|
Viết
Bài hay về Susan Sontag: Susan
Sontag: Critic and Crusader (Los Angeles Review of Books
1-7-15)
-- Sontag là "thần tượng" của THD, xem bài của THD Về
Susan
Sontag (Diễn Đàn 148, tháng 2/2005) - Sontag có sang Hà Nội
thời
chiến tranh và viết một bài "classic": Trip to
Hanoi ◄
Note:
Susan
Sontag "tới" Hà Lội hai "cú", không phải một. NQT
****
Pico
Iyer dường như chuyên viết du hành ký, và tôi rất ưa đọc du hành ký,
đọc rất nhiều nhưng chẳng nhớ gì, tôi có lẽ thuộc về nhóm người đọc và
viết là để quên đi những cái mình đã đọc và viết; do đó tôi biết tên
Pico Iyer cũng từ những bài du hành ký. Riêng Iyer, ông lại chuyên viết
du hành ký về Nhật Bản, và có lẽ trong lúc lang thang trong khu vườn
văn học Nhật Bản tôi bắt gặp tên ông. (1)
Pico
Iyer mở
ra bài viết bằng 1 câu, qua đó, có vẻ như cũng thật mê
Greene (1)
Tôi mất cả nửa
đời mình để nhập vô cuốn phúc âm nhức nhối của Graham Greene về nhân
loại.
It took me
half a life time to grow into Graham Greene’s anguished gospel of
humanity.
Tuyệt!
Tờ Brick
viết về Pico Iyer:
Pico Iyer cố
làm bật G.G khỏi hệ thống của mình bằng cách viết ba ngàn trang về G.G,
với cuốn
mới nhất: “Người đàn ông trong đầu tôi”. Nhưng vưỡn thua.
Pico Iyer
tried to get Graham Greene out of his system by writing three thousands
pages
on him, boiled down into his most recent book, The Man Within My Head
(a). He still
failed
“Writing is,
in the end, that oddest of anomalies: an intimate letter to a stranger.”
Viết, quái nhất trong những quái: Lá thư riêng tư cho... một kẻ lạ,
người dưng, nước lã!
― Pico Iyer
“Perhaps the
greatest danger of our global community is that the person in LA thinks
he
knows Cambodia because he's seen The Killing Fields on-screen, and the
newcomer
from Cambodia thinks he knows LA because he's seen City of Angels on
video.”
Cái nguy hiểm
nhất của cộng động toàn cầu, là, ngồi ở LA phán, tớ biết Cam bốt, vì
mới xem
phim “Cánh đồng giết người”. Và 1 tên Cam bốt mới nhập Mẽo phán, tớ
biết LA, vì
mới coi video “Thành phố của những thiên thần”
― Pico Iyer (1)
“Ông số 2”, ngồi ở Quận Cam, chẳng đã ngậm ngùi phán, Sài Gòn có người
chết đói, ngay bên hông Chợ Bến
Thành!
(a)
The Man
Within My Head by Pico Iyer
We all carry
people inside our heads—actors, leaders, writers, people out of history
or
fiction, met or unmet, who sometimes seem closer to us than people we
know.
In The Man
Within My Head, Pico Iyer sets out to unravel the mysterious closeness
he has
always felt with the English writer Graham Greene; he examines Greene’s
obsessions, his elusiveness, his penchant for mystery. Iyer follows
Greene’s
trail from his first novel, The Man Within, to such later classics as
The Quiet
American and begins to unpack all he has in common with Greene: an
English
public school education, a lifelong restlessness and refusal to make a
home
anywhere, a fascination with the complications of faith. The deeper
Iyer
plunges into their haunted kinship, the more he begins to wonder
whether the
man within his head is not Greene but his own father, or perhaps some
more
shadowy aspect of himself.
Drawing upon
experiences across the globe, from Cuba to Bhutan, and moving, as
Greene would,
from Sri Lanka in war to intimate moments of introspection; trying to
make
sense of his own past, commuting between the cloisters of a
fifteenth-century
boarding school and California in the 1960s, one of our most
resourceful
explorers of crossing cultures gives us his most personal and
revelatory book.
(b)
Người Đàn
Ông
Trong Đầu Tôi: Đúng ra, 3 người, tác giả, ông già của tác giả, và
Greene.
Đúng
hơn nữa, 4 người, vì còn ông già của Greene cũng hiện diện.
Folder
Missing Recovered
Sinh
nhật
GCC: 16.8.
19.8:
Mừng Cách
Mạng Tháng Tám với hai ông bạn thi sĩ ở Tiểu Cali, tại quán Lan Hương,
tên khai
sinh của BHD
Trong những
kỷ niệm tha hương ngộ cố tri, giữa GCC và cái gọi là dòng văn học Miền
Nam kéo
dài ở hải ngoại, kể từ khi đến được Xứ Lạnh – không kể cái lần bạn quí
bỏ hết
công việc nơi xứ người, cất công qua tận trại tị nạn thăm, không kể cái
lần nhận
được thư của 1 trong 5 nhà văn nữ hàng đầu của Miền Nam trước 1975,
than thở
giùm, mi qua chậm quá, hết mùa biển động, mùa vượt biển, mùa con khỉ gì
gì nữa, rồi – thì cái lần gặp lại bạn Cà, khi qua Cali, thật là tuyệt,
vì thấy bạn
thực sự là mừng, vì thằng bạn ngày nào thực sự sống sót, vượt qua được
cả hai
ngục tù, VC và đệ tử Cô Ba!
Mày đúng là
tái sinh, bạn Cà phán.
Vậy mà bi giờ
mang bạn Cà ra phạng tới tấp, khốn nạn thật!
Hà, hà!
GCC đã kể ra
rồi, trong số bạn bè hồi đó, thì chỉ có
VL và bạn Cà, thực sự mừng, vì Gấu sống sót. Mỗi người mừng 1 kiểu. Cà
phán, mi
tái sinh, còn VL thì khen Gấu Cái, nhờ Hồng mà thằng Trụ sống lại.
Nghe
Bả kể lại,
hồi đó đó, VL thấy Gấu Cái cơ khổ quá, có đưa đề nghị,
thằng Trụ
mà không lo cho em, thì còn khối kẻ khác!
Hà, hà!
Ui chao, viết
lại đời của cặp Gấu, chỉ khoảng thời gian, khi gặp nhau, lấy nhau ra
sao, thì
cũng đủ 1 cuốn tiểu thuyết thượng hạng hảo hạng rồi!
Ngày từ hồi
còn mồ ma Quán Chùa, là bạn Cà đã sửa soạn cho mình, 1 thứ đạo Cà, mà
bạn là giáo
chủ, còn tất cả, đệ tử. Toàn một lũ lau nhau, xưng tụng sư phụ. Thú
thực, GCC
chưa từng thấy, trong số những tên ca tụng thi sĩ Cà, 1 tên, chỉ 1 tên,
thực sự
đọc, thực sự mê thơ, và đủ tài để mà nói ra cái hay, cái dở của nó.
Có thằng nào
như Gấu, mê, chỉ hai câu thơ của bạn Cà, như Gấu mê, chưa?
Em đi áo lụa
mềm lưng phố
Có động lòng
thương kẻ cuối đường.
Chưa 1 tên nào
xứng là đệ tử Cà, thứ thiệt, nói gì... bạn!
Thua xa Gấu.
Có bạn thực, chưa kể bạn quí,
hơn Gấu nhiều, như Joseph Huỳnh Văn, như Đỗ Long Vân, thí dụ.
Bạn Cà thử kể
1 tên, đáng là bạn, hoặc đệ tử... thứ thiệt của Cà, coi?
Không lẽ 1 tên
ăn cắp thơ của kẻ khác, mà là... bạn Cà ư?
Cà thân với tôi lắm!
Một tên Cớm VC mà dám tự nhận "thân với Cà" lắm?
Yếu
điểm -
đúng ra phải nói nhược điểm- của bạn Cà, là quá mê thiên hạ ca tụng Kà.
Bất cứ
1 thằng cà chớn nào thổi Cà, là Cà OK!
Khi đếch có
ai thổi Cà, thì Cà bèn thổi Cà!
Cái này là do
DN, người bạn đời cũ của Cà kể cho Gấu nghe, thời gian Bà dành cho Gấu
1 mục
trên tờ SGN của Bà.
Hồi đó đó, thấy ông ta đói quá, tôi bèn để cho ông giữ 1 mục
trên tờ báo của tôi.
Ông đăng toàn những bài thổi ông, với rất nhiều
cái tên
người viết, đều do ông phịa ra!
Dịch lại & Lại dịch
"Hóa Thân" của Kafka qua tiếng Anh
JANUARY
15, 2014
ON
TRANSLATING KAFKA’S “THE METAMORPHOSIS”
POSTED
BY SUSAN BERNOFSKY
This
essay is adapted from the afterword to the
author’s new translation of “The Metamorphosis,” by Franz Kafka.
Cú
khó sau chót, về dịch, là cái từ trong cái tít. Không
giống từ tiếng Anh, “metamorphosis,”
“hóa
thân”, từ tiếng Đức
Verwandlung
không đề nghị cách hiểu tự nhiên, tằm
nhả tơ xong, chui vô kén, biến thành nhộng, nhộng biến thành
bướm, trong vương quốc loài vật. Thay vì
vậy, đây là 1 từ, từ chuyện thần tiên, dùng để tả sự chuyển hóa, thí dụ
như
trong chuyện cổ tích về 1 cô gái đành phải giả câm để cứu mấy người
anh bị bà phù thuỷ biến thành vịt, mà Simone Weil đã từng đi 1 đường
chú giải
tuyệt vời.
“Hóa thân” là phải hiểu theo nghĩa đó, giống như GCC, có thể đếch chết,
và thay vì chết, thì biến thành rồng, như lời chúc SN của bạn DV!
Chả
là ở quê
của Gấu, khúc sông Bạch Hạc, Việt Trì, có loài cá chép kêu là Cá Anh
Vũ, ngon số
1, dùng để tiến vua, và hàng năm, cá tụ về, thi vượt Vũ Môn. Con nào
vượt được,
thì biến thành Rồng!
Cuốn của
Durrell này, mua, một phần là vì nhớ BHD.
Lần ăn mìn VC, nằm dưỡng
thương ở Đài
VTD, số 5 PDP, em mang 1 cuốn của Durrell làm quà tặng SN, cùng câu
tiếng Tẩy, “ta
sẽ là vợ mi”!
... vào
đúng sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là
sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme." (2)
Durrell
là bạn
thân của Miller. Bữa trước, TV có nhắc tới Bolano, viết về
những vị thầy
văn học, thí dụ như Miller, nhưng bây giờ chẳng ai thèm đọc. Theo Gấu,
số phần
của Durrell cũng có phần tương tự. Steiner có thời mê lắm, nhưng sau,
ngượng, tại
làm sao mà ngày nào mình thổi Durrell quá cỡ thợ mộc như thế, nhất là
tiểu thuyết
bộ tứ “Alexandria Quartet” của Durrell.
Gấu cũng quá mê Durrell thời
mới lớn, đúng
thời gian có BHD.
Bởi thế, em mới tặng quà SN là cuốn của Durrell.
Cuốn kia, “série noire”, cũng 1 tác giả Gấu cực mê, em cũng biết, và
khi mua,
chỉ lo mua trúng cuốn Gấu đã đọc rồi.
Mà đọc rồi thật.
Thời gian còn
nằm Grall,
em đi bộ qua đường Lê Lợi, ghé 1 tiệm sách.
Em nói, chờ
mãi mới có
dịp ra khỏi nhà.
Nhớ, lúc đó cũng xẩm tối. Cả hai đi bộ trong nhà thương Grall, giữa
những luống hoa....
Gấu đọc nhiều
nhất, khi bắt đầu có tiền, do làm part-time cho UPI. Vừa làm bưu điện,
vừa làm
cho UPI, vừa có BHD, chiến tranh thì còn ở mãi tít xa Saigon, thế là
đọc hối hả,
đọc ào ào, trong số đó, đa số là série noire, và trong série noire, có
Chase.
Trong cái đọc
có tí văn chương, là Durrell. Thành ra hai tác phẩm mà BHD đem tới làm
quà khi gặp,
một cuốn là của Chase, Một buổi sáng đẹp, mùa hè, “Un Beau Matin
d’Été”, khi còn
nằm trong nhà thương Grall, và khi về Đài VTD dưỡng thương, chờ mổ
tiếp, là cuốn
“Cefalu”, của Durrell.
Về già, chờ đi,
Gấu tìm đọc Durrell, là tìm cơ may sống lại thời trẻ, khi có tất cả.
Trong cuốn "Từ
Lưng Voi", có 1 bài viết thật thần sầu, với riêng Gấu.
Và, 1 cách nào đó, nó
nói ra cái
ao ước kể trên của Gấu, và hơn thế nữa, nó nói thế này.
Một khi mà bạn "sống thật
sống", với
tất cả những cay đắng ngọt ngào "cái con mẹ" gì đó, mà không 1 lần, phải
biên tập
cái đạo hạnh của bạn, thì về già, thế nào bạn cũng có dịp sống
lại một
lần nữa,
cuộc đời của bạn, nhờ 1 cái gì đó, và cái gì đó này, thường là 1 nghệ
phẩm,
1 bản
nhạc, một truyện ngắn, truyện dài, một bài thơ, thí dụ.
Đó là bài viết:
Liệu giấc mơ vưỡn còn, khi mà kẻ mơ ngỏm rồi, "Can Dreams Live on When
Dreamers Die"?,
trong "Từ Lưng Voi", của Durrell
Gấu sẽ scan
và post bài viết, và dịch & giới thiệu, và, song song, kể
kinh nghiệm
lần đầu nghe “After the Sunrise” của Yanni, trong
CD Refections Of
Passion.
Trong khi chờ
đợi, post 1 bài cực ngắn về thơ, trong cuốn trên.
Ideas About
Poems
1942
1.
Neither poet nor public is really
interested in the poem itself but in aspects of it.
2.
The poet is interested in the Personal
aspect: the poem as an aspect of himself.
3.
The public is interested in the
Vicarious aspect; that is to say "the universal application:' which is
an
illusion that grows round a poem once the logical meaning is clear and
the
syntax ceases to puzzle.
4.
This is why good poems get written
despite bad poets and why bad publics often choose right.
MEANWHILE.
the poem
itself is there all the time. The sum of these aspects, it is quite
different
to what the poet and the public imagine it to be. Like a child or a
climate it
is quite outside us and our theories don't affect it in any way. Just
as
climate must be endured and children kept amused, (he poem as a Fact
must be
dressed up sometimes and sent to the Zoo-to get rid of it. It is part
of the
ritual of endurance merely. That Is the only explanation for Personal
Landscape
now.' People say that writing Poetry is one of the only non-Gadarene
occupations left-but this is only another theory or aspect. Poems are
Facts,
and if they don't speak/or themselves it's because they were born
without
tongues.
NOTE
1.
This short piece appeared at the
beginning of the first issue of Personal Landscape, the periodical
edited in
Cairo during World War II by Durrell, Robin Fedden, and Bernard
Spencer. Each
subsequent issue included an "Ideas About Poems" segment that
personalized
rather than politicized poetry, despite their proximity to, and the
immediate
threat of, the war. The kindred terminology of "Ideas About Poems" to
the ''Attitudes'' about Personalism adopted by the New Apocalypse poets
in the
following year, 1943, is suggestive. G.S. Fraser, who contributed to
Personal
Landscape and was a friend to the three editors, was also an important
contributor to the original New Apocalypse anthologies in London in the
preceding years. The personalist nature of both groups appears
anti-authoritarian
in the same manner as Herbert Read's notion of the politics of the
unpolitical.
Ideas About
Poems II
The schizophrene, the
cyclothyme,
Pass from the droll to the sublime.
Coming of epileptoid stock
They tell the time without a clock.
NON SENSE IS
NEVER JUST NON SENSE; it is more like good sense with all the logic
removed. At
its highest point poetry makes use of nonsense in order to indicate a
level of
experience beyond the causality principle. You don't quicken or laugh
at
nonsense because it is complete non-sense; but because you detect its
resemblance to sense.
Logic,
syntax, is a causal instrument, inadequate for the task of describing
the whole
of reality. Poems don't describe, but they are sounding-boards which
enable the
alert consciousness to pick up the reverberations of the extra-causal
reality
for itself.
Poems are
negatives; hold them up to a clean surface of daylight and you get an
apprehension of grace. The words carry in them complete submerged
poems; as you
read your memory goes down like the loud pedal of a piano, and all
tribal,
personal, associations begin to reverberate. Poems are blueprints. They
are not
buildings but they enable you to build for yourself. Serious nonsense
and funny
nonsense are of the same order: both overreach causality and open a
dimension independent
of logic but quite real. Shakespeare and Lear are twins who do not
dress alike.
Serious nonsense and comical nonsense have a common origin, and an
uncommon
expression.
Nothing is lost, sweet self
Nothing is ever lost.
The spoken word
Is not exhausted but can be heard.
Music that stains the silence
remains,
O! echo is everywhere the
unbeckonable bird! (1)
NOTE
1.
This
stanza is later modified to become Durrell's poem "Echo" (1943).
Cao Huy Khanh Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền nam
TƯ LIỆU QUÝ NĂM 1972
“ Đi lang thang trên mạng, tình cờ "lượm" được vật
quý hình như là của anh, đã mất. đã "đi" trên Khởi Hành số 148/1972 .
Bản chụp vi phim. Anh đã có nó lại chưa? Thôi thì cứ chuyển đại cho anh
vậy ( Nhà thơ Trần Anh )
.”.
Trong “ Hồi Ký Linh Phương “ kỳ 5, tôi có viết :
“…Thực ra, không chỉ bài thơ “ Kỷ Vật Cho Em “ tốn nhiều giấy mực báo
chí, mà còn có 2 bài thơ đăng cùng một số báo trên tờ tuần báo Khởi
Hành của Hội Văn nghệ Sĩ quân đội do Đại tá nhạc sĩ Anh Việt-Trần Văn Trọng làm Chủ nhiệm và
nhà văn Viên Linh làm Thư ký toà soạn. Đó là bài thơ năm chữ “ Bài Cho
Chiến Trường Đông Dương “ ( *)và bài thơ tám chữ “ Từ Giã Bọn Mày “ .
Sau khi báo phát hành được khoảng một tiếng đồng hồ thì cảnh sát được
lệnh tịch thu. Qua số báo sau, nhà văn Viên Linh đã có vài hàng đại ý
như …Linh Phương chỉ nói lên sự thật của cuộc chiến, nhưng rất tiếc
BTT/PHNT đã ra lệnh tịch thu vì cho rằng thơ Linh Phương đã làm giảm ý
chí chiến đấu của quân đội . Chúng tôi xin cáo lỗi cùng độc giả …”.
Sau mấy mươi năm, nhà thơ Viên Linh đã không còn
nhớ, nên ông bảo rằng Tuần báo Khởi Hành chưa hề đăng 2 bài thơ này.
Hôm nay, nhờ nhà thơ Trần Anh ( Nha Trang ) đã gởi tôi bản sao chụp hai
bài thơ-chứng tỏ tôi vẫn nhớ rõ và viết trong Hồi Ký của mình là xác
thực. Rất cám ơn nhà thơ Trần Anh đã cho tôi tư liệu quý , tưởng đã mất
đi sau 43 năm dài trôi qua.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(*) Đính chính lại là : “ Cho chiến trường Việt Nam “ tôi nhớ thành “
Bài cho chiến trường Đông Dương “.
Song
Nam Tang
2 hrs ·
trời ơi cô Hà Trần tôi hận
cô!
"chiều nào gánh phân quang
chùng quết đất" chứ
Like · Comment · Share
Note: Đọc, đọc thêm mấy cái còm, về “quang
& trành”, cộng thêm 1 tí thông tin, về Hà Nội sắp đi đuờng phạt
những ai nói
tục, chửi tục, thì Gấu bèn nhớ thời gian ở Chợ Vườn Chuối, hồi mới di
cư, sống
nhờ bà chị họ, chị Giậu, con ông Cả Hoán, vợ ông Hiếu Chân.
Con hẻm hẹp. Đằng trước nhà, cũng
có 1 bà Bắc Kít, có mấy
cô gái. Bà chửi con gái thực là tục.
Bà hay dùng cụm từ “lồn bằng cái giành rồi”
mà [lười] thế này, [ngủ dậy muộn]… thế
kia....
Đám con trai trong xóm, đa số Nam Kít,
mỗi lần nghe chửi là bật cười.
Có tên còn hỏi bà cụ Bắc Kít, cái “giành” nó rộng
& hẹp ra làm sao?
Giành, hay trành, thì cũng 1 thứ!
Cái này, phải lôi về Tin Văn, vì sợ “chị
So” bực, viết tục hoài!
Prague, 1964
The Joy of
the Street
Charles
Simic
I’ve felt at
home in cities as diverse and foreign to me as Barcelona, Krakow,
Mexico City,
and Sarajevo. All I need is a street full of people and I’m happy.
Between
going sightseeing or watching the natives go about their business, I
usually
choose the latter. Even waiting on a street corner for someone who is
always
late is preferable to me than listening to some tour guide. Dickens
grumbled in
his letters while traveling in the Swiss Alps about the lack of street
noise,
which he found indispensable for his writing. He needed the labyrinth
of London
streets and neighborhoods where he could prowl continuously. If one
wishes to
inform oneself about a country, its people, and its customs, there is
no better
way than roaming one of its cities and seeing how the rich and the
destitute
live.
They used to
call an idle well-dressed man a flâneur, now a rare and virtually
extinct type;
an urban explorer and voyeur, equal parts curiosity and laziness.
Baudelaire was
one. In his “The Painter of Modern Life” he recalls a story by Edgar
Allen Poe,
called “The Man in the Crowd,” in which a convalescent, having just
escaped
from the shadow of death, watches with wonder people passing by while
seated
behind a window of a café. Finally, he rushes out into the crowd in
search of
an unknown person whose face he glimpsed just for a moment and which
greatly
intrigued him, and spends the rest of the night pursuing that man
through
London, only to discover that he is constantly on the move, never
resting for
long and seemingly in no need of sleep.
Like most of
our habits, my love of street life has its origins in my childhood. I
was born
and grew up in Belgrade, in the very center of what was then the
capital of
former Yugoslavia. I lived in a four-story apartment building and
thought of
the street below our window as my playground. I think I was about five
when I
first started sneaking out of the building to watch other kids play and
got
yelled at, making the lives of my grandmother and mother even more
frantic than
they were. (When I was a bit older, I was allowed to go out with a
warning not
to stray more than a few steps beyond our front door. Of course, I
disobeyed
and wandered off farther and farther and got caught and yelled at
again.) Like
other women in the neighborhood and men too, they had a lot to worry
about
already. The year was 1943 and Belgrade was occupied by the Nazis whose
vehicles were now and then seen on our street passing through and whose
soldiers stopped and entered some buildings. I don’t recall much from
that time
beyond some isolated images and brief scenes: three skinny little girls
playing
hopscotch, a black and white dog that used to follow me around, an old
woman
feeding crumbs of white bread to sparrows, two women pulling each
other’s hair
and screaming at each other, a German soldier smiling at me.
It was only
a year later, when I was six, that my recollections begin to be more
numerous
and more vivid. I remember not just the Allied bombings in April 1944
and the
liberation of the city by the Russians that October, but spending all
my time
playing with other kids, playing either in the street or in the ruin of
a
bombed building right across the street from us. As far as I was
concerned,
this was as good as life gets. Our parents and relatives were busy or
away and
our grandmothers were often out trying to find something for us to eat.
So, who
kept an eye on us in the street? I asked myself recently, and
remembered it was
the other women in the neighborhood who knew when we were up to no good
and
came to our rescue. Of course, we hated them butting in and
interrupting our
fun, like that time when one of the older boys was passing around a
German
military pistol he found somewhere, but today these women’s worried and
caring
faces mean more to me than the memory of holding that gun in my hand.
After the
war ended, our days of fun were over and we started school. Although I
was an
okay student, I hated going, but forced myself to do so until the sixth
grade
when I started playing hooky and eventually stopped going altogether,
without
my mother knowing. I spent a couple of months roaming the streets of
Belgrade
until the school finally noticed my absence and sent the cops to inform
my
mother. While the weather was balmy I could pass the hours I was
supposed to be
in school easily taking long walks, but once the fall rains and the
cold came,
I was forced to hide in doorways or go to the movies on the rare
occasions when
I had the money. Of course, I was lonely and miserable, but was not
always
bored, and at times almost happy seeing so many strange and interesting
things.
If anything made me who I am, living like a vagrant in the streets did.
Even today,
a kind of exhilaration comes over me roaming an unfamiliar city, a fear
of
being lost and a secret hope that I am. In the meantime, how much more
alive I
feel, how much more readily my eyes notice things and how much better
my mind
and imagination work. Strange cities compel us to look. We take lessons
in
aesthetics and political science without being aware that we are. We
learn
about beauty and mystery by giving some overlooked little street and
neighborhood the friendship it deserves. In cities that are full of
skyscrapers
I feel like I am in a movie and, in the older ones, in a theater
walking past
brightly or dimly illuminated stage sets, mingling with the actors.
Whitman
wrote of the crowd on Broadway:
What hurrying human tides, or day or night!
What passions,
winnings, losses, ardors,
swim thy waters!
What whirls of
evil, bliss and sorrow, stem
thee!
What curious
questioning glances—glints of
love!
Leer, envy,
scorn, contempt, hope,
aspiration!
Walking the
city streets one becomes a collector of faces, some of which stay with
us
forever. “Every human being, from the humblest to the most
distinguished,”
Goethe thought, “carries around with him a secret which would make him
hateful
to all others if it became known.” Or perhaps—I am inclined to
add—would draw
our sympathy and even our love, if by some miracle we were to find out
what it
was.
June 17,
2015, 5:16 p.m.
Đọc bài viết,
loáng thoáng, thì lại nhớ đến “Ám ảnh phố phường”, của 1 anh Cớm Vẹm,
nâng bi Du Tử Táo!
Tuy nhiên, câu "All I need is a street full of people and I’m happy",
"Tất cả những gì mà tớ cần, là một con phố đầy người và tớ thung
thướng", của Simic, thì làm Gấu nhớ Quán Chùa, và cái hình ảnh “thần
sầu”, vào sáng Thứ
Bẩy, hoặc Chủ Nhật, ngồi trong quán, nhìn ra ngoài lề đường, phía bên
kia đường,
chỗ có cái công viên nho nhỏ, thể nào cũng có 1 anh Mẽo, mặc đồ dân sự,
đứng dựa
lưng vào 1 cái cột đèn, đại khái nhớ như thế, và đắm đuối nhìn con phố,
nhìn
người qua lại, rất ư là hạnh phúc.
Ui chao cái hình ảnh 1 Sài
Gòn những ngày còn thanh bình, còn Quán Chùa.
Sau này, đọc
Vila-Matas mới cảm khái làm sao!
PESSOA
ET AUTRES MESSIEURS
le
quartier littéraire de Lisbonne
Ôi chao giá như
viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Shostakovich
Chostakovitch
intime
“J’ai
surement VÉCU trop LONGTEMPS»
En juin
1937, en pleine terreur stalinienne, Chostakovitch fut convoqué par le
NKVD,
l'effrayante police politique du régime. A l'époque, c'était
l'antichambre de
la mort. Le compositeur ne dut son salut qu'au fait que l'officier
chargé de
son dossier fut lui-même exécuté. Ces deux lettres en témoignent, il se
vécut
dès lors comme un survivant
Tôi rõ ràng
là đã sống quá lâu
Tháng Sáu 1937, đỉnh cao
chói lọi Đại Khủng Bố Xì, en pleine
terreur
stalinenne, Shostakovich được Mật Vụ Xì “kêu lên Phường”, convoqué par
NKVD - tức
KGB sau này - như Mít trong nước thường gọi.
Kết cục mới tiếu lâm làm sao: Không
phải Shostakovich, mà là cái tay hỏi cung ông, bị xử tử.
Nhưng như hai cái thư
mới được công bố, kể từ đó, chàng coi chàng là kẻ sống sót!
Borges
by Cioran
A Critic at Large March
26, 2007 Issue
Vagabonds
Rberto Bolaño and his
fractured masterpiece.
By Daniel Zalewski
When “The Savage
Detectives” was published, Ignacio Echevarría, Spain’s most prominent
literary critic, praised it as “the kind of novel that Borges could
have written.” He got it half right. Borges, whose longest work of
fiction is fifteen pages, would likely have admired the way Bolaño’s
novel emerges from a branching tree of stories. But what would he have
made of the delirious road trip, the frenzied sex, the sloppy displays
of male ego? Bolaño fills his canvas with messy Lawrencian emotions but
places them within a coolly cerebral frame. It’s a style worthy of its
own name: visceral modernism. ♦
Note: Bolano theo GCC, là cũng
từ Borges mà ra. Nhưng trái ngược hẳn nhau, trò viết loạn cào cào, dài
thòng, thầy ngắn ngủn. Thành ra khi cuốn "Những nhà thám tử lạ lùng" ra
đời, và khi cái tay phê bình khen, đây là thứ tiểu thuyết mà Borges có
thể viết, tác giả bài này, "Vagabonds", những tên ma cà bông, nói, chỉ
đúng có 1 nửa.
Bolano nhập thế hơn Borges, cái gì của ông này viết ra thì cũng có mùi
sex.
Borges gần như 1 nhà khổ hạnh, chẳng có tí mùi súng ống đạn dược, bướm
biếc!
Chẳng có tí male ego!
Trang Bolano
EXILES
To be exiled
is not to disappear but to shrink, to slowly or quickly get smaller and
smaller
until we reach our real height, the true height of the self. Swift,
master of
exile, knew this. For him exile was the secret word for journey.
Many of the exiled, freighted with more suffering than
reasons to leave, would reject this statement.
All literature carries exile
within it, whether the writer has had to pick up and go at the age of
twenty or
has never left home.
Probably the first exiles on record were Adam and
Eve.
This is indisputable and it raises a few questions: Can it be that
we're all
exiles? Is it possible that all of us are wandering strange lands?
The concept
of "strange lands" (like that of "home ground") has some
holes in it, presents new questions. Are "strange lands" an objective
geographic reality, or a mental construct in constant flux?
[suite]
Albert Camus vs Kamel Daoud
Một thoáng
Havel
Cuộc “song đấu” giữa
Vargas Llosa và
Vaclav Havel, trong 1 chương trình truyền hình của Tây.
TV sẽ giới thiệu bản tiếng
Việt. Tuy nhiên, thú nhất với riêng GCC, là cú chót, đóng lại bài viết:
In one of
his essays, Havel quotes the terrible observation of Eugene
O'Neill: 'We have fought for so long against small things that we've
become
small ourselves.' I trust now that he no longer has to confront the
formidable
adversities of before, but rather the small and sordid adversities of
the daily
art of governing, the president of the Czechs will go on being the
discreet and
pure man that he is still today.
Trong 1 bài
tiểu luận, Havel trích một nhận xét khủng khiếp của Eugene
O'Neill: Chúng ta mải miết chiến đấu với những điểu nhỏ mọn, và sẽ đến
1 lúc,
chính chúng ta, trở thành nhỏ mọn.
Thảo nào mấy
vị độc giả thân hữu của TV cứ bực bội hoài vì cái mục
Dọn!
Tks Both of
U.
Happy Noel!
NQT (1)
Một
thoáng
Havel
Người đàn ông
khiêm nhường này, rất ư là tởm cái từ "chủ nghĩa anh hùng" [chắc giống…
NN, cha đẻ,
nhưng từ bỏ, nhân vật của mình, anh hùng Núp - cái tên hay thật- nhưng
trong
tuyển tập thì vưỡn có!], ăn mừng [enjoy] uy quyền đạo đức lớn lao
của xứ sở của ông. Tại công trường Chợ Bến Thành [market square] ở
Prague, tôi
nhìn thấy một bà cụ mang 1 tấm hình của ông, ở một cái túi xách tay,
như thể đó
là hình của một người cha, hay một đứa con. Ông đạt được
thành quả này, qua những năm tháng đen tối của xứ sở, nhờ niềm tin,
conviction,
một niềm tin ngoan cố, bướng bỉnh, lì lợm, không chát chúa, rằng, ngay
cả vào
những hoàn cảnh khó khăn nhất thì một con người vẫn có thể hành động để
cải thiện
số phần đất nước của người đó. Từ đó mà ra Hiến chương Jan 1977,
thoạt đầu
có 240 cư dân “ở bên trong” ký tên, và nó trở thành dấu ấn, bước ngoặt,
landmark của cái
gọi là diễn biến hòa bình, phản công đòi dân chủ, và 12 năm sau đem lại
sự vẹn
toàn, chủ quyền cho Tiệp.
Tôi không hỏi
Havel về 6 năm hay hơn mà ông trải qua trong thời gian ở tù, bởi vì tôi
đã đọc
những tiểu luận của ông. Thay vì vậy, tôi nói với ông về 1 trong những
kinh
nghiệm thê thảm nhất của tôi, trong thời gian mắc mớ với chính trị, đó
là, chạy
trời không khỏi nắng, chính trị huỷ hoại ngôn ngữ qua
đó nó diễn tả, rằng, chẳng
sớm thì muộn, bài diễn ngôn [discourse] của nó sẽ rơi vào những cũ mòn,
bản kẽm,
rằng, chẳng có “cái gọi là còn trinh”, [thuổng chữ của Thầy Cuốc], chân
thực, rất
đỗi cá nhân [mấy bài Tạp Ghi, Phén, Phiếc có cái gì còn trinh đâu, toàn
đồ nhai
lại, vậy mà vỗ ngực xưng tên “nhà ven, nhà veo”, hà, hà!], kể từ khi,
cái chính
trị nói, luôn luôn chôm mẹ mất, tranh đoạt mất, chiếm chỗ số 1, so với
cái điều
đúng ra nên nói, cần phải nói. Có bao giờ ông Havel cảm thấy mình là 1
thằng
cha nói bằng bụng cù lần, cà chớn, chuyên lập lại những từ của 1 kẻ
khác, 1 kẻ
nào đó?
Đúng như thế.
Thỉnh thoảng Người cũng nói bằng bụng. Lẽ tất nhiên, làm sao Người
không nhận
ra điều này, và rất ư là “bức xức”, và luôn luôn cẩn trọng, dè chừng.
Chính vì
lý do này mà Người luôn tự viết bài diễn văn cho mình, đếch nhờ mấy
đấng chuyên
viết Tạp Ghi, viết Phén!
Tôi còn nhận
ra điều này, ngôn ngữ văn học là 1 điều, và diễn văn chính trị thì lại
là 1 điều
khác. Cái ngôn ngữ văn học là cái mà thằng cha nào cũng thèm. Nó là mọi
điều, mọi
thứ mà một nhà văn muốn nó là. Còn cái diễn văn chính trị là thứ bắt
buộc phải
sáng sủa, giản dị, làm sao càng nhiều người nghe mà gật gù, càng tốt,
và những
người nghe này làm nên cái gọi là xã hội.
Còn một bài
học chính trị gây bực mình nữa đối với tôi, tôi lèm bèm với ông, đó là
cuộc mâu
thuẫn, xung đột Machiavellian, đôi lúc tiềm tàng, đôi lúc bộc phát,
nhưng luôn
luôn không thể tránh được, cuộc xung đột giữa hiệu quả và sự thực. Liệu
có thứ
chính trị, hiệu quả, mà không bịt mắt dân, mà không đánh lừa họ? Tôi đã
thử thứ
này, và tôi nghĩ đó là một trong những lý do – không phải lý do chính -
khiến tôi
thất bại.
Luôn luôn nói
sự thực trong chính trị, là trao một vũ khí tàn khốc cho 1 đối thủ đếch
thèm quan tâm đến đạo đức [như
VC chẳng hạn, hà hà! Bạn có nhớ cú hưu chiến ăn Tết Mậu Thân?] Trong
những năm là 1 thủ lĩnh
chính trị
trong chính quyền của ông, có khi nào ông mềm lòng trước những lời dối
trá trắng
nổi tiếng của những chính trị gia?
“ Tôi bị áp
lực phải làm như vậy nhiều lần”, ông nói, “nhưng tới bây giờ, tôi vẫn
cưỡng lại
áp lực đó. Lẽ dĩ nhiên một con người luôn phải cực cố gắng để cho những
sự thực
không phổ thông đó có thể chấp nhận được. Một con người phải giải thích
chúng
thật thông suốt, thật tỉ mỉ. đến từng chi tiết. Có những trường hợp đặc
biệt
qua đó, một số điều đã không được nói ra, nhưng tôi có thể bảo đảm,
trong khi điều
hành chính quyền, tôi chưa từng nói dối”.
Tôi chắc chắn
ông nói sự thực, ngay cả bây giờ. Tôi không thể phán đoán tất cả những
hành động
chính trị của ông thì đều đúng, correct, kể từ khi mà ông được bầu lên
làm tổng
thống. Trong hai ngày ở Prague, tôi nghe ca thán về sự cứng rắn của ông
khi can
thiệp vài tuần trước đó trước những cuộc biểu tình của Slovak ly khai,
ở
Bratislava, ở đó, ông bị lăng mạ, và xém thì ăn đòn. Nhưng tôi có nghe
những bài diễn thuyết của ông, và điều mà tôi mê ở trong đó [chưa kể
cái
sự duyên
dáng của chúng], là, phi chính chí trị làm sao, trong cái ước muốn
thường trực của
chúng: đẩy hành động xuống làm tà lọt cho đạo đức.
Khi cuộc phỏng
vấn kết thúc, đâu phải là lúc để lèm bèm về đại sự? Chúng tôi nói
chuyện nhảm.
