*




Bịp

*

Grow your tree of falsehood from a small grain of truth
Czeslaw Milosz, 1946

Dịch nhảm: Trồng quả lừa 30 Tháng Tư 1975 từ cái hạt nho nhỏ sự thực.
Sự thực này, có thực, theo cái ý của Kafka: Mi có thể xây tháp Babel, với điều kiện, đừng leo lên nó!

The most common sort of lie is that by which a man deceives himself: the deception of others is relatively rare offence
Friedrich Nietzsche, 1888

Vưỡn dịch nhảm: Cái quả lừa lớn nhất là, lừa chính mình. Ba cái lừa khác, lẻ tẻ.
Câu này áp dụng cho nền văn học Kách Mạng VC thật là tuyệt.  





Nguyễn Hưng Quốc

5 hrs ·

NỔI GIẬN

Lâu lắm rồi mới thấy người dân Hà Nội nổi giận một cách chính đáng như thế!

Note: Chắc là từ hồi Chống Mỹ Kíu Nước.
Xuống đường đả đảo, tố cáo bù nhìn Diệm đầu độc tù Phú Lợi.
 

THE WOLF AND THE LAMB

Gotcha-said the wolf and yawned. The lamb turned its teary eyes to the wolf. -Do you have to eat me? Is that really necessary?
-Sadly, I do. That's how it goes in all fairy tales: Once upon a time a naughty little lamb strayed away from its mother. In the woods it met a big wolf who...
-Excuse me; this is not the woods, just my owner's yard. I didn't stray ay from my mother. I'm an orphan. My mother was also eaten by a wolf.
-Never mind. After you die the authors of edifying literature will take of you. They'll work out the setting, the motives, and the moral. Don't be hard on me. You have no idea how inane it is to be a bad wolf. If it hadn't been for Aesop we would be sitting here on our hind legs watching the sunset. I get a kick out of that.
Yes, dear children. The wolf ate the little lamb, and licked his lips. Don't follow after the wolf, dear children. Don't sacrifice yourselves for a moral.

Zbigniew Herbert: The Collected Poems 1956-1998

Hà, hà! Tóm được mi rồi. Con chó sói lèm bèm và ngáp 1 phát
Con cừu con, nước mắt vòng quanh nhìn con sói khẩn khoản:
Ông phải ăn thịt tôi ư? Cần thiết lắm ư?
Con sói buồn bã, gật đầu.
Thì câu chuyện ngụ ngôn nào mà chẳng như thế: Ngày xưa có một con cừu con ngu ngốc, không nghe lời mẹ bỏ nhà đi giang hồ vặt, vô rừng, gặp 1 con chó sói.
Làm gì có rừng! Đây là sân của ông chủ đất của tôi. Tôi đâu có không nghe lời mẹ đi giang hồ vặt. Tôi là 1 con cừu mồ côi, mẹ tôi cũng bị ông ăn thịt.
Không sao đâu. Sau khi mi chết, đám nhà văn chúng nó sẽ lo lắng hết mọi chuyện. Chúng sẽ phịa ra hết, và sẽ choàng lên hết, bằng 1 câu chuyện ngụ ngôn, hoặc đạo đức, hoặc ám dụ cái con mẹ gì đó. Đừng làm khó đối với ta. Làm 1 con cáo xấu đâu có ai ham. Nếu không có mấy tên chuyên bịa chuyện thì hai đứa chúng ta sẽ ngồi dạng chân ra mà ngắm hoàng hôn...
Và thế là con sói đợp con cừu

Cây làm sao so với người được. Viết như thế, để hiểu cơn giận dữ khủng khiếp của người Hà Nội, khi nghe tin Diệm và bè lũ bán nước đầu độc tù Phú Lợi.
Và phải giận dữ như thế, hơn thế, thì cái cú thành lập MTGP mới càng thêm chính nghĩa!

