tập, vô tình thấy,
tò mò
đọc, chắc chắn sẽ cười cợt, chế giễu, nhưng có thể sẽ thương hại; xấp
giấy được
giấu kỹ như những món quà, bánh được ba má chia đều cho hai chị em,
thường để
dành, tìm chỗ cất giấu, nhiều khi mải chơi, quên luôn, khi nhớ tìm lại,
kiến bu
quanh, hoặc chuột đã tha đi đâu mất tích, xấp giấy nay cũng bị gián
nhấp tả
tơi, chữ thiếu hụt, chỗ còn mất, nước mưa làm nhiều chỗ trở nên trắng
bệch, mất
cả buổi sáng tìm cách vá víu, chắp nối, nhưng không thể, quá khứ...
Mái lợp
ngói nâu, vẻ cũ kỹ,
mốc thếch, vườn cây vây quanh nhà, con kinh đào dẫn nước luân lưu khắp
vườn,
sau cùng đổ những trái dừa, trái cam hư thối ra nhánh sông sau nhà, một
chiếc
xuồng lập úp, vùi giữa đống lá dưới bóng một thân cây lớn, chủ nhật hay
ngày
lễ, nhất là vào dịp nghỉ hè, L. H. từ Sài Gòn lên vườn thăm chị Thu, sẽ
đưa
nàng đi chơi xuồng, cả hai len lỏi giữa những vùng trời nước im lặng,
tiếng mái
chèo đập nước làm át tiếng tim đập mạnh, giả đò thở hổn hển vì mệt chứ
không
phải vì quá xúc động... hoặc đậu xuồng dưới đám lá cây dầy đặc che hết
ánh nắng
(nàng bỏ kính che mắt, trong bóng mát, ánh mắt chợt long lanh, có thể
nàng
biết... tinh nghịch nhúng tay xuống nước, bóng nàng vỡ ra từng mảnh,
chụm dần
lại... biết tôi đang đăm đăm, ngơ ngẩn nhìn....), hoặc chìm mất giữa
đám sậy
nhỏ, những lần đi quá xa, tiếng chị Thu từ trên bờ gọi trở về dùng cơm
vọng
nước tới làm tắt ngấm những lời dự định nói, cuối cùng vẫn chỉ là những
lời vu
vơ, những hỏi han về việc học, về thành phố Sài Gòn đã lâu chưa có dịp
xuống
chơi, về một vài dự tính trong tương lai (nàng nói, sẽ học y khoa, chữa
bệnh
cho mọi người nhưng không cho riêng ai, tâm sự của mỗi người cũng chỉ
là một chứng
bệnh, rồi sẽ qua đi, chẳng cần chữa trị...), tất cả những gì còn lại
được giấu
kín như những bức thư chẳng bao giờ gửi, như những lần tự nhủ, trước
khi nhập
ngũ, sẽ gặp nàng một lần, và sau đó sẽ bỏ đi, sẽ mất tích trong cuộc
chiến,
hoặc cũng chẳng cần cuộc chiến, sẽ cố gắng quên hết, cố gắng làm lại từ
đầu,
giả sử như chưa từng gặp nàng, như những lần lang thang nơi khu phố
nàng ở,
(gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa
tiệm bán
sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở
gần phía
bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có
thể
thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài,
làm sao
nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao
thuốc, hoặc
ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh
giầy
chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường
quá
khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể
bóng dáng
nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh
toát, thỉnh
thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể
than khóc
với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu
được, nàng
đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt,
băng
giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút
tẻ
nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của
tôi, ở
ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời
niên thiếu,
ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng,
lòng lo
lắng sợ sệt, muốn được nàng an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên
ngoài cuộc
đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng không
thể
thấy, không thể biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố
gắng
đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....
Sơ Dạ Hương.
Tâm Tài Mỹ
Hồi còn
ở trong nước, sau cú
cởi trói cho nhà văn VC, nhà văn Ngụy nhờ đó cũng ăn theo, Gấu nhà văn
có dịp tái
xuất giang hồ. Bài đầu tiên, là là điểm cuốn Trăm Năm Cô Đơn, đăng trên Thanh
Niên, với cái tên dởm Gấu không còn nhớ, vì, có thể tòa báo cũng
còn
ngần ngại.
Tại sao Trăm Năm Cô Đơn?
Gấu nhìn ra liền, đây là của một
đệ tử của Faulkner, và từ Absalom,
Absalom! mà ra.
Gấu nhìn ra liền, nếu
Faulkner đập nát thời gian, và xây dựng lại nó, bằng ký ức của một tên
khùng,
thì Garcia Marquez sử dụng những vòng tròn đồng tâm, đồng hiện, với
những nhân
vật trùng tên, thời gian cứ thế lập đi lập lại…
Bây giờ nghĩ lại, vẫn thấy ‘tự
sướng', ‘tự huyễn hoặc’ về mình: Sao Gấu tài thế!
Bài
điểm sách thứ nhì, trên
Tuổi Trẻ, điểm cuốn Thám
Tử Buồn. Với cái tên NQT "đàng goàng". Một truyện dịch từ một
tác giả
Liên-xô. Thảm cảnh nước Nga sau đổi mới. Băng hoại tinh thần, đạo đức
đưa đến tội
ác. Có những cảnh như con cháu đưa bố mẹ tới huyệt, chưa kịp chôn, đã
tranh
nhau chạy về nhà giành giật của cải, gia tài. Bố mẹ trẻ ham chơi, bỏ
con chết
đói: khi khám phá, miệng đứa bé còn con gián chưa kịp nuốt thay cho sữa.
Mới đấy, đọc lại mấy tờ Partisan
Review cũ, trong lúc dọn nhà, Gấu vớ
được một bài điểm sách,
đúng cuốn Thám Tử Buồn, thế
mới thú vị.
Bài điểm sách này thật tuyệt.
Tác giả bài viết, đẩy tầm nhìn của ông
cao hơn nhiều, so với Gấu, và nhìn ra một vấn đề, đúng vấn đề mà
Brodsky đã nêu
ra trong bài Diễn Văn Nobel của ông:
“Trong diễn từ
Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ
được
xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo
nghĩa,
con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và
nếu như
vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. Cái ác, cái tà ma, về mặt
còn
lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi
tệ”
Coetzee: Brodsky.
Tin Văn sẽ post bài viết, và lèm
bèm thêm.
Bởi vì đây đúng là vấn đề của văn Mít, ở trong nước Mít. Quái thế!
Dọn Tiếp!
Ghi chú về Brodsky
|
|