Cái chuyện ông hút bao nhiêu điếu 1 ngày, còn tôi thì khoe, bỏ được hút
cũng đã
hai chục niên. Rằng chúng tôi sinh ra cùng 1 năm, và cả hai, khi còn
trẻ thì đều
biếu quân đội hai niên quân dịch. Và, như tất cả cái lũ cùng thể hệ của
chúng
ta [có Gấu nhe], cùng uống thứ nước thiêng có cái tên là chủ nghĩa hiện
sinh, và
cùng có những hậu quả hẩu lốn [mixed]. Một người bạn già của ông cùng
hiện diện,
Pavel Tigrid, và là một trong những cố vấn chính trị của ông. “Tôi
không hiểu tại
sao ông ta lại kêu tới tôi, và trao cái nhiệm vụ cố vấn đó?”, ông bạn
già nói với
tôi, nhưng tôi hiểu tại sao: Khi tôi là chủ tịch PEN quốc tế, Pavel
Tigrid, khi
đó, bị quê hương Tiệp đá đít, sống lưu vong tại Pháp, và là giám đốc,
director,
của 1 tờ báo của đám Tiệp lưu vong, “Chứng nhân”, chủ tịch Hội Nhà Văn
Tiệp Lưu
Vong, và tranh đấu tới chỉ cho những đồng nghiệp [GCC lại nghĩ đến mấy
đấng bạn
quí, bà bạn quí, đi làm mẹ gì trễ thế, sao không ở luôn với VC!], còn ở
trong
nước hay ở Argentina, USSR, Chile, Cuba, Poland, hay bất cứ nơi nào, và
ở tù. Lúc
này, nhìn qua cửa sổ, tuyết đang xuống, phủ trắng khu phố Mala Strana
District:
cái sự hiện diện của 1 ông bạn già như Pavel Tigrid tại toà lâu đài
tuyệt vời này
là cũng nhắc chừng vị tổng thống, những gì mà ông chiến đấu, khi ông là
“đếch là
ai”, a nobody, những mục tiêu mà 1 “kẻ đếch là ai” đó cảm thấy, thật
khó khăn vô
cùng, kể như vô phương thực hiện.
Trong 1
trong những tiểu luận của mình, Havel trích một nhận xét khủng khiếp
của Eugène
O’Neille: “Chúng ta chiến đấu quá lâu cho những điều tẹp nhẹp đến nỗi
chúng ta
trở thành tẹp nhẹp”. Tôi tin là ông không còn đụng với những kẻ thù,
đối thủ ghê
gớm của trước kia, nhưng mà chỉ là ba thứ tẹp nhẹp [Ui chao sao giống
Gấu thế,
những Cô Ba, địa ngục Đen, địa ngục Đỏ kinh qua hết rồi thì đụng Thầy
Kuốc, chán
thế!], và ông cứ nhẩn nha làm nghề tổng thống, và là 1 con người hết
sức dễ thương
như… GCC!
Hà, hà!
Một Kafka Khác
Such
anecdotes pierce the austere image left by Kafka’s work. Mr Stach also
effectively undermines conventional views of Kafka as a prophet of the
atrocities to come (his three sisters died in Nazi concentration
camps,
as did
two of his mistresses). A frequent target of anti-Semitic remarks,
Kafka
depicted the world as he saw it, full of lonely and persecuted
individuals, but
not one without hope.
Franz Kafka: Nervous
brilliance
A definitive
biography of a rare writer
Tờ Người Kinh Tế đọc
"Những năm đốn
ngộ", [Kafka:
The Years of Insight. By
Reiner Stach], coi
đây
là tiểu sử
chung quyết của Kafka, và qua tác giả cuốn
sách, Kafka không đến nỗi thê luơng như hậu thế thường nghĩ/đọc ông.
Thế giới
cũng không đến nỗi vô hy vọng, dù chỉ một, not one without hope. (1)
(1)
Benjamin
nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu
bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka
nói. Điều
này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic, về cuộc đời:
Thượng Đế
chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người.
'Ô, không phải đâu,' Kafka
nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng
Đế, một
ngày xấu của người.'
'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta
biết'.
Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không
cho chúng ta, dù chỉ một'.
Of course,
Kafka is not the first writer, nor will he be the last, to figure
himself as a
martyr to his art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is
remarkable for
the single-mindedness with which he conceived of his role. Who else
could have
invented the torture machine at the center of his frightful story “In
the Penal
Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le
mot juste!—with a metal stylus into
their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên,
Kafka đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà văn cuối cùng,
nhìn ra
mình, lọc mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà mình
chọn lựa
cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC
vô!]. Nhưng
ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô
có mỗi cú
đó, với “cái mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ
xoáy vô
có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà
dzăng".
Làm sao có thằng cha nào,
ngoài Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn
người ở
trung tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái tên
của
nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại
Đảng VC”,
bằng cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot just], vô da vô thịt họ.
Cũng
trong
bài điểm, Banville xoa đầu bạn quí của Kafka, là Brod, người mà Kundera
coi như
đếch hiểu 1 tí gì về Kafka!
Banville
phán, mặc dù mắc nhiều lỗi, nhưng cũng được lắm. Khi biết bạn mình bị
bịnh lao,
Brod an ủi: “Bạn sung sướng trong cái không sung sướng”.
Tuyệt!
Lê
Công
Định shared a link.
18 hrs
·
Trước
Pháp Luật | Before
the Law -
Franz Kafka
“Trước Pháp Luật” là truyện ngắn, có
thể gọi là truyện cực ngắn (trong nguyên tác tiếng Đức chỉ có vỏn vẹn
584 từ),
nhưng là một tác phẩm quan trọng của Kafka (1883-1924). Nó là một trong
những
tác...
phanquynhtram.com
Trong bối
cảnh ấy, hình ảnh người đàn
ông đến từ miền quê cả đời mòn mỏi và tuyệt vọng trước cổng Pháp Luật
cũng có ý
nghĩa và sức hấp dẫn rất đặc biệt. Nó gợi nhớ đến các cuộc biểu tình
đòi đất
của nông dân trong cả nước những năm vừa qua.
Phan Quỳnh Trâm.
Đọc Trước Pháp Luật của Kafka mà liên
tưởng, như trên, thì nhảm quá là nhảm.
Trên Tin Văn đã từng lèm bèm rất nhiều lần
về cái truyện ngắn này, và hiện đang dịch lại nó, theo bản
tiếng Anh mới nhất.
Tuy nhiên, nhân tiện, đi thêm 1 đường về nó, cũng không
sao.
Có thể nói, truyện ngắn nào của Kafka, cũng
nhằm nói cái ý chủ yếu này –
thì cứ coi là, chân lý - sở dĩ có đời này, vì có đời kia – thiên đàng,
phía bên
kia anh gác… - và sở dĩ cuộc đời này có ý nghĩa, là nhờ cái cuộc kia -
chắc chẳng
hề có, hay, nói theo, vẫn Kafka, có hằng hà sa số cuộc đời khác kia –
hay gọi nó
bằng cái từ “hi vọng” – nhưng chẳng có, dù chỉ 1, cho chúng ta.
Cái kết luận thê lương này, đã ám ảnh tất
cả những ai đã từng đọc Kafka, nhưng mới đây thôi, đám phê bình chỉ ra,
Kafka,
thực sự không quá bi quan đến mức như thế, về cuộc đời này. (1)
(1)
Walter
Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà
nòi
đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never
seem to
be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ
xuất hiện
tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều
lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần
bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội
nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính
cái gọi là
vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái"
(17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu
bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka
nói. Điều
này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời:
Thượng Đế
chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,'
Kafka
nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng
Đế, một
ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà
chúng ta
biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng
không
cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những
nhân vật
thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng
tròn
gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là
loài vật;
ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb
hay
Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình.
Không phải
ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố
mẹ, mà
không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu
đó, là thừa
hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm của
người
cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên ngoài
vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this circle).
(20).
Camus có truyện ngắn "Người đàn bà ngoại tình", câu
chuyện về một người
đàn bà, đêm đêm, sau khi làm xong hết bổn phận của người vợ, trong cuộc
lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén thoát ra ngoài, để ngắm trời ngắm
sao...
Đây là một đề tài lớn của dòng văn chương hiện sinh, theo tôi, thoát
thai từ truyện ngắn "Before the Law", của Kafka.
Đây là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật",
tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà,
nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là
cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ
có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này
chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu
cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.
Trong truyện ngắn Eveline của James Joyce, trong tập "Những người dân
thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất hiện qua anh chàng thuỷ
thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có đủ điều kiện để đưa cô
gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng tới giờ phút
chót, cô gái quyết định "ở lại".
NQT đọc Biển của Miêng (b)
Đọc Trước Pháp Luật, mà liên tưởng đến dân Miền Nam tới Pháp Đình của
VC xin vô để năn nỉ, thì đúng là liều lĩnh thực. Nhưng biết đâu đấy,
với Mít, VC còn quá cả ông Giời.
Chúng là Quỉ Đỏ.
Ông Giời phải sợ nó, như Cioran phán (b)
CAMEO
APPEARANCE
I had a
small, nonspeaking part
In a bloody
epic. I was one of the
Bombed and
fleeing humanity.
In the
distance our great leader
Crowed like
a rooster from a balcony,
Or was it a
great actor
Impersonating
our great leader?
That's me
there, I said to the kiddies.
I'm squeezed
between the man
With two
bandaged hands raised
And the old
woman with her mouth open
As if she
were showing us a tooth
That hurts
badly. The hundred times
I rewound
the tape, not once
Could they
catch sight of me
In that huge
gray crowd,
That was
like any other gray crowd.
Trot off to
bed, I said finally.
I know I was
there. One take
Is all they
had time for.
We ran, and
the planes grazed our hair,
And then
they were no more
As we stood
dazed in the burning city.
But, of
course, they didn't film that.
Charles
Simic
Cameo
Apperance: Sự xuất hiện của 1 nhân vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO
APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử
thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một
trong cái nhân loại
Bị bom, oanh
tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị
lãnh đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là Sáu Dân thì phải
Gáy như 1
con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng
khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ
nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí,
giữa một người đàn ông
Hai tay băng
bó, cùng giơ lên
[Sao giống
TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối
Vòng Tay Lớn?]
Và một bà
già miệng há hốc
Như thể bà
muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức
nhối thật.
Hàng trăm lần,
tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1
lần
Liệu họ nhận
ra tớ không nhỉ,
Trong cái
đám đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như
mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng
30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng
có 1 cái băng đỏ ở cánh tay!
Thôi đi ngủ,
tớ sau cùng phán
Tớ biết, có
tớ ở đó.
Một cú
[cameo appearance]
Họ đâu có
thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy,
và những chiếc trực thăng thổi tóc chúng tớ,
Như muốn giật
chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng
còn gì hết
Chẳng còn
máy bay trực thăng
Khi chúng tớ
đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất
nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
Note: Bài thơ này, Charles
Simic đi 1 đuờng về nó, trong cuốn GCC mới mua, The Life of Images: Thơ ca và Lịch
sử, Poetry and History, "y chang" GCC, khi đưa Sáu Dân ra đóng
trò.
Bài cũng ngắn, tuyệt. Giới thiệu quí độc giả TV liền tù tì.
Trong khi chờ đợi, trích 1 câu, Simic trích Cioran:
Bụt,
Phật, Chúa đều sợ Bắc
Kít. Lịch sử Mít chứng tỏ điều này:
"God is afraid of man... man is a monster, and history has proved it"
Borges
by Cioran
Insomnia’s Philosopher
Charles Simic
November
11, 2010 Issue
Searching for Cioran
by Ilinca Zarifopol-Johnston, edited by
Kenneth R. Johnston, with a foreword by Matei Calinescu
Indiana University Press, 284 pp.,
$27.95
On the Heights of Despair
by E.M. Cioran, translated from the Romanian
and with an introduction by Ilinca Zarifopol-Johnston
University of Chicago Press, 128 pp.,
$29.00; $17.00 (paper)
Tears and Saints
by E.M. Cioran, translated from the
Romanian and with an introduction by Ilinca Zarifopol-Johnston
University of Chicago Press, 128 pp.,
$25.00; $17.50 (paper)
Bài viết này, nay in trong The Life of
the Images.
Tin Văn sẽ scan và giới thiệu.
NTV, và có vẻ như cả NL, đều mê Cioran?
He was
exaggerating. At university, he attended the seminars of the philosophy
professor Nae Ionescu, a charismatic figure responsible for introducing
to his students a religiously inspired, messianic nationalism. There
he met many of the men who were to have a leading part in
undermining the democratic state by rejecting the ideas of liberalism
and
eagerly replacing them with totalitarian ones. As Marta Petreu writes
in An
Infamous Past: E. M. Cioran
and the Rise of Fascism in Romania,
redemption through death-sacrifice in the name of the nation became the
leading idea of the far right. "We were a bunch of wretched idiots,"
Eugene Ionesco later said.'
Cái tư tưởng mặt trời chân
lý chói qua tim, cái ao ước được hy sinh cho nghĩa cả, của Bắc Kít, có
gì tương tự.
Lũ chúng ta cả bầy ngu, bị Đảng VC lừa, như DTH nói, cũng có!
Một Quá Khứ Ghê Tởm, cũng có luôn!
Man, for
Cioran, is an unhappy beast banished from the animal kingdom with just
enough
imagination to make his life miserable. His quarrel with philosophers
is that
they ignore the reality of the body, that most terrible of all
realities, and
its mental and physical pain. He is closer to a poet like Baudelaire,
who kept
insisting that the hell he found himself in was representative of the
human
condition:
How
could the actor of a complicated drama of the
soul in which, all at once, erotic anticipation clashes with
metaphysical anxiety,
fear of death with desire for innocence, total renunciation with
paradoxical
heroism, despair with pride, forebodings of madness with longings for
anonymity, screams with silence, aspiration with nothingness-how could
he still
go on philosophizing in a systematic way?
Người, là con vật
bất hạnh bị đá đít ra khỏi Thiên Đàng, với 1 tí tưởng tượng, đủ để làm
cho cuộc đời của nó khốn khổ khốn nạn!
Ui
chao, đúng là nói về, chỉ về, Gấu Cà Chớn rồi!
The Intruder
Borges viết về " The Intruder":
ON 'THE
INTRUDER'
It was a
brutal story, I'm sorry to say, but it was meant to be brutal. It shows
the
contempt men have for women in my country and in South America
generally. It's
a story about machismo, which I thoroughly dislike. It's a very simple
story, but
I didn't know how to end it. 1 was dictating it to my mother (I was
already
blind) and 1 came to the point where the elder brother has to tell the
younger
that he has killed the girl. And then 1 said to my mother, 'The fate of
the
story depends on the words he says. Try and help me.' She was taking
down the story,
she didn't like it, and she said, 'Let me think.' And then she said in
a quite
different voice, 'I know what he said.' It was as if he had actually
said it,
but of course it was merely fiction. And then 1 said, 'Well, write it
down.'
And then she wrote down, 'A trabajar, hermano. Esta manana la mate. To
work, brother,
this morning I killed her.' She found the right words, but she didn't
like the
story; however, at that moment she believed in the story. And then she
made me
promise never to write about people like that again; she found them
utterly uninteresting
and repugnant. 'Don't keep on writing about knives and knife duels,'
she said;
'I'm sick and tired of it all.'
She had
found her way inside the story and I hadn't really. She knew far better
about
the story than I did, since she found the right words and the right
intonation
and the right cadence to the words.
*****
Người hiểu
Kafka nhất, và viết đúng nhất, hay nhất về ông,
là
Borges.
Và có thể nói, Borges là truyền nhân của ông, cái mối
liên lạc giữa hai ông, liên quan tới cuộc đời
này và cuộc
đời kia.
Cả hai ông chê Borges, là Naipaul và Yann Martel, đều không
nhận ra điều
này, 1 phần là do họ đếch thèm để ý đến cuộc đời kia, theo Gấu.
Một trong những
viết bảnh nhất của Borges, về Kafka, là bài "Những Tiền Thân của
Kafka".
Tụi Tẩy
mũi lõ, Malraux, thí dụ, quá mê bài này, là vì lý do này:
Chỉ 1 khi mi có tí xấu, tí
bẩn, thì mi đến
được cõi đời kia.
Sạch quá là
biến thành… kít!
Hà, hà!
Đúng như thế!
Lũ tinh anh
Miền Nam sợ chết quá, sợ bửn vì 1 cõi Ngụy quá, mê VC, cũng là do lý do
này. Chúng muốn
sạch, nên biến thành kít hết.
Đám tinh
anh, cực kỳ thông minh, số 1 Bắc Kít, cũng y chang!
Kafka và những
người đi trước ông
Jorge Luis
Borges
Tôi
đã có lần tính làm một nghiên cứu những tiền
thân của Kafka. Thoạt đầu, tôi coi ông một mình trong cõi ngôn từ như
loài phượng
hoàng, nhưng lật vài trang, tôi lại có ý nghĩ, có thể nhận ra giọng nói
của
ông, hay những cung cách, ngón nghề của ông, ở những bản viết từ những
dòng văn
chương, thế này thế khác, thời này thời nọ. Tôi ghi lại một chút ở đây,
theo kiểu
biên niên.
Đầu
tiên là nghịch lý Zenon, chống lại sự chuyển
động. Một vật chuyển động ở A (Aristotle tuyên bố) không thể tới B, bởi
vì trước
hết, nó phải vượt nửa khoảng cách giữa hai điểm, và trước đó, nửa của
một nửa,
và trước đó, nửa của "nửa của một nửa"; cứ như thế cho tới vô cùng;
bài toán này y hệt như trong "Lâu Đài"; và vật chuyển động, mũi tên
và Achilles là những nhân vật Kafka đầu tiên trong văn chương.
Trong bản viết thứ nhì may mắn sao nằm trước
tôi, sự tương tự không phải ở dạng, mà là giọng kể. Một ẩn dụ của Han
Yu, người
viết thơ xuôi thế kỷ thứ 9, được in lại trong cuốn sách đáng yêu của
Margouliès, Tuyển tập văn chương Trung-hoa với phần dẫn giải (1948).
Huyền hoặc,
trầm lắng, là đoạn tôi đánh dấu: "Ai cũng thừa nhận kỳ lân là một linh
vật
mang đến điềm lành, điều này đã được nói rõ trong mọi cuốn thơ ca, biên
niên,
tiểu sử có minh họa, và nhiều bản viết khác mà uy tín của chúng không
cần bàn
cãi. Ngay cả trẻ con và đàn bà nhà quê cũng biết kỳ lân tạo điềm tốt.
Nhưng con
vật này lại không hề hiện diện giữa đám thú vật nuôi quanh nhà, thật
khó thấy,
nó không để vướng mình vào bảng phân loại. Nó không như con ngựa, con
bò, con
chó sói, hay con nai. Trong những điều kiện như thế, chúng ta có thể
đối mặt với
kỳ lân, và không biết một cách chắc chắn, con gì đây. Chúng ta biết,
con vật
như thế đó có tên là con ngựa, con vật có những cái sừng như vậy là con
bò.
Nhưng chúng ta không biết kỳ lân như thế nào."(1)
Bản văn thứ ba từ một nguồn dễ dự đoán hơn
nhiều:
những bài viết của Kierkegaard. Tinh anh đồng điệu giữa cả hai người
viết là một
điều ai cũng nhận ra. Điều chưa được nói tới, như tôi cho tới lúc này
hiểu được,
đó là sự kiện, Kierkegaard, như Kafka, viết nhiều ngụ ngôn tôn giáo, về
những đề
tài trưởng giả, đương đại. Lowrie, trong cuốn Kierkegaard của ông,
(Oxford
University, 1938), đã chuyển ngữ hai trong số đó. Một là câu chuyện một
người
làm bạc giả, dưới sự kiểm soát gắt gao, đếm giấy bạc trong Ngân hàng
Anh; cùng
một đường hướng như vậy, Thượng Đế sẽ không tin tưởng Kierkegaard, và
đã giao
cho ông một nhiệm vụ để hoàn thành, chính bởi vì, Người biết ông ta vốn
thân
quen với cái xấu.
Đề tài câu chuyện ngụ ngôn kia là về những
chuyến thám hiểm Bắc Cực. Qua giới tăng lữ, những vị trưởng lão Đan
Mạch tuyên
bố, việc tham dự vào những chuyến thám hiểm như thế có lợi cho hạnh
phúc đời đời
của linh hồn. Tuy nhiên họ thừa nhận, thật khó, và có lẽ thật vô
phương, tới được
điểm Cực, và không phải tất cả mọi người, ai cũng có thể đảm nhận cuộc
phiêu
lưu. Sau cùng, họ đi đến thông báo, bất cứ một chuyến đi nào - từ Đan
Mạch tới
London, chúng ta cứ nói vậy - trên chuyến tầu chạy theo giờ giấc thường
lệ - đều
được coi là một chuyến thám hiểm Bắc Cực.
Diễn dịch thứ tư ở đây, tôi tìm thấy trong bài
thơ của Browning, "Lo sợ và Ngại ngùng", được xuất bản năm 1876. Một
người đàn ông có, hoặc anh ta tin tưởng có, một người bạn nổi tiếng.
Chẳng bao
giờ anh ta gặp bạn, sự thể là, cho tới nay, người bạn chưa từng giúp đỡ
anh ta,
tuy bao câu chuyện đã được kể, về những nét quý phái, phong nhã số một
của người
bạn, bao thư từ thực sự của người bạn chạy lòng vòng đâu đó. Rồi có
người tỏ ra
nghi ngờ về những điều này, và những chuyên viên khảo tự tuyên bố,
những lá thư
là bịa đặt. Người đàn ông, trong dòng thơ chót, hỏi: "Và phải chăng,
người
bạn này là... Thượng Đế?"
Những ghi nhận của tôi còn hai câu chuyện. Một
là từ Chuyện không vui (Histoires Déobligeantes), của Léon Bloy, về một
vài người
sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và
những tuyến
đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà.
Câu chuyện
kia nhan đề "Carcassonne" và là tác phẩm của Lord Dunsany. Một quân đội
bách chiến bách thắng, gồm những chiến sĩ, rời tòa lâu đài vô định,
chinh phục
những vương quốc, nhìn thấy những quái vật, vét kiệt những sa mạc,
những núi
non, nhưng họ chẳng bao giờ tới được Carcassonne, mặc dù có lần họ đã
thoáng
nhìn thấy, từ xa. (Câu chuyện này, như người ta dễ dàng nhận ra, là đảo
ngược
triệt để của câu chuyện trên; trong câu chuyện thứ nhất, là thành phố
không thể
bị bứng khỏi, còn trong chuyện thứ nhì, chẳng bao giờ tới được.)
Nếu tôi không lầm, những mẩu đa dạng tôi vừa kể,
giống Kafka; nếu tôi không lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái
nào. Sự
kiện thứ nhì này có ý nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận
thấy, hoặc
nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka, nhưng nếu Kafka chưa từng
viết một
dòng, chúng ta sẽ không nhận ra tính chất này; nói một cách khác, chúng
chưa hề
hiện hữu. Bài thơ "Fears and Scruples" của Browning tiên liệu tác phẩm
của Kafka, nhưng cái đọc Kafka của chúng ta rõ ràng làm sắc bén, và làm
sai lệch
cái đọc bài thơ. Browning đã không đọc nó như bây giờ chúng ta đọc.
Trong tự vựng
của những nhà phê bình, từ "tiền thân" (precursor) không thể thiếu
được,
nhưng nên tháo gỡ mọi trò luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi
người viết
sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó. Tác phẩm của anh ta sửa
đổi
quan niệm của chúng ta về quá khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.(2)
Trong
tương quan này, điều không quan trọng, đó là đặc nét, hay đa nét, của
những người
trong cuộc. Tính tiền thân của những huyền thoại tối tăm và những định
chế tàn
bạo, ở Kafka thời đầu, trong Betrachtung, ít chất Kafka hơn, nếu so với
Browning và Lord Dunsany.
(Dịch từ bản Anh ngữ của James E. Irby, trong
tập Mê cung, Labyrinths, nhà xb A New Directions Book).
Chú thích của tác giả:
(1). Sự không thừa nhận những linh vật và cái
chết có tính lăng nhục, hoặc như là tai nạn, của chúng ở nơi tay con
người, là
những đề tài truyền thống của văn chương Trung Hoa. Xin coi chương chót
cuốn
sách của Jung, Tâm lý học và Thuật luyện kim, Psychologie und Alchemie
(Zurich,
1944), trong có hai minh họa ngồ ngộ.
(2). Xin coi T. S. Eliot: Quan điểm, Points of
View (1941), pp. 25-26.
NQT chuyển ngữ
Trang Bolano
EXILES
To be exiled
is not to disappear but to shrink, to slowly or quickly get smaller and
smaller
until we reach our real height, the true height of the self. Swift,
master of
exile, knew this. For him exile was the secret word for journey.
Many of the exiled, freighted with more suffering than
reasons to leave, would reject this statement.
All literature carries exile
within it, whether the writer has had to pick up and go at the age of
twenty or
has never left home.
Probably the first exiles on record were Adam and
Eve.
This is indisputable and it raises a few questions: Can it be that
we're all
exiles? Is it possible that all of us are wandering strange lands?
The concept
of "strange lands" (like that of "home ground") has some
holes in it, presents new questions. Are "strange lands" an objective
geographic reality, or a mental construct in constant flux?
[suite]
Viết
Một Kafka Khác
Such
anecdotes pierce the austere image left by Kafka’s work. Mr Stach also
effectively undermines conventional views of Kafka as a prophet of the
atrocities to come (his three sisters died in Nazi concentration
camps,
as did
two of his mistresses). A frequent target of anti-Semitic remarks,
Kafka
depicted the world as he saw it, full of lonely and persecuted
individuals, but
not one without hope.
Franz Kafka: Nervous
brilliance
A definitive
biography of a rare writer
Tờ Người Kinh Tế đọc
"Những năm đốn
ngộ", [Kafka:
The Years of Insight. By
Reiner Stach], coi
đây
là tiểu sử
chung quyết của Kafka, và qua tác giả cuốn
sách, Kafka không đến nỗi thê luơng như hậu thế thường nghĩ/đọc ông.
Thế giới
cũng không đến nỗi vô hy vọng, dù chỉ một, not one without hope. (1)
(1)
Benjamin
nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu
bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka
nói. Điều
này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic, về cuộc đời:
Thượng Đế
chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người.
'Ô, không phải đâu,' Kafka
nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng
Đế, một
ngày xấu của người.'
'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta
biết'.
Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không
cho chúng ta, dù chỉ một'.
Of course,
Kafka is not the first writer, nor will he be the last, to figure
himself as a
martyr to his art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is
remarkable for
the single-mindedness with which he conceived of his role. Who else
could have
invented the torture machine at the center of his frightful story “In
the Penal
Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le
mot juste!—with a metal stylus into
their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên,
Kafka đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà văn cuối cùng,
nhìn ra
mình, lọc mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà mình
chọn lựa
cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC
vô!]. Nhưng
ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô
có mỗi cú
đó, với “cái mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ
xoáy vô
có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà
dzăng".
Làm sao có thằng cha nào,
ngoài Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn
người ở
trung tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái tên
của
nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại
Đảng VC”,
bằng cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot just], vô da vô thịt họ.
Cũng
trong
bài điểm, Banville xoa đầu bạn quí của Kafka, là Brod, người mà Kundera
coi như
đếch hiểu 1 tí gì về Kafka!
Banville
phán, mặc dù mắc nhiều lỗi, nhưng cũng được lắm. Khi biết bạn mình bị
bịnh lao,
Brod an ủi: “Bạn sung sướng trong cái không sung sướng”.
Tuyệt!
Lê
Công
Định shared a link.
18 hrs
·
Trước
Pháp Luật | Before
the Law -
Franz Kafka
“Trước Pháp Luật” là truyện ngắn, có
thể gọi là truyện cực ngắn (trong nguyên tác tiếng Đức chỉ có vỏn vẹn
584 từ),
nhưng là một tác phẩm quan trọng của Kafka (1883-1924). Nó là một trong
những
tác...
phanquynhtram.com
Trong bối
cảnh ấy, hình ảnh người đàn
ông đến từ miền quê cả đời mòn mỏi và tuyệt vọng trước cổng Pháp Luật
cũng có ý
nghĩa và sức hấp dẫn rất đặc biệt. Nó gợi nhớ đến các cuộc biểu tình
đòi đất
của nông dân trong cả nước những năm vừa qua.
Phan Quỳnh Trâm.
Đọc Trước Pháp Luật của Kafka mà liên
tưởng, như trên, thì nhảm quá là nhảm.
Trên Tin Văn đã từng lèm bèm rất nhiều lần
về cái truyện ngắn này, và hiện đang dịch lại nó, theo bản
tiếng Anh mới nhất.
Tuy nhiên, nhân tiện, đi thêm 1 đường về nó, cũng không
sao.
Có thể nói, truyện ngắn nào của Kafka, cũng
nhằm nói cái ý chủ yếu này –
thì cứ coi là, chân lý - sở dĩ có đời này, vì có đời kia – thiên đàng,
phía bên
kia anh gác… - và sở dĩ cuộc đời này có ý nghĩa, là nhờ cái cuộc kia -
chắc chẳng
hề có, hay, nói theo, vẫn Kafka, có hằng hà sa số cuộc đời khác kia –
hay gọi nó
bằng cái từ “hi vọng” – nhưng chẳng có, dù chỉ 1, cho chúng ta.
Cái kết luận thê lương này, đã ám ảnh tất
cả những ai đã từng đọc Kafka, nhưng mới đây thôi, đám phê bình chỉ ra,
Kafka,
thực sự không quá bi quan đến mức như thế, về cuộc đời này. (1)
(1)
Walter
Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà
nòi
đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never
seem to
be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ
xuất hiện
tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều
lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần
bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội
nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính
cái gọi là
vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái"
(17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu
bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka
nói. Điều
này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời:
Thượng Đế
chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,'
Kafka
nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng
Đế, một
ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà
chúng ta
biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng
không
cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những
nhân vật
thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng
tròn
gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là
loài vật;
ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb
hay
Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình.
Không phải
ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố
mẹ, mà
không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu
đó, là thừa
hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm của
người
cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên ngoài
vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this circle).
(20).
Camus có truyện ngắn "Người đàn bà ngoại tình", câu
chuyện về một người
đàn bà, đêm đêm, sau khi làm xong hết bổn phận của người vợ, trong cuộc
lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén thoát ra ngoài, để ngắm trời ngắm
sao...
Đây là một đề tài lớn của dòng văn chương hiện sinh, theo tôi, thoát
thai từ truyện ngắn "Before the Law", của Kafka.
Đây là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật",
tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà,
nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là
cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ
có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này
chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu
cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.
Trong truyện ngắn Eveline của James Joyce, trong tập "Những người dân
thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất hiện qua anh chàng thuỷ
thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có đủ điều kiện để đưa cô
gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng tới giờ phút
chót, cô gái quyết định "ở lại".
NQT đọc Biển của Miêng (b)
Đọc Trước Pháp Luật, mà liên tưởng đến dân Miền Nam tới Pháp Đình của
VC xin vô để năn nỉ, thì đúng là liều lĩnh thực. Nhưng biết đâu đấy,
với Mít, VC còn quá cả ông Giời.
Chúng là Quỉ Đỏ.
Ông Giời phải sợ nó, như Cioran phán (b)
CAMEO
APPEARANCE
I had a
small, nonspeaking part
In a bloody
epic. I was one of the
Bombed and
fleeing humanity.
In the
distance our great leader
Crowed like
a rooster from a balcony,
Or was it a
great actor
Impersonating
our great leader?
That's me
there, I said to the kiddies.
I'm squeezed
between the man
With two
bandaged hands raised
And the old
woman with her mouth open
As if she
were showing us a tooth
That hurts
badly. The hundred times
I rewound
the tape, not once
Could they
catch sight of me
In that huge
gray crowd,
That was
like any other gray crowd.
Trot off to
bed, I said finally.
I know I was
there. One take
Is all they
had time for.
We ran, and
the planes grazed our hair,
And then
they were no more
As we stood
dazed in the burning city.
But, of
course, they didn't film that.
Charles
Simic
Cameo
Apperance: Sự xuất hiện của 1 nhân vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO
APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử
thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một
trong cái nhân loại
Bị bom, oanh
tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị
lãnh đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là Sáu Dân thì phải
Gáy như 1
con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng
khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ
nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí,
giữa một người đàn ông
Hai tay băng
bó, cùng giơ lên
[Sao giống
TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối
Vòng Tay Lớn?]
Và một bà
già miệng há hốc
Như thể bà
muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức
nhối thật.
Hàng trăm lần,
tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1
lần
Liệu họ nhận
ra tớ không nhỉ,
Trong cái
đám đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như
mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng
30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng
có 1 cái băng đỏ ở cánh tay!
Thôi đi ngủ,
tớ sau cùng phán
Tớ biết, có
tớ ở đó.
Một cú
[cameo appearance]
Họ đâu có
thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy,
và những chiếc trực thăng thổi tóc chúng tớ,
Như muốn giật
chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng
còn gì hết
Chẳng còn
máy bay trực thăng
Khi chúng tớ
đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất
nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
Note: Bài thơ này, Charles
Simic đi 1 đuờng về nó, trong cuốn GCC mới mua, The Life of Images: Thơ ca và Lịch
sử, Poetry and History, "y chang" GCC, khi đưa Sáu Dân ra đóng
trò.
Bài cũng ngắn, tuyệt. Giới thiệu quí độc giả TV liền tù tì.
Trong khi chờ đợi, trích 1 câu, Simic trích Cioran:
Bụt,
Phật, Chúa đều sợ Bắc
Kít. Lịch sử Mít chứng tỏ điều này:
"God is afraid of man... man is a monster, and history has proved it"
Viết nhân mùa mưa
Tự Do Viết
Sao bac
ghet talawas...?
The destruction of someone's
native land is as one with that person's destruction. Séparation
becomes
déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home is the
land
of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself,
even if
he has learned not to stumble about in the foreign country as if he
were
drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants
no
more to do with that particular pays—in this connection he quotes a
dialect
maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma
nimmer
eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go
back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of
our
yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un
dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un
caractère
dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester
contre
l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in
line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry:
Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible.
[Sự huỷ
diệt quê nhà của ai
đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là
rách nát,
và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và
trai trẻ
của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai
tai, chính
bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng
muốn sầu
với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn
bị
người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở
lại' -
thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của
chúng
ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha
công an
gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự
vượt thoát
cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái
gì hung
hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động
theo kiểu
phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng
nhớ nhà
của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử].
*
Nhà văn là một thứ phong vũ
biểu. Thứ dữ dằn, một loài chim báo bão.
"Gấu nhà văn", về nhà hai lần,
nhưng lần thứ ba, tính về, ngửi thấy có gì bất an, hay là do quá rét,
bèn đi một
cái mail, hỏi thăm thời tiết nơi quê nhà, và được trả lời, không được
đẹp, thế
là bèn đếch có dám mò về!
*
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm]
bằng gỗ
nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng
bé còn thủ theo, toàn là
những
kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những
kỷ niệm
đó, và trên đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được
chúng…
Bà giữ
đủ cả, chẳng thiếu một, nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Granta 125:
After the War
Autumn 2013
How long is
the shadow of a battle, an explosion, a revolution? What stories arise
in the
wake of devastation? This issue explores the complicated aftermath and
legacy
of conflict. Lindsey Hilsum returns to Rwanda two decades after
witnessing the
beginning of genocide. Patrick French writes of a great-uncle whose
heroism in
World War I left behind a ‘saturating cult of remembrance’. From
air-raid
drills in Paul Auster’s America to a calf with a broken foot in Herta
Müller’s
Rumania, this is how we live after the war.
Cái bóng của một trận đánh, 1 cú nổ, một cuộc cách mạng, dài bao lâu?
Những câu chuyện nào mọc lên sau đó, từ điêu tàn, tang thương, đổ
nát....
Note: Số báo
này, GCC mua lâu rồi, hình như cũng đã từng giới thiệu 1 tác giả có bài
trong số
báo.
1 YEAR AGO TODAY
Sun, Jun 8, 2014
Quoc Tru Nguyen
June 8, 2014 at 8:28am · Edited ·
Chào Mừng World Cup
Carnet de lecture
par Enrique Vila-Matas
...Continue Reading
“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do
tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và
bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần,
người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
/D_2/60.html
Top Top Ten!
Đọc lại, thấy câu thần sầu này, của O, một trong hai hộ pháp -
một vị lo phần tiếng Tẩy, còn 1 vị, K, lo phần tiếng Anh cho TV:
(2) Bị
bỏ đói lâu ngày mới ra tình trạng của ngày hôm nay, nó dễ sợ
lắm,
tất cả các
tệ nạn: hoa hậu, xuất cảng cô dâu, tham nhũng vơ vét tột cùng, mua
bằng, mua
quan… tất tất phần lớn từ đói lâu ngày… không biết các nước Liên Xô,
Đông Âu,
Bắc Hàn có vướng vào cảnh này không… Bởi vì như nhà con đông, một cha
một mẹ,
một gène mà có người tính này người tính kia… Chỉ có đói lâu ngày mới
giải
thích được hiện trạng này.
Vì thế các tổ chức xin con nuôi đêu khuyên nên nhận con nuôi trước khi
các cháu
lên 6 tháng, để chúng đói tình thương lâu ngày quá sẽ gây rất nhiều tai
hại cho
đời sống tâm lý sau này.
Note: From TV mail.
Tks. NQT
V/v cái vụ bị bỏ đói lâu ngày, Gấu này rành lắm! Chỉ đến khi vô Nam,
thì mới
hết sợ đói! Cái cú ăn cướp là cũng do bị bỏ đói lâu quá mà ra. Hồi học
trung
học, làm luận tiếng Tây, cứ phải học thưộc lòng, còn nhớ một câu, "Cái
bụng đói thì không có tai" [Ventre affamé n’a point d’oreilles]. Chí
lý!
Có ai nói cái gì mà VC nghe đâu, dù chí lý đến đâu!
Hà, hà!
Nớn nên con
thích cắm cờ tỉnh lào của Miền Lam?
June 4, 2015
What Poverty
Does to the Young Brain
By Madeline
Ostrander
The story that science
is now telling rearranges the morality of parenting and poverty, making
it harder to blame problem children on problem parents. Building a
healthy brain, it seems, is an act of barn raising.
*
Bữa trước, Gấu
có kể về 1 kỷ niệm từ hồi còn bé, ở xứ Bắc Kít, đi theo 1 cái đám ma,
và khi cái
áo quan được đưa vào lòng đất thì mấy người đàn bà trong làng, cứ thế
tốc váy,
nhảy qua lỗ huyệt, như cho người chết nằm trong quan tài được chiêm
ngưỡng lần
chót, nơi chốn “âm u và ẩm ướt” Thượng Đế thường xuyên lẩn khuất, cái
cửa mở ra
mọi siêu hình học và tôn giáo…. Chỉ đến khi đọc Mishima, nhà văn Nhật,
tả cái cảnh
vị liệt sĩ chống Mẽo kíu nước, bị thương, đi mà không làm sao đi được,
chỉ đến
khi 1 người đàn bà hiểu ra mong ước cuối cùng của kẻ hấp hối, bèn vạch
vú ra, cố
nặn vài giọt sữa nhỏ ra miệng dũng sĩ, anh hùng Núp, thì chàng bèn tươi
cười
thanh thản ra đi, thì Gấu mới nhớ ra và hiểu được cái hình ảnh tốc váy
nhảy qua
lỗ huyệt!
Và GCC có đưa
ra 1 ý kiến, nếu là bạn, 1 đấng đàn ông, trước khi đi xa, thì chọn thứ
nào, bầu
sữa của mẹ, hay cái bướm của 1 em?
Vấn đề mà hiện giờ Gấu thắc mắc, là, nếu là phụ nữ, thì trước khi đi
xa, họ chọn cái gì?
Hà, hà!
Note: Bài này đang hăm he
viết. Chắc là bảnh lắm. Kinh nghiệm đầy mình, về một thuở mang súng lên
xóm!
Nói chuyện… súng
Bữa trước ghé FB của 1 vị
nữ lưu Bắc Kít, thấy cái hình, và bài viết liên quan
tới súng, bèn nhớ đến 1 bài trong tờ Ba Xu, số về thư viện, của 1 em
Mẽo. Em viết
về thư viện, nhưng đúng hơn, viết về khẩu súng được chiêm ngưỡng, lần
tới 1 thư
viện, khá hẻo lánh, khi lên thang máy, cùng một thằng nhỏ, và thằng nhỏ
bèn tụt
quần, cho em ngắm khẩu súng của nó.
Thế là nhớ đời.
Thú nhất, là, sau đó, em có lần trở lại, sống lại đúng cái cảnh đó, tức
là cũng
lên cái thang máy đó, nhưng lần này, cùng ông chồng. Và em nhớ ơi là
nhớ
cái lần
ngày nào, chẳng để ý gì đến anh chồng cà chớn đứng kế bên.
Bài cũng ngắn.
Sẽ scan liền, dịch liền,
lấy trớn, mở ra bài viết về… súng!
Thúy Hà Lê
May 24, 2013 ·
·
3 mẹ con đi học về ra hồ Hale ngồi
chơi, có rất nhiều ông bà già trẻ con cũng ra hóng mát thì 1 thằng trẻ
đẹp đeo
kính trắng nó ngang nhiên đi lững thững vào rồ...
See
More
Tờ báo, khổ
bự, làm nhớ tờ “Nghệ Thuật” ngày nào. Lần đầu mua, vì loạt bài
viết về thư
viện. (1)
Bài của
Alberto Manguel có 1 ý thú, thư viện là phải có tính riêng tư, tản mạn,
và từ ý
đó, ông đưa ra cái ý, cứ mỗi lần ngồi thư viện công, thấy cuốn nào bắt
mắt, là
chỉ muốn chôm về nhà, làm của riêng! Làm nhớ Bolano, và bài viết về 1
lần ông chôm sách thư viện.
Gấu cũng có kỷ niệm về những lần chôm sách, ở một tiệm cho mướn truyện,
ở Hà Nội, khu Chợ Hôm, thời gian ở Bạch Mai. Bữa nào kể, hà, hà!
Bài của
Francine Prose, thú hơn nhiều.
Bà kể về cái
lần đến thư viện, ở mãi chốn âm u của 1 tòa nhà, và khi vô thang máy,
chung với
một thằng, cũng tuổi mới lớn như bà, thằng con trai tụt quần xuống khoe
súng của
nó.
Thế là nhớ đời!
Gấu cũng có
tí kỷ niệm về thư viện, và đã từng viết ra, và nó dính cứng với Hà Nội,
những
ngày đầu học trung học.
*
Recalibration
The
repairman arrives at night to fix
the
telephone wires fried by lightning.
He unscrews
a metal box encasing a joint,
and a tangle
of colored cords spills out
like a
half-remembered dream. It works,
he says. But
it will never be the same.
I stand in
the road and watch him
drive into
the gray dawn, his palm
held open
out the window.
-Polly
Buckingham
Bài thơ,
trong số báo trên. Nếu bạn đọc cái đoạn em Prose được chiêm ngưỡng
súng, hẳn phải
lần đầu trong đời, post dưới đây, thì cái tít của bài thơ, hẳn nên dịch
là,
"chỉnh lại tầm súng"!
DURING MY
senior year in college, the offices of my literature professor, with
whom I met
weekly for tutorial, were located deep in the stacks of Harvard's
Widener
library. I rarely saw anyone else among the aisles of medieval romances
and Icelandic
sagas, and when I did, they seemed to materialize from the darkness,
like the
spooky nun in Vertigo. I heard noises, I saw shadows, I imagined the
grisly
scenarios of horror films. My heart was always pounding by the time I
got to my
professor's door. In fact nothing unpleasant happened to me in Widener
Library.
That would have to wait until I reached the heartland and was teaching
at the
University of Iowa. A guy showed me his penis when we were alone in the
library
elevator. I recall him looking like a sumo wrestler, but that may not
be true.
I didn't think he was going to hurt me; he just wanted me to look. The
door
opened, I got off. He stayed on the elevator. But after that I got
vaguely
phobic about the library. I no longer enjoyed going there, and I began
to avoid
it until finally I asked my husband if he would accompany me into the
stacks-on
the off chance that Sumo Guy might reappear. My husband readily agreed;
there
were art books on the same floor as the literature section, and he is a
painter....
Francine
Prose
Note:
"Sumo Guy" chắc súng phải khủng lắm!
Hà, hà!
Em có chồng,
đi với chồng về nơi chốn cũ, "thiên đàng thư viện", vưỡn mong thằng
nhỏ ngày xưa xuất hiện!
It works,
he says. But
it will never be the same
Nó vưỡn OK.
Nhưng chắc chắn sẽ chẳng vưỡn như ngày xưa!
Growing Up
Too Black
Francine
Prose
May 7, 2015
Issue
God Help the
Child
by Toni
Morrison
/D_2/57.html
Đầu tháng lòi ra trang này. Tò mò đọc, ra câu này,
Thầy Kuốc xoa đầu NL:
Đọc Nhị
Linh, người ta thấy một người say mê đọc sách, có trí nhớ tốt, thích tò
mò nhiều chuyện liên quan đến thế giới chữ nghĩa."
Gấu đọc
lại đoạn trên, viết
về Nhạc Linh San, ngộ ra một điều, cái xứ Bắc Kít, và cái tuổi thơ bất
hạnh của
Gấu, nó hành Gấu thật là khủng khiếp, thê lương!
BHD sở dĩ bỏ đi, một phần còn
do cô nhận ra, Gấu không chỉ yêu cô, mà còn thù cô, như yêu và thù xứ
Bắc Kít,
và tuổi thơ Bắc Kít của Gấu!
Mới đây thôi, Gấu còn cố thực
hiện mối tình khốn khổ khốn nạn với cái xứ Bắc Kít khốn nạn khốn khổ
khốn kiếp,
bằng cách đằng đẵng, cúng hết cả cái quãng đời ở hải ngoại vào cái việc
mơ
tưởng thực hiện một mối tình tưởng tượng, với một “em”,
phải nói, một “ bà già” Bắc Kít,
một "Me Mẽo" thì đúng hơn.
Gấu muốn nói với em đó, bằng
cái tiếng Bắc Kít, “Anh Yêu Em”, thực hiện giấc mơ điên khùng ngày nào
với cô
bé con Bắc Kít 11 tuổi!
[Note: Đừng có tin, phịa
đấy!]
Cũng là một cách trả ơn những
"Me" của Gấu, có thể nói như vậy.
Bởi vì không có bà cô, Cô
Dung, một Me Tây, làm sao có Gấu nhà văn!
Ui
chao đọc
bài thơ này, thì lại nhớ, 1 lần, Gấu nằm mơ, sống lại những ngày Mậu
Thân, cực
kỳ thê thảm, và hình như khóc khủng khiếp lắm.
Bất chợt thức giấc, thấy 1 em ngồi
bên giường, dáng ảo não.
Em nói, con ta khóc, ta dậy lấy sữa cho nó, mà không
làm sao bỏ mặc mi. Thôi, tỉnh rồi, hãy lo thân mi, đừng làm phiền ta
quá như thế.
Giấc mơ thì
có thật, mơ đúng cái cảnh trên đây.
Thảm thế! (1)
Note: V/v "Xoa đầu".
Nhớ,
có lần 1 tên đệ tử của Thầy mail cho Gấu,
chửi, mi nói Thầy ta xoa đầu người này người kia, chắc mi không được
Thầy ta
xoa đầu,
nên… ganh tị?
Gấu bèn “phản biện”, mi nói sai rồi, ta được Thầy của mi xoa đầu đến
không còn
sợi “tóc”, ganh tị gì nữa!
Cũng là 1 đại bất hạnh, xứ
Mít mới có những tên Xuân Tóc Đỏ như vầy!
NQT
ABOUT
Each day we'll show you all
of your stories from the same date on different years.
CON ĐƯỜNG DÀI VÀ ĐẪM MÁU NHẤT
Chế độ cộng sản tại Việt Nam hiện nay là một chế độ
phong kiến nhưng không
có áo mão. Vậy thôi. Nếu ở Tây phương, sau khi chủ nghĩa cộng sản cáo
chung ở
Đông Âu, người ta nhận định: “Chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất
và đẫm
máu nhất từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư bản” thì ở Việt Nam, nơi
người
ta, nhân danh cách mạng, kết liễu một triều đại có thật nhiều lăng để
xây dựng
một triều đại mới trên nền tảng một cái lăng thật đồ sộ và thật...
Note: Do không đọc được bản gốc, mà cũng đâu dám
trích dẫn nguồn, từ trang
TV, mới ra thứ quái thai mà Thầy Kuốc tự hào là những cú đấm chan chát
như thế
này!
Tự Do Viết
30.4.2015
Bài báo tường thuật, có
đoạn như sau:
"Tổng cục phó Tổng cục
Cảnh sát phòng chống tội phạm Bộ Công an Đỗ Kim Tuyến (ĐB Hà Nội) lưu ý
thể chế chính trị của ta khác các nước, vấn đề quốc gia đại sự đều do
Trung ương quyết định.
"Cơ chế của ta là Đảng
lãnh đạo, sau khi trưng cầu ý dân rồi thì Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng
phải xem ý dân thế nào, lòng Đảng ra sao, trên cơ sở đó mà quyết định"
- ông Tuyến phát biểu."
Nếu như thế
thì Đảng VC là… Ông Trời, là Quỉ Sứ rồi,
còn đéo gì nữa.
Chắc là Quỉ.
Quỉ Đỏ. Quỉ Đỏ quyết định sao thì dân Mít cứ thế mà chịu đựng!
"Dân chủ
của ta có hạn, dân trí còn rất thấp, số người dân trí cao là thiểu số,
trưng cầu
có khi gây hại, không thể tùy tiện", ĐB Huệ phát biểu.
VC cướp được
nước Mít 40 năm rồi, mà dân trí còn rất thấp, trưng cầu có khi gây họa,
không
thể tuỳ tiện!
…. phải quy
định rõ những điều thuộc vùng cấm, không đưa ra trưng cầu ý dân.
Vùng cấm chắc
là vùng “hai đê”, “đù đù”?
Dã man thật.
Ở Mẽo, thí dụ, 4 năm trưng
cầu 1 lần.
Xứ Mít, mãn đời NO!
Chúng ông cướp được nước
Mít rồi, là muôn đời của chúng ông!
TTT 2006-2015
'A
turning point': victims of the My Lai massacre, March 1968. Photograph:
Ronald L. Haeberle/Time & Life Pictures/Getty Image
Violence: A
Modern Obsession review – why the west has renounced savagery
Richard
Bessel argues that we are less violent than we’ve ever been in this
thorough
appraisal of morality
Italy’s
Seriously Playful Genius
Thiên
tài tiếu lâm trầm trọng của Ý Đại Lợi
Tabucchi's
last collection, Time Ages in a Hurry
(2009), now published in English translation,
declares its theme with admirable dispatch in the opening lines:
I asked him
about the old days, when we were still so young, naive, hot-headed,
silly,
green. A little bit's still there, except the young part, he answered.
Tôi hỏi ông
ta, GCC, về “những ngày ở Sài Gòn”, khi chúng ta còn trẻ ơi là trẻ,
hùng hục
như trâu nước… “Thì vưỡn còn đó, nhưng thiếu cái phần hùng hục như trâu
nước”,
ông ta trả lời.
Trong bài viết,
tác giả có kể ra là, chính là do quá mê bài thơ tiệm thuốc lá, The Tobacco Shop, của
Pessoa, khi còn là
sinh viên ghé Paris, qua bản dịch tiếng Tây, mà “thiên tài tiếu lâm
trầm trọng”
Tabucchi bèn cố học tiếng Tấy Bán Nhà, để đọc Pessoa.
Bài thơ này, như bạn đọc
TV đã biết, là bài thơ mà GCC coi như là tuyệt vời nhất của Pessoa.
Bài viết tuyệt,
nhưng không cho đọc free. GCC có tờ báo, nhưng lười quá, chưa scan được
hầu quí
độc giả!
Il faut savoir
voir Lisbonne pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout
entière, par
exemple, dans la première lumière du matin. Ou la voir complètement
dans le
dernier reflet du soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que,
même si
c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà
vécu
toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides
exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et vous
avez à chaque
coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne savez pas.
Mais
vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.
le quartier littéraire de
Lisbonne
Ôi chao giá
như
viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Camus, rebellion and the
Arab spring
Kamel Daoud
Camus, rebellion and the
Arab spring
During the Arab uprisings and
afterwards, Camus was somehow planted among the crowds
On January 4 1960, the Algerian-born
French novelist and philosopher Albert Camus died in a car accident in
France.
He left a grave in that country, his books to the world, and a curious
legacy
in the Arab world.
His best-known novel, L’Etranger,
first published in 1942, focuses on the story of Meursault, a French
Algerian
who, after attending his mother’s funeral, kills an unnamed Arab. The
Arab
political left has long held the murder of that unnamed man, casually
killed on
a beach, against Camus. (The late scholar Edward Said referred to
Meursault as
a “sign of the colonial unconscious”.) It’s a symbolic murder, of
course, for
Arabs in the novels of Camus are mere shadows, anonymous people,
reaching an
apogee of invisibility in La Peste and L’Etranger.
Only in Le
premier homme, Camus’s final — posthumous — novel does the reader
finally
come across a flesh-and-blood Arab with a first name of his own.
Resentment against Camus in Algeria was
reinforced by his stand during the Algerian war of liberation of the
1950s. The
author of L’homme révolté was silent while the Algerians were
fighting
French colonialism, until he made his famous, much-distorted statement
in
Stockholm in 1957, on receiving the Nobel Prize for literature:
“Between
justice and my mother, I choose my mother.”
The Absurdism Camus described, the hymn
to courage in the face of what cannot be explained, the challenge to
totalitarianism,
will not be perpetuated by the Arab intelligentsia of the generation
that
witnessed decolonisation. The Arab revolutionary is not Camus’s homme
révolté and Camus is largely absent from our school handbooks.
Today, Islamism thrives as a philosophy
of life and death in the Arab world, a way of thinking born of the
crash of
independences, the collapse of the progressives and the failure of an
alternative philosophy to religious revival. In the early 1990s, at an
Islamist
students’ meeting in an Algerian university, voices were heard
clamouring for
Camus’s death, despite the fact that he was already long dead.
What blame is now levelled at the
philosopher? No longer the Arab’s murder in L’Etranger, but
God’s murder
in L’homme révolté and Le mythe de Sisyphe. Absurdism
is an
attack on God. Algerian Islamists, the first to have made an attempt at
restoring the caliphate and planning a coup in the name of Allah, have
developed a strange obsession with Camus, the colonial born under
Allah’s sun,
on Algerian land, whose philosophy is imbued with the strange sincerity
of a
godless saint. They have a dim perception that Camus, through
Absurdism, is
laying bare what is tentatively being hidden under the cover of
preaching and
prayer. It’s a strange reversal. In the sun of the desert, the jihadist
kills
Meursault, who has become a tourist lying in the shade under the rocks,
by the
seaside or the swimming pools.
Since the Tunisian spring of 2011, the
revolutionary has also been Arab. During the uprisings and afterwards,
Camus
was somehow planted among the crowds. At least his books were, or a
phrase, or
a turn of mind, or a way of facing up to the political absurdity of
dictatorships. Or at least L’homme révolté was. The concept of
revolt
that the writer held up high as a destiny is now going through
political
revival.
Camus, however, is not the father of
the Arab spring. He may just offer a way out of the dilemma that
revolutionaries have been locked in for generations: if I rebel,
Islamists will
take power; if I don’t, dictators will stay in power. This is an absurd
trap
indeed for what stands clearly out of Camus’s work is the need to
engage in an
all-out, in-depth struggle: toppling both dictators and gods. It is no
use
cutting off the president’s head if the religious facet goes
unreformed, if
there is no confrontation with it. Revolution will not be complete in
the Arab
world unless it involves both heaven and earth — that is, political
power and
Islamist or religious dictatorship.
Kamel Daoud is author
of ‘The Meursault Investigation’, shortlisted for the 2014 Prix
Goncourt, which
is published in English on July 2 by Oneworld. This piece was
translated by
Yamina Hellal
Bản tiếng Việt
Bài viết, đề ngày May 29, 2015 5:38 pm,
của chính tác giả cuốn sách.
Và cuốn sách, như chúng ta biết, được Goncourt năm
sau [Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a reçu ce mardi 5
mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).]
Như vậy, tờ báo đăng bài này cũng không biết điều này, sau khi cho
đăng, nếu chúng
ta đọc dòng chót:
Kamel Daoud is author of ‘The Meursault
Investigation’,
shortlisted for the 2014 Prix Goncourt, which is published in English
on July 2
by Oneworld. This piece was translated by Yamina Hellal.
Theo GCC, đọc bài điểm trên Người Kinh
Tế, thú hơn bài này!
New Algerian fiction
Stranger and stranger
WHEN Albert Camus first published his best known
work,
“L’Étranger” in 1942, Algeria was still a colony of France, and “the
Arab” killed by the book’s anti-hero, Meursault, had no name. Seventy
years on, that omission is rectified in a scorching debut novel that is
sure to become an essential companion to Camus’s masterpiece. He was
called Musa.
“The Meursault Investigation” by Kamel Daoud, an
Algerian journalist, is a biting, profound response to French
colonialism. It is also a lamentation for a modern Algeria gripped by
pious fundamentalism. And it has earned the author both the 2015 Prix
Goncourt for best first novel and a Facebook fatwa
from a minor Muslim cleric calling for his death.
The book starts as a caustic, rambling monologue
told by
an old man in a bar to an appropriately nameless French expat. The
narrator is Musa’s younger brother, Harun; he says he and his mother
are “the only genuine heroes of that famous story”. Night by night he
unwinds his version of the tale Camus told, seeking justice for Musa,
condemning the “insulting brevity” of a scene in which the victim did
not even merit a name.
To Musa’s brother, the murderer and the famous
writer
are one and the same; in his telling, reality and fiction slip and
collide. The book’s brilliance lies in the gradual way Mr Daoud reveals
Harun to be a perfect mirror: the tragic double of Meursault/Camus. The
plot of his story is similarly twinned with that of Camus’s work.
Harun’s own crime and the consequent condemnation set off reverberating
echoes. “Maman died today,” Camus’s original opening line, becomes
“Mama’s still alive today.”
The reader begins to grasp that Harun is as much a
stranger in his liberated country as Meursault once was. Both men are
consumed by the violence of colonialism and its legacy. Harun has no
use for the imams of his neighbourhood. “Religion”, he quips, “is
public transportation I never use.” In Mr Daoud’s story Harun is duly
hounded, not by the priest who harangues Meursault, but by “a whole
pack of religious fanatics”. When the ghost of Camus sidles up from the
back of the bar, the old man wryly notes: “Ha, ha, I’m his Arab. Or
maybe he’s mine.”
If Camus’s writing is “capable of giving air facets
like
diamonds”, as Harun says, Mr Daoud’s prose is propulsive and charged.
The pages glitter with memorable phrases. This brave book is a
vertiginous response to a century of trauma. But read the Frenchman’s
version first.
Correction: We got our opening lines
muddled.
Camus started “L’Étranger” with “Maman died today”,
not “Maman died yesterday” which was our original suggestion.
Sorry about that. This was changed on May 29th 2015.
Viết
CAMEO
APPEARANCE
I had a
small, nonspeaking part
In a bloody
epic. I was one of the
Bombed and
fleeing humanity.
In the
distance our great leader
Crowed like
a rooster from a balcony,
Or was it a
great actor
Impersonating
our great leader?
That's me
there, I said to the kiddies.
I'm squeezed
between the man
With two
bandaged hands raised
And the old
woman with her mouth open
As if she
were showing us a tooth
That hurts
badly. The hundred times
I rewound
the tape, not once
Could they
catch sight of me
In that huge
gray crowd,
That was
like any other gray crowd.
Trot off to
bed, I said finally.
I know I was
there. One take
Is all they
had time for.
We ran, and
the planes grazed our hair,
And then
they were no more
As we stood
dazed in the burning city.
But, of
course, they didn't film that.
Charles
Simic
Cameo
Apperance: Sự xuất hiện của 1 nhân vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO
APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử
thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một
trong cái nhân loại
Bị bom, oanh
tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị
lãnh đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là Sáu Dân thì phải
Gáy như 1
con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng
khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ
nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí,
giữa một người đàn ông
Hai tay băng
bó, cùng giơ lên
[Sao giống
TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối
Vòng Tay Lớn?]
Và một bà
già miệng há hốc
Như thể bà
muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức
nhối thật.
Hàng trăm lần,
tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1
lần
Liệu họ nhận
ra tớ không nhỉ,
Trong cái
đám đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như
mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng
30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng
có 1 cái băng đỏ ở cánh tay!
Thôi đi ngủ,
tớ sau cùng phán
Tớ biết, có
tớ ở đó.
Một cú
[cameo appearance]
Họ đâu có
thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy,
và những chiếc trực thăng thổi tóc chúng tớ,
Như muốn giật
chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng
còn gì hết
Chẳng còn
máy bay trực thăng
Khi chúng tớ
đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất
nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
Note: Bài thơ này, Charles
Simic đi 1 đuờng về nó, trong cuốn GCC mới mua, The Life of Images: Thơ ca và Lịch
sử, Poetry and History, "y chang" GCC, khi đưa Sáu Dân ra đóng
trò.
Bài cũng ngắn, tuyệt. Giới thiệu quí độc giả TV liền tù tì.
Trong khi chờ đợi, trích 1 câu, Simic trích Cioran:
Bụt, Phật, Chúa đều sợ Bắc
Kít. Lịch sử Mít chứng tỏ điều này
"God is afraid of man... man is a monster, and history has proved it"
EXILE
The Literary
Quarterly
Volume 38
No.4
Together we
will undertake the extravagance of living
under a
sharpened conscience, in open honesty,
and we will
see what happens.
The worst
can only be catastrophe,
which is
better by far than a false success.
Paul-Emile
Borduas
The only
true exile
is the
writer who lives in his own country.
Julio Cortazar
Tên nhà văn
lưu vong thứ thiệt độc nhất, là kẻ sống trên chính quê hương của nó.
Đúng như thế!
GCC này chẳng đã từng
phán, bạn ngồi vào bàn viết, là bạn biến thành lưu vong!
Số báo này, “báo nhà”, có 1 bài tuyệt lắm, nó nói về nước Niên Xô,
nhưng đúng
là nói về xứ Mít, bởi là vì cái Hội Nhà Thổ gốc của nó là ở Niên Xô!
Tự Do Viết
30.4.2015
Quyền im lặng.
Ngay ở Tây
Phương, dân trí cao, thì cũng không ai rành luật cả.
Đâu phải job của họ.
Thành
ra mới phải có luật sư, thành ra mới phải có quyền im lặng.
Tao đéo nói gì hết,
mày hỏi luật sư của tao.
Lũ VC này thực
tình ngu quá đỗi, và cực độc, cực ác.
Nhưng ai biểu
Mit ngu, Mít mê VC!
Nghiêng
thương
Tản văn
Nguyễn Ngọc
Tư
Một tuần sau
khi người ta đổi cờ trên nóc đồn Nhơn Thành, bà nội nấu bữa cơm mừng
ngưng bom
đạn. Hai mâm dọn dài trên bộ ván giữa nhà, linh đình như đám giỗ. Cơm
này nấu
đãi đằng con cháu tay chân lành lặn trở về, không phải dành riêng cho
người
thua kẻ thắng nào, nội nói với mấy ông con đang nằm lắc võng, hút thuốc
gò. Thằng
anh vừa hỏi em, “ê, giao nộp súng chưa ?”
Nhưng cái
mùi thuốc súng trộn trong máu khô và tóc cháy vẫn lởn vởn trong bữa
cơm, nhất
là chú Tèo Anh bên sông bơi xuồng qua, trật lưng quần chìa cái thẹo rúm
lại bằng
nắm tay hỏi Hai Sang, “Ê, nhớ cái thẹo này không mậy ?
- Sao quên
được. Tôi đâm chớ ai.
- Dì Ba nghe
rồi đó - Tèo Anh kêu vói ra sau bếp - Thằng Sang nó nhận đâm tôi rồi
nghen. Trước
giờ dì toàn bênh nó.
Giọng chú
chói như cái bữa bỏ dở cuộc càn, nằm trên cáng thương áo quần bê bết
máu, tay vịn
cái tô úp vô chỗ thủng cho ruột khỏi vọt ra, dừng trước nhà kêu, “bớ bà
Ba
Quyên thằng quý tử của bà đâm bể bụng tôi, anh em bạn dì ruột mà chơi
vậy mà
coi được ?”. Bà nội xé cái áo may bằng lãnh Mỹ A ra để buộc ngang bụng
thằng
cháu, một người cáng thương phân trần, “ông trời này không chịu băng,
để về nằm
vạ với dì”. Tự thấy giọng đã đủ quả quyết, bà nội nói, “không phải
thằng Sang
đâu, nó ở miết trong rừng, đâu mà ra tận Giồng Cỏ Xước đụng bây”. Nhưng
chú Tèo
Anh khăng khăng nói thằng Sang chớ ai, nó bật nắp hầm dọt lên, trắng
như cục bột.
Bà nội nghe tiếng mình đuối dần về cuối.
- Ờ, có khi
thằng nhỏ quýnh quá đâm lầm.
Nhưng cuộc
nhậu mừng chiến tranh sực tạnh, Hai Sang nói khi đó súng mình hết đạn,
trong
tay chỉ có cây dao mác, và tính trước sẽ đâm vào bụng Tèo Anh. Quãng
đường từ
cái hầm dưới bụi tre chạy tới mé kinh là mười hai bước, cái hỗn loạn
của một
người đổ xuống sẽ được tận dụng để chạy thoát.
- Sao lại nhắm
vô thằng anh mày ?
- Thì anh đứng
gần miệng hầm nhất. Và còn chỉa súng phía tôi.
- Biết là
mày thì tao đâu bắn.
- Tụi đi
cùng sẽ bắn. Chiến tranh mà. Nhưng anh có chết đâu sao cằn nhằn nhức
xương quá.
Chú Tèo Anh
gãi gãi cái sẹo, cười. Ờ hén, phải tay người khác, có khi họ đâm xoáy
ngay tim,
đâu chỉ gây vết thương hú họa vu vơ như vầy.
Buổi đổi cờ
như dấu chấm xuống dòng. Sau cái trống trải im ắng của khoảng trắng,
chiến
tranh lại miết lên giấy câu chuyện đắng cay dai nhách của nó. Hết lửa
ngọn
nhưng không biết chừng nào mới than mới chịu nguội đây, bà nội rên rẩm
trong bụng,
khua đũa leng keng miệng chén, kêu tụi bây ăn đi, cháo vịt nguội ngơ
đông mỡ rồi
kìa.
Hồi còn bắn
nhau, có hai thằng con trong bầy đi theo hai phía chiến tuyến, ông nội
dặn cả
nhà không được nghiêng theo bên nào, “Dân làm ruộng thì cắm đầu làm
ruộng thôi,
cảm tình riêng thì để bụng chớ nói ra”. Nhưng ông nội công khai chở
lúa, gởi tiền
vô rừng cho thằng con lớn. Thằng em hay được tỉnh queo, “có sao đâu,
tía cưng
anh Hai nào giờ ai cũng biết”, rồi lắc võng ngủ khò.
Đứa vắng mặt
thì chỉ cái tên đi lại trên môi người ở lại. Thỉnh thoảng nhận được thơ
viết
tay, nó không xin áo mới thì cũng pin đèn, dầu. Lá thơ nào cũng bắt đầu
bằng
“Con tin thắng lợi đang tới gần rồi”, và lấy “tía má có khỏe không ?”
làm kết
thúc. Bà nội cứ lộn lá thơ hy vọng có dòng nào bí mật rơi ra, một câu
hay một
chữ hỏi tới chứng phong thấp của bà.
Đứa ở gần
ngày nào cũng đảo qua nhà lục cơm cháy. Mùi rượu cuối chiều, tóc tai
phủ gáy
kêu hoài không chịu cắt, nửa đêm huýt sáo chọc chó sủa dậy, có cái áo
mặc hoài
hôi xì mà không chịu thay. Sự sống động đó, tùy tiện đó, bừa bãi đó
khuấy động
bà mẹ, khiến lòng bà trùng trình. Thương lén, thương bằng mắt, bằng cái
điệu bộ
đuổi xua, “cơm chánh phủ đâu sao không ăn, lảng vảng chi trong bếp dân
thường”.
Sau cuộc bãi
khóa, ông anh lớn bỏ học vào rừng, chú Quý cũng trở về Nhơn Thành, vét
sạch hai
bồ lúa mua chức xã trưởng. Ngày nào tân xã trưởng cũng ngồi trước hàng
ba lau
khẩu súng mới được cấp, đuổi dạt mấy người hay tới gặp ông nội hầm hè
chuyện để
con cái trong nhà trốn theo bên đỏ. Một tay ôm con gà nòi chiến, tay
kia xỏ vô
túi quần tây, xã trưởng thả tà tà dài xóm, lâu lâu thò đầu vô nhà ai đó
hỏi,
“Có nuôi chứa ai trong nhà không, thím hai ?”. Chẳng ai dại gì nói có,
nhưng xã
trưởng hết sức hài lòng, “Không hả ? Ờ được”. Rồi huýt sáo bỏ đi, những
nốt nhạc
của bài “nét buồn cuộc chiến” cứ rơi đằng sau gót. Bài hát như nhạc
hiệu của xã
trưởng, chưa thấy bóng Tư Quý đâu người ta đã nghe rười rượi “mắt em
buồn cuộc
chiến quê hương, tóc em buồn màu hỏa châu vương, từng đêm nghe súng nổ,
con tim
mình tan vỡ…”
Thằng con xã
trưởng ở đầu gánh, cân bằng với một thằng con khác ở trong rừng, ông
nội giữ tư
thế người ở giữa, kệ chiến cuộc có nghiêng về bên nào. “Tụi này chỉ
theo đám ruộng”,
ông nội thường nói vậy mỗi khi hai bên tới rủ rê theo họ. Thuyết phục
được ông
điền chủ Năm Tánh, thì coi như giải quyết xong cả xóm Nhơn Thành. Hai
bên đều
nghĩ vậy, nên kẻ thì đẩy cỗng lúc ngày, người gõ vách lúc nửa đêm. Nước
trong
bình trà không quan tâm ai từ đâu tới, cứ đon đả chảy ra mỗi khi khách
tới nhà.
Nhưng tình
thương của bà nội đối với đám con thì khó lòng rạch ròi thế ở giữa. Như
bữa mừng
dứt chiến tranh, ăn uống xong lôi bộ bài tây ra đánh chơi, thấy chú Tư
Quý thua
xiểng liểng, bà nội lén dúi cho mấy chục cắc. Vớ mớ vốn đó chú Tư lội
ngược
dòng, vét sạch túi mấy ông anh. Tàn cuộc, chú phủi đít quần hốt vốc
tiền bỏ vô
túi người anh họ cũng vừa nộp súng xong.
- Đem về mua
gạo cho sắp nhỏ, tụi mình phải đi xa dài ngày mà.
Người đàn
ông nhẹ nhõm với thắng thua ấy, ngày về thành con người khác. Như thời
gian ở
trại cải tạo, người ta đã đánh thức chú giữa giấc ngủ, giữa bữa ăn, lúc
đi tắm
để dí ngón tay giữa trán, nhiếc móc “anh là kẻ thua cuộc”. Là kẻ thua
cuộc. Kẻ
thua cuộc. Thua cuộc. Như thể trong hai mươi lăm ngày lao động cải tạo,
cây cuốc,
cọng rau, và cỏ dại đều day đi day lại, nhét đầy những lằn rãnh những
tia máu
trong đầu chú, “đồ thua cuộc”
Cả tiếng đũa
khua, hôm đầu tiên chú về, cũng rón rén, phập phồng. Cái thằng nhỏ ung
dung,
hay phẩy tay phớt đời của mình đâu rồi, bà nội nghĩ vậy lúc thắp cây
đèn ngồi kế
bên, gắp cá bống kho tiêu bỏ vào chén nó.
Một bữa sớm,
Tư Quý đổ dầu máy cày, rồi lái thẳng ra đồng. Không bao giờ chú quay về
nhà nữa.
Người ta đã lần theo vết máy cày rằn trên đất, đi hết đồng Nhơn Thành
đến Phong
Điền, Trảng Gió, Mù Sương cho đến khi không còn nhận ra dấu hằn của
chiếc máy
cày Tư Quý với những chiếc máy cày miệt khác chạy ngang dọc trên đồng
đất tháng
Năm.
Bằng cách đi
vào mịt mù, chú Tư Quý khiến bà nội nghiêng thương về phía mình, cho
đến lúc
tàn hơi, “Bữa thằng nhỏ đi chỉ đem theo có nắm cơm nếp đậu, nó có thể
đi đâu chớ
?”.
Note/Errata: Làm gì
tới 15 ngày cải tạo?
10 ngày
thui!
GCC, 3 ngày!
Chép lại bản Tư gởi!
NQT
Note: Đọc cái này,
thì lại nhớ tới 1 vị độc giả của TV.
Vị này nói, Tara của Gấu Cái mới thực là Tara.
Tara của Cô Tư có mùi Cách Mạng!
7.4.2010
Ấp Tara ở
đâu xa? Nó ở đây:
Chỉ có ngoại
là nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn
nhà đổ
nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng
tan nát, mỗi
người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình
ngoại, già
nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường
dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên
có hai
hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc
hai cậu
cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục
thứ dây
leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy
trong đám
dây leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào
cây nào
thì cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ
bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc
dừa đã
lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên
gốc. Liếp
sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn
mấy cây ổi
sống dai, xanh um, trái chín vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già,
mốc. Ngày
xưa tôi và dì út thay phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu
không
trèo cây, hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy
gốc...
Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh
ríu rít
như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn
cũ. Tôi
ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh
thức...
… Và Gấu có
còn muốn trở về với nó nữa không?
Uyên đã thực
sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển
cả, bởi vì
mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm
thấy được,
con đường trở về...
Kính GNV,
tôi rất thích truyện ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của
bà thanh thản mà gây buồn da diết, đúng là viết mà như không.
Đoạn
"Tara" mà tôi mới trích, hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên.
Chúc mừng
bà. Xin cảm ơn đã cho tôi được đọc.
Kính,
HÂ
Đa tạ
TT/GNV
TTT 2006-2015
Người
Đức Trầm
Lặng.
The New
Yorker, Dec 1 2014
Note: Bà này, cũng 1 thứ
“Bắc Kít”, nói theo ngôn ngữ cà chớn của GCC,
nhưng sao
quá tuyệt vời, khiến Gấu cứ băn khoăn hoài, làm sao những xứ CS khốn
nạn của họ,
như Liên Xô, như Ba Lan, như Đông Đức, lại sản xuất ra, nào là Brodsky,
nào là
Milosz, nào là 1 “em” như em này, trong khi xứ Bắc Kít, toàn thứ xái
xảm gì
đâu!
Có 1 câu thật
tuyệt, trong bài biết, có thể giải thích phần nào thắc mắc của Gấu:
"Cái tính tự
phê và tởm lợm chính mình của người Đức”, “The German self-criticism
and self-loathing”, là 1
phần của sự thành công của câu chuyện.
Cả hai cái tính
quí báu này, Bắc Kít đéo có!
NQT
Cái tít ở
bià số báo mới thú: Những tính toán lạnh lùng - y chang gái Bắc, y
chang BHD,
phải viết thế mới đúng - của người đàn bà quyền lực nhất thế
giới, “The
cool calculations of the world’s most powerful woman”: Bằng cách nào
Angela
Merkel handles - “xoa đầu, cho ăn bánh, ăn kẹo, ru ngủ hai anh đực" -
Putin
và
Obama, và giữ cho Âu Châu “in line”.
Trong hai anh đực, Bà cưng Obama hơn.
Bà có gì giống… GCC,
không coi Đông Âu/Bắc Kít là nhà, mê nắng
Miền Nam, “I never felt that GDR was my home country... I have a
relatively
sunny spirit.”
“Tôi luôn có cảm tưởng đời tôi là 1 quãng nắng, I always
have
the expectation that my path throught life would be relatively sunny,
no
matter
what happened”.
Bài khá dài, không biết cho có cho đọc free không.
New James
Bond novel Trigger Mortis resurrects Pussy Galore
Pussy asks
007 “not in a gangster’s voice, or a Lesbian’s, but in a girl’s voice,
‘Will
you write to me in Sing Sing?’” Bond looks into her “deep blue-violet
eyes that
were no longer hard, imperious”, and says: “They told me you only liked
women.”
Pussy replies: “I never met a man before,” and Bond’s mouth “came
ruthlessly
down on hers”.
Đài
Liên Lạc VTD/thoại Quốc Tế, 5 Phan Đình Phùng Saigon. GCC đứng
chống nạnh
GCC đợp hai trái mìn Claymore của VC ở
nhà hàng nổi
Mỹ Cảnh, đúng thời gian đang mê… 007.
Sau khi rời nhà thương Grall, với cái
tay bó bột, bác sĩ hẹn 2 tháng sau trở lại cắt băng khánh thành cái tay
mới, thay vì trở về nhà, nằm dưỡng thương, thì trở lại Đài VTD, số 5 Phan
Đình Phùng, vì
công việc làm thêm “part time” cho UPI, làm sao bỏ, thế là, 1 tay băng
bột, 1 tay
gửi
Radiophoto, và cả cái body thì vẫn hoàn thành trách nhiệm của 1 tên
chuyên viên
kỹ thuật của Đài.
Đúng thời gian đó, hai chuyên viên Mẽo,
qua Việt Nam, giúp Bưu Điện làm
tốt mạch
viễn liên, phục vụ lính Mẽo trong dịp Noel. Một, tên Pool, từ Đài nhận tin, Reception Center, ở Oakland
California, GCC
còn nhớ, quá nhớ, vì tay này đúng dân kỹ thuật. Một,
chuyên về business. Chuyến đi của anh
này, là tìm cách làm ăn với xứ Mít, vì vào lúc đó, Mẽo vừa đổ quân
vô Miền Nam [GCC ăn
mìn là do VC chào mừng Mẽo đổ bộ]
Tự Do Viết
Văn chương và im lặng
Văn chương Việt Nam 25 năm vừa qua là
phiên bản nhiệt đới gió mùa của câu văn khét tiếng của Adorno: "Còn làm
thơ sau Auschwitz thì thật man rợ".
Không phải ngay sau 1975, mà dường như có
khoảng chờ đợi mười
lăm năm, quãng mười lăm năm để mọi thứ chất độc có sẵn bắt đầu phát
tác, để
biến dòng máu trở thành dòng máu độc tím ngắt bệnh hoạn. Phong
cảnh văn chương Việt Nam 25 năm vừa rồi đến lúc đòi hỏi
phải được
thấu hiểu, hiểu một cách đau đớn và tàn nhẫn: câu hỏi chính yếu không
phải Văn
chương để làm gì? mang hương vị của Saint-Germain-des-Prés, mà
là Thế
quái nào mà vẫn có văn chương được?
Phải cảm nhận được từ trong sâu thẳm (vì là chuyện dòng máu), khi những
ảo
tưởng lúc đầu đã tan biến như bọt biển, như bình minh dịu dàng ngay sau
đó bị
mặt trời hung bạo gần xích đạo đốt sạch, phải ý thức được rằng sa mạc
của miền
nhiệt đới nghĩa là thiêu đốt, hoang vu và độc địa.
Phải cảm nhận được rằng mọi thứ đều lệch lạc, và mọi hành động của ta
chỉ có
thể tiếp tay cho tình trạng lệch lạc kia. Sự khô cằn ấy không có cứu
rỗi, còn
không có đến một ảo ảnh ốc đảo. Không có văn chương và nhà văn đích
thực khi
không có sự thấu hiểu phong cảnh chung: hãy nhìn lại thời của các
nhà thơ viết ra Kiều, Cung oán, Chinh
phụ, họ cũng phải có cảm nhận đau đớn tột cùng, cũng đã
phải làm
một công việc mênh mông như biển, là gột rửa sự bẩn thỉu của dòng máu.
Chỉ có nhà văn lớn khi nhà văn ấy biết im lặng.
Ở ranh giới của sự thoái hóa dòng máu chung, thật ra đã có sẵn một
phương
thuốc, nhưng phương thuốc ấy đã không được hiểu, bị lờ đi, trong đà
cuốn của
dòng máu bệnh: bệnh hoạn thì mới mạnh mẽ, điều ấy không thể khác.
Phương thuốc
đã nằm ngay trong Nỗi buồn chiến tranh: trong cuốn tiểu thuyết
ấy, nỗi
buồn mới là quan trọng, nó chính là phương thuốc trị bệnh cho máu,
nhưng
người ta lại tưởng quan trọng là phần chiến tranh. Một cơ hội
đã bị bỏ
qua, một cách còn thảm khốc hơn cả cuộc chiến tranh. Không biết buồn,
con người
đã không biết dùng sa mạc của nỗi buồn để chống lại sa mạc của phong
cảnh
chung.
25 năm ấy, chỉ vài người tạo ra được một thứ văn chương không nhiễm
bẩn, đấy là
khi họ ý thức được rằng phải tạo ra một thế giới riêng hẳn, không có gì
chung
với tất cả, chỉ tiếp giáp tối thiểu, để có thể ngăn chặn ngay từ đầu dòng
máu bẩn. Những người ấy lạc loài tự nguyện: Nguyễn Ngọc Tư
của một cõi đồng bằng miền Tây, Nguyễn Bình
Phương với một miền đồi núi phía Bắc,
và Bùi Ngọc Tấn
trong thế giới tù tội.
Và một số, rất ít, rất khác nhau, nhưng chung nhau ở một đặc điểm mà
tôi tin là
rất ít người nhận ra: những nhà văn rất mỏng, có sự tồn tại thoáng qua.
Sự
thoáng qua này, rồi sau đó là biến mất và im lặng, không tố cáo, mà là
một sự
nhận ra đầy buồn nản, sự hiểu ra rằng thế quái nào mà lại có văn
chương.
Xuất hiện với mầm mống đầy đủ cho những sự nghiệp văn chương đồ sộ,
nhưng họ
nhanh chóng biến mất, quay hẳn lưng lại với văn chương, bỏ đi - để giũ
cho sạch
thứ máu bẩn đã ám vào mình. Mỗi người là vài tập truyện ngắn: đó là
trường hợp
của Phan Triều Hải, Đỗ Phước Tiến, Ngô Phan Lưu và Nguyễn Nguyên Phước.
Ở chiều
ngược lại là những văn chương phun trào, những vòi nước thế quái nào
lại đặt
vào giữa vùng sa mạc, thi nhau tưới nước lên cát. Những sự tồn tại như
thế cũng
hợp lý, vì sự tồn tại nào cũng hợp lý hết: văn chương Nguyễn Đình Tú
tồn tại là
để sau này người ta thấy một thời văn chương Việt Nam có thể ngớ ngẩn
như thế
nào.
Nhưng rồi cũng đến hạn, máu độc cũng sẽ dần loãng, mấy năm sắp tới chắc
chắn sẽ
rất nhiều bất ngờ.
Blog NL
Thế quái nào mà vẫn có văn
chương!
Tks
NQT
Man
Booker
International prize 2015
Hungarian
rhapsody
BACK in 2007, the prize-winning Irish writer, Colm
Toibin, told a press conference that the most interesting writer he had
come across in two years of reading contemporary fiction as a judge of
that year’s Man Booker International prize was Laszlo Krasznahorkai, a
reclusive Hungarian with a reputation for sentences so long and
convoluted that some of them went on for an entire chapter.
So impressed was Mr Toibin by the Hungarian’s
fabulist confections that he founded a small publishing imprint, Tuskar
Rock Press, to bring just such fiction to a wider audience. Eight years
on, Mr Toibin’s faith in Mr Krasznahorkai’s talent has been vindicated.
Just after Tuskar brought out his latest book, “Seiobo There Below” in
Britain, the Hungarian novelist was named the winner of the Man Booker
International prize for 2015. Now ten years old, the prize, the winner
of which was announced on May 19th, differs from the annual Man Booker
prize for fiction in that it is awarded every two years, and for a body
of work rather than a single book.
This novel of 17 stories brings together a series
of artists—the Italian Renaissance painter Perugino in his workshop, a
Japanese Noh actor rehearsing—and ordinary people who are trying to
grasp what sacred means or understand what beauty, art and
transcendence might look like. Mr Krasznahorkai’s sentences worry at
these eternal questions, picking and unpicking tiny details, actions
and reactions, in a relentless attempt both to pin down and describe
the complexities of contemporary life.
The Hungarian is, of course, not
the first modernist to manhandle prose and use the sentence as
instrument. But even more than Thomas Bernhard or W.G. Sebald, he winds
and unwinds and rewinds, creating what one translator has described as
“a slow lava-flow of narrative, a vast black river of type”, which
along the way acquires a transcendent quality of its own. The stories
in “Seiobo There Below” are arranged according to the Fibonacci
mathematical sequence, with each one as long as the two previous ones,
which adds to the reader’s sense of being on a journey. As always with
Mr Krasznahorkai, real understanding remains beyond mortal grasp,
though a sense of illumination is pervasive. As a novelist he is a
one-off, even if his work—as this book so finely shows—is universal.
Note: Bài điểm sách này, post
trên
TV, với cái tít khác:
Man Booker
International prize 2015
Transcendental
meditation
Laszlo
Krasznahorkai’s modernist creations receive fitting recognition
30.4.2015
Ở ta trước đây và ở hầu
khắp thế giới xưa nay đều như thế, tạo
nên một đời sống văn học nhẹ nhõm mà đa dạng, giàu có. Từ sau 1945 ta
lùa tất cả
vào một hội, lại là hội của nhà nước, là phi tự nhiên, chỉ chật chội và
làm
nghèo văn học. Trong chiến tranh, còn chừng nào chấp nhận được; trong
hòa bình
rất không nên.
NN
Đây là cái chết của văn
chương Miền Bắc, như Brodsky phán, một
khi mi “mà cả” văn chương, là nó biến thành kít, là mi tán tĩnh thảm
họa. Cái vết
sẹo văn chương này vô phương tẩy xoá. Bao nhiêu con người chết vì còn
“chừng nào
chấp nhận được”.
Phải, đéo bao giờ chấp
nhận được, mới được.
Tên già này, có thời Gấu
cũng có tí tin tưởng, thí dụ, trong
vụ NHT, cũng như Sến, với một “thiên sứ”, vưỡn thí dụ, nhưng sau vỡ ra,
cũng đồ
dởm cả. Cũng thứ sống trên máu của những
kẻ đã chết, đúng ý của Cà Mu, Camus: Tư tưởng dởm luôn chấm dứt trong
biển máu,
“nhưng” máu kẻ khác, đếch phải của cha đẻ quái vật Núp – “Nhưng”, hình
ảnh lá cờ
đỏ của chiến thắng, của chinh phục, mà một cô nữ sinh tiên tiến được
vinh dự cắm
lên một thành phố miền nam, sau trở thành một ám ảnh, ở một nhà văn.
"Ba mươi năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi
cắm
vào Bà Rịa trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu
dân thường,
1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa,
hàng chục
triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít chất độc
hoá học
và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về lịch sử, tôi
không khai
quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng nhất của cuộc chiến
tranh đạt
những kỉ lục không thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên,
đơn giản
vì chúng chưa bao giờ được đưa vào danh sách các hậu quả cần khắc
phục."
PTH: Cái
còn lại
Mistaken ideas always end
in bloodshed,
but in every case it is
someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just
about
everything.
-CAMUS
Thành ra tên NN, nhà tư
tưởng của
chúng ta, tha hồ muốn nói cái đéo gì cũng được hết!
... không thể có hòa giải với chính
quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi.
Một khi
chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa
các
quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai
cũng có
quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với
ai nữa,
mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.
Cù
Huy Cận’s fils
Đúng như thế. Mà muốn
được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha
đẻ quái
vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép
phê!
Note: Nhân cái vụ bài toán lớp ba, bèn
post lại bài này.
Dân Mít vốn giỏi toán. Đúng hơn Bắc
Kít, và sự kiện này liên quan tới sông Hồng, mỗi năm mỗi lụt, mỗi năm
mỗi chia
lại đất đai đồng bằng sông Hồng.
Tuy nhiên, do/nhờ đọc Simone Weil, GCC phát giác ra chân lý
chết... Mít:
Phải có một mắc mứu ‘cốt tuỷ, chết chóc, thánh thiện, ma quỉ…’, giữa
Toán Học
và Cái Ác Bắc Kít, từ đó, đẻ ra Cái Đẹp NBC!
Có thể, những tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, là thể nào não cũng bị mất
1 tí,
là cũng do... Toán!
Đâu có phải tự nhiên mà Tẫu gọi nước của chúng là... Trung Nguyên!
Và Đức
Phật Sống phán, bè lũ Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, não bị mất 1 mẩu,
là do đó!
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
This was a Soviet
invention: writers housed in
one place allowed the authorities to control their
minds,
pens, and wallets. Each person who has ever read about Bulgakov,
Mandelstam, or
Pasternak certainly remembers the stories about literary apartment
houses and
tenements, about houses in which there were more typewriters than gas
stoves.
This same model for a collectivized literature was transferred after
1945 to
all the countries conquered by Stalin. In time, in Poland at least,
this model
lost its distinctiveness. There were fewer "literary tenements";
writers came to live in regular houses, having regular
neighbors-engineers,
laborers, officials. But collectivism did not give up all its
attributes, such
as literary houses and cafeterias, to name two.
Adam
Zagajewski phán, nó - Hội Nhà Thổ - là
phát minh của Liên Xô: những
nhà văn được dồn vào một
nơi, cho phép nhà nước kiểm soát những cái đầu của họ, những cây viết
của họ, và
những cái bóp cũng của họ. Người nào đã từng đọc về Bulgakov,
Mandelstam, hay Pasternak
hẳn là nhớ những câu chuyện về những căn hộ văn chương, trong đó máy
đánh chữ
nhiều hơn là bếp ga. Cũng cùng kiểu mẫu này được điều động,
sau 1945,
tới tất cả những xứ sở được Xì thâu tóm. Sau cùng, ít nhất ở Ba Lan,
cái kiểu mẫu này bớt nặng mùi, bớt đi những “căn hộ văn chương”; nhà
văn tới sống
trong những
căn nhà bình thường, có hàng xóm láng tỏi bình thường.
Nhưng chủ nghĩa
tập thể
vưỡn chưa chịu buông tha những con mồi của nó, không chịu buông xuôi
những linh
vật tượng trưng cho những uy quyền của nó, như “căn hộ, và căng tin văn
chương”,
chỉ nêu ra hai, ở đây.
Tình cờ vớ đúng
bài viết thật thú, liên quan tới Hội Nhà Thổ và Văn Đoàn Văn Vịt Độc
Nập.
Bài viết này, của AZ, lúc đầu Gấu đọc thoáng, hiểu sai đi, cứ nghĩ là 1
bài bình thơ!
Nhảm quá.
Bi giờ đọc lại, hóa ra là 1 bài viết về số phận đám nhà văn VC được nhà
nước VC dồn vào 1 nơi gọi là Hội Nhà Thổ, cho phép nhà nước kiểm tra
cái đầu, cây viết và túi tiền của họ!
Nhưng, 20 tên nhà văn Mít
VC, bye bye HNT,
là do túi tiền bị VC chiếu cố, hay cái đầu, hay cây viết?
Căng, hỉ!
Về Nguyễn
Quang Thiều. Gấu có 1 kỷ niệm phải nói là tuyệt đẹp về anh, lần về Hà
Nội, lần đầu.
Và người làm hỏng nó, không phải anh, mà là Gấu. Nhưng bây giờ, nghĩ
lại, thì mới
hiểu, cái sự quí mến của anh dành cho Gấu, có một nguyên nhân sâu xa,
và đẹp đẽ
hơn rất nhiều: Hình như đối với anh, và có thể, từ đó nhân ra, một nhà
văn CS,
Bắc Kít, như anh, mà được 1 nhà văn Ngụy, trước 1975, công nhận là 1
nhà thơ, và
thực tình mong được kết bạn, cực kỳ hiếm hoi, và tất nhiên, cực kỳ quí
giá.
Hà, hà!
BVVC
Tết này, diện bộ này,
về
HN gặp "bạn văn", tại
Điểm Hẹn, Chez Rendez-Vous, vào đêm giao thừa,
thì cũng được đấy nhỉ!
Nhưng chỉ sợ, lại phải trầm trồ, "Vĩ đại thay là đồn CA ..." (1)
(1) "Vĩ
đại thay, là đồn Công An!
Đó là nơi tôi có hẹn với Nhà Nước."
'What a great thing is a police station! The place where I have the
rendez-vous with the State'.
[Phu
quân tôi, nhà thơ] Mandelstam thường nhắc câu trên, của Khlebnikov.
Nadezhda Mandelstam: Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng.
Brodsky: Ai điếu Nadya
Great poetry 'hurt' her into prose.
*
Lần về Hà Nội đầu, đầu thiên niên
kỷ, sau hơn nửa thế kỷ xa cách, gặp
những bạn bè chẳng hề quen, trong có NTS, liền tập tức anh làm Hai Lúa
nhớ đến một người bạn thân, cùng học Nguyễn Trãi, mà Hai Lúa bỏ lại khi
nhẩy vội lên con tầu xuống Hải Phòng, chạy một mạch vô Sàigòn.
*
Nhưng mà này, liệu có cái gọi là văn học Việt Nam hải ngoại không đấy,
Hai Lúa nhớ, ông nhà văn ra đi từ miền bắc VTH
đã có lần nham nhở hỏi lại cái tay phỏng vấn ông.
"Nhưng mà này, có còn cái gọi là Hà Nội.... "
Có thể nói, cũng là cảm giác ấy, của tay nhà văn ra đi từ miền Bắc kia,
khi nham nhở như thế đấy, tuy nhiên, bàng hoàng hơn, sửng sốt
hơn, sung sướng hạnh phúc hơn nhiều, khi Hai Lúa gặp một nhà văn ra đi
từ Hà Nội,
cùng với gia đình của bà, lần "ghé thăm" cựu lục địa.
-Ôi chao, những con người Hà Nội, thứ thượng hảo hạng của nó,
sau 1954 cho đến mãi ngày này, mà vưỡn còn, hử?
Thế mình về được rồi! Phải về rồi!
Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc
trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản
ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với
nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh
buốt.
Lần Cuối Sàigòn
*
Hậu quả là gì, thưa ông?
- Sự mất giá.
Ai mất giá?
Hai Lúa sợ rằng phải nói
ngược lại.
Chính cái chợ chiều đó mới là hy vọng của văn chương trong nước. Đó là
cách tốt nhất để huỷ diệt cái giá trị đã từng áp đặt lên những nhà văn.
Thời cơ vàng để bắt đầu viết.
Không có ai, không có bất cứ một thứ quyền lực... nào bảo hiểm cho nhà
văn ngoài tác phẩm của người đó
Hội Nhà Văn, lại càng không.
Nhân đây post lại đoạn Pasternak nói, về ý trên.
18 Tháng Sáu
[1936]: Marxime Gorki ngỏm. Từ lâu, nhiều người tin rằng Staline đã cho
đầu độc nhà văn nhớn, đầu tầu văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa này.
19
và 25 tháng Sáu: André Gide tới Moscow... "Căn hộ sáu phòng thoải
mái tại Métropole. Tắm rất ư thoải mái; ăn với vợ chồng Aragon...
Pasternak tới nhập bọn. Mặn mà lắm, nhất là cái nhìn, nụ cười..."
Tới
30 Tháng Tám 1940, Gide trở lại với đề tài này: "Pasternak, tay độc
nhất tôi "tin cậy được" ở Liên Xô, kể cho tôi, về cuộc nói chuyện của
ông với tay Lounartcharski. Tay này say sưa với những kế hoạch cứu
[sauvegarder] văn hóa, ông ta tin rằng, nó đang gặp nguy.
"Tại
sao lại phải tìm cách bảo vệ nó?" P. quạt lại anh ta. "Cái đám
khốn nạn Hội Nhà Văn Nhà Véo gì đó đang làm cho nó trở thành điêu tàn,
mảnh vụn hả? Thì kệ mẹ tụi nó. Mà này, hãy phụ chúng một tay...", giọng
P. trở nên run lẩy bẩy vì xúc động, "Bởi vì, chỉ sau đó, may ra mới có
được cơ may, từ ba cái rác rưởi, mảnh vụn, điêu tàn...".
André
Gide: Sổ Ghi từ Liên Xô về, Nhật Ký II, 1926-1950, nhà xb
Gallimard, tủ sách Pléiade, 1977, trang 524, trang 727.
Nhật
Ký Tin Văn
Hai Lúa có lần nhắc tới ông anh Hiếu
Chân, và lần ông đi dự hội nghị
Hội Nhà Văn quốc tế, tức PEN, ở Tokyo. Ông là một
trong những người sáng lập ra tổ chức PEN Việt Nam, cùng với những ông
Đỗ Đức Thu, Vũ Hoàng Chương...
Nhân đây cũng xin nói một tí về PEN Việt Nam, và những ngày đầu của nó.
Có Hội, thì có Họp. Muốn họp thì phải có trụ sở. Thế là sau khi thành
lập Hội, mấy ông già nhà văn bèn đi kiếm một căn nhà dựng bảng hiệu,
kiếm một em làm thư ký, đi ra đi vô, và kiếm một ông trong bọn làm ông
Từ giữ đền.
Ông anh HC của Hai Lúa được tổ chức giao cho chức vụ ông Từ. Ông Từ
thấy cô thư ký ngon quá, bèn xáp vô. Cô có bầu, thế là ông Từ phải đi
muớn một căn nhà nho nhỏ cho cô em.
Cả đời ông anh Hiếu Chân của Hai Lúa chỉ mong có tí con
trai, để nối dõi "nghiệp văn", hay nói theo ông, để nối
dõi tông đường!
Còn một cô nữa, hồi ông làm nhiệm vụ đưa đồng bào vô Nam tại
đầu cầu Hải Phòng.
Cái cô ở Hải Phòng đó, Hai Lúa cũng đã kể sơ qua rồi. Trong Ông anh
HC.
Cả hai cô đều cho ông hai cô con gái.
Rõ khổ!
Nhớ, hồi đó, nhà thơ TTT, nghe chuyện, cười ngất, phán: Mấy ông già thì
chỉ kiếm được thứ mấy em đó thôi!
Đâu có bảnh như Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, không thèm đi kiếm mà em
tự động tới?
Nhưng, theo Hai Lúa, Kiệt đau hơn nhiều. Bởi vì cô
học trò mi-nhon, kiếm ông thầy, xin thầy cho em gặp riêng ở nhà thầy
đó, gặp thầy, là chỉ nói một câu, em yêu thầy, rồi.... bye, bye.
Bởi rằng thì là em chỉ cần "kỷ niệm đẹp"!
Bỗng dưng, Gấu nhớ đến một em của nhà văn Durrell. Em này mê viết văn,
mê quá là mê, mà viết chẳng ra gì, em mới đi coi bói, hỏi cõi âm, coi
mình có thành nữ văn sĩ được không. Cõi Âm phán, tại rằng là vì em còn
nguyên, chưa có "vết thương dậy thì" [tên tác phẩm đầu tay của nữ văn
sĩ miền nam trước 1975]. Thế là em đi gặp một ông trùm văn nghệ, năn
nỉ, anh giúp giùm em, để em làm nhà văn!
Bố lếu bố láo thiệt!
*
@ nhà BNT tại Hải
Phòng.
Lần gặp BNT, bi giờ
nghĩ
lại, cũng thật là ly kỳ, và thú vị.
Như bức hình cho thấy, đó là ngày 15 Tháng Sáu, 2001. Lần về thứ nhất.
Trước khi về, NTV, chủ nhà xb Thời Mới, nơi in cuốn Chuyện Kể Năm 2000,
nhờ, gặp BNT giùm.
Trong câu chuyện, giữa đám bạn mới quen ở Hà Nội, Gấu vô
tình nói, cần phải gặp ông này một tị. Thế là chuyến đi được soạn thảo,
ở đâu đó, Gấu không biết, nhưng đã được thực hiện. Gấu nghi, đây hoàn
toàn là do lòng tốt của mấy "bvvc" mới quen. Nhưng bi giờ, nhớ lại, và
tự hỏi, lỡ ra mà Gấu này vô tình buột miệng, muốn yết kiến nhà văn DTH,
không hiểu sự tình sẽ ra sao!
Gặp được BNT cũng coi như là quá vui rồi.
Ngay câu đầu, ông gửi lời cám ơn, và hỏi thăm tới gia đình LMH.
Ấy là
vì LMH có đi một bài điểm cuốn CKN2000.
Nhưng, lời cám ơn đó, chỉ có... một nửa dành cho LMH.
Nửa kia nó như thế này:
Tớ có đọc bài cậu viết về cuốn của tớ rồi. Cám ơn cậu, tuy cậu đập tớ
một cú thật ra trò!
Đọc
CKN2000: Cái Đẹp và Con Thú
BVVC: Bạn văn VC
huyvespa
viết:
Dear tác giả,
Tôi có một chi tiết nhỏ muốn note ở
đây:)
“Chúng ta đi mang theo quê hương” đúng
ra là tên 1 bức tranh của họa sỹ PHẠM TĂNG vẽ cho nhật báo Tự Do xuất
bản tại
Saigon năm 1956.
Câu này MAI THẢO đã dùng lại trong “QUÊ HƯƠNG
TRONG TRÍ NHỚ” trên báo SÁNG TẠO
– 1958 – SỐ ĐẶC BIỆT HÀ NỘI:
“Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần
mỗi chúng
ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đã không thành vấn
đề. Đi
không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người
Hà Nội
hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài gòn, ở khắp nơi hôm nay mới
chính là
Hà nội, cái phần tinh hoa, cái phần quý giá nhất của Hà nội. Chúng ta
đi mang
theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là vì thế. Mà cũng chính
là trong
lối sống mà chúng ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là
những
người Hà nội…”
Thanks,
Lần Cuối Sài Gòn
Viết, một cách
nào
đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo
những chữ.
Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một
con hẻm
bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo
chủ nhân bỏ
chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá
Thăng
Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một
Sài-gòn sau
được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên
bờ đê,
hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm
nào,"Chúng
ta đi mang theo quê hương".
Nguyễn Đức Tùng viết:
Rất cám ơn anh (chị) Huyvespa. Bổ túc
của anh thật quý báu. Chúng
ta cần tìm hiểu và ghi nhận nhiều hơn về
lịch sử.
Chúc anh một tuần lễ vui vẻ.
Nguyễn Đức Tùng.
Note:
Tôi nhớ trước ngày 30 tháng
4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn,
tôi
đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh
như tôi
thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà
tôi được
học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý,
các
chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
(1)
Một con người
bình thường, khi độc giả góp ý, thì cám ơn, giản dị như vậy. Không có
ai lên giọng dậy lại người góp ý theo
kiểu tên này, nó chứng tỏ sự vô lễ, giống trường hợp ông thi sĩ đất
Thần Kinh,
sau khi đi 1 cái còm góp ý, bèn “mấy lời”.
Viết như thế là tự làm nhục mình, vì
tất cả độc giả của diễn đàn bị ông ta lôi ra phủ dụ “mấy lời”.
Mỹ là mẹ đạo
hạnh, Brodsky phán.
Quả đúng như thế.
Đạo hạnh đếch có mà viết lách cái gì!
Thử để ý coi, lũ trở về bợ đít VC, có
tên nào viết
ra hồn, là do đạo hạnh là con số không
TTT 2006-2015
"Nghệ
Thuật,
nếu nó là đồng
minh của hồi ức và tư tưởng, liệu có được quyền năng, làm sống lại cái
đắm, chìm, tiêu, ma, huỷ, diệt? Pasternak tin như vậy, và biến
niềm tin thành hành động, dù biết rằng, có thể mất, chính cái mạng của
mình, vì nó."
Hélène Henry, người
biên tập,
chỉ đạo, và viết lời giới thiệu cho cuốn mới ra lò: Pasternak: Écrits Autobiographiques. Le
Docteur Jivago, nhà xb Gallimard, tủ sách Quarto, 1316 trang, 66
tài liệu, giá 23 Euro.
"Nhưng đâu phải một cuộc đời như mọi cuộc đời nhà văn khác. Đây là cuộc
đời một con người đã trước tác, la vie d'un homme qui a oeuvré et
écrit, dòng dã 42 năm, trong lòng Liên Bang Xô Viết. Một nhà thơ, mà
tác phẩm đầu tay lớn lao, Em tôi
cuộc đời, 1922, còn có tiểu đề là "Mùa Hè 1917" ["Một Mùa Thu năm qua
cách mạng tiến ra", Phạm Duy], và bài thơ cuối cùng, "Giải thưởng Nobel", Tháng Giêng-Ba
1959, gần như một tiếng thét:
Người,
Tự
Do, Ánh Sáng
Thì
thật
gần, nhưng ngay kế bên chân
Ta
nghe
tiếng bầy chó săn tới gần
Bị
bắt giữ, ta tru lên như một con thú
cùng đường.
Giữa
hai ngày tháng đó, 1917 và 1959, là cuộc đối đầu, giữa nhà nước
khốn kiếp, độc tài... và tiếng nói tự do của một nhà văn, bị ám ảnh bởi
cái vô cùng, nhưng quyết định sáng tác, nếu có thể, trong lịch sử
và trong thực tại.
[Và
đúng như tên của tác phẩm], đây là một thứ "Sauf-Conduit"
[Thông Hành], cho
cuộc đời.
Hélène
Henry.
18 Tháng Sáu [1936]:
Marxime
Gorki ngỏm. Từ lâu, nhiều người tin rằng Staline đã cho đầu độc nhà văn
nhớn, đầu tầu văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa này.
19
và 25 tháng Sáu: André Gide tới Moscow... "Căn hộ sáu phòng thoải
mái tại Métropole. Tắm rất ư thoải mái; ăn với vợ chồng Aragon...
Pasternak tới nhập bọn. Mặn mà lắm, nhất là cái nhìn, nụ cười..."
Tới
30 Tháng Tám 1940, Gide trở lại với đề tài này: "Pasternak, tay độc
nhất tôi "tin cậy được" ở Liên Xô, kể cho tôi, về cuộc nói chuyện của
ông với tay Lounartcharski. Tay này say sưa với những kế hoạch cứu
[sauvegarder] văn hóa, ông ta tin rằng, nó đang gặp nguy. "Tại sao lại
phải tìm cách bảo vệ nó?" P. quạt lại anh ta. "Cái đám khốn nạn Hội Nhà
Văn Nhà Véo gì đó đang làm cho nó trở thành điêu tàn, mảnh vụn hả? Thì
kệ mẹ tụi nó. Mà này, hãy phụ chúng một tay...", giọng P. trở nên run
lẩy bẩy vì xúc động, "Bởi vì, chỉ sau đó, may ra mới có được cơ may, từ
ba cái rác rưởi, mảnh vụn, điêu tàn...".
André
Gide: Sổ Ghi từ Liên Xô về, Nhật Ký II, 1926-1950, nhà xb
Gallimard, tủ sách Pléiade, 1977, trang 524, trang 727.
Sartre, Aron và Chủ
Nghĩa Cộng
Sản: Cục Ung Thư Của Thế Kỷ.
Trong
Hồi Ký
[1985, nhà xb
Gallimard],
Raymond Aron đã nói tới "vô minh dẫn tới ngu ngốc đơn thuần. Chẳng bao
giờ nhà triết học về tự do, thành công, hay nhẫn nhục mà nhìn ra được
bộ mặt thực của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa toàn trị xô viết, căn
bệnh ung thư của thế kỷ, ông ta [Sartre] chẳng bao giờ chẩn đoán, cũng
chẳng bao giờ lên án, nó là như thế."
[Dans
ses Mémoires, R. Aron
parle d'une "ignorance qui conduit à la sottise pure
et simple. Jamais le philosophe de la liberté n'a réussi, ou ne s'est
résigné, à voir le communisme tel qu'il est. Le totalitarisme
soviétique, le cancer du siècle, il ne l'a jamais diagnostiqué, il ne
l'a jamais condamné en tant que tel". Magazine Littéraire, số đặc biệt
về Sartre, Mars 2005 - Mai 2005]
Nhưng, hình
ảnh lá cờ đỏ của chiến thắng, của chinh phục, mà một cô nữ sinh tiên
tiến được vinh dự cắm lên một thành phố miền nam, sau trở thành một ám
ảnh, ở một nhà văn.
"Ba
mươi năm
sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi cắm vào Bà Rịa
trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu dân thường,
1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa,
hàng chục triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít
chất độc hoá học và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về
lịch sử, tôi không khai quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng
nhất của cuộc chiến tranh đạt những kỉ lục không thể vượt qua của sự
phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên, đơn giản vì chúng chưa bao giờ được
đưa vào danh sách các hậu quả cần khắc phục."
PTH:
Cái
còn lại
Thế
thì, "cái
còn lại", ở một kẻ bị... chinh phục? Một tên Ngụy?
Có
thể, hắn
chỉ nghĩ đến ám ảnh của những không may. Những xui xẻo.
Đó là một
trong những lý do, khi điền đơn Cao Uỷ Tị Nạn, tại trại Panat Nikhom,
Thái Lan, tuy tới Bangkok vào ngày 19 tháng Năm, có một kẻ bị chinh
phục, phải
chạy trốn quê hương, nó đã chọn cho nó một ngày khác, thay vì ngày sinh
của Bác Hồ, với hy vọng một tái sinh, một đổi đời.
Bởi
vì, trong những năm chiến tranh, vào những ngày trọng đại như thế
đó, những người Cộng Sản lại hô hào biến đau thương, căm thù thành hành
động. Hãy có thêm nhiều xác Mỹ Ngụy làm quà dâng tặng ngày sinh Hồ Chủ
Tịch, ngày thành lập Đảng...
... Uncle Ho,
stand discarded.
Ông
Hồ... liệng cống [discarded], thay vì... lộng kiếng!
In
one of the
back streets of Ho Chi Minh, busts of the
father of the nation, Uncle Ho, stand discarded. A local magazine
polled young
people to discover that they identified Bill Gates as their personal
hero
rather than the long-dead leader Ho Chi Minh. Police quickly
confiscated copies
of the paper and burned them after firing the paper’s chief editor.
Tượng
ông Hồ ở
một con phố đìu hiu, [hay, buồn thiu?], ở thành phố mang tên ông. Cha
già dân tộc thua
phiếu anh Mẽo Bill Gates, qua một cuộc thăm dò giới trẻ Sài Gòn. Tờ báo
đăng thăm dò, tịch thu, đốt bỏ, chủ bút, cho về vườn.
“Viet Nam at peace”: the
empire strikes back
[Việt
Nam thời
bình: Đế quốc quật ngược]
Một linh hồn
đẹp
Raul Escari
tên dandy bí mật nhất Buenos Aires
Marguerite
Duras là tác giả [chẳng ai biết đến, vào ngày đó], của một trong những
graffitis
của Mai 68: “Hãy hiện thực, hãy đòi điều không thể”. Chính là Raul
Escari phát
hiện ra điều này, trong cuốn tự thuật của mình.
Khách thường xuyên
của Tin Văn và rất khoái, giờ mới biết anh có fb xin anh cho phép kết
bạn.(em
là con trai bố Xuân Sách) Cám ơn anh.
5:11am
Quoc
Tru Nguyen
Best Regards. Ông bố
của bạn thật là tuyệt vời. NQT
6:21am
Ngô
Nhật
Đăng
Dạ cám ơn anh, em
cũng từng đọc "Đọc XS"của anh, không có ai hiểu được như anh.
Avec
plaisir!
Nhân hân hạnh được quen ông con, bèn cùng lèm bèm về ông bố
Điêu tàn ư,
đâu chỉ điêu tàn?
Câu thơ của
Xuân Sách, phải được đọc theo tinh thần sau-Lò Cải Tạo, như một thách
thức câu
của Adorno:
Sau
Auschwitz mà còn làm thơ thì thật dã man.
No
poem is ever written for its story-line sake only, like no life is
lived for
the sake of an obituary.
Brodsky
Tuyệt!
Đâu
có bài thơ nào viết ra chỉ để góp thêm vào dòng thơ, dòng chuyện, cũng
như đâu
có cuộc đời nào được sống chỉ để làm đầy một trang cáo phó. Tạm dịch.
Tks K. NQT
Chân
Dung Nhà
Văn
Note: Bài viết
về Vũ Hoàng Chương, trong có nhắc tới cái danh sách đầu tiên, những nhà
văn đồi
trụy, gồm 16 tên…
Tôi đọc những
người có tên trong bản danh sách được gọi là danh sách Hoàng Trinh cho
ông nghe. Hoàng Trinh là thông gia với Trường Chinh. Y vào Nam sớm nhất
và được Bộ
Chính Trị Trung Ương Đảng Ủy cho toàn quyền xử lý vụ "Văn Học Nghệ
Thuật
Miền Nam". Sau này thêm bớt con số người bị bắt, có nhiều danh sách
khác.
Như danh sách 21, danh sách 44. Nhưng danh sách Hoàng Trinh, 16 người
được lập
ra sớm nhất và tôi được biết ngay nhờ sự tiết lộ của một cán bộ đảng
quen biết
ngày trước, hắn đi theo Hoàng Trinh lên Đà Lạt, và được cho xem bản án
tử hình
này
theo GCC, không đúng.
Danh sách này, gồm 12 tên,
có
GCC, thứ
7, trong 12 tên, là do 1 tên đàn em của Lữ Phương làm. Tên này, hiện ở
Pháp.
Mang từ Miền Bắc vô, có,
nhưng là mấy cái tapes, để phát trên Đài Sài Gòn, trong cú Mậu Thân,
cùng với 1 chuyên viên kỹ thuật của Đài Hà Lội.
TRUCE
TREACHERY As festive crowds shopped, VC sappers prepared to
strike.
While the
intensity of the onslaught was unknowable, MPs were ready to react
quickly, as
they did at the U.S. Embassy.
'Accompanied
by an NYA radio specialist with prerecorded tapes, the sappers were
prepared to
broadcast the fall of the Saigon government'.
Quả lừa
ngưng bắn ăn Tết của VC. Trận Mậu Thân, Bắc Kít đã thu sẵn những cuộn
băng phát
thanh ăn cướp Miền Nam OK rồi, từ Hà Nội.
Văn Học
số 126, 10, 1996
Thời gian này,
là còn Quân Quản, như VC gọi. GCC sau khi học cải tạo ba ngày tại chỗ,
bèn trở
lại sở, đếch có việc gì làm, bèn đi lang thang, khi thì ra bờ sông, làm
1 "shot", rồi thuê 1 cái ghế bố, nằm phê, hoặc ghé Bưu Điện chính, như
khách hàng, ngồi
trên băng ghế, nhìn người qua lại.
Đúng là trong 1 lần như thế, thì 1
anh cùng
làm Bưu Điện, không cùng nhiệm sở, biết GCC cũng viết văn viết viếc, đi
ngang
qua, tay cầm tờ Tin Sáng của đám Miền Nam, và đưa tờ báo cho GCC, chỉ
cái danh
sách 12 tên nhà văn phản động đồi trụy, và cười cuời, bỏ đi!
Đọc, Gấu choáng
người. Sợ có, ngạc nhiên, hãnh diện cũng có.
Bởi là vì thời gian đó,
đắm đuối
với Cô Ba, chẳng còn viết lách, mà cũng chẳng hề lai vãng giới văn
nghệ, cuốn
truyện ngắn Những Ngày ở Sài Gòn, thì đúng là tuyệt bản từ hồi nào, và
cũng chẳng ai còn nhớ, làm sao mà VC biết đến
Gấu Nhà Văn!
Phải
đến khi ra hải ngoại, đọc cái bài phỏng vấn trên, mới ngã
ngửa ra mà rằng, hóa ra tên này.
Mà quái làm
sao, tên này rất ghét GCC. Luôn cả đám Sáng Tạo, vì tên của đám ST, GCC
nhớ là
có đủ hết trong danh sách trên, trong khi TTT và GCC là những người ơn
của hắn.
Trước 1975, tên này viết lách gì đâu. Khi TTT chán phụ trách trang VHNT
của nhật
báo Tiền Tuyến, ông giao cho GCC. Gấu kéo tthêm HPA, nhưng sau HPA, quê
gì đó, dãn
ra, Gấu một mình một ngựa làm được ít lâu, rồi cũng bỏ.
Khi trao trang báo, ông
đưa Gấu mớ bài của một số người gửi cho trang báo, phán, mày coi, nếu
cần thì
sửa rồi đăng cho họ.
Trong “họ” này, có Nguyễn Mai, và tên này. Chuyện này Gấu đã
viết rồi.
Hóa ra là hắn
ghét những tên nào trí thức hơn hắn! Đúng là như thế, vì sau này, đọc
loáng thoáng
những gì hắn viết, có vẻ hắn rất cay cú những tên nào đọc hơn hắn, viết
"trí thức"
hơn hắn, hiểu biết về triết học hơn hắn, nhất là về chủ nghĩa hiện
sinh. Đọc bài
trả lời phỏng vấn thì cũng nhận ra. Tên Sartre, hắn viết trật, chửi
những nhà văn
Sài Gòn hồi đó mê nôn mửa, buồn nôn…
Nhớ là có đọc 1 câu, “làm trí thức mệt bã người”,
của hắn!
Đâu có ai bắt
làm!
Có hai tên, trước 1975, rất thù Gấu,
tuy Gấu không hề đụng tới chúng, là tên này và Duyên Anh.
Duyên Anh thì dễ hiểu. Mày không nhắc tới ông, là ông chửi mày.
Tí bực mình với tên này, chẳng đáng nói
tới, nhưng cái “ơn" - sửa bài rồi đăng cho Nguyễn Mai, nhờ đó mà có
được
- thì quá lớn
lao, phải
nói là khủng khiếp, bởi là vì, không có anh giới thiệu, làm công việc
dịch dọt
cho nhà xb Vàng Son, của ông Nhàn, thì chắc chắn Gấu ngỏm ở trong tù
VC,
ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè rồi.
Chuyện này thì cũng kể nhiều lần rồi. Chưa
kể, chưa viết, chưa làm sao viết ra được, là thời gian ở tù VC ở Đỗ
Hòa
chính là quãng đời đẹp nhất của GCC!
Nếu không sửa bài rồi đăng cho NM, thì
không có chuyện, khi thấy ông Nhàn cần người phụ coi trang báo thiếu
nhi cùng với Từ Kế Tường, Nguyễn Trọng Khôi và Nguyễn Mai - Gấu quen cả
băng là vào thời gian này - và cùng
lúc lo dịch sách cho nhà xb của ông, anh bèn nhớ ngay đến GCC, và bèn
vội vàng đưa
tới giới thiệu.
Nếu không dịch sách, thì không có đấng độc
giả TNXP, nhân viên nông trường - khi Gấu Cái thăm nuôi lần đầu, dím
mấy trăm bạc
trong cái bị gạo, trong khi kiểm tra đồ thăm nuôi, thấy được, bèn đích
thân ra
tận hiện trường, nơi Gấu đang cuốc đất mệt bã người, kéo về nhà thăm
nuôi,để gặp Gấu Cái, và nhận đồ thăm nuôi. Nhất là để lấy mấy trăm bạc,
giấu đi,
và sau đó, anh ta dùng số tiền này để chạy chân y tế Đội cho Gấu, nhờ
thế
không còn
bị lao động mệt bã người nữa!
Suốt thời gian cải tạo tại nông trường Đỗ
Hòa, đó là lần thăm nuôi đầu tiên, và cuối cùng của Gấu Cái, đúng khi
Gấu đang ở
trong đội trừng giới, do trốn trại bị bắt lại.
Những lần sau, bà cụ
của Gấu lóc cóc, lụi
cụi, lui cui,
tháng tháng đi
thăm nuôi thằng con trời đánh, suốt hai năm trời ở nông trường Đỗ
Hòa.
Ui chao nhớ
ra rồi, trên đường từ hiện trường cuốc đất, về tới nhà thăm nuôi, anh
ta dặn cặn
kẽ đủ chuyện, và đều liên quan tới cái đói, và tình trạng của Gấu đang
ở tổ trừng
giới. Anh ta dặn Gấu, nhớ là trong lúc gặp gia đình, cố mà ăn, được
chừng nào hay chừng
đó, bởi
là vì khi anh mang đồ thăm nuôi về tổ, là liền lập tức phải trở lại
hiện trường
lao động, và đám bảo vệ tổ sẽ làm sạch đồ thăm nuôi, chỉ để lại cho anh
bị gạo!
Ui chao nhớ
ra cả chuyện, Gấu Cái còn mang cho Gấu cả 1 xâu cua sống, tếu thế.
Hết giờ lao động,
trở về tổ, thấy vỏ cua vương vãi quanh lán, Gấu cực kỳ đau lòng. Không
phải tiếc
miếng ăn, mà vì uổng công Gấu Cái: Chúng luộc cua, chơi sạch, chỉ để
lại cho Gấu
mớ vỏ cua!
Quả là còn
chỉ bịch gạo. Nhưng nhờ bị gạo, Gấu có được 1 bữa tại tiệc bữa chủ
nhật. Nhớ là,
chính vào dịp này, Gấu được thưởng thức thịt chuột, và được nghe lần
đầu tiên trong
đời, bài “Ngày mai đi nhận xác chồng”.
Nhớ ra cả cảnh, trong lúc Gấu Cái kể chuyện gia đình, mấy đứa nhỏ ra
sao, Gấu chẳng nghe được gì hết, chỉ mải ăn lấy ăn để, cho bõ cơn đói.
Quả là y
chang bến tàu Sài Gòn. Nơi có mấy cái xà lan, là nơi phà Nhà Bè đậu. Bà
cụ Gấu mỗi
tháng một
lần, vào một buổi sáng, xách giỏ thăm nuôi, mò ra đây, xuống phà, đi
tới 1
bến đỗ,
bên bờ sông Sài Gòn, bên kia sông là nông trường cải tạo Đỗ Hoà, 1 khu
đất nổi,
giống như hòn đảo, chung quanh là kênh,
là biển, là rừng đước bạt ngàn, vô phương vượt thoát.
Có 1 con đò, chờ sẵn. Thế
là cụ lóp ngóp bò lên con đò, qua sông.
Gấu Cái lo kiếm tiền nuôi
con, giận, và
có thể cũng quên thằng chồng cà chớn rồi cũng nên.
Gấu cũng cố quên tất cả, hà
hà!
Y
chang Bến
Tầu Sài Gòn.
Chỗ có
cái xà
lan, là bến phà đi nông trường cải tạo Ðỗ Hòa, Cần Giờ. Mỗi tháng, bà
cụ Gấu,
chừng 8 giờ sáng, một bữa chủ nhật nào đó,
lụi cụi xách giỏ đồ thăm nuôi xuống phà, chừng trưa thì tới, vội vàng
thăm thằng
con, là về, cho kịp chuyến.
Lùi về
phía
bên tay phải của bạn, là nhìn thấy nơi nhà thơ TTT ném mẩu thuốc xuống
lòng sông,
rồi phơi lòng mình lên kè đá!
Hà,
hà!
Nhớ quá!
Gấu không được
hân hạnh trở về lại đất Bắc, như tù cải tạo, chiều cuối năm qua xóm
nghèo, thấy
lòng mình ảm đạm, kẻ tội đồ biệt xứ, về ngang cố quận, ngây ngô dọ hỏi
bóng tối
sâu thẳm... [Thơ TTT].
Ở tù trong
Nam, Gấu Cái bận lo kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng trong tù, việc thăm
nuôi thường
do bà cụ Gấu. Gấu Cái có vài lần cố gắng đi thăm, như lần ở Phạm Văn
Cội, hai vợ
chồng chạy qua nhà dân, hay lần ở Đỗ Hải, lần đầu tiên khi biết Gấu bị
tống lên
đó. Gấu đã kể qua.
Do đói quá,
tuy có Nhà Hội, nhưng Gấu chẳng nghĩ tới, vả chăng, đang bị án "tù
trong
tù", có cũng như không.
Thành thử Gấu
chưa từng trải qua một lần nào cái cảm giác sống một đêm Nhất Dạ Đế
Vương,
trong Túp Lều Lý Tưởng, hay Nhà Hội, của trại tù VC.
*
Lần bị bắt
đúng lúc có chuyến vượt biên đường bộ, ngả Căm Bốt. Gấu Cái cho thằng
lớn đi thế.
Gấu được tin, trước khi bị đưa đi tập trung cải tạo. Bà cụ đi thăm, vừa
vui vừa
buồn, đưa cái hình thằng lớn chụp trước Tòa Đô Chính, trước khi từ giã
Sài Gòn,
nói nhỏ vô tai Gấu, nó đi thoát rồi.
Nhìn bức
hình, Gấu nhận ra, đúng chỗ đó, nó đã từng chụp hình, bức hình polaroid
có thể
nói là đầu tiên tại Miền Nam, do tay Horst Faas chụp, khi anh chàng Đức
này vừa
từ trên văn phòng hãng AP, ở phía bên trên Passage Eden xuống, đang
tính thử
cái máy chụp đầu tiên ở Sài Gòn của anh ta.
Hóa ra
không. Thằng nhỏ bị bắt, đưa từ biên giới về Sài Gòn, giam tại khám Chí
Hòa.
Lúc Gấu đi Đỗ Hải, là Gấu Cái đang tất tả lo cho nó, thành thử chẳng có
ai đi
thăm, bà cụ đâu biết Đỗ Hải hay Bến Hải hay Cà Mâu, đến khi hỏi ra, thì
đã mấy
tháng trời, Gấu vừa đói, vừa lo, không biết gia đình như thế nào, thế
là liều
lĩnh vượt trại. Khi Gấu Cái lên thăm, là lúc Gấu đang ở "tù trong
tù."
*
Anh đang bị
án tù trong tù. Khi gặp người thân, hãy tranh thủ ăn, còn bao nhiêu, về
Tổ, tụi
nó sẽ cướp hết.
Tôi đã kiểm
tra, người nhà của anh giấu mấy trăm đồng ở trong mấy ký gạo. Lát nữa,
anh lấy
tiền đó ra, giấu thật kỹ. Số tiền này sẽ cứu mạng anh đấy.
Tay này, hoá
ra biết Gấu. Sau đó, anh cho biết, có đọc Gấu.
Ôi chao Gấu,
nhà văn, sướng là như thế đấy, sống sót là như thế đấy!
Bạn không thể
tưởng tượng, lần gặp gia đình đó, nó bi hài đến thế nào
Gấu Cái nói
mặc Gấu Cái, Gấu Cái khóc mặc Gấu Cái, Gấu Đực tranh thủ nhét đồ ăn
ngập miệng.
*
Cuốn truyện
thuật câu chuyện hai anh em cùng mẹ khác cha, cả hai cùng yêu một cô
gái, Zoya,
cả hai đều cùng trải qua những năm tháng khủng khiếp tại một trong
những trại
tù Gulag.
Người kể
chuyện, không nêu tên, một anh hùng huy chương trong cuộc chiến chống
Hitler,
đào thoát qua Mẽo vào thập niên 1980, và làm giầu tại đó, trở về lại
Nga xô để
thăm lại cái nơi chốn ở mãi tít phiá Bắc Siberia, nơi mà anh ta, và ông
em,
Lev, đã bị bắt giữ làm nô lệ khổ sai, từ cuối thập niên 1940 cho tới
mãi sau
khi Stalin chết.
Cả hai chẳng
phạm một tội ác nào. Người kể chuyện bị bắt, như rất nhiều cựu quân
nhân đã từng
chiến đấu tại Đức, chỉ vì bị nghi ngờ là ngả theo phát xít [on
suspicion of
having been exposed to fascist] và ăn phải bùa mê Tây Phương, khi ở bên
ngoài Đất
Mẹ Liên Xô.
Lev, ông em,
bị bắt vì đã ngợi ca Mẽo, ở nơi căng tin trường học, trong khi sự thực,
anh ta
dùng Mẽo, như là nickname, cho Zoya.
Nhà Hội
Bài Ca Của Tên Đao Phủ
John
Banville đọc House of Meetings, Nhà Hội, của Martin Amis
*
Gấu sống sót
trại tù Đỗ Hải, là nhờ mấy trăm bạc Gấu Cái giấu trong bị gạo.
Có lẽ phải
nói, "ba lần sống sót"!
Lần đầu, nhờ
anh cựu tù, làm trustie, chuyên dẫn trại viên ra gặp người nhà, mỗi lần
có thăm
nuôi.
Lần thứ nhì,
nhờ chính cái bị gạo.
Lần thứ ba,
nhờ mấy trăm bạc giấu trong gạo.
*
Giả như anh
chàng kiểm tra đồ thăm nuôi, chơi luôn mấy trăm bạc, là Gấu ngỏm củ tỏi.
Note:
Cái
tay ra khám đồ thăm nuôi, không phải là trustie, mà là TNXP.
Đỗ Hòa, không
phải Đỗ Hải
Viết
Lao
Home, 2014 & 15 Trip
Top 10 books
about betrayal
Top Ten về Phản Bội
From John le
Carré to Muriel Spark, the novelist chooses fiction that reflects a
perennial
human failing which can wound the betrayer as much as the betrayed
Đứng đầu, phải là Graham
Greene! GCC chưa đọc mà đã đoán ra được!
1. The End of the
Affair by Graham
Greene
I could have picked any of Greene’s
novels: if there was ever a master of betrayal fiction, it was Greene.
The End
of the Affair, published in 1951, is a sad and beautiful story of love
racked
by jealousy and Catholic guilt. Written during the postwar austerity
era, but
set in wartime London, the narrative is loosely based on Greene’s affair with Lady Catherine Walston.
When
jealous ex-lover Maurice Bendrix realises that his major rival for the
love of
Sarah Miles is God, The End of the Affair is cast in new light.
Tuy nhiên những nhận xét của tác giả bài
viết, về "Tàn Ngày", thật thú
Compared with Medea – with anyone, really – Mr
Stevens, the narrator of The
Remains of the Day, is restrained. Butler at Darlington Hall, the
poised Mr
Stevens decides to visit his old colleague of 20 years’ standing, Miss
Kenton.
The quality of restraint, along with dignity and loyalty, is part of
the idea
of “greatness” by which Mr Stevens has always lived. But the novel ends
with
the elderly butler realising how the beliefs that have sustained him
have also
betrayed him.
Làm sao không có John le Carré cho được!
Spies are betrayers by profession. The clandestine
nature of their trade
makes them prone to the kind of duplicity where one part of their own
character
will always be busy betraying the other. Le Carré manages to convey
this
complexity of deception in many of his characters, often forced by
circumstance
to act callously, but The Spy Who Came in From the Cold is, in my view,
his
best book. Written in 1963, the novel carries strains of film noir,
with the
lonely, haunted war veteran, feeding on whisky in bleak cityscapes,
trying to
do right, trying and failing to save the girl he loves. British spy
Alec Leamas
is assigned one last operation before he can be brought in “from the
cold”. He
uncovers layer upon layer of duplicity and betrayal and, in the end,
must
choose between life and loyalty.
Le Carré rất
mê CS, và rất tởm tư bản, Anh Quốc, mà hiện thân của nó, là qua ông bố
của mình.
"Người về từ miền lạnh", khi chấp nhận mission, vượt bức màn sắt, qua
thế giới
CS, để cứu 1 điệp viên Hoàng Gia Anh, luôn luôn đinh ninh trong đầu, là
cái tên,
tạm gọi là B, vì tên này cực bảnh, về đạo hạnh, về lý tưởng cao đẹp của
CS… Chỉ
đến phút chót, anh mới biết, đó là tên mà anh phải loại bỏ, và cái tên
anh ta
phải kíu, thì cực tởm, đúng như lũ Chống Cộng Điên Cuồng, hay đám bộ
lạc Cờ Lăng
hiện giờ.
Chúng không
phải là phe ta ư?
Đâu có phải
dòng dã 40 chục năm chúng ta hận thù VC không thôi đâu. Chúng ta hận
thù cả những tên
tởm lợm chống cộng điên cuồng, những tên dựa vào chống cộng để mà làm
giàu, cho
bản thân và gia đình chúng.
John le
Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ
Ngoại
giao (công tác gián điệp), do vậy, không được dùng tên thực. Cuốn The
Spy Who
Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài danh vọng. Đã được quay
thành
phim, với tài tử Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú
vị nhất,
đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng, Người Thứ Tám,
phóng
tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội
ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu Lâm vào hàng thượng thừa, Văn
Bình được
Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra Bắc (Hà Nội), để cứu một
điệp
viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ
tài liệu:
nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách mạng" ở một ngân hàng Thụy
Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận tiền…
Trong
nguyên tác của Le Carré, câu chuyện xẩy
ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc
ăn, ông
đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau
khi thất
bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái
thương
tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với "cách
mạng"
(Đông Đức).
Mọi
việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn,
Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu
của anh
chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
Bí
mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo đều
là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ
địch này là
một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng
Sản sẽ đưa
thiên hạ tới "thái bường"! Còn
cái người mà anh điệp viên "tởm"
nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!
TLR
JOHN LE CARRÉ
WINTER 2015
INELLIGENCE
HAS ONE MORAL LAW - IT IS JUSTIFIED BY RESULTS.
THE SPY WHO
CAME IN FROM THE COLD
Nhắc tới le
Carré, có liền. Báo Điểm Văn lấy luôn nick cho số Mùa Đông 2015, là
John le Carré.
Thú hơn nữa, đọc
loáng thoáng ở tiệm sách, trúng ngay 1 bài, đề tặng Vila-Matas: The Dark Twin.
Đọc cái tít
ngờ ngợ.
Đọc hết bài, hoá ra thuổng của…. GCC,
trong bài viết về Cô Tư, chôm
Faulkner:
Cái câu của
Faulkner nói về nhà văn, và cái câu của Coetzee nói về Faulkner, xem ra
đều áp
đụng thật là đắc địa vào trường hợp của Cô Tư (a)
"A book
is the writer's secret life, the dark twin of a man: you can't
reconcile
them."
William
Faulkner: Mosquitoes [1927] (1)
Một cuốn sách
là cuộc đời bí ẩn của nhà văn, cái thằng anh em sinh đôi u tối của hắn
ta: Bạn
đừng hòng hoà giải hai thằng chả này.
(1) Coetzee
trích dẫn trong 1 bài viết trên tờ Điểm sách Nữu Ước, khi đọc cuốn tiểu
sử Faulkner
ESSAY
Sergio Pitol
The Dark
Twin
Translated
from Spanish by George Henson
FOR ENRIQUE
VILA-MATAS
Bài essay này cực sướng.
Nó nhắc tới cuốn MCNK của TTT, khi nhắc tới cuốn tiểu thuyết Voi Đi Đâu
Để Chết, Where Elephants Go to Die?
Với độc giả của TTT, của
MCNK, thì biết liền: ở Đà Lạt.
Trong MCNK có nhắc tới giai thoại này, như là 1 cái dấu báo về cái chết
của Kiệt.
Dark Twin của TTT, là MCNK.
Tin Văn sẽ đi liền bài
này, như 1 cách nhớ Đà Lạt, và tưởng niệm Kiệt và TTT.
Ông Trung Tá
mập có vẻ bệnh hoạn. Ông từng bị địch bắt hồi Mậu Thân khi về quê nhà
ăn Tết và
vượt ngục trốn thoát sau sáu tháng bị giam cầm trong rừng gần biên
giới. Từ trại
An Dưỡng ông được đưa lên làm việc tại trường và được giao giữ một chức
vụ mới
đặt riêng cho ông, không có trong bảng cấp số: thanh tra các lớp học.
Ông ngụ
trong cư xá độc thân mặc nhiên trở thành trưởng trại. Gia đình ông ở
Sàigòn và
ông lủi thủi một mình không có bạn.
Tiếng ông
nói nhanh nghe như lắp bắp, tiếng cười phát ra bất thường và ngắn ngủi.
Nhìn
nét mặt ông ngay sau khi tiếng cười vừa tắt, không ai có thể biết ông
đã cười.
Ông chết
cách đây mấy tháng. Một trái lựu đạn nhỏ bằng trái chanh đã nổ trong
gian phòng
ông ngủ ban đêm. Gian phòng chếch với gian phòng của Kiệt thuộc khối
nhà bên
kia quảng trường. Nằm đây bên cạnh cửa sổ kính dầy, Kiệt chỉ ngó thấy
được gian
phòng ấy bằng tưởng tượng. Gian phòng không ai dám ở nữa, lỗ chỗ những
mảnh lựu
đạn trên cửa, trên tường, trên sàn.
Cuộc điều
tra đưa đến kết luận tử nạn vì công vụ, giúp cho vợ con của ông được
hưởng các
quyền lợi của một tử sĩ . Cái chết phủ nhiều bí mật với nhiều dư luận
đồn đãi.
Đêm trái lựu đạn nổ trong phòng ngủ của ông, Kiệt có ngủ tại trại nhưng
không hề
hay biết. Chàng hoảng hồn ngơ ngác trong buổi sáng tinh mơ đứng trên
bãi đậu xe
nghe tiếng người la lớn đối đáp báo tin biến cố đêm hôm.
Kiệt nhìn
ánh điện vàng nhòe của ngọn đèn giữa quảng trường chiếu trên mặt kính.
Đêm ấy,
ngọn đèn này tắt, Kiệt nhớ.
Chàng ngồi
lên trong mùng, ngó quanh quất.
Bữa leo núi,
trong khoang chiếc trực thăng, lần duy nhất Kiệt nói chuyện với người
đã chết.
Chính ông gợi chuyện. Ông hỏi chàng ở ngoại quốc bao lâu? Chàng về nước
năm
nào? Cảm tưởng của chàng những ngày đầu mới trở về? Kiệt lịch sự trả
lời vừa đủ,
không dài dòng trong khi hai người cùng mầy mò quan sát những mối dây
điện cao
thế bị cắt rời khỏi các bộ phận đã tháo gỡ. Bỗng không ông nhận xét:
buổi tối nằm
lại trong khoang tầu này chắc rét chịu không thấu. Mùa đông vừa qua,
ông sưởi bằng
bóng đèn 500 [watts] ngay trong phòng làm việc, bóng đèn giấu dưới gầm
bàn. Rồi
ông hỏi: "Tại sao ông lên trên này?". Ngồi trên xe díp trước khi mở
máy, ông ngó chiếc phi cơ nói: "Ông trông nó giống con voi không? Loài
voi
có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến
chỗ khuất
nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa
voi."
Ngưng vài giây, ông nói tiếp bằng giọng bình thường: "Tôi mới đọc một
quyển
truyện về voi, thật thích. Tôi đang cố gắng dịch quyển sách ấy". Kiệt
hỏi:
"Trung Tá viết sách?" Ông vội vàng cải chính: "Đâu có. Tôi dịch
để gửi về cho mấy đứa nhỏ ở nhà đọc. Chúng nó không đọc được sách ngoại
quốc mà
quyển này thì chắc chẳng có ai mất công dịch, in làm chi. Tại tôi
thích... với
lại viết thư cho tụi nhỏ tôi chẳng biết viết gì...".
Về đến thành phố giữa buổi trưa ngà nắng, ông
bảo: "Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng
ở
đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là
một con
bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Sau buổi ấy,
Kiệt không còn dịp nào nói chuyện với ông. Gặp lại chào ông, được ông
đáp bằng
vẻ dửng dưng như với mọi người. Cái chết thình lình lấp kín ông. Đêm
nay chàng
sực nghĩ đến tập sách dịch của ông, muốn đọc, chàng quên không hỏi ông
về nhan
đề quyển sách, tự hỏi chẳng rõ ông dịch xong chưa, rồi tự đáp, cuốn
sách dịch bỏ
dở dang. Và không lý do, chàng kết luận ông tự vẫn.
The
Life of Images
Một tên BVVC của Gấu, một
năm trước đây, mail Gấu, tại làm sao mà mi không về nước mà thù đồng
bào Mít của riêng, của chính mi?
Hắn chọc quê Gấu.
Tuy nhiên, Gấu cũng quê.
Gấu bèn trả lời, cái chuyện thù hận, thù ghét, Gấu không quen, rằng,
lâu lâu ghét thằng này, ưa thằng kia, giữa lũ Mít hải ngoại, OK, nhưng
làm sao mà thù hận trọn dân Mít của Gấu được?
Vậy là mi đánh mất cái hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 tên Mít có được ở
trên đời rồi!
Kafka Poet
Faut-il
bruler Kafka?
Liệu có nên đốt
bỏ Kafka?
Bữa trước TV
có nhắc tới câu này, và gán cho Marte Robert. Nay coi lại, không phải,
mà là của
tờ Action. Tin Văn sẽ đi 1 số trích đoạn, của 1 số phê bình gia thế
giới, khi đọc
Kafka. Trước hết, xin giới thiệu Camus. Ông coi đây là tiểu thuyết
triết học.
Nhưng nếu đọc như thế, thì lại chống lại cách đọc tôn giáo của Max
Brod. Ông bạn
của Kafka coi K là 1 vì thánh, mà thánh thì đâu cần đến chim, thế là
bèn
xóa sạch
những câu mê gái của Kafka, thí dụ,
Tôi đứng trước
ổ nhện như đứng trước ngôi nhà của người tình thân
thương, (Je passai devant le bordel comme devant la maison de la
bien-aimée, nhật ký 1910, đã bị Brod kiểm duyệt)
Di Chúc Kafka
Về sự tủi hổ
của Kafka. Kundera nghĩ đến đoạn cuối Vụ Án: hai người đàn ông cúi
xuống cắt cổ
K. Từ hai con mắt đang mờ dần, K. còn nhìn thấy, ngay sát mặt anh, kề
má anh,
là hai người đàn ông đang ngắm thành quả của họ. Như một con chó!, K.
nói, như
thể sự tủi hổ phải sống dai hơn anh, chỉ có nó sống sót.
Tủi hổ,
shame, tiếng cuối cùng của Vụ Án.
Và đây là
hình ảnh của sự tủi hổ; hai khuôn mặt lạ hoắc đang dí sát, như muốn
tách bạch mọi
chi tiết riêng tư thầm kín nhất, và cơn hấp hối của anh. Trong từ cuối,
tủi hổ,
trong hình ảnh cuối, cõi người của K. được cô đọng lại: một con người
bị tróc
nã, săn đuổi, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, đang giấc nồng trong đêm
khuya,
trong phòng ngủ, không kịp ăn sáng, lúc nào cũng sẵn sàng để được hỏi
cung,
ngày cũng như đêm; bị tịch thu, ngay cả những tấm màn che cửa sổ; không
được gặp,
quen biết những người K. muốn gặp; không còn thuộc về mình, mất hết tư
cách như
là một cá nhân, con người. Cuộc hoá thân từ con người thành đồ vật, K.,
chúng
ta, cảm nhận rõ ràng, như một sự tủi hổ.
Kundera cho
biết, ông cảm thấy khó khăn khi nói ra hai từ thống khổ, (anguish,
angoisse),
và chuyện tầm phào (talk, bavardage), mỗi lần nói ra là ông nghĩ tới ý
nghĩa mà
Heidegger đem đến cho chúng. Những triết gia hiện sinh đã thổi ý nghĩa
triết học
vào những ngôn từ hàng ngày. Tiểu thuyết gia còn đi trước triết gia.
Trong khi
quan sát những tình huống của nhân vật, họ làm bật ra những từ của
riêng họ,
thường là những từ-chìa khóa. ý nghĩa của chúng vượt ra ngoài ý nghĩa
có trong
từ điển. Theo cách đó, ở Dostoevsky là từ tủi nhục (humiliation), ở
Stendhal là
thói đời (vanity). Với Kafka, chúng ta có hai từ tòa án (tribunal), và
vụ án
(trial). Những từ-chìa khoá của thế kỷ chúng ta, cùng với chúng, sự tủi
hổ, sống
dai hơn chúng ta. Tha hồ chúng ta sử dụng chúng, với tất cả những kinh
nghiệm
riêng tư của mình.
Tòa án: đâu
chỉ đặt ra để trừng phạt những người không tuân thủ phát luật. Toà án,
theo ý
nghĩa Kafka, là quyền lực, nó xét xử, bởi vì nó là quyền lực. Khi hai
kẻ lạ đột
nhập phòng của K., anh nhận ra ngay quyền lực đó, và anh chịu trận.
Vụ án do tòa
phán, là tuyệt đối, nó liên quan đến đời riêng cũng như đời chung (công
cộng).
Brod kết tội chết cho K., vì chỉ nhìn đàn bà ở cái sex tồi tệ nhất;
Kundera nhớ
lại những vụ án chính trị vào năm 1951 ở Prague. Tiểu sử của những
người bị buộc
tội được in ra đầy rẫy, và đó là lần đầu tiên, ông được đọc dâm thư.
Khi chế độ
CS bắt đầu xụm, vụ án đầu tiên chống lại Marx, là nhắm vào đời tư của
ông (ngủ
với người làm); trong Chuyện Diễu, ba anh sinh viên kết án Ludvik, về
một câu
trong thư viết cho bạn gái. Anh bạn chống đỡ, nói viết vội không kịp
suy nghĩ.
Họ trả lời: anh chỉ viết ra những gì có trong anh; bởi vì tất cả những
gì bị
cáo nói, nói thầm, suy nghĩ, tất cả những gì giấu kín bên trong anh ta
đều bị
đưa ra tòa, để tòa tùy nghi sử dụng.
Án tòa là
tuyệt đối, không riêng tới cuộc đời bị cáo bị huỷ diệt, mà luôn cả bà
con thân
thuộc. Tội lỗi của một Do-thái chứa đựng trong đó tội lỗi của cả
Do-thái, của mọi
thời. Lý lịch trích ngang, về nguồn gốc giai cấp, ít nhất là phải ba
đời, đối với
CS. Tội ác thực dân là thuộc về Âu châu: Sartre kết án, không chỉ những
tên thực
dân, mà còn cả Âu châu, của mọi thời, bởi vì "có một tên thực dân ở
trong
mỗi chúng ta", và "là một con người ở đây, có nghĩa, là một đồng lõa,
kể từ khi tất cả chúng ta đều hưởng lợi, từ việc bóc lột thuộc địa."
Hồi ức
tòa án thật là đồ sộ, nhưng nó là một loại hồi ức đặc thù: có thể quên
mọi chuyện,
trừ tội ác.
Tội ác kéo
theo hận thù, do đó: có thể quên mọi chuyện, trừ hận thù.
NQT
Thơ
Mỗi Ngày
Đầu tháng
lòi ra bài này:
/gocsaigon/sg_ten_cua_cuoc_chien.html
Note: Tên trường: Văn Hóa, không phải Văn Lang,
theo Ngô Khánh Lãng, 1 ông bạn cùng học thời đó, cho biết.
Sawada, bị Khờ Me Đỏ hành quyết cùng trưởng phòng UPI, ở Nam Vang [Phnôm Pênh], theo 1 tờ báo của Mẽo, viết về cuộc chiến Mít
sau 40 năm, GCC mới được đọc.
Tên tù tham
lam
Một tên tù
lấn chiếm cuộc
đời em
tham lam và
hung tàn đến vậy
Rút cuộc
cũng không cho phép em
tự mua cho
mình một bó hoa, một thỏi sôcôla
một bộ cánh
thời trang
Hắn không
cho em một chút thời giờ
một phút
cũng không
Hắn coi em
như mẩu thuốc lá trên tay
bặp cho kỳ hết
cả tàn tro
cũng chẳng thuộc về chính em
Thân hắn giờ
trong nhà ngục đảng cộng sản
lại dựng lên
phòng giam linh hồn em
không có cửa,
không có cửa sổ
không một
khe hở
khoá chặt em
trong cô độc
cho đến mốc
meo
Hắn buộc em
phải chịu đựng mỗi đêm
sự cáo buộc
của xác chết
Hắn sai sử
ngòi bút em
khiến em phải
viết thư không ngừng
khiến em kiếm
tìm hi vọng một cách tuyệt vọng
nỗi đau của
em bị chà đạp
thành chút lạc
thú duy nhất trong cõi vô vị của hắn
Cánh chim ấy
của em
bay lạc
trong đường chỉ tay rối rắm của bàn tay hắn
bị bốn đường
chỉ tay giăng mắc
mỗi một đường
trong đó
đều đã từng
dối gạt em
Kẻ độc tài mắt
ráo hoảnh này
Nhưng lại cướp
đoạt thi thể em
chỉ trong một
đêm tóc bạc mái đầu
thêu dệt nên
truyền thuyết, huyền thoại của hắn
khi hắn tưởng
công đức viên thành
thì em đã trắng
tay
nhưng tên tù
này vẫn
bám cứng lấy
tương lai trống rỗng của em
Lại đến ngày
rồi
hắn lại ban
bố mệnh lệnh
em lại phải
đơn độc lên đường
không có
thân thể không có ký ức
dùng sinh mạng
đã bị cướp trắng
gánh gồng đống
sách vở nặng nề
mang đến cho
hắn
Hắn quả là
tên đầu cơ có nghề
chưa từng bỏ
qua
mỗi một cơ hội
để tước đoạt từ em
Vợ
vợ yêu dấu
trong tất cả
mọi thứ hèn mạt
trên cõi đời
này
cớ sao em
khăng khăng
chọn anh để chịu đựng
23/7/1999
C. 815: Tầm Dương
Tuyết dầy Cửu Long Giang
mùa đông năm thứ 10 này
Nước sông biến
thành trứng cá,
Là những cục
băng
Cành cây gẫy
và rớt xuống
Chim đói, từng
đàn hàng trăm con, ngợp đông, ngợp nam
Một con ngỗng
trời, lạc bầy, đói, trong số đó, la lớn giọng hơn cả
Lấy mỏ cố
moi trong lớp băng, tí ti cỏ
Ngủ trên lớp
băng
Đôi cánh lạnh
giá đập chậm dần cố bay lên
Chẳng bao lâu
con ngỗng lọt vô lưới của 1 chú bé ở bên sông
Kẹp con vật
vô nách, chú bé mang ra chợ, bán.
Nhớ xưa kia,
ở miền bắc, tôi bị lưu đầy tới nơi này
Người và
chim; tuy khác nhau, những cả hai đều là khách cả
Thật nhức nhối vô cùng, như là khách viếng thăm,
nhìn con chim, cũng khách viếng thăm như mình,
đau đớn.
Và thế là tôi
xùy cho chú bé tí tiền chuộc, và phóng thích con ngỗng.
Ôi chú ngỗng,
bay lên trời cao, lên tới tận những đám mây – chú bay đi nơi nào lúc
này?
Đừng bay về
phía bắc, nhớ chưa, đừng bao giờ bay về phía bắc, đó là nơi cuối cùng
để mà nghĩ
tới
Ở đó, ở vùng
Water Gale, vẫn còn uýnh nhau, không có hòa bường đâu
Cả triệu
binh lính quần thảo
Lính hoàng
gia, lính phản động đối diện nhau đến trở nên già khằn
Đói, mệt nhoài,
kiệt sức, họ chỉ mong tóm được chú
Những tên lính
hung bạo. Họ sẽ bắn chú, và làm 1 bữa tiệc
Lông của chú
thì họ gắn vào những mũi tên.
Bạch Cư Dị
Bạch Cư
Dị “Thả
Ngỗng Về Trời”. Bạch Cư Dị trải qua kiểm tra dân chính ở tuổi 28, vào
năm 800 và
sau đó, trong khi cần cù nghiên cứu xét nghiệm thêm hơn, theo như được
biết, bị
hỏng mắt vĩnh viễn. Trong một lá thư gửi nhà thơ Nguyên Chẩn, vào tháng
Chạp
815, ông cho rằng mục đích của việc làm
thơ,
trước là để “cứu thế giới” và sau tới “hoàn thiện tính cách của riêng
nhà thơ”.
Ông là nhà thơ làm thơ nhiều nhất thời Đường, hơn ba ngàn bài thơ hiện
có,
trong số có nhiều bài được trích dẫn đầy đủ, nguyên con trong The Tale
of
Genji, của Murasaki Shibiku, một tiểu thuyết gia Nhật có ảnh hưởng của
thế kỷ
11.
Người
là 1 con vật độc nhất có thể cư xử “như là bạn quí” với những nạn
nhân, mà anh ta tính làm thịt, cho đến khi làm thịt họ.
Man is
the only animal that can remain on friendly terms with
the victims he intends to eat until he eats them.
Samuel Butler, c. 1890
Một vị độc giả, còn là
thân hữu, gửi mail cám ơn vì đã khui ra câu trên.
Cái số
báo về loài vật này có nhiều câu thần sầu, cực thần sầu.
Câu sau đây, chẳng tuyệt cú mèo sao:
Một
con chó chết đói ở cổng nhà chủ tiên đoán sự lụi tàn của 1 đất
nước
A dog starved at his master’s gate
Predicts the ruin of the state.
William Blake, 1807
Nhưng
bảo đảm, chuyện này không xẩy ra cho xứ Mít.
Làm gì có chuyện chó chết đói ở cái xứ Hạ Cờ Tây!
Gấu chỉ tiếc
1 tị, là cái tay chủ tờ báo, “quên” 1 câu thần sầu, của Beckett, với
riêng Gấu,
khi áp dụng vào xứ Mít.
Old dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Beckett: Waiting for Godot
(1)
Post thêm
vài câu thú vị:
Khi chim ưng
im lặng, là lũ vẹt huyên thuyên
When the
eagles are silent, the parrots begin to jabber
Winston
Churchill, 1945
Một con chó
ngoan, thưa ngài, xứng đáng 1 khúc xương hoành tráng!
A good dog,
sir, deserves a good bone.
Ben Jonson,
1633
"I am
his highness's dog at Kew; / Pray tell me, sir, whose dog are you?"
reads
an epigram that Alexander Pope wrote in the 1730s and had engraved on
the
collar of one of his puppies, whom he gave to Frederick, Prince of
Wales.
Tớ là chó của
hoàng thân ở Kew
Bạn là chó của
vị nào thế?
Đó là câu mà
Alexander Pope viết, thập niên 1730, và cho khắc vào 1 miếng thẻ, đeo
vào cổ 1
trong những con chó của ông, và sau biếu Frederick, ông Hoàng xứ Wales
Giai thoại
trên làm Gấu nhớ những ngày liền sau 30 Tháng Tư 1975.
Vào đúng những
ngày đó, đám Nguỵ quân bỏ chạy, cứ chui vô cái sân chung cư của Gấu ở,
số
29 Nguyễn
Bỉnh Khiêm Sài Gòn, để trút bỏ đồ lính, thay đồ thường dân – thường là
áo
thung, quần lót, chân trần… chứ gì nữa,
không lẽ tụt luôn cả chim bỏ lại? – và ở ngay lề đường, là 1 chiếc xe
cứu thương,
đầy thuốc.
Bà cụ Gấu nghĩ liền tới thằng con ghiền đang cai ken, rất
cần thuốc
bổ, thế là bèn leo lên xe, khiêng về nhà cả 1 lô.
Liền đó, là
những ngày quân quản, và VC, vẫn cái trò mị dân, và còn để canh chừng
dân Sài Gòn,
cho bộ đội đến ở cùng với dân trong xóm. Một anh bộ đội, chắc là y tá,
bèn làm
công việc thiện nguyện, hàng ngày ghé nhà Gấu, chích thuốc bổ cho thằng
ghiền đang
cai ken.
Anh ta dùng 1
thứ thuốc súng, để đốt cồn, luộc kim ống.
Một lần,
đang
lui cui với cái đèn cồn, ống kim… anh la lớn, Thiệu, Thiệu!
Gấu ngạc
nhiên quá,
nhưng liền đó, Gấu thấy 1 con chó chạy tới!
Anh ta giải
thích, tôi đặt tên nó là Thiệu.
Anh ta thật
cưng con chó.
Ba bài
liên quan tới xứ Mít, và ngày 30 Tháng Tư năm nay:
VC đang bỏ đói đồng bào
thiểu số!
Ethnic
minorities in Vietnam
Out
of sight
Continuing
grinding poverty in Vietnam’s minority regions is a liability for the
Communist
Party
Chính trị học của hồi ức:
Cờ nào, ba que hay cờ máu?
Russia’s
politics of memory
Nemtsov
Bridge
A fight over
the site of a politician’s killing is a proxy for a broader battle
Remembered
with love MEMORY has long been the subject of fierce and often deadly
ideological battles in Russia. Those who control the past also control
the
present.
Born Red
How Xi
Jinping, an unremarkable provincial administrator, became China’s most
authoritarian leader since Mao.
I was only fourteen. The Red Guards asked, “How
serious do you yourself
think your crimes are?”
“You can estimate it yourselves. Is it enough to execute me?”
“We can execute you a hundred times.”
To my mind there was no difference between being executed a hundred
times or
once, so why be afraid of a hundred times? The Red Guards wanted to
scare me,
saying that now I was to feel the democratic dictatorship of the
people, and
that I only had five minutes left. But in the end, they told me,
instead, to
read quotations from Chairman Mao every day until late at night.
Đọc 1 phát thì
tếu làm sao, GCC bèn nghĩ đến lần Gấu bị 1 anh lính gác Bình Xuyên hăm
bắn bỏ,
thời gian mới di cư vô Xề Gòn, đúng bữa hôm sau đi thi Trung Học Đệ
Nhất Cấp, hà,
hà!
Gấu đã kể về
chuyện này, trong Lần Cuối Xề Gòn, nhưng bỏ qua nhiều chi tiết thật thú
vị, khi
ở trong nhà giam Quận Nhất, ở phía đằng sau rạp Đại Nam. (1)
Thí dụ, chi
tiết này:
Trong lúc bị
giam, chung với nhiều tên tù khác, đủ thứ tù, chắc là chờ hỏi cung,
cảnh sát mở
cửa phòng, tống vô 1 thanh niên. Anh này hình như quen biết nhiều, Gấu
thấy anh
ta vẫy 1 người cảnh sát khi đi ngang phòng giam, ở phía bên ngoài, thì
thầm cái
gì vô tai, Gấu hỏi 1 người tù khá lớn tuổi, đứng bên, anh ta bị tội gì,
ông trả
lời:
-Hiếp dâm!
Gấu không hiểu
“hiếp dâm” nghĩa là gì!
Y chang lần
lên xóm đầu tiên:
“Cậu ‘đi’ không”, bà “mắm mì” hỏi.
“Không, tôi không
‘đi’”!
Gấu dõng dạc
trả lời!
(1)
Chỉ có những
người vội vã rời bỏ Sài-gòn ngay những ngày đầu, họ đã không kịp sửa
soạn cho
mình một nỗi nhớ Sài-gòn. Còn những ai ở trong tâm trạng sắp sửa ra đi,
đều tập
cho quen dần với cơn đau sẽ kéo dài. Đều lựa cho mình một góc đường,
một gốc
cây, một mái nhà... để cười hay để khóc một mình. Một mẩu đời, một đoạn
nhạc, một
bóng chiều, một giọt mưa, một sợi nắng... để gọi thầm trong những lúc
quá cô
đơn. Để mai kia mốt nọ, trên đường tha phương cầu thực, nơi đất khách
quê người,
những khi ngọn gió heo may bắt đầu thổi, những khi ngồi bó gối bên
trời, nhìn
lá vàng rơi đầy, lấy tay che thời gian không nổi, hay những đêm tàn
nghe bếp lửa
réo gọi... sẽ nhâm nhi những cọng cỏ tưởng tượng của quê hương. Ôi,"Ôm
em
trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới" (1). Hãy cho tôi thăm lại con phố
Bonard [Bonnard mới đúng], nơi có bót Hàng Ken (Bót Lê Văn Ken, mới
đúng), chú
bé di cư ngày nào ngơ ngác, rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài-gòn.
Gần gốc
cây chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man
một người
đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào trong bót. Chú bị
ăn bạt
tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh vợ, mắc mớ chi tới mày. Đồ con
nít Bắc
kỳ di cư, vô đây làm tàng. Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen
thành phố,
được thời gian gọt giũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là
chừng nào
trên khuôn mặt cô bé. Trên khuôn mặt Sài-gòn.
Một thành phố
mà tôi đã chết ở trong,
nay sống lại,
chỉ để kể về
nó.
GCC nhớ lộn.
Cái vụ bị bắt tống giam nhà giam Quận Nhất, đúng là như trên, và đúng
vào cái
ngày, hôm sau đi thi Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Nhớ là, khóc thảm thiết lạy van tên
cảnh sát, tới buổi chiều, hắn tha. Còn cái vụ bị lính Bình Xuyên hăm
bắn, là liên
can tới vụ bản đồ TP Sài Gòn. Vừa mới vô, là bèn đi thăm nó, để làm
quen, với tấm
bản đồ mua ở 1 tiệm sách, không ngờ, cái chỗ có con lộ ăn thông qua 1
con phố
khác, thì là 1 trại lính Bình Xuyên. Vụ này cũng đã kể đâu đó rồi. Lạ,
là, thực
tình rất sợ, bị bắn bỏ, không hề nghĩ, thằng chả chỉ hăm thằng bé, để
chờ tới
giờ đổi gác, hà, hà!
Saul
Friedlander
[Kafka]:
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Kafka n'était
pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait
des métaphores
et des associations inattendues, il racontait
des histoires, il était
poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles
soient
directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur,
mais ces
allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas
une foi
religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.
Mưa
Mưa rào. Giữa hai cửa sổ
Một con ruồi đập cánh hàng giờ đồng hồ
Trời nặng như mùa thu,
Trong căn phòng không làm sao thở được
Tôi thương Kafka
Ông chẳng bao giờ có dù
Ngồi trên giường áo khoác ướt đẫm
Mân mê chiếc mũ, ông nói:
Bữa nay Prague mới âm u làm sao
Con chim giận dữ
Một con kên kên đợp chân
tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới
tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi
qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì
con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ
dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú
này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp
giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1
phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị
phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể
đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ
không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam
chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh
chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên
lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết
rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1
dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té
ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong
máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.
« Franz
Kafka, écrit George Steiner, vécut l'expérience du pêché originel [ ...
].
Seule une petite poignée d'êtres humains ont experimenté dans leur vie
la
conviction et les conséquences de l'état d'êtres déchus. Comme Pascal
ou Soren
Kierkegaard, [ ... ] Kafka traversa des heures, peut-être des jours au
cours
desquels il identifia sa vie personnelle avec un pêché existentiel
indescriptible. Être vivant, donner la vie, c'était pêcher. » Le sens
kafkaien
de la honte n'a pas été mieux analysé: « Soixante-dix ans après sa
mort, écrivit
John Updike dans sa préface de 1995 aux “OEuvres completes”, Kafka
incarne un
aspect de l'état d'esprit propre à la modernité : un sentiment
d'anxiété et de
haine dont l'origine ne peut être définie et qui ne peut être apaisé. »
Le
sentiment de honte comme un aspect de l'état d'esprit propre à la
modernité ...
Si vous êtes,
comme K. dans Le Chateau, un «
imposteur » prétendant être quelqu'un d'autre, dissimulant votre visage
au
monde derrière un masque, vous connaitrez peut-être le sentiment de
honte et même
de culpabilité. K. ne ressent pas de la honte ou de la culpabilité, car
il
s'est convaincu lui-rnême, avant d'en convaincre les autres, qu'il
était
vraiment et avait toujours été un «arpenteur », K. était passé maitre
dans
l'art de l'aveuglement sur soi, mais pas Kafka. Ainsi, quel est
l'embarras qui
a pèse sur lui et l'a conduit a reprendre Ou
bien ... ou bien?
Steiner
viết, "Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, chỉ 1 dúm người kinh
nghiệm trong
cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị
hoang
hóa. Như Pascal hay Soren Kierkegaard […] Kafka trải qua hàng giờ đồng
hồ, có
thể nhiều ngày, qua đó, ông đồng nhất cuộc đời riêng tư, cá nhân của
mình với cái
tội hiện sinh không làm sao diễn tả ra được. Sống ở trên đời, sinh con
đẻ cái, ăn
ngủ đụ ị… là.. có tội, tội hiện sinh”.
Ý nghĩa "Kafkaen", của tủi hổ, được
John
Updike diễn tả bằng những dòng tuyệt vời sau đây, trong bài tựa cho
“Toàn Tập
Tác Phẩm” của ông, 1995, bẩy chục năm sau khi ông mất:
Kafka nhập thân
1 sắc thái
của tình trạng tinh thần, y chang cái thứ tinh thần đặc dị, của riêng,
của cái
gọi là tinh thần hiện đại - hiện đại tính: một tình cảm âu lo, sao
xuyến, và thù
hằn, mà nguồn gốc không làm sao định nghĩa, và không làm sao làm cho nó
dịu đi được”.
Tình
cảm tủi hổ, nhục nhã là của riêng, đặc dị, “bản năng gốc” của hiện đại
tính!
Tuyệt!
Steiner viết,
Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du
péché originel…
Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu
quả, của tình
trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une
petite
poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et
les conséquences
de l’état d’être déchus]
Thì cũng
như…. GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác
Bắc Kít!
Đây
là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!
Trong lời Giới
Thiệu, tác giả nhắc tới ý của 1 nhà phê bình, về cái chuyện có quá
nhiều người
viết về ông, và trút tí trách nhiệm lên chính Kafka, người tạo ra cái
sự “trong
sáng tối tăm nhất” trong lịch sử văn học này:
''A glance
at any bibliography of writings on Kafka," wrote Erich Heller, "shows
how problematic it is to add to the super-abundance of books and
articles on
him,"" A common remark, except for the fact that Heller wrote these
lines in 1974- During the thirty-eight years that have gone by since,
thousands
of new titles have been added. Heller elegantly shifts part of the
blame onto
Kafka himself: "Kafka's share of the blame lies in his being the
creator
of the most obscure lucidity in the history of literature, a phenomenon
that,
like a word one has on the tip of one's tongue, perpetually attracts
and at the
same time repels the search for what it is and means."
Saul
Friedlander: INTRODUCTION
Trường hợp
Kafka quả là quái đản. Hằng hằng, hà hà những sách vở, bài viết.. về
ông, đã quái,
quái hơn, là những tác phẩm mới ra lò mới thần sầu làm sao, như thể,
đến bây giờ,
ông mới bắt đầu được đọc!
Cuốn GCC mới
mua, thèm, ngay lần đầu đọc về nó, trên tờ ML. Cái gì gì, tủi hổ, phạm
tội?
Mua về đọc,
thì cái chương viết về Y Sĩ Đồng Quê mới khủng làm sao. Trên Tin Văn đã
giới
thiệu bài viết về nó, của Oz. Nhờ bài viết, Gấu, 1 cách nào đó, lần mò,
vô
được tác
phẩm của Kafka.
Đúng là 1 mặc khải.
Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng
Quê của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê, và
tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của
một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận
miền
nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên phải
mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh
cô hầu
gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la
lớn: "Ta
bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với cỗ
xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của
một vua
Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp
của mình ở
trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của
cô con
dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
Apr 4, 2015
Một vụ án khác nữa
Mỗi người một vụ án
(Trần Dần)
Những nhận
xét về T. Mann, và về văn chương Đức, qua Thomas Bernhard, quá đúng.
Câu của Mann, tớ ở đâu văn chương Đức ở đó, thứ văn chương mà ông muốn
nói tới, 1 cách nào, là nguyên nhân gây ra Lò Thiêu.
GCC đã tính
viết, khi Sến viết về Mann, qua cuộc phỏng vấn của TV trên Da Mùi,
nhưng
sau thấy chẳng bõ, chỉ cần 1 câu là đủ:
“Sến ở đâu, 'Marie Sến' ở đó” [coi trên
my FB].
Câu của TD làm nhớ tới của
Roland Barthes, nhưng của Barthes cao hơn nhiều, của TD chỉ nhắm tới vụ
án của đám Nhân Văn:
Một nhà văn xuất hiện và mở ra ngay trong
gã cái được gọi là vụ án văn chương.
(Chaque écrivain qui nait ouvre en lui le
procès de la littérature. - R. Barthes. Le degré zéro de l’écriture). (1)
TTT 2006-2015
Thật khó mà
nói, TTT coi ông như là nạn nhân của Trại Tù, bởi là vì rõ ràng là, nhờ
nó, ông
làm lại được thơ, và bẽn lẽn như hồi mới lớn, không dám khoe với bạn
tù!
Brodsky rất
bực khi bị hỏi, thí dụ, tại làm sao chúng đưa ông đi tù. Ông từ chối
chơi, he
refuses to play, và cho biết, hai năm tù là quãng đời hạnh phúc nhất
của ông. Lạ
1 điều, chính cái chuyện ông từ chối làm anh hùng, chính nó, có cái
chất anh hùng,
như tác giả "From Russia With Love" nhận xét, paradoxically enough, his
rejection
of the part of hero was itself heroic.
Bếp Lửa,Tựa
Lần In Thứ Tư (1973)
Malraux có
viết: "Người ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không
tin như thế. Trong nhiều năm sau khi quyển sách này được xuất bản,
dường như
tôi đã hì hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái
bản,
tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây giờ, sau mười bẩy năm.
Đây không phải
là quyển tiểu thuyết đầu tay của tôi.
Quyển đầu
tay tuy được một nhà xuất bản nhận in năm 1955, vào phút chót tôi đổi
ý, rút lại
sách, quyết định không xuất bản.
Quyển Bếp Lửa
rất có thể đã chịu chung số phận của quyển đầu tay, nếu không may mắn
gặp ông
Nguyễn Đình Vượng [chủ báo Văn, chủ nhà in, nhà xuất bản Nguyễn Đình
Vượng].
Được viết một
hơi – khoảng đâu hai ba tháng – được in ngay sau khi viết – không có
một quãng
cách nào để kịp lùi, nhìn lại – quyển Bếp Lửa là quyển duy nhất của tôi
chỉ có
một lần bản thảo.
Trên trang đầu
bản thảo có đề câu của Rimbaud: Je est un autre [Tôi là kẻ khác], nhưng
khi đưa
in tôi đã xóa bỏ.
Sách in lần
đầu ba ngàn cuốn, chẳng rõ bán được bao nhiêu, chỉ biết ít lâu sau sách
được
mang bán "son". Có hai bài viết về quyển sách: một trên nhật báo Tự
Do tại Sài Gòn, một trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn miền Bắc ở
Hà Nội.
Tiếc là tôi
không có thói quen lưu giữ tài liệu để có thể in kèm vào sách khi tái
bản.
Đại cương
hai bài viết đều là lời chê trách giống nhau: quyển sách bi quan tiêu
cực. Bài
trên tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là một cột điểm sách ngắn vài mươi giòng
nhưng bấy
giờ đã mang đến cho tôi hãnh diện và sung sướng. Hãnh diện là thứ có
ngày nghĩ
lại khiến thẹn thùng. Nhưng sung sướng lúc nào cũng vẫn là sung sướng,
dù cùng
với thời gian có thể lẫn vẻ bùi ngùi.
Tôi sung sướng
nghĩ các bạn tôi ở Hà Nội đọc cột báo ấy, biết được tôi vẫn nhớ họ, đã
viết về
họ, về những ngày tháng ấy của chúng tôi. Họ có thể tức tối căm giận,
nhưng chắc
họ cũng cảm động bồi hồi.
Mười bẩy năm
đã qua.
Kinh nghiệm
dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay hoay quá lâu với một
quyển
sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã
đến lúc nên viết những quyển sách khác.
Tháng 3 – 73
THANH TÂM
TUYỀN
Trên
tờ Ba Xu, số Mùa Xuân, The Threepenny Review, Spring 2015, trong mục
“Lèm bèm bên ly cà phe & bạn hiền", Table Talk, Alberto
Manguel có đi 1 đường về từ “chung quyết” này.
Bài cực thú. Với 1 đại gia đọc, như
AM này, bạn yên tâm, khi đọc, vì thế nào có vớ được 1 chi tiết bạn
không ngờ, gây
cực khoái, hà, hà!
Ben
scan, và nhân riện, post thêm 1 bài thơ trong số báo, Tên Kép Của Tớ, The Double.
Kép ở đây không có nghĩa là Thằng Bồ, mà là tên thế thân, theo cái kiểu
mà TTT tính chôm câu của Rimbaud; Tớ là 1 kẻ khác.
The Double
My double is
nothing like me.
They say he
smells of lavender,
that he
dances elegantly.
But he looks
like a cadaver
when he
sleeps. Animals can't tell
he's there.
At the park a bird flew
straight
into his chest, and fell
as if it hit
a closed window.
Men like him
are unnatural.
Mothers hold
their children closer
when we pass
by: original
or copy,
we're both a danger.
My double
wants to leave this town.
He tells me
he doesn't believe
we're
twinned. And he's right; we're not bound
by much. But
we don't get to leave.
-Ryan
Teitman
Kẻ Kép
Kẻ kép của tớ
chẳng giống gì tớ
Chúng nói, hửi
có mùi oải hương
Rằng hắn nhảy
đầm rất lịch
Nhưng trông
hắn chẳng khác gì cái xác chết
Khi hắn ngủ.
Lũ thú vật
không thể nói, có hắn đó.
Một con chim
ở nơi công viên
Bay đánh bộp
một phát trúng ngực hắn ta
Và rớt đánh
bịch cũng 1 phát
Như thể đụng
vô kính cửa sổ
Người như hắn
chẳng giống người.
Mấy bà mẹ ôm
chặt con khi hắn - và tớ - đi tới gần
Bản chính
hay bản sao, cả hai đều hiểm nguy
Kẻ kép của tớ
muốn rời thành phố
Hắn biểu tớ,
hắn đếch tin hai đứa sinh đôi
Hắn phán đúng
Hai chúng tôi
không mắc mớ với nhau nhiều
Nhưng biết làm
sao, thì cũng đành, cứ thế, cứ thế.
From
Russia With Love
Last But Not
Least
Saturday /
Sunday, 17 and 18 May, 1997
THERE IS A
CURIOUS interview with Joseph by Michael Scammell in Index on
Censorship,"
which had been established shortly before this, on the initiative of
Stephen
Spender among others, as the organ of the Writers & Scholars
International,
the aims of which were "to promote the study of the suppression of
freedom
of expression". Again, it is surprising to find Joseph so insistent,
this
early in his life in the West, on his right to be judged solely as a
writer, a
poet, and not categorized as a dissident or a victim of oppression. He
sensed
the direction of the interview almost from the start, answering some
factual
questions briefly, but as soon as Scammell, innocuously enough, begins
to lead:
"When did it become clear to you that your poems were not going to be
published generally in the Soviet Union and what was the effect of this
realization upon you?" Joseph shoots back: "I must say that it was
never really clear to me. I always thought that they would be published
one day
and so this idea has had no effect on me at all [ ... ]"
And more of the like
follows. Joseph answers non-commit ally
whenever he can, but as soon as the questioner begins to probe, he
reacts.
"Why do you think they sent you to prison?" "I don't really
know. In any case that seems to me, if you don't mind my saying so, a
typically
western approach to the problem; every event has to have a cause and
every
phenomenon has to have something standing behind it. It is very
complex.
Sometimes there is a cause, perhaps. But as to why they put me in
prison, all I
can do is repeat to you the items in the indictment. My own answer
perhaps
won't satisfy you, but it is very simple. A man who sets out to create
his own
independent world within himself is bound sooner or later to become a
foreign body
in society and then he becomes subject to all the physical laws of
pressure,
compression and extrusion." Joseph refuses, time after time, to don the
mantle of the tragic exile, the martyr, the victim. "How did trial and
prison affect your work?" "You know, 1 think it was even good for me,
because the two years 1 spent in the country were from my point of view
one of
the best times of my life. I did more work then than at any other time.
During
the day 1 had to do physical work, but since it was agricultural
labour, it
wasn't like in a factory and there were lots of period of rest when we
had
nothing to do."
Scammell, perhaps growing
a little exasperated with all this,
finally says: "What is your attitude to people who take a stand and why
have you personally never done so yourself?" Joseph, rejecting both
mantle
of freedom-fighter and that of feeble aesthete (despite the remarks
about
boredom), responds rather defiantly, provocatively, and perhaps equally
exasperatedly: "It is all very simple, really. The point is that the
person who seriously devotes himself to some sort of work - and in my
case belles lettres - has in any case plenty
of problems and difficulties that arise from the work itself, for
instance
doubts, fears and worries, and this in itself taxes the brain pretty
powerfully. And then again 1 must say that any kind of civic activity
simply
bores me to death. While the brain is thinking in political terms and
thinks of
itself as getting somewhere, it is all very interesting, attractive and
exciting,
and everything seems fine. But when these thoughts reach their logical
conclusion,
that is when they result in some sort of action, then they give rise to
a
terrible sense of disillusionment, and then the whole thing is boring."
He develops this: "I think
that for the writer who first
of all concerns himself with his own work, the deeper he plunges into
it, the
greater will be the consequences - literary, aesthetic and of course
political
as well." Joseph is unconvinced of the effectiveness of efforts in the
West to help "unorthodox" Russian writers, casting doubt even on the
publication of such writers in the West: "[ ... ] All you can do is to
help people get published. But I am not sure how helpful this is. 1
suppose it
gives one a pleasant sensation, a sense of not being without hope: up
or down,
you still exist and you still haven't perished. It gives a certain
psychological relief to a man living in rather uncomfortable
circumstances. But
here again you get all sorts of problems arising, because all forms of
comfort
are in a way a sort of escapism." This is interestingly reminiscent of
remarks made by concentration-camp prisoners about the possibly deadly
effect
of hope. It also sheds a little light on Brodsky's natural stoicism,
the need
to live with reality and not with pipe dreams. Scammell pointedly
suggests that
the publication of Brodsky's poetry might have helped him maintain his
position
of independence, influenced his writing. He denies all this: "Maybe it
did
help in some way, but I must confess that I doubt it very much. You
see, I am
not representative in any way, I cannot stand for anything or anybody
except
myself."
So, Joseph establishes the
parameters, right from the start. He
refuses to play. He was an individual in the Soviet Union and he's
damned if
he's going to give up being one now that he is in the West. It seems
that he
knew exactly what he wanted. This was, to say the least, a different
kind of
exile. An exile rather ahead of his time, almost post-Soviet. He
frequently puzzled
those awaiting him with friendly intentions. In some cases, Joseph
seems too
dismissive of liberal opinion. But he is self- consistent.
Paradoxically
enough, his rejection of the part of hero was itself heroic. He covered
all the
bases. The media which was not to be deterred by his ironical comments
continued to describe him as a victim of the totalitarian state, while
those
who knew him better began to develop a more nuanced understanding of
the
East-West dichotomy. His belief in art, his elevation of it (and
language) over
politics, was distinctly sinewy and non-escapist.
Dương
Nghiễm Mậu
LANDSCAPES OF THE MIND
Phong cảnh của tâm hồn
Robert
Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Đây có lẽ là
1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1
đứa con nít:
Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra
cánh cửa địa
ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita”
unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng
giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm
sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và
những
chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Mộ Tuyết
The System
Two new histories show how the Nazi concentration
camps worked.
Hệ thống “Pha
lê hóa” làm việc ra sao?
Bài điểm
trên tờ Intel về Trại Tù
Nazi độc nhất dành do phụ nữ. Cái tít cuốn sách, "If This Is a Woman",
là
từ
Primo Levi, nhà văn, kẻ sống sót Lò Thiêu Nazi, sau tự vẫn. Bài trên
The New Yorker cũng viết về Trại Tù này
The
concentration camps make sense only if they are understood as products
not of
reason but of ideology, which is to say, of fantasy. Nazism taught the
Germans
to see themselves as a beleaguered nation, constantly set upon by
enemies
external and internal. Metaphors of infection and disease, of betrayal
and
stabs in the back, were central to Nazi discourse. The concentration
camp
became the place where those metaphorical evils could be rendered
concrete and
visible. Here, behind barbed wire, were the traitors, Bolsheviks,
parasites,
and Jews who were intent on destroying the Fatherland.
Ui chao áp dụng vô xứ Mít
y chang:
Lò Cải Tạo chỉ có thể hiểu được, không phải như là sản phẩm của lý trí,
mà của
ý thức hệ của sự kỳ quái, khùng điên, ba trợn. Chủ nghĩa VC Mít dậy dân
Mít, như
là 1 quốc gia thường xuyên, hằng hằng, vĩnh viễn bị kẻ
thù nắn gân, hỏi thăm sức khỏe, nội thù
cũng như ngoại thù…
Trên tờ Lit
Review cũng có bài điểm Trại Tập Trung dành cho phụ nữ này.
Như 1 nhân
viên tình báo Hồng Quân nói với Helm, tác giả cuốn sách, “Người ta
phải hiểu
rằng, đây là một cuộc chiến khủng khiếp, quỉ ma, và mọi người đều mất
hết nhân
tính”, khi giải thích Hồng Quân, giết hại và hãm hiếp tù nhân, trong
ngày giải
phóng họ.
Bịp
Grow your
tree of falsehood from a small grain of truth
Czeslaw Milosz,
1946
Dịch nhảm: Trồng
quả lừa 30 Tháng Tư 1975 từ cái hạt nho nhỏ sự thực.
Sự thực này, có thực, theo cái ý của Kafka: Mi có thể xây tháp Babel,
với điều kiện, đừng leo lên nó!
The most
common sort of lie is that by which a man deceives himself: the
deception of
others is relatively rare offence
Friedrich
Nietzsche, 1888
Vưỡn dịch nhảm:
Cái quả lừa lớn nhất là, lừa chính mình. Ba cái lừa khác, lẻ tẻ.
Câu này áp dụng
cho nền văn học Kách Mạng VC thật là tuyệt.
Dương
Nghiễm Mậu
LANDSCAPES OF THE MIND
Phong cảnh của tâm hồn
Robert
Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Đây có lẽ là
1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1
đứa con nít:
Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra
cánh cửa địa
ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita”
unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng
giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm
sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và
những
chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Scammell đã phải bỏ ra 20
năm để viết nó, ngoài ra S.
còn
'thủ đắc' cả một mớ tư liệu hiếm quí về Koestler.
Cuốn này, đúng
là nó tìm GCC, không phải GCC tìm nó. Gặp ở tiệm sách cũ, trong khi
không làm
sao kiếm thấy, ở tiệm sách mới!
Mà tại làm
sao mà lại có 1 tay mua nó, rồi đem bán nó? Còn mới tinh?
Thật ra cũng dễ hiểu, bây giờ đâu còn ai đọc Koestler nữa, trừ GCC.
Koestler,
Arthur
Cuốn sách nổi
tiếng thế giới đầu tiên, liền sau Đệ Nhị Thế Chiến, đúng là cuốn tiểu
thuyết ngắn
Bóng Đêm Giữa Ban Ngày, dịch ra tiếng Tây dưới cái tít Số Không và Vô
Tận.
Như thường
ra, với vinh quang và danh vọng, chính cái chất mùi mẫn của đề tài làm
mê mẩn,
nói theo kiểu người Việt chúng ta, nó bắt trúng thị hiếu người đọc. Nên
nhớ chủ
nghĩa Cộng Sản, vào lúc đó, là rất ư thời thượng, những sự kiện lịch
sử, ở vào
thời điểm đó, dù muốn dù không, phải được hiểu như là cuộc chiến đấu
của những
sức mạnh của tiến bộ, chống lại chủ nghĩa Phát xít.
Một phía, là
Hitler, Mussolini, Tướng Franco, phía kia, Tây Ban Nha dân chủ, Liên
Bang Xô Viết,
và liền sau đó, những chế độ dân chủ Tây Phương. Cuốn tiểu thuyết của
Koestler
làm khiếp đảm, làm đứng tim, làm nghẹt thở mọi người, bởi vì nó phạm
thánh, nó dám đập bể đền thờ, đá văng cu
lơ điều cấm kỵ, nghĩa là, nó nói khác hẳn đi, như là vẫn được phép nói,
về hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Những người Ba Lan đã trải qua nhà tù Xô Viết,
trại tập
trung, và sau đó, cố gắng một cách vô ích, tuyệt vọng, giải thích cho
mọi người
những gì đã xẩy ra, chắc chắn hiểu rõ điều này. Chủ nghĩa xã hội Nga
Xô, được bảo
vệ bởi một hiệp đồng mang tính đồng chí vô sản quốc tế, và, nếu có một
ai dám
nói ngược lại, như vậy là... phạm thánh! [Milosz: one committed un faux
pas].
Hàng triệu binh sĩ Hồng Quân đã ngã xuống, và chiến thắng của Stalin,
và bao
nhiêu đảng Cộng Sản Tây Âu, tất cả đã hỗ trợ cho một thực tại mà không
ai dám
nói ngược lại. Chống Xô Viết có nghĩa là Phát xít.
Thế mà bi giờ
lại có một cuốn sách viết về sự kinh hoàng, khủng khiếp của nhà cầm
quyền Xô Viết,
dựa trên những người thực việc thực, là những bí mật đằng sau những vụ
án xẩy
ra tại Moscow. Nỗi sợ hãi tức thì, sự tráo trở, bội phản, lửa địa ngục…
bốc lên
từ mỗi trang sách, làm sao không đắt hàng cho được.
Koestler sau
đó còn viết nhiều, và những gì có tính tiểu sử sau đây, là từ những gì
ông viết.
Ông thuộc thế
hệ nhập vô đấu trường thế giới từ văn hoá Đức, từ quĩ đạo Vienna, vẫn
còn hơi
hám đế chế Habsburg. Như Kafka ở Prague, như những bạn bè của tôi,
Hannah
Bension, sinh tại Czech Liberec, và Arthur Mandel, tại Bielsk, như
Georg Lukacs
từ Budapest - tất cả đều viết bằng tiếng Đức.
Koestler
sinh tại Budapest, nhưng học Vienna, và từ đó, ông đi khắp mọi nơi.
Trước hết,
là chủ nghĩa quốc gia Do Thái, đi Palestine, như là một halutz, xây
dựng quốc
gia Do Thái, sau đó mê khoa học, làm chủ bút phần khoa học cho một tờ
báo lớn ở
Berlin, và liền sau đó, nhập vô Weimar Đức, và mê chủ nghĩa Cộng Sản.
Từ 1933 tới
1939 ông, thành viên trung tâm Munzenberg, lo tuyên truyền quảng bá chủ
nghĩa Cộng
Sản tại Paris, phóng viên của Đảng, trong Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha,
ăn cơm tù
Franco, và sau đó, nói không với Đảng. Những cuộc dấn thân vì tình cảm
sau đó,
có cả những hoạt động chống Cộng, như thành lập Hội nghị vì Tự do Văn
hóa, tham
gia trong chiến dịch đòi bãi bỏ án tử hình tại Anh, sau cùng trở lại
với những
quan tâm thời còn trẻ, như lịch sử khoa học, và cùng với nó, là những
thú vui
bên lề, thí dụ sự bí mật của cái đầu sáng tạo của con người, hay những
cội rễ
Khadar của Do Thái Đông Âu.
Tôi đọc Bóng
Đêm Giữa Ban Ngày [bản tiếng Anh] vài năm trước khi gặp tác giả của nó.
Đề tài,
một cuộc thẩm vấn ở trong nhà tù Lubianka. Một ông Cộng Sản thứ thiệt,
thuộc loại
diều hâu, [cứng đầu, chữ của Milosz], được giao trách nhiệm hỏi cung
một tay cựu
trào Bolshevik là Rubashov. Phải làm sao cho tay này thú nhận những tội
ác mà hắn
ta không hề phạm, và để bù lại, Đảng sẽ thưởng cho hắn ta một bản án,
là cái chết.
Nói một cách
khác, cuốn tiểu thuyết là một toan tính nhằm trả lời một câu hỏi của
rất nhiều
người, vào thập niên 1930: Tại làm sao mà những tay cựu trào Bolshevik
lại thú
nhận những tội ác mà họ không hề phạm, thú nhận công khai trước nhân
dân, chúng
tôi là những ngưòi có tội, và xin được hưởng sự khoan hồng của Đảng, là
được…
làm thịt?
“Mặt trời
chân lý chói qua tim”, một cách nào đó, là phải hiểu như vậy, và mặt
trời ở đây
là Đảng, và Đảng, là Stalin. Nói thế có nghĩa, họ bắt buộc phải có tội,
và
Stalin phải có lý, phải đúng, khi kết tội họ. Nếu không như thế, làm
sao giải
thích những vụ án như thế? Những lời thú tội như thế?
Trong cuốn
tiểu thuyết, tay cựu trào “bèn” gật gù với lập luận của kẻ hỏi cung
mình, là
Gletkin: Là một tay Cộng Sản, anh bắt buộc phải đặt quyền lợi của Đảng
lên trên
tất cả mọi quyền lợi. Trên quyền lợi cá nhân anh. Trên ao ước cứu bạn
bè anh. Đảng
muốn anh phải công khai nhận tội, và buộc tội những bạn bè, bởi vì
quyền lợi của
Đảng vào giai đoạn này, đòi hỏi như vậy. Một biên bản bản án của anh sẽ
được
lưu giữ trong kho tài liệu của Đảng, và sau này, đến một giai đoạn cần
thiết,
là bèn lôi ra, để “minh oan” cho anh, “phục hồi” anh!
Đó là những
dẫn giải mang tính ý thức hệ của những vụ án như trên. Nhưng, có người
cho rằng,
sự tình giản dị hơn nhiều, những kẻ đó nhận tội, là do tra tấn.
Tuy nhiên,
nhà thơ Aleksander Wak, đã kể lại một cuộc trò chuyện giữa ông, và một
tay cựu
trào, ngay sau khi cái chết của con người đáng kính này ở trong nhà tù.
Ông này
giải thích, đám đó nhận tất cả mọi thứ tội lỗi ở trên đời, do Đảng phịa
ra, chẳng
phải vì lý do ý thức hệ, chẳng phải do bị tra tấn ghê gớm, khủng khiếp,
mà đơn
giản, do quá tởm chính họ. Tởm cái quá khứ tội lỗi của họ. Ông nào cũng
tội ác
ngập đầu, và nếu như vậy, thú tội thêm một vài lần để được cứu rỗi, thì
có mất
mát gì đâu? Tra tấn là không cần thiết, ở đây, là vậy.
Tất cả những
giải thích như trên đều có phần sự thực của chúng. Với Koestler, còn
những khúc
mắc liên quan tới cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Những người tới đó chiến
đấu là
do yêu chuộng công lý, vì những mục tiêu hoàn toàn mang tính ý thức hệ,
thật là
trong sáng: chiến đấu vì lý tưởng tự do. Hầu hết đều bỏ thân nơi trận
tiền, do
những lệnh hành quyết, mà điệp viên của Stalin là những đao thủ phủ.
Tây Ban
Nha là trung tâm của chiến dịch tuyên truyền "chống Phát Xít", được
thực thi trên bình diện quốc tế, bởi "văn phòng ở Paris". Và một
trong những cộng tác viên thân cận nhất của nó, là... Koestler, đích
thị chàng.
Trong chiến
dịch chống Phát Xít trên, họ sử dụng những phần tử mà họ gọi là "những
kẻ
ngu có ích", trong nhiều xứ sở, tức những con người ngây thơ muốn làm
điều
tốt, điều thiện. Chẳng biết, tới mức độ nào, ông trùm văn phòng ở Paris
lúc đó
là Munzenberg, hiểu ra được trò chơi hai mặt này của Stalin. Tuy nhiên,
tại Tây
Ban Nha, có mấy người vỡ ra được, đó là Koestler, Dos Passos, và George
Orwell.
Tôi gặp
Koestler tại Paris cỡ năm 1951 thì phải. Thể lực của ông giải thích
thật nhiều.
Rất là cân đối, đẹp trai, nhưng nhỏ người, týp người lùn, còi, và điều
này góp
phần giải thích những tham vọng "Nã Phá Luân" của ông, cùng thói ham
đánh lộn, gây khó khi làm việc trong bất cứ một nhóm. Nói cho cùng, ông
là loại
người với ý tưởng, ta sẽ làm việc với các ngươi, tức những nhóm người
thuộc tầng
lớp trí thức Đông Âu, để chữa trị cho các người khỏi cái độc hại của
chủ nghĩa
Marx. Và Hội nghị vì Tự do Văn hóa tại Berlin vào năm 1950 là một tác
phẩm của
ông. Rồi tiếp theo, Hội nghị về Tự do Văn hóa tại Paris, lần này là do
bàn tay
lông lá của Mẽo đạo diễn, và ông bị anh Mẽo nhẹ nhàng cho ra dìa, cho
ngồi chơi
xơi nước. Sau đó, sống ở Anh, ông hạn chế sự quan tâm của mình vào chủ
nghĩa
toàn trị ở Đông Âu dành thời giờ lo tạo dựng một quỹ cứu trợ những nhà
văn di
dân, và đóng góp một số tài sản cho quỹ này.
Liên hệ giữa
ông với tôi có tính bài vở, trường lớp, và cũng thật làng nhàng, phiên
phiến
cho qua. Chưa bao giờ chúng tôi có được một lần trò chuyện nghiêm túc.
Vào thập
niên 1960, ông đi du lịch Mẽo, với cô bồ trẻ, hay là vợ. Cả hai có đến
thăm tôi
tại Berkeley. Như tất cả những lần gặp gỡ khác, tôi luôn bị du vào một
tình cảnh
khó xử, không thoải mái. Với ông, tôi chỉ là tác giả của một cuốn sách,
đó là
cuốn Cái Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, mà ông đã đọc và
nghĩ là
"được". Tuy nhiên, với riêng tôi, thành thực mà nói, tôi bảnh hơn thế,
hoặc khiêm nhường hơn, tôi khác thế, không hẳn chỉ có thế: Tôi là tác
giả của
những bài thơ mà ông ta chẳng biết một tí gì về chúng.
Nhưng thế
hoá ra là tôi tính chơi trội, khi cố tình bẻ qua một lãnh vực khác mà
ông không
rành. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, bữa đó, tôi, tuy là chủ nhà,
nhưng lại
hơi quá chén, rồi đâm ra ngủ gà ngủ gật trước mặt khách. Thật xấu hổ
quá.
Thành thực
mà nói, Koestler, mặc dù dáng người nhỏ thó, mặc dù hơi tự cao tự đại
về mình,
ông ta xứng đáng hơn nhiều, so với ba bốn lời lẩm ca lẩm cẩm của tôi,
như ở
trên.
Có vẻ như
ông, trên hết, là một con người của chủ nghĩa thực chứng [positivism]
của thế kỷ
20, ở cả hai mặt của chủ nghĩa này, quốc gia và xã hội, nói theo ngôn
ngữ bi giờ,
ông vừa là một nhà quốc gia vừa là một nhà xã hội chủ nghĩa, cả hai
bên, ông đều
mê, và đều bị lôi kéo, trong một thời gian. Những tình cảm đối với con
người của
ông thật là mạnh mẽ, vì vậy mà ông đã lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền
Anh bãi bỏ
án tử hình, khi treo cổ tội nhân, sau đó, ông còn tranh đấu cho quyền
được chết,
đối với những người bịnh nặng, hết còn muốn kéo dài cuộc sống. Ông còn
là một
thành viên trong cái hội đòi hỏi quyền được chết không đau đớn khi
không còn muốn
sống. Người ta đã khám phá ra, ông và bà vợ trẻ cùng chết, khi đang
ngồi bên
nhau, trên hai chiếc ghế bành.
Milosz’s
ABC’s
Obs, 1 Avril 2015
Cái từ "série noire", là
của Jacques Prévert. Cuốn mở ra tủ sách, “Cet
homme est dangereux", của Peter Cheney. GCC coi phim này, với tài tử
Eddie
Constantine, hồi còn Xề Gòn.
Trường hợp Horace McCoy, tác giả những cuốn như “They
Shoot Horses, Don't They?” (1969), mà GCC đã từng dịch là Khiêu Vũ Với
Tử Thần,
mới thú vị, vì liên can tới những đấng như Nizan, Aragon.
GCC học tiếng Tẩy bằng
cách đọc Série Noire, và Simenon.
Borges
Conversations
Đạo Hạnh & Văn Hóa
FERRARI.
Borges, in your serenity, you can possibly enlighten me, given that we
have
talked about ethics and culture, about the importance of an ethical
attitude to
culture.
BORGES. I do
not believe that culture can be understood without ethics. It seems to
me that
an educated person has to be ethical. For example, it's commonly
supposed that
good people are fools and intelligent ones are wicked. But I do not
believe
that-indeed, I believe the opposite. Wicked people are usually also
naive.
Someone acts in an evil way because he cannot imagine how his behaviour
might
affect another. So I think that there's some innocence in evil and some
intelligence in goodness. Further, goodness, to be perfect-though I do
not
believe that anyone attains perfect goodness- has to be intelligent.
For
example, a good and not-too-intelligent person can say disagreeable
things to
others because he realizes that they are disagreeable. On the other
hand, a
person, in order to be good, must be intelligent-if not, his
intelligence would
be ... imperfect, he would be saying disagreeable things to others
without realizing
it.
Borges: Tôi
không tin văn hóa có thể hiểu được nếu không có đạo hạnh. Với tôi, một
người có
học vấn thì phải đạo hạnh. Thường thì người ta cho rằng, người tốt thì
khùng, và
kẻ thông minh thì độc địa. Nhưng tôi tin ngược lại. Những kẻ độc địa
thì thường
là ngây ngô. Một người nào đó hành động quỉ ma, ấy là vì người đó không
thể tưởng
tượng như thế nào cung cách ứng xử của mình có thể ảnh hưởng lên người
khác. Bởi
thế tôi tin là có tí ngây thơ vô tội nào đó ở trong cái quỉ ma, có tí
thông
minh nào đó ở trong cái tốt. Hơn nữa, cái tốt để được toàn thiện, tuyệt
hảo, phải
có cái thông minh ở trỏng.
Thơ
Mỗi Ngày
Swedish
Nobel laureate Tomas Tranströmer dies aged 83
Poet and
psychologist who ‘transformed the everyday into astonishment’
TOMAS
TRANSTROMER (1931-2015)
After
Someone's Death
Once there
was a shock
that left
behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains
us. It blurs TV images.
It deposits
itself as cold drops on the aerials.
You can
still shuffle along on skis in the winter sun
among groves
where last year's leaves still hang.
They are
like pages torn from old telephone directories-
the names
are eaten up by the cold.
It is still
beautiful to feel your heart throbbing.
But often
the shadow feels more real than the body.
The samurai
looks insignificant
beside his
armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết
của Ai Đó
Một lần, có 1
cú sốc
Nó để lại đằng
sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng
ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính
nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt
băng trong mặt trời mùa đông
giữa những
khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống
như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị
cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp
như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường
là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp
của anh ta, và
những cái vảy
rồng đen thui, kế bên.
TTT 2006-2015
Milosz, khi
nhắc tới câu nói khủng khiếp của Adorno, Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ
thì thật là
dã man, đã thú nhận, chính là ở Lò Thiêu, khủng hơn, ở "hậu môn" của
thế giới,
mà ông làm được thơ.
"Thơ ở đâu xa" cũng được TTT làm ở Trại Tù. Hơn thế
nữa, chính nhờ nhà tù mà ông làm lại được thơ.
Nhưng khi ra
khỏi nhà tù, ông đụng vấn nạn, làm sao viết, như thể đếch có gì xẩy ra?
Còn 1 sự kiện
lạ nữa, là, khi còn ở xứ Mít, khi còn Miền Nam, ông đã làm được cú
“giao
lưu hòa giải”, khi tưởng tượng ra 1 anh Mít lưu vong, 1 tên Miền Nam,
bỏ chạy
cuộc chiến, vội vàng trở về, để chết, như là 1 tên Ngụy, bị lầm là VC?
Quái đản thật!
From
Russia With Love
Dương
Nghiễm Mậu
Viết
Độc giả Việt
Nam đã sớm đọc được từ năm 1974, với bản dịch của Nguyễn Hữu Hiệu, nhan
đề
"Vĩnh biệt tình em", do Tổ hợp Gió xuất bản tại Saigon. Và sau đó là
bản dịch của Lê Khánh Trường, in trong "Boris Pasternak, Con người và
tác
phẩm", Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1988.
Nguồn
Bản tiếng Việt
đầu tiên, là của Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa. Đây là cuốn sách vỡ lòng của
Gấu, thời
gian học Đệ Nhất Chu Văn An, quen bạn Chất, em trai TTT, và cùng đọc
nó, với bà
cụ thân sinh của nhà thơ. Trên TV cũng đã từng lai rai nhiều lần về
chuyện này
rồi.
Nhưng cái giải
thưởng Nobel quả thực là làm cho Pạt rất ư là bực, Khi nghe tin được
giải, không
phải như là nhà thơ, mà là tác giả “Zhivago”, ông gần như phát khùng,
như
Milosz viết:
ON PASTERNAK
SOBERLY
Về Pạt, thật nhã
Với những ai quen thuộc
với thơ của
ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải Nobel ban cho ông vào
năm 1958
quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà thơ mà thế giá ở Nga,
người
ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca Akhmatova; một đại gia
về dịch
thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng
cả!],
thì mới dám đụng vô Shakespeare, vậy mà phải viết một cuốn tiểu
thuyết to
tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây chấn động giang hồ, cả
Ðông lẫn
Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một best-seller, [có lẽ phải thêm
vô, phải
có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc đó, những thi sĩ của những xứ
sở
Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương
tình để
mắt tới.
Giá như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì
thế mà
mùi vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng
chứng về một
sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học
Ðông Âu,
và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được Nobel, Pạt
mới hiểu ra
được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một đại ác mộng về sự hồ
nghi,
chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng định với chính
mình,
tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy vì những
hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi,
mi được
Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….
Tôi
không kiếm thấy trong tác phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự chống đối
triết học
của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái sự ngần ngại khi
phải đối đầu
với những trừu
tượng –
và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng nghĩa
– và
đây là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô
Viết là cuộc
sống của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi
chân thực.
Ông chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết
nào của
thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người
chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của Pasternak là vô thần, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại,
đối với ông,
thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì
ở nơi
thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh.
Và ông
coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw
Milosz
Có
hai bài viết về
Pạt, thật tuyệt, với GCC, một của Milosz, và một, của Calvino. Tin Văn
cứ tính đi hoài, nhưng cứ hứa lèo hoài. Bài của Milosz, xoáy vô thơ.
Của Calvino, nêu ra được 1 cú thần sầu, Zhivago, cũng như anh chàng
tình địch, chồng Lara, tên VC Niên Xô, đều chỉ là những kẻ thất bại,
trước 1 Lara.
Lara mới là nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. Cú soi sáng này soi
sáng cùng 1 lúc, đa số nhân vật.
Kiệt chẳng thế ư, so với vợ là Thùy,
hay so với Hiền, đảo xa
The CIA’s
‘Zhivago'
Nhà văn và tên bồi
Gấu nhớ là có
đọc đâu đó, người tình Lara của Pạt là nhân viên KGB, nhưng đọc bài
viết trên
TLS, không phải.
Số phận Lara thật là thê
lương, sau khi Pạt mất. Và nhân vật nữ
này quả đúng là tượng trưng cho nước Nga nát tan vì Cách Mạng: Liệu
chúng ta có
thể coi cái cú em Phương bị 1 bầy Bộ Đội Cụ Hồ bề hội đồng ở ga Thanh
Hoá, như là 1 lời
tiên tri - trù ẻo đúng hơn - và sau đó, trong "Cánh Đồng Bất Tận", nó
biến thành… hiện thực?
Awarded the
Nobel Prize for Literature in 1958, he was compelled by the Kremlin to
renounce
it. The Komsomol leader, Vladimir Semichastnyi, contrasted him
unfavorably with
a pig which would never foul its own sty. Pasternak, ailing in health
for
years, speculated that the KGB might try to poison him. But he stuck to
his
guns; and although he gave way to Khrushchev on secondary matters, he
took
satisfaction in the lasting damage he had done to the Soviet order.
What he
could not do was protect Olga Ivinskaya from persecution. When he died
in 1960,
her vulnerability was absolute and she was arrested. Even if she had
not been
involved in the practical arrangements for publication abroad, the KGB
would
probably still have gone after her. Indeed, Pasternak had intimated
that she
was the model for the novel's heroine, Lara.
Ở Miền Nam,
một nhân vật nữ như Lara, thấp thoáng trong Hà, trong “Sau Cơn Mưa” của
Lý
Hoàng Phong. Ngay từ bài điểm sách đầu tay trên nhật báo “Dân Chủ”, Gấu
đã đưa
cái nhìn này, khi coi “Sau Cơn Mưa” là bản phác, esquisse, cho một cuốn
tiểu
thuyết sẽ có, giống như “Bác Sĩ Zhi Và Gồ” của Pạt.
Nhưng thay vì Zhi Và Gồ, thất
bại, thì là Kiệt, bị bắn chết, trong “Một Chủ Nhật Khác”, và thay vì
Lara, thì
là Hiền, biệt tích đâu đó, trong trí tưởng của Kiệt, như khi anh nói
với vợ, Thùy,
anh đưa cô ta tới đó, rồi trở về với em.
Calvino coi “Bác Sĩ Zhi Và
Gồ” là 1 Odyssey
của thời đại chúng ta:
… The
exceptions are the chapters evoking Zhivago's final wanderings through
Russia,
the horrific march amongst the rats: all the journeys in Pasternak are
wonderful.
Zhivago's story is exemplary as an Odyssey of our time, with his
uncertain
return to Penelope obstructed by rational Cyclops and rather unassuming
Circes
and Nausicaas.
Trong ba người đàn ông vây
quanh Lara, cả hai đấng Zhivago, và Người
Thép Strelnikov, đều là những kẻ thất bại, không xứng với Em, như
Calvino nhận định. Xứng với em theo ông, là cái tên khốn nạn, bồ của bà
mẹ của em:
During the
civil war in the Urals, Pasternak shows us both men as though they were
already
destined for defeat: Antipov-Strelnikov, the Red partisan commandant,
terror
of the Whites, has not joined the Party and knows that as soon as the
fighting
is over he will be outlawed and eliminated; and Doctor Zhivago, the
reluctant
intellectual, who does not want to or is not able to be part of the new
ruling
class, knows he will not be spared by the relentless revolutionary
machine.
When Antipov and Zhivago face each other, from the first encounter on
the armed
train to the last one, when they are both being hunted in the villa at
Varykino, the novel reaches its peak of poignancy.
Blog NL
(thông tin bổ sung: mới được cho biết ở mấy trang bị thiếu của bản dịch
Zivago có dòng chữ: "Văn Tự và Mậu Hải dịch từ nguyên bản tiếng Ý)
Đây là ám khi thần sầu
của Thiên Thủ Như Lai Triệu Bán Sơn, trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao, và cũng
là 1 trong hai đặc sản của Úc, món còn lại là Kangaroo. Tuy nhiên, theo
bài viết, thì nó có trong mồ của vua Tutankhamun.
Người bán khai đã sáng chế ra nó, vào lúc nào chẳng
biết, bằng thiên bẩm Thượng Đế ban cho, và Người bèn giữ lại, đếch
cho lũ văn minh biết được!
Do ngồi viết Tinvan, chửi dữ quá, phải
vô bịnh viện phục hồi cái chân trái!
Hết phục hồi nhân phẩm sau 1975, về già,
phục hồi cái cẳng!
Chào bác Tr. Chân bác hôm nay đã đỡ
chưa? Thấy bác đi bằng cái nạng mà thấy tuổi già thảm quá.
Blog BT
Tks
OK rồi. May quá!
LANDSCAPES OF THE MIND
Phong cảnh của tâm hồn
Robert
Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Tuyệt!
Đây có lẽ là
1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1
đứa con nít:
Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra
cánh cửa địa
ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita”
unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng
giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm
sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và
những
chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Đêm
giữa ban ngày
Cái tít
nguyên thuỷ của nó là Vòng
tròn xấu xa, “The Vicious Circle”, và Daphne đổi lại, như trên, khi
K bị
nhà cầm quyền Anh giam giữ tại nhà tù Pentonville. K. tỏ ra thích cái
tít này,
mà ông nghĩ, từ Milton: Oh, dark, dark, dark, amid the balze at noon,
nhưng
nguồn của nó, qua Daphne, từ Book of Job.
Chỉ 1 cuốn sách,
với bạn quí của nó, là cuốn Trại
Loài Vật, mà Âu Châu không bị nhuộm
đỏ, và Tây
Phương thắng cuộc chiến tranh lạnh!
Khi nó vừa mới
ra lò, ở Pháp, Sartre ra lệnh cho đệ tử đi từng tiệm sách thu gom, và
đốt sạch!
Khủng khiếp
thật.
Với riêng GNV, không đọc nó những ngày 1954, chắc là lên rừng, phò
HPNT, đúng
như lời cầu chúc của 1 đệ tử Thầy Cuốc rồi!
Cái từ khủng khiếp Tẩy
Não, brainwashing,
1
cách nào đó, là do
Koestler phịa ra! (1)
(1)
One result
was that Daphne now found it harder to deliver the news that his novel
about
Rubashov had gone through page proofs and was about to be printed.
Actually,
she also shrank from telling him because she had changed the title
without
Koestler's knowledge and felt sure he'd explode. Cape didn't like "The
Vicious Circle" as a title, she said, and had chosen "a much worse
one" of its own, "Darkness at Noonday." This was a white lie:
the title was Daphne's. She had written to him in Lisbon about it, but
the
letter had never reached him, and now she had to tell him in person.
When she
stammered out the new title, now metamorphosed into Darkness at Noon,
he
surprised her by giving his approval. Koestler thought the title was a
quotation from Milton's Samson Agonistes-"Oh
dark, dark, dark, amid the blaze of noon," an attribution that has
persisted to this day-but Daphne's inspiration had been the Book of
Job:
"They meet with darkness in the daytime, and grope in the noonday as in
the night."
Darkness at
Noon, a bleak book about a prisoner in solitary confinement, was
published in
December 1940, while Koestler was in solitary confinement in
Pentonville. The
irony wasn't lost on its author. Having written much of it in a
detention camp,
he had come to feel that prison was the perfect metaphor for Europe in
1940,
and also, for too many, a brutal reality. The claustrophobic jail smell
that
clings to every page of Darkness at
Noon and contributes so richly to its
overpowering atmosphere of doom was the fruit not just of Koestler's
imagination but of his bitter experiences in French and Spanish jails.
Có thể đại văn gia Bắc Kít,
người tù lương tâm, người tố cáo chế độ VC Bắc Kít với toàn thể giới,
VTH, cũng
đã trải qua những kinh nghiệm như trên, nhờ vậy, mới tìm ra được cái
tít Đêm
Giữa Ban Ngày!
Nói 1 cách khác, ngược hẳn lại, liệu ông có thể dõng dạc thú nhận, tớ
thuổng?
Cũng thế, với tên già NN: Tớ bịp, khi phịa ra quái vật Núp?
Phải có 1 tên làm được chuyện nhỏ mọn này, thì mới có thay đổi.
Darkness
at Noon, a
bleak
book about a prisoner in solitary confinement, was published in
December 1940,
while Koestler was in solitary confinement in Pentonville. The irony
wasn't
lost on its author. Having written much of it in a detention camp, he
had come
to feel that prison was the perfect metaphor for Europe in 1940, and
also, for
too many, a brutal reality. The claustrophobic jail smell that clings
to every
page of Darkness at Noon and contributes so richly to its
overpowering
atmosphere of doom was the fruit not just of Koestler's imagination but
of his
bitter experiences in French and Spanish jails.
Đêm Giữa Ban
Ngày, cuốn sách u ám về người tù trơ trọi với nỗi cô đơn trong nhà tù,
được xb
Tháng Chạp 1940, khi tác giả của nó thì ở trong nhà tù Pentonville. Tác
giả không
mất đi sự tiếu lâm của mình, khi so sánh nhân vật của mình, với chính
mình - như
trong Kẻ Lạ ở Quảng Trường cho thấy - vì theo ông, ở tù trong Hoả
Lò ở Moscow, [Lubyanka], tất nhiên thê thảm hơn nhiều so với nhà tù
Anh.
Quá
quen thuộc với nó, khiến ông có cảm giác, nhà tù chính là cái ẩn dụ
tuyệt hảo về
Âu Châu vào năm 1940. Mùi nhà tù, bám lấy từng trang sách của Đêm Giữa
Ban Ngày,
bốc lên, không chỉ từ trí tưởng tượng của Koestler, mà từ chính kinh
nghiệm cay
đắng của ông khi ở trong nhà tù của Tẩy, và của Tây Bán Nhà.
Những tên già,
như NN, thí dụ, có bao giờ chúng cảm thấy 1 chút ân hận khi nghĩ đến
đám Ngụy “dòng
dã đời tù”, có kẻ tới 17 năm như Thảo Trường, khi chúng tạo ra những
quái vật Núp?
Những quái vật như thế đã tạo nên thành quả cuộc chiến huỷ diệt Miền
Nam, và bây
giờ, cả xứ Mít.
Bất cứ 1 tên
nào như tên NN, thì đều có thể thốt ra, câu mà DTH đã từng thốt ra,
trong tiếng
khóc, khi ngồi ở vệ đường Xề Gòn, ngày 30 Tháng Tư 1975: Ta đã bị lừa!
Khi tên VTH ăn
cắp cái tít của Koestler, là vì nghĩ, đúng hoàn cảnh của hắn, cúc cung
tận tụy
với Đảng, vậy mà bị Đảng bỏ tù, nhưng còn hoàn cảnh của… Ngụy, có bao
giờ hắn
nghĩ tới?
Một nền văn
học cứt đái như thế, thì phải xóa sạch, làm lại từ đầu, chứ làm gì có
chuyện
giao lưu, hoà giải, đường về gian nan.
NQT
Nhập nước Pháp, như là một kẻ
xa lạ chẳng
ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày,
cuốn
sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa
số, ông
chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc
giả Tây
Phương nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc
tài CS.
Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu
châu của Berlin,
sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,”
ông viết
trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có
thể bị
tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự
do Văn
hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống
lại
tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết. Tranh cãi sau đó liên quan tới
hội nghị,
là, liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp.
Scammell,
tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington,
bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét,
như nhìn
rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền
trợ cấp
của Mẽo, trao cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia, có
biết
không?
Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không phải lúc thoạt đầu, mà
sau đó,
chắc là do MT xì ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS
tố
nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và luôn cả ở MT, có thể là do
ảnh hưởng
của ông đối với đám viết lách liền sau ông, là HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Và, tất nhiên, cũng đi lính như họ.
Mai Thảo không đọc sách, nếu
có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là sự
thực. Ông
rành tiếng Tây, nhưng để đọc được đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ
giỏi
tiếng Tây. Gấu đã từng có kinh nghiệm này rồi, với ông anh Hiếu Chân.
Một bữa,
ông phán, mày đưa tao thử đọc cuốn La Nausée coi. Đọc chưa hết
mấy trang
đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao không hiểu được, tại sao tụi mày lại
mê cuốn
đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích Brahms? Đăng từng kỳ
trên tờ
Điện Ảnh, khi làm tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông đã từng nói ra, khi còn
Sài Gòn,
và sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG cho biết, khi đem bài
tạp ghi
của Gấu viết về ông vô cho ông đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người
gật gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành một chương cho
Hội nghị
Tự Do Văn Hóa, và tiền tài trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện
tiền bạc,
chúng ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô thư ký Cynthia
Jefferies.
Khi họ quyết định cùng chết, K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55,
hoàn toàn
khỏe mạnh. Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed in
the last
period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào
khúc chót
của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K"
phán, trên đời
này, chỉ có tình là đáng kể, và tình
thật đẹp là tình thật sến, theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở nơi cổng trường Đại học
Khoa
học Sài Gòn mà chẳng sến ơi là sến sao?
Bữa đó, Trời cũng khóc, mà khóc cũng thật là sến! (1)
Như GCC đã từng
lèm bèm, cả hai cuộc chiến chống hai thằng thực dân cũ và mới đều có
thể tránh được,
và VC không những không hề muốn tránh mà còn cố tình muốn cho chúng xẩy
ra để hưởng
lợi, để thu nửa nước, rồi cả nước vô tay chúng. Cuộc chiến chống Pháp,
bắt buộc,
nếu không làm sao làm thịt tất cả các đảng phái khác. Cuộc chiến chống
Mẽo ư?
Phịa ra cú đầu độc tù Phú Lợi, để nhử Mẽo vô, làm cho chúng sa lầy, để
hưởng lợi,
không chỉ cho chúng mà còn cả phe Đỏ, bù lại được phe Đỏ hỗ trợ, và tất
nhiên, được
anh Tẫu vô nhà – Đàng Ngoài - xoa đầu vợ con chúng. Đến cái lông chim
của anh bộ
đội Cụ Hồ mà còn được mạ hàng Tẫu, thì còn cái gì mà chúng không… mạ!
Nhục như con
chó mà không thằng nào thấy nhục. Vẫn anh hùng Núp, anh hùng Lén!
Thơ
Mỗi Ngày
LUKE XXIII
Gentile or
Jew or simply a man
Whose face
has been lost in time,
We shall not
save the silent
Letters of
his name from oblivion.
What could
he know of forgiveness,
A thief whom
Judea nailed to a cross?
For us those
days are lost.
During his
last undertaking,
Death by
crucifixion,
e learned
from the taunts of the crowd
That the man
who was dying beside him
Was God. And
blindly he said:
Remember me
when thou eomest
Into thy
kingdom, and from the terrible cross
The
unimaginable voice
Which one
day will judge us all
Promised him
Paradise. Nothing more was said
Between them
before the end came,
But history
will not let the memory
Of their
last afternoon die.
O friends,
the innocence of this friend
Of Jesus!
That simplicity which made him,
From the
disgrace of punishment, ask for
And be
granted Paradise
Was what
drove him time
And again to
sin and to bloody crime.
[Mark
Strand]
J.L. Borges
Luke XXIII
Không phải
Do Thái, hay Do Thái, hay giản dị một người đàn ông
Mặt, thời
gian bào mòn
Chúng ta
cũng không thể nào
Giành lại được
từ quên lãng
Những con chữ
câm lặng
Là cái tên của
anh ta
Anh ta biết
gì về tha thứ
Tên trộm từ
Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng
ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú
cuối cùng của anh ta
Chết bằng
đóng đinh thập tự
Anh ta biết,
từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang
chết kế bên anh ta,
Là Chúa.
Và mù lòa, anh nói:
Xin hãy nhớ
đến tôi khi Người vô
Nước Thiên
Đường
Và từ cây thập
tự khủng khiếp
Một giọng
nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào
sẽ phán xét tất cả chúng ta
Hãy hứa với
anh ta Thiên Đàng.
Chẳng lời
nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ
không để cho hồi ức của buổi chiều cuối cùng này chết.
Ôi bạn bè, sự
ngây thơ vô tội của người bạn của Giê Su.
Khiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn
cầu
Và được ban
cho Thiên Đàng
Cho anh
ta thời gian
Và nữa, nữa,
tội lỗi, và tội ác
Note: Bài thơ này, GCC lôi ra, tính dịch, hoá ra là dịch rồi.
Nhưng có lẽ, bạn nên đọc thêm, những dòng thơ này, trong bài viết của
G. Greene:
THE LOST CHILDHOOD
In ancient shadows and
twilights
Where childhood had
strayed,
The world's great sorrows
were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of
Judas
Christ was betrayed.
TTT 2006-2015
Những đứa trẻ
của Dickens
17.2.1973
Em và anh
thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn,
tuy nói với
em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có.
Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước ngày em
đi. Em đi
lần này không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy
bay nặng
thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ
không?
Ngồi trước mặt
em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy
không.
Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc bấy
giờ. Nhưng
cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không
làm như
với những người khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi
người. Bữa em
hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như
cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không
bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi
người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ
chơi
bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng
ai nghĩ
đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học
lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của
Dickens đều
vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Thư gửi đảo
xa
Những nhân vật
của Dickens cũng là những nhân vật của Kim Dung.
Nhưng phải là
Graham Greene, trong bài Gánh Nặng Tuổi Thơ, viết về những đứa trẻ bất
hạnh của
Dickens, mới thần sầu, quá thần sầu.
Giả như phải
tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa toàn
những cay đắng
ngày nào, thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào
nhau, đâu
lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn
thoát
một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được
quê
hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những
ông bạn
quí hoá."
Dickens by Slater
Tuổi
thơ bất hạnh của Dickens
khủng khiếp đến độ ông không dám xì ra, ngay với cả với vợ con. Vào năm
1824, vừa ăn
mừng sinh nhật lần thứ 12 được hai ngày, chú được ông bố bà mẹ, trường
kỳ bất lực
không làm sao nuôi nổi con cái, gửi tới một nhà máy chuyên làm
công
chuyện đánh bóng giầy bốt, một dẫy nhà đầy chuột bọ nhìn xuống sông
Thames, mỗi
ngày cầy 10 tiếng. Cùng thời gian, ông bố bị chủ nợ tống vô tù. Người
ta thường
vẫn nghĩ, thời gian chú trải qua tại nhà máy chỉ chừng vài tuần, nhưng
Slater
người viết cuốn tiểu sử mới nhất của Dickens cho biết, chú ở đó từ 13
tới 14 tháng,
một vĩnh cửu, a eternity, đối với một đứa bé. Trước đó, một đứa bé
thông
minh, sáng sủa, lanh lợi, “cháu ngoan Bác Hồ”, thầy cô ai cũng mến. Từ
đó, [tim tôi bừng nắng hạ], chú
bị bỏ quên bởi tất cả mọi người với số phận của chú, là kéo dài chuỗi
ngày của
mình, như là một “thằng cu thợ”.
Cơn ác mộng nhà máy
đánh giầy chỉ ra không phải thứ giả tưởng nào ông sẽ viết, mà lý do ông
viết. Ông
muốn được yêu mến bởi những độc giả của mình, muốn làm cho họ cười,
khóc, và đi
vô trái tim của họ, ấy là vì, ông cảm thấy, những người nào yêu ông như
là một đứa
trẻ, thì họ sẽ làm bật nó ra, sẽ khu trục nó. Nỗi đau không được yêu
càng buốt
nhói ở thuở mới lớn, bởi một em nhà giầu, bố làm chủ nhà băng, lương
anh cu thợ
với sao tới. Cô gái vờ vĩnh với cậu trai, rồi đá cho một cú, nhưng cậu
trai không
một chút tủi hờn, bởi vì ‘mọi điều gì gọi là yêu đương, đam mê, mong
ước, quyết
tâm… tất cả đều thuộc về anh”, chàng sau đó nói với nàng, “Anh sẽ chẳng
bao giờ
bị tách rời, hoặc [tự mình] tách rời ra khỏi người đàn bà nho nhỏ có
trái tim cứng
rắn, là em”. Ông lấy vợ, “thế là xong” [Nếu biết rằng em đã có
chồng anh đành
lấy vợ, thế là xong], và những lá thư của ông cho thấy, ông không hề
thực sự yêu
vợ.
*
Câu vinh danh
Dickens, tuyệt vời nhất, theo Gấu, là câu này, của phê bình gia tổ sư
Mác Xít:
Nhà phê bình
Mác-xít G. Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions) của
Kafka, có
những dấu vết đặc thù, của phê bình xã hội. Viễn ảnh của ông về
một hy
vọng triệt để, thật u tối: đằng
sau bước quân hành của cuộc cách mạng
vô sản,
ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo chúa, hay kẻ mị dân. Cuốn
tiểu
thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ nạn hành chánh mà
"Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là người thừa kế nhà
văn người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu tượng định chế
(bộ máy kỹ
nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ diệt), ông còn thừa
hưởng luôn
cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc lột người.
Tuyệt!
Chính Kafka cũng thừa nhận, ông
là đệ tử của Dickens, theo như Kundera viết:
America, m¶t cuÓn
ti‹u thuy‰t kÿ kÿ (curious): Tåi sao Kafka, khi
Çó m§i 29 tu°i, låi "Ç¥t Ç‹" cuÓn ti‹u thuy‰t ÇÀu tiên cûa ông tåi
m¶t Çåi løc ông chÜa tØng Ç¥t chân t§i? M¶t
ch†n l¿a có chû Çích rõ rŒt: Không làm hiŒn th¿c
chû nghïa. Ông cÛng
ch£ng thèm tra cÙu, tìm tòi, Ç‹ che giÃu s¿ "ngu dÓt". Ông bÎa Ç¥t š
nghï cûa ông, vŠ America, tØ nh»ng thÙ phÄm, ba ÇÒ ph° thông. Hình änh America ª trong truyŒn là tØ nh»ng clichés.
HÙng khªi chính cho nhân vÆt và tình ti‰t câu chuyŒn: mÜ®n Ç« Dickens,
nhÃt là
tØ David Copperfield (ông thØa nhÆn
ÇiŠu này, trong nhÆt kš), V§i ông, theo Kundera, nghŒ thuÆt hiŒn Çåi: M¶t s¿ phän kháng, chÓng låi s¿ b¡t chܧc
th¿c tåi. ñây có lë là lš do tåi sao Ƕc giä "chÎu không n°i"
nh»ng tác phÄm cÓ vë låi nh»ng nhà giam, nh»ng ngày tù ÇÀy, cäi tåo.
Kundera
coi Çây là s¿ khác biŒt gi»a "thi ca Kafka", trong Vø Án,
v§i 1984, cûa Orwell, cÛng nói vŠ b¡t b§, tù ÇÀy, và
vÓn ÇÜ®c coi nhÜ
m¶t tác phÄm chÓng c¶ng cûa m¶t bÆc thÀy. 1984
là tÜ tܪng chính trÎ nguœ trang dܧi hình thÙc ti‹u thuy‰t, trong Çó
thi‰u
nh»ng cºa s° mª sang khu vÜ©n Thuš, thi‰u windows.
"Không
ai có th‹ Çi
xa hÖn Kafka, trong Vø Án. Ông tåo m¶t
hình änh "c¿c kÿ thÖ", vŠ m¶t "th‰ gi§i c¿c kÿ không thÖ".
B¢ng th‰ gi§i c¿c kÿ không thÖ, tôi muÓn nói, m¶t th‰ gi§i trong Çó
không có
ch‡ cho t¿ do cá nhân, không có s¿ Ƕc nhÃt vô nhÎ: là m¶t cá nhân. NÖi
con
ngÜ©i chÌ là døng cø cûa nh»ng sÙc månh phi nhân: ThÜ låi, KÏ thuÆt,
LÎch sº.
B¢ng hình änh c¿c kÿ thÖ, tôi muÓn nói, không thay Ç°i y‰u tính, cÛng
nhÜ bŠ
ngoài không thÖ, Kafka Çã "n¡n låi" th‰ gi§i Çó, b¢ng sÙc tܪng tÜ®ng
bao la, ÇÀy thi tính cûa ông."(Kundera, sÇd).
Mùa Thu, những di dân
GNV
không biết TTT có về lại
Đất Bắc lần nào không, khi đã ra hải ngoại. (1) Nhưng có lần ngồi lèm
bèm với Thảo Trường,
hình như
Gấu có than, giá mà về được 1 lần dối già, nữa, nhỉ, ông bèn ‘mắng cho’:
Ông về,
một lần thắp hương cho
ông cụ, ở đúng cái chỗ ông cụ ra đi, bên mé sông Hồng, Việt Trì; một
lần
chụp
hình cái lô cốt, vậy là quả đủ rồi!
Ui
chao, sao mà bạn Gấu hiểu
Gấu, quá cả Gấu hiểu Gấu!
Cái lô
cốt trên đê làng Thanh
Trì quả là khủng khiếp thật.
Cứ như Cột Đồng Mã Viện ấy,
nhỉ!
(1)
Chắc là
không. Ông trở lại Sài
Gòn, lần bà cụ đau nặng, rồi qua, ông em về thay ông anh, rồi qua, sau
đó, ông
mất, trước bà cụ.
Bài tưởng niệm
TTT của đấng bạn quí NTV, trừ mấy cái thư riêng mang ra khoe, là
bài trả lời phỏng vấn LHK, và bài này, thì GCC đã cho đăng trên Văn Học
NMG, từ khi ông còn sống.
Nội dung mấy lá thư riêng, cho thấy TTT vưỡn mong viết
lại, khi ông kể trường hợp mấy đấng mũi lõ, đến khi sắp xuống lỗ, vưỡn
có tác phẩm
lớn, hay khi kể về 1 thứ cây gì gì đó, tưởng chết theo mùa đông, nhưng
mùa xuân
bèn sống lại. Hiện tượng này, ở Canada rất là rõ nét. Thiên nhiên chẳng
những
sống lại, mà sống nhanh sống vội sống ào ào.
Tuy nhiên, có hai ý tưởng mà NTV gán
cho TTT, một, khi coi ông là nhà văn lưu vong, cái gì gì “writer in
exile”, và
"tâm thái" thì lúc nào cũng ở nơi quê nhà, làm GCC có tí thắc mắc.
GCC sự thực,
không tin, TTT coi ông là nhà văn lưu vong. Ông đi Mẽo là do tự nguyện,
theo chương
trình của Mẽo dành cho sĩ quan Ngụy. Và ông đi, là nghĩ đến thế hệ
tương lai của
đám con cái của ông, khi ra hải ngoại, gần như ông không viết nữa.
Có vẻ như ông
không làm sao “viết như đếch có chó gì xẩy ra”, và đây mới là tâm thái
của ông, chứ
đếch phải xứ Mít mà ông, có thể, cũng đếch thèm nhớ.
Ông đâu trở về lại đất Bắc,
trừ lần đi tù?
Còn Miền Nam ư? Tất nhiên, nhớ, thì ai mà chẳng nhớ, nhưng nó mất
mẹ mất rồi, và mỗi người tự chọn cho mình 1 cách nhớ, thương nhớ đồng
quê, thương
nhớ.... biển, thí dụ vậy.
LANDSCAPES OF THE MIND
Phong cảnh của tâm hồn
Robert
Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Tuyệt!
Đây có lẽ là
1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1
đứa con nít:
Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra
cánh cửa địa
ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita”
unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng
giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm
sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và
những
chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Mộ Tuyết
Ba Xuyên, lần
viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên
viên kỹ
thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11
đường
Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ
dùng kỹ
thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái
tới những
đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu
thính
viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự
sửa chữa
khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè,
nhiều tạp
âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát
tín hiệu,
không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế
cùng
chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất
một hai
ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới
mười
ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô
việc, cặm cụi
lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen
thành phố.
Một thành phố
không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng
đài người
loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn,
hoặc khi
rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng
đời đã
qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ
trong
quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách
tốt nghiệp
đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn
làm việc,
thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể,
hay để
nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt
phạm vi
châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào
nhà
trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu
mới hiểu
chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này
Hết hai năm
tập sự, đổi qua làm việc tại một đài chuyên duy trì những đường dây
liên lạc quốc
tế, về viễn ký, viễn ảnh, điện thoại đường dài [điện thoại viễn liên],
giữa Sài
Gòn và một số thủ đô trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố,
quên dần
những chuyến đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một
thành
phố một hai lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt
không liên
quan, không ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến
trúc phảng
phất nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây quanh bởi
một vài
khách sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ tíu, quán bi da,
banh bàn;
những sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng nghiêm chào cờ theo lệnh
một chiếc
loa công cộng [thời còn ông Diệm], (thành phố lúc đó có một bộ mặt
trang nghiêm
thật tức cười, những thực khách đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy,
miệng còn mẩu
bánh chưa kịp nuốt, dáng lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa kịp
hiểu
chuyện gì đang xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay trong
khi chập
chờn ngủ, được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ tập
trong quán
cà phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như tiếng
thở
than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt chẳng
hề nói của
cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây một tiếng
động,
như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong cơ thể
người
khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay vào đó,
là một con
mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc nào, mắt xanh biếc
trong
bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng kế bên, một người
khách lơ đễnh
không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những chiếc xe hàng đánh thức giấc
ngủ khoảng
ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm mốc hình như toát ra từ những bức tường
loang lổ,
từ chiếc nệm giường mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường làm dậy
một nỗi
trắc ẩn vô duyên cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...
Trở lại Ba
Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.
From
Russia With Love
Reading in
Iowa City, Iowa
Đọc thơ ở Iowa City
SOME YEARS
ago, Joseph came to Iowa City, the University of Iowa where I directed
the
Translation Workshop, to give a reading; I was to read the English
translation.
At the end, he was asked a number of (mostly loaded) questions,
including one (alluded
to earlier) about Solzhenitsyn. "And the legend which had been built
around him?" His answer managed to be both artfully diplomatic and
truthful: "Well, let's put it this way. I'm awfully proud that I'm
writing
in the same language as he does." (Note, again, how he expresses this
sentiment in terms of language.) He continued, in his eccentrically
pedagogical
manner, forceful, even acerbic, but at the same time disarming, without
any
personal animus: "As for legend ... you shouldn't worry or care about
legend, you should read the work. And what kind of legend? He has his
biography
... and he has his words. "For Joseph a writer's words were his
biography,
literally!
On
another visit to Iowa, in 1987, Joseph flew in at around noon and
at once asked me what I was doing that day. I told him that I was
scheduled to
talk to an obligatory comparative literature class about translation.
"Let's do it together", he said. Consequently I entered the
classroom, with its small contingent of graduate students, accompanied
by that
year's Nobel Laureate.
Joseph
indicated that he would just listen, but soon he
was engaging me in a dialogue, except it was more monologue than
dialogue. Finally,
he was directly answering questions put to him by the energized
students. I
wish I could remember what was said, but, alas, even the gist of it
escapes me
now. I did not debate with him, even though our views on the
translation of verse
form differed radically. Instead, I believe that I nudged him a little,
trying
- not very sincerely or hopefully, though perhaps in a spirit of
hospitality
and camaraderie - to find common ground. After the class, I walked back
with
him to his hotel, as he said he wanted to rest before the reading. On
the way,
the conversation, at my instigation, turned to Zbigniew Herbert, the
Polish
poet so greatly admired by Milosz and, I presumed, by Brodsky, and
indeed
translated by the former into English and by the latter into Russian.
Arguably,
Herbert was the preeminent European poet of his remarkable generation.
He was living
in Paris and apparently was not in good health. "Why hasn't Zbigniew
been
awarded the Nobel Prize? Can't something be done about it", I blurted
out
- recklessly, tactlessly, presumptuously. The subtext was: Surely you,
Joseph
Brodsky, could use your influence, etc. Joseph came to a standstill:
"Of course,
he should have it. But nobody knows how that happens. It's a kind of
accident."
He locked eyes with me. "You're looking at an accident right now!"
This was not false modesty on his part, but doubtless he was being more
than a
little disingenuous. Nevertheless, I believe that, at a certain level,
he did
think of his laureateship as a kind of accident. Paradoxically, while
he aimed as
high as may be, he was not in the business of rivalling or challenging
the
great. They remained, in a sense, beyond him, this perception of
destiny and of
a hierarchy surely being among his saving graces.
In a
far deeper sense,
though, they were not in the least beyond him, nor was he
uncompetitive, but it
did not (nor could it) suit his public or even private persona to
display this.
Brodsky certainly considered himself to be - and it is increasingly
clear that
he was - in the grand line that included Anna Akhmatova, Boris
Pasternak, Osip
Mandelstam and Marina Tsvetayeva. Even I sensed this, despite my
ambivalence
about his poetry. Indeed, the continuity embodied in his work accounts,
in
part, for my uncertainty: I have tended to rebel against grand
traditions. But
perhaps this is to exaggerate. At times I hear the music, at other
times the
man, even if, as a rule, I do not hear them both together ... But take,
for
instance, this (the last three stanzas of "Nature Morte" in George
Kline's splendid version in the Penguin Selected Poems):
Mary now
speaks to Christ:
"Are
you my son? - or God?
You are
nailed to the cross.
Where lies
my homeward road?
How can I
close my eyes,
uncertain
and afraid?
Are you
dead? - or alive?
Are you my
son? - or God?
Christ
speaks to her in turn:
"Whether
dead or alive,
Woman, it's
all the same-
son or God,
I am thine."
It is true
that, as I listen to or read the English, I hear the Russian too, in
Joseph's
rendition. I even see Joseph, his hands straining the pockets of his
jacket,
his jaw jutting, as though his eye had just been caught by something
and he
were staring at it, scrutinizing it, while continuing to mouth the
poem, almost
absent- mindedly, that is, while the poem continues to be mouthed by
him. His
voice rises symphonically: Syn ili Bog
(Son or God), "God" already (oddly?) on the turn towards an abrupt
descent; and then the pause and a resonant drop, a full octave: Ya tvoi (I am thine). And the poet, with
an almost embarrassed or reluctant nod, and a quick, pained smile,
departs his
poem.
Daniel
Weissbort: From Russia With Love
Note: Bài
này cũng cực thú. Bị khán giả chất vấn, mi so sao với Solz, Brodsky bèn
trả lời,
tớ có cái hãnh diện là viết bằng cùng thứ tiếng với ông ta:
"And
the legend which had been built around him?" His answer managed to be
both
artfully diplomatic and truthful: "Well, let's put it this way. I'm
awfully proud that I'm writing in the same language as he does." (Note,
again, how he expresses this sentiment in terms of language.)
Chỉ có hai nhà thơ sống
"sự
thực tuyệt đối" của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là
Brodsky và TTT!
Son of Man
and Son of God
Tuesday,
July 29, 2014 4:11 PM
Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với
ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Nguyên tác:
Christ
speaks to her in turn:
“Whether
dead or alive
woman, it’s
all the same –
son or God,
I am thine
Theo tôi, nên
dịch như sau:
Christ bèn
trả lời:
Chết hay là
sống,
Thưa bà, thì
đều như nhau –
Con, hay
Chúa, ta là của bà
Best
regards,
DHQ
Phúc đáp:
Đa
tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards
NQT
Note: Không làm sao kiếm ra khúc dịch trật nữa!
Son
of Man and Son of God (2)
Today at 12:02 PM
Dear ông
Gấu
Cháu xin
phép giúp ông tìm lại bản dịch "trật"
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/14.html
Mary nói với Christ:
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?
Mary now speaks to Christ:
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?
Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?
Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine
Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
Best
regards,
Phúc đáp:
Tks
Take Care
Như vậy là
GCC không dịch được từ “thine”, và không hiểu, từ "woman", trong câu
thơ.
… Anh khoe khong?
K
OK rồi, không què đâu. Tks
NQT
Mạnh
khỏe la vui roi!
O.
Tks. Tưởng là què luôn.
V/v Đi tu tới bến.
Tôi
đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó
Bác Tru theo
dao nao vậy?
Toi theo dao
tho ong ba
Den gia, doc
Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre
theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.
Hai số báo,
mua, đều vì bài của Manguel. Tay này cũng dân Canada. Gấu biết từ những
ngày đầu
qua, qua NTV. Và qua cuốn "A History of Reading"
Đọc 1 phát
là mê liền. Gần như có đủ sách của ông. Tuy nhiên, vẫn nghĩ, đây là 1
độc giả lớn,
hơn là tác giả lớn. Một Đại Gia Đọc, Great Reader, hơn là 1 tác giả, dù
có rất
nhiều tác phẩm. Số Ba Xu [Three-penny] có bài của 1 nữ tác giả,
Elizabeth
Tallent: Narraror, thần sầu chưa chắc vì bài viết, vì chưa đọc, nhưng
vì bức
hình “nuy” của chính tác giả.
Giá mà mấy
em Mít cũng "mô phỏng", cứ post mỗi cái truyện, kèm cái bướm, nhỉ?
Note:
Cái hình
nuy, xin coi trang trong, "Viết".
Bài Manguel,
trên Ba Xu là về dịch thuật. Trên Lit Review, điểm 1 cuốn về chuyện
thần tiên,
fairy tales, và đặt câu hỏi, tại sao thời nào, nước nào, cũng mê nó, và
tự trả
lời, chuyện thần tiên khác hẳn tiểu thuyết, vì chúng mang đến hy vọng.
Sẽ lèm bèm
tiếp về câu phán này.
Lý Quang Diệu by Người
Kinh Tế
Bài viết này
thật là tuyệt. Tin Văn sẽ làm 1 cú dịch thuật.
A CRITIC AT
LARGE
A FRIEND OF
THE DEVIL
Inside a
famous Cold War deception.
BY LOUIS
MENAND
Khi Xịa bịp
sinh viên Liên Xô: “When the CIA duped College Students”, là cái tít
trang bìa
của bài viết này.
Đây, 1 cách nào đó, cũng là đề tài của "Người
Mỹ Trầm Lặng": Chúng ông tới với chúng mày bằng thiện ý, nếu chúng mày
không
thích là ông thịt!
Diệm đếch thích Mẽo đổ quân vô Miền Nam, mi không thích hả,
thịt!
Hà, hà!
GCC hết credit với tờ này, nhưng có mua tờ báo giấy, để từ từ lèm bèm
về Xịa chơi!
Địa ngục lát bằng thiện ý
của Mẽo!
Nhưng thiên đường thì lại lát bằng Cái Ác Toàn Trị, Cái Ác Á Châu, Cái
Ác Bắc Kít!
Bạn thích thứ nào?
Dương
Nghiễm Mậu
Viết
Đêm
giữa ban ngày.
Cái tít nguyên thuỷ của nó là Vòng
tròn xấu xa, “The Vicious Circle”, và Daphne đổi lại, như trên, khi
K bị
nhà cầm quyền Anh giam giữ tại nhà tù Pentonville. K. tỏ ra thích cái
tít này,
mà ông nghĩ, từ Milton: Oh, dark, dark, dark, amid the balze at noon,
nhưng
nguồn của nó, qua Daphne, từ Book of Job.
… the title was Daphne's.
She had written to him in Lisbon about it, but the letter had never
reached
him, and now she had to tell him in person. When she stammered out the
new
title, now metamorphosed into Darkness at Noon, he surprised her by
giving his
approval. Koestler thought the title was a quotation from Milton's Samson
Agonistes-"Oh dark, dark, dark, amid the blaze of noon," an
attribution that has persisted to this day-but Daphne's inspiration had
been
the Book of Job: "They meet with darkness in the daytime, and grope in
the
noonday as in the night." (1)
Có thể đại văn gia Bắc Kít,
người tù lương tâm, người tố cáo chế độ VC Bắc Kít với toàn thể giới,
VTH, cũng
đã trải qua những kinh nghiệm như trên, nhờ vậy, mới tìm ra được cái
tít Đêm
Giữa Ban Ngày!
Nói 1 cách khác, ngược hẳn lại, liệu ông có thể dõng dạc thú nhận, tớ
thuổng?
Cũng thế, với tên già NN: Tớ bịp, khi phịa ra quái vật Núp?
Phải có 1 tên làm được chuyện nhỏ mọn này, thì mới có thay đổi.
THE
AGE OF GENIUS
Tuổi Thiên Tài
The legend of Bruno Schulz.
Giai thoại về Bruno Schulz
BY DAVID GROSSMAN
Vào một buổi chiều Mùa Xuân, Easter
Sunday, 1933. Đằng sau quầy tiếp khách một khách sạn nhỏ ở Warsaw là
Magdalena
Gross, một điêu khắc gia, và cái khách sạn khiêm tốn của bà là nơi đám
văn nghệ
sĩ và trí thức thường tụ tập. Ở hành lang lúc đó có một bé gái người Do
Thái,
chừng 12 tuổi, quê ở Lodz, cha mẹ gửi học. Một người đàn ông nhỏ, ốm,
xanh xao,
bước vô khách sạn. Anh ta có vẻ sợ hãi, theo cô bé Do Thái.
Gross hỏi, anh là ai.
-Schulz, anh ta trả lời, và nói tiếp:
-Tôi là một thầy giáo, tôi viết một cuốn sách, tôi…
Bà ngắt lời:
-Anh từ đâu tới?
-Từ Drohobycz
-Anh là một thợ múa ư?
-Cái gì? Ô, không phải.
-Nhưng mà anh tính làm gì ở đây?
Và người đàn ông nói, giọng thầm thì:
-Tôi là một giáo sư trung học. Tôi có viết một cuốn sách. Vài truyện
ngắn. Tôi
phải đi Warsaw nội trong đêm và trao nó cho Madame Nalkowska.
Gross nhìn xuống, ngắm nghía anh chàng đàn ông. Zofia Nalkowska là một
tác giả
Ba Lan nổi tiếng , và là một nhà viết kịch. Bà còn rất quen thân với
nhà xb nổi
tiếng Roj.
Bà mỉm cười hỏi:
-Nhưng mà làm thế nào mà anh gặp được, và trao cuốn sách cho bà đó?
Người đàn ông lắp bắp, mắt quay đi, giọng nài nỉ:
-Người ta nói với tôi là Madame Gross quen biết Madame Nalkowska… Nếu
bà ấy tỏ
ra rộng rãi, tốt bụng…
Theo cô bé Do Thái, có thể vì người đàn ông có vẻ quá sợ hãi, và có
thể, vì cái
vẻ cứng đầu, bướng bỉnh thật là ảo não, tuyệt vọng của anh ta khiến bà
Gross bỏ
giọng trêu chọc và đi đến chỗ để điện thoại.
Bà nói chuyện với Zofia Nalkowska về người đàn ông.
-Nếu tôi phải đọc bản thảo của bất cứ thằng cha căng chú kiết nào thì
làm sao
tôi có thì giờ viết cái của tôi?
Bà Gross thầm thì, năn nỉ:
-Hãy làm ơn một lần mà. Bà chỉ cần nhìn vài hàng trang đầu tiên, nếu
thấy không
được thì nói thẳng cho anh ta biết, để anh ta hết còn nghi ngờ về tài
năng của
mình, và đi làm nghề buôn, thay vì làm nhà văn! (1)
Bà Zofia Nalkowska miễn cưỡng nhận lời
Bà Gross quay lại nói với anh chàng đàn ông:
-Lấy một cái tắc xi. Nửa giờ nữa, bà ta sẽ tiếp anh, trong 10 phút.
Schulz chạy ào ra ngoài. Một giờ sau, anh quay lại. Không còn tập bản
thảo.
Bà ta nói sao? Bà Gross cũng nóng ruột.
-Bà ấy ra lệnh tôi đọc mấy dòng đầu bản thảo. Đọc thật lớn. Bà lắng
nghe. Bất
thình lình, bà ra lệnh ngưng. Rồi bà biểu tôi, hãy để lại bản thảo, trở
lại
khách sạn, bà sẽ liên lạc liền…
(1) Ui chao bạn có nhớ cái đoạn TTT kể
chuyện lần đầu tiên đọc MT, và sau đó, mời MT tới tòa soạn chơi, và MT
tâm sự,
anh mà chê nó, là tôi bỏ cái mộng “đành làm” nhà văn, “đành” đi buôn!
Ui chao, đọc một cái là Gấu nhớ đến cái lần gửi bản thảo truyện ngắn
đầu tay xuống
tòa soạn Sáng Tạo, và một buổi tối, tới nhà, nghe Cụ C. nói, mày viết
truyện ngắn
hả, tao nghe thằng T nói, mà nó còn nói, mày viết được lắm....
*
Gấu có tới ba cái truyện ngắn đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời
kỳ, thời
đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới
ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay, tính theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng
chẳng
thể nhớ tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh,
trang
VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này
lắm.
Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel, theo nghĩa, chẳng có
cái chó
gì hết ở trong đó.
Quả thế thật. Đây là câu chuyện mà Gấu
còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em mời ngồi
bàn, ở
hành lang căn nhà, một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi
em ngồi
cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ mình là
những cọng
rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó trời
mưa. Ra đường,
đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn
thẩn tự
hỏi:
Tại sao trời mưa?
Lao
Home, 2014 & 15 Trip
Thơ
Mỗi Ngày
TLS Mar 6 2015
Mẩu Đoạn
Bóng nắng chạy
ngoằn ngoèo theo con bãi, vô tới đám cây anh túc
Như sau cùng
được con gió buông tha
Những điều
em nói, Gấu chỉ nhớ ba chớp ba nháng
Nhưng đếch
thèm ghi notes
Who cares?
Gấu thú thật
cũng có tí ham muốn ghi lại
Cái gì gì, lời
nào em không nói,
Tình nào
không gian dối
Nhưng lúc
này, đến lượt Gấu nhăn mặt với cái bãi.
Em sẽ ngồi ở
cái ghế bành
Và ngắm Gấu
nhăn mặt
TLS Mar 2015
Note: Bài này ngắn,
nhưng thật là tuyệt. Weil mà. Món quà chót đời của Ông Giời ban cho
GCC, theo cái kiểu "hãy ru tên vô đạo"!
Triết học tôn giáo của Simone Weil. Tin Văn sẽ scan và dịch liền.
Deep Attention
TINA BEATTIE
Lissa
McCullough
THE RELIGIOUS
PHILOSOPHY OF SIMONE WElL
An
introduction
264pp. I. B.
Tauris. Paperback, £15.99 (US $25).
978 1
780767963
Simone
Weil's voice speaks from Europe's heart of darkness. A French secular
Jew and
political activist, she died in exile in Ashford, Kent, in 1943 at the
age of
thirty-four, her poor health worsened by self-starvation as an
expression of
solidarity with the soldiers and French factory workers of the Second
World
War. Weil poured her extensive philosophical and religious reflections
into
notebooks, letters and essays covering a vast and sometimes
disconnected range
of ideas, authors and religions.
Lissa
McCullough's book is a fine scholarly analysis of Weil's later
religious
writings (1939-43), after she had experienced a mystical awakening to
what she
believed to be the reality of God. McCullough shows how Weil' Christian
mystical dialecticism transforms philosophical dualism, enabling her to
discover
within the "apparent chaos and injustice" of the universe a
revelation of the unifying mystery that is manifest most starkly and
sublimely
in the cross of Christ. Only the will that is completely surrendered to
the mechanism
of grace, only the self that is entirely abandoned to the abyss of God,
can experience
the love that is discovered within the dark heart of creation as the
beauty of Christ.
In Weil's view, our ability to recognize God in creation arises from a
radical
process of "decreation" of the self. From this perspective of
mystical abandonment, divine beauty shines through all that is. Far
from any
Platonic aestheticism, Weil earths the deepest manifestation of beauty
in its
greatest absence - in the crucifixion, where God enters fully into the
necessity
of creation, stretching almost to breaking point the infinite distance
between the
two, in order to redeem its evil and suffering from within.
As
McCullough explains, for Weil human equality is rooted in suffering. It
is
those who are able to respond to suffering with complete self-negating
attentiveness who are able to penetrate beyond all social and moral
differences,
including the primordial difference between good and evil, to
experience the
identical nature of every human. In Weil' s account, evil is lack, but
also
necessity. In an argument too complex to unravel here, this means that
God is
in some sense the author of evil through the withdrawal of the divine
being in
the act of creation - an idea which, McCullough points out, may have
kabbalistic associations.
Austere,
ascetic and demanding, Weil emerges in McCullough's study as an
unsettling and
challenging voice in the face of all theological complacencies and
philosophical certainties. Like the great Christian mystics (Catherine
of Siena
springs to mind), she plunges into the divine abyss and from that abyss
finds
the language to confront us with the radical unknowing of all that we
claim to know
of God and of ourselves.
McCullough's
systematic reading emphasizes Weil's Jansenist leanings, her
mechanistic
understanding of the dynamics of nature and grace, and her dark - some
might
say masochistic - mysticism. The focus is firmly on Weil's works rather
than
her biography, but I the perspective that emerges is that of a complex
genius
of profound spiritual insight who does not necessarily arouse
admiration - let alone
affection.
In aligning Weil with a Platonic-Augustinian and
Cartesian outlook,
McCullough denies any significant Thomist or Aristotelian influence on
Weil's
thought. Yet French Catholicism of the 1940s was awash with various
forms of Neo-Thomism
- not just the rigorous, Jansenist-inspired interpretations, but also
the more
open and world-affirming Thomism of thinkers such as Jacques Maritain.
Weil's understanding
of the revelation of God within the material world, of evil as lack and
of the abysmal
nature of desire for God could be interpreted in Thomist as well as
Augustinian
terms, though her ambiguity as to whether or not God wills evil in the
process
of creation would find little support in the work of either Thomas or
Augustine. Overall, however, the general contours of Weil's later
religious thought
closely conform to Catholic tradition, which is both Augustinian and
Thomist.
This means that McCullough's reading is a little one-sided.
Lissa McCullough
has nevertheless done a fine service to all who find themselves
compelled to
return again and again to the demanding, illuminating, infuriating and
disturbing writings of this most enigmatic and uncompromising of modern
thinkers. The
Religious
Philosophy of Simone Weil is a lucid introduction born of a spirit of
scholarly
humility which we might describe in Weil's language as an example of
deep
attentiveness.
Độc giả Việt
Nam đã sớm đọc được từ năm 1974, với bản dịch của Nguyễn Hữu Hiệu, nhan
đề
"Vĩnh biệt tình em", do Tổ hợp Gió xuất bản tại Saigon. Và sau đó là
bản dịch của Lê Khánh Trường, in trong "Boris Pasternak, Con người và
tác
phẩm", Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1988.
Nguồn
Bản tiếng Việt
đầu tiên, là của Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa. Đây là cuốn sách vỡ lòng của
Gấu, thời
gian học Đệ Nhất Chu Văn An, quen bạn Chất, em trai TTT, và cùng đọc
nó, với bà
cụ thân sinh của nhà thơ. Trên TV cũng đã từng lai rai nhiều lần về
chuyện này
rồi.
Nhưng cái giải
thưởng Nobel quả thực là làm cho Pạt rất ư là bực, Khi nghe tin được
giải, không
phải như là nhà thơ, mà là tác giả “Zhivago”, ông gần như phát khùng,
như
Milosz viết:
ON PASTERNAK
SOBERLY
Về Pạt, thật nhã
Với những ai quen thuộc
với thơ của
ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải Nobel ban cho ông vào
năm 1958
quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà thơ mà thế giá ở Nga,
người
ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca Akhmatova; một đại gia
về dịch
thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng
cả!],
thì mới dám đụng vô Shakespeare, vậy mà phải viết một cuốn tiểu
thuyết to
tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây chấn động giang hồ, cả
Ðông lẫn
Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một best-seller, [có lẽ phải thêm
vô, phải
có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc đó, những thi sĩ của những xứ
sở
Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương
tình để
mắt tới.
Giá như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì
thế mà
mùi vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng
chứng về một
sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học
Ðông Âu,
và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được Nobel, Pạt
mới hiểu ra
được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một đại ác mộng về sự hồ
nghi,
chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng định với chính
mình,
tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy vì những
hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi,
mi được
Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….
Tôi
không kiếm thấy trong tác phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự chống đối
triết học
của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái sự ngần ngại khi
phải đối đầu
với những trừu
tượng –
và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng nghĩa
– và
đây là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô
Viết là cuộc
sống của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi
chân thực.
Ông chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết
nào của
thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người
chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của Pasternak là vô thần, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại,
đối với ông,
thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì
ở nơi
thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh.
Và ông
coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw
Milosz
Có hai bài viết về
Pạt, thật tuyệt, với GCC, một của Milosz, và một, của Calvino. Tin Văn
cứ tính đi hoài, nhưng cứ hứa lèo hoài. Bài của Milosz, xoáy vô thơ.
Của Calvino, nêu ra được 1 cú thần sầu, Zhivago, cũng như anh chàng
tình địch, chồng Lara, tên VC Niên Xô, đều chỉ là những kẻ thất bại,
trước 1 Lara.
Lara mới là nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. Cú soi sáng này soi
sáng cùng 1 lúc, đa số nhân vật.
Kiệt chẳng thế ư, so với vợ là Thùy,
hay so với Hiền, đảo xa.
Kiên của Nỗi Buồn Chiến Tranh ké né đứng bên Phương, mi ngu quá, làm gì
còn đêm nào như đêm nay, sao bỏ lỡ?
GREEK
STATUE
With the
help of people and the other elements
time hasn't
done a bad job on it.
It first
removed the nose, then the genitalia,
next, one by
one, the toes and fingers,
over the
years the arms, one after the other,
the left
thigh, the right,
the
shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever
dropped off has since fallen to pieces,
to rubble,
to gravel, to sand.
When someone
living dies that way
blood flows
at every blow.
But marble
statues die white
and not
always completely.
From the one
under discussion only the torso lingers
and it's
like a breath held with great effort,
since now it
must
draw
to itself
all the
grace and gravity
of what was
lost.
And it does,
for now it
does,
it does and
it dazzles,
it dazzles
and endures-
Time
likewise merits some applause here,
since it
stopped work early,
and left
some for later.
Wislawa
Szymborska: Here
Tượng
Hy Lạp
Với sự giúp
đỡ của con người và những yếu tố khác
Thời gian đã
làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên,
nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái
một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái,
phải
Vai, hông, đầu,
mông đít,
Và bất cứ cái
gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.
Khi một người
nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra
từ mọi cú liếm.
Nhưng tượng đá
chết trắng
Và không phải
luôn luôn trọn vẹn
Từ cái chết đang
được bàn tới ở đây,
Còn một
nửa,
Còn bức tượng
bán thân
Cứ như thể, mọi
hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ
bây giờ
Nó phải níu vào
chính nó
tất cả ân sủng
và trọng lực (1)
cái phần đã
bị liếm mất
Và nó làm được
Kể từ giờ này
nó làm được
Và nó chói
lòa,
Nó chói loà,
và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian,
như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà
nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.
(1)
Chắc là thuổng
hai từ này của Simone Weil.
Bà này, “bạn quí” của
Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm
sao mà nói lên được cái ý "ân sủng và trọng lực"!
NQT
ROMANTIC
LANDSCAPE
To grieve,
always to suffer
At the
thought of time passing.
The outside
world shadowy
As your
deepest self.
Melancholy
meadows, trees so still,
They seem
afraid of themselves.
The sunset
sky for one brief moment
Radiant with
some supreme insight,
And then
it's over. Tragic theater:
Blood and
mourning at which
Even the
birds fall silent.
Spirit, you
who are everywhere and nowhere,
Watch over
the lost lamb
Now that the
mouth of the Infinite
Opens over
us
And its dumb
tongue begins to move darkly.
Charles Simic
Phong cảnh lãng
mạn
Đau buồn, luôn
luôn đau buồn, đau thương
Khi nghĩ
thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài
kia mới u ám làm sao
Y chang nơi
sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu
rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính
chúng.
Bầu trời hoàng
hôn, trong một thoáng
Bỗng long
lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết.
Kịch bi đát:
Máu me, tang
tóc
Ngay cả lũ
chim cũng đành chết sững.
Tinh thần, mi,
ở mọi nơi và ở không đâu,
Trông chừng
con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng
ta
Và cái lưỡi
đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động
TTT 2006-2015
From
Russia With Love
Reading in
Iowa City, Iowa
Đọc thơ ở Iowa City
SOME YEARS
ago, Joseph came to Iowa City, the University of Iowa where I directed
the
Translation Workshop, to give a reading; I was to read the English
translation.
At the end, he was asked a number of (mostly loaded) questions,
including one (alluded
to earlier) about Solzhenitsyn. "And the legend which had been built
around him?" His answer managed to be both artfully diplomatic and
truthful: "Well, let's put it this way. I'm awfully proud that I'm
writing
in the same language as he does." (Note, again, how he expresses this
sentiment in terms of language.) He continued, in his eccentrically
pedagogical
manner, forceful, even acerbic, but at the same time disarming, without
any
personal animus: "As for legend ... you shouldn't worry or care about
legend, you should read the work. And what kind of legend? He has his
biography
... and he has his words. "For Joseph a writer's words were his
biography,
literally!
On
another visit to Iowa, in 1987, Joseph flew in at around noon and
at once asked me what I was doing that day. I told him that I was
scheduled to
talk to an obligatory comparative literature class about translation.
"Let's do it together", he said. Consequently I entered the
classroom, with its small contingent of graduate students, accompanied
by that
year's Nobel Laureate.
Joseph
indicated that he would just listen, but soon he
was engaging me in a dialogue, except it was more monologue than
dialogue. Finally,
he was directly answering questions put to him by the energized
students. I
wish I could remember what was said, but, alas, even the gist of it
escapes me
now. I did not debate with him, even though our views on the
translation of verse
form differed radically. Instead, I believe that I nudged him a little,
trying
- not very sincerely or hopefully, though perhaps in a spirit of
hospitality
and camaraderie - to find common ground. After the class, I walked back
with
him to his hotel, as he said he wanted to rest before the reading. On
the way,
the conversation, at my instigation, turned to Zbigniew Herbert, the
Polish
poet so greatly admired by Milosz and, I presumed, by Brodsky, and
indeed
translated by the former into English and by the latter into Russian.
Arguably,
Herbert was the preeminent European poet of his remarkable generation.
He was living
in Paris and apparently was not in good health. "Why hasn't Zbigniew
been
awarded the Nobel Prize? Can't something be done about it", I blurted
out
- recklessly, tactlessly, presumptuously. The subtext was: Surely you,
Joseph
Brodsky, could use your influence, etc. Joseph came to a standstill:
"Of course,
he should have it. But nobody knows how that happens. It's a kind of
accident."
He locked eyes with me. "You're looking at an accident right now!"
This was not false modesty on his part, but doubtless he was being more
than a
little disingenuous. Nevertheless, I believe that, at a certain level,
he did
think of his laureateship as a kind of accident. Paradoxically, while
he aimed as
high as may be, he was not in the business of rivalling or challenging
the
great. They remained, in a sense, beyond him, this perception of
destiny and of
a hierarchy surely being among his saving graces.
In a
far deeper sense,
though, they were not in the least beyond him, nor was he
uncompetitive, but it
did not (nor could it) suit his public or even private persona to
display this.
Brodsky certainly considered himself to be - and it is increasingly
clear that
he was - in the grand line that included Anna Akhmatova, Boris
Pasternak, Osip
Mandelstam and Marina Tsvetayeva. Even I sensed this, despite my
ambivalence
about his poetry. Indeed, the continuity embodied in his work accounts,
in
part, for my uncertainty: I have tended to rebel against grand
traditions. But
perhaps this is to exaggerate. At times I hear the music, at other
times the
man, even if, as a rule, I do not hear them both together ... But take,
for
instance, this (the last three stanzas of "Nature Morte" in George
Kline's splendid version in the Penguin Selected Poems):
Mary now
speaks to Christ:
"Are
you my son? - or God?
You are
nailed to the cross.
Where lies
my homeward road?
How can I
close my eyes,
uncertain
and afraid?
Are you
dead? - or alive?
Are you my
son? - or God?
Christ
speaks to her in turn:
"Whether
dead or alive,
Woman, it's
all the same-
son or God,
I am thine."
It is true
that, as I listen to or read the English, I hear the Russian too, in
Joseph's
rendition. I even see Joseph, his hands straining the pockets of his
jacket,
his jaw jutting, as though his eye had just been caught by something
and he
were staring at it, scrutinizing it, while continuing to mouth the
poem, almost
absent- mindedly, that is, while the poem continues to be mouthed by
him. His
voice rises symphonically: Syn ili Bog
(Son or God), "God" already (oddly?) on the turn towards an abrupt
descent; and then the pause and a resonant drop, a full octave: Ya tvoi (I am thine). And the poet, with
an almost embarrassed or reluctant nod, and a quick, pained smile,
departs his
poem.
Daniel
Weissbort: From Russia With Love
Note: Bài
này cũng cực thú. Bị khán giả chất vấn, mi so sao với Solz, Brodsky bèn
trả lời,
tớ có cái hãnh diện là viết bằng cùng thứ tiếng với ông ta:
"And
the legend which had been built around him?" His answer managed to be
both
artfully diplomatic and truthful: "Well, let's put it this way. I'm
awfully proud that I'm writing in the same language as he does." (Note,
again, how he expresses this sentiment in terms of language.)
Chỉ có hai nhà thơ sống sự
thực tuyệt đối của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là
Brodsky và TTT!
Dương
Nghiễm Mậu
Viết
Mua vì cái bìa, và bài viết về cú Xịa xâm nhập 1 tổ chức sinh viên ở
Moscow: Bạn của Quỉ:
When the CIA duped College Students
Mới post, nhưng GCC hết credit
.
The photojournalist Katie Orlinsky
travelled with Seymour Hersh to the village in central Vietnam,
forty-seven
years after the massacre.
|
Cám ơn Bác ghé thăm và comment. Bác nhầm Geoff Dyer với Pico Iyer rồi. Pico Iyer là người này đây. https://en.wikipedia.org/wiki/Pico_Iyer. Có thể không nổi tiếng bằng Dyer nhưng cũng là một tác giả có hạng rồi.
Like
Lầm thật. Mắt già, lé, nhìn người nọ ra người kia.
Like
Pico Iyer là tay đệ tử của Grrene,tôi cũng đang đọc, cùng lúc với Dyer, nên lộn. Đọc “Người đàn ông trong đầu của tôi”, The Man Within My Head,của Pico, mới thú. Viết về Greene, về Người Mỹ Trầm Lặng và về Saigon.
Liked by 1 person
Văn phong của Pico Iyer có nét lãng mạn nhẹ nhàng hao hao với cái lãng mạn trong văn phong của Micheal Ondaatje.