Gấu quên béng vụ này. Lần gặp Nguyễn Quốc Thái, ông Trùm tờ Trình Bày, Bắc Kít di cư, cũng chống Mỹ Diệm như điên, ở nhà họa sĩ NDT, Tiểu Xề Gòn, không biết tên nào, trong hai tên, nhắc tới Phú Lợi, và anh kể ra là có 1 phóng viên VC thắc mắc về vụ này [anh nói tên tay này, mà Gấu quên mất], theo cái kiểu truy tìm sự thực lịch sử cuộc chiến Mít, của tên tà lọt Osin.
Anh phóng viên VC bèn tìm gặp những tên may mắn sống sót, và té ngửa ra là, chỉ là do tham ăn trúng độc, ỉa chảy, và Diệm bèn vội vàng cho xe cứu thương chở vô bịnh viện.
Nghe tới khúc đó, thì Gấu bèn nhớ ra liền, đã từng chứng kiến, trên mặt báo Xề Gòn lúc đó, hình ảnh xe cứu thương ùn ùn chở tù Phú Lợi vô nhà thương rửa ruột!

Bịa ra cú Phú Lợi, để thành lập MTGP. Mẽo hoảng quá, đổ quân vô. Thế là gây nên bao nhiêu tội ác, trời không dung, đất không tha. Bây giờ lại năn nỉ Mỹ trở lại.

Đừng chạy theo con chó sói VC. Đừng hy sinh, đừng nhỏ máu đầu ngón tay, vì 1 cú bịp bợm.
Đằng sau cú bịp Phú Lợi chẳng phải có chân lý nước Mít là 1, đạo đức cách mạng, con người mới Xạo Hết Chỗ Nói ư?



1942: Auschwitz

WHAT HAPPENED HERE

The ramp, symbol of Auschwitz for millions because they saw little else except the gas chambers. A huge, bare platform that lay between Birkenau and the mother amp and to which transports rolled from all parts of Europe, bringing Jews who still believed in labor camps. Scene of the infamous selections, where a handful of workers were sent to the right and the rest, the old, the very young, the unfit, were sent to the left, to the lorries, to the crematoria, still believing that somewhere ahead lay a resettlement area.

There I worked for eight months. There I saw three hundred transports arrive and helped to unload their bewildered cargoes. There I saw in action the greatest confidence trick the world has ever known; and there I had a profound change of thought about escaping.

I was determined to get out; but no longer because I wanted freedom for myself. I wanted to warn those yet to come what lay ahead because I knew they would rise and fight, as the Jews of the Warsaw Ghetto had fought. Once they knew the truth, they would refuse to walk meekly to the slaughterhouses.

The system behind the Great Swindle was very simple and very effective. As soon as a transport arrived, it was surrounded by SS men with submachine guns, rifles, or heavy bamboo canes. As the dazed victims tumbled out, they were forbidden to speak, and about twenty or thirty SS men were detailed to ensure that this rule was observed.

They ran up and down the ragged, shuffling lines, bellowing: "Silence, everybody! This is not a synagogue! Behave like civilized human beings and you will be treated well. Behave like animals and you will be treated like animals."

Invariably the order was obeyed, for these were people who were thoroughly confused and already a little demoralized by the fetid squalor of their journey. They wanted no trouble, particularly because they had their families with them and partly because they saw how quickly any of the few rebels were clubbed down by the SS.

So simple, as I say, and so effective. Without speech, without a whisper to fan spirit into flame, there can be no rebellion. Those who had doubts kept them to themselves and felt a little easier in their hearts when they saw an ambulance with a big red cross go by, though they would not have been quite so comforted, had they known that it was filled with the chemicals which were to kill them in the gas chambers half an hour later.

Rudolf Vrba with Alan Bestic, from I Cannot Forgive. Vrba arrived at Auschwitz in June 1942 and was soon assigned the task of sorting the luggage of Jews murdered in the gas chambers. At six P.M. on April 7, 1944, an alarm sounded in the camp: two men were missing. After a three-day manhunt, at which point Vrba and his fellow Slovakian Alfred Wetzler were thought to have escaped, the two men left their hiding place, snuck past the last fence, and trekked to their homeland. They coauthored the Vrba-Wetzler Report, which, along with other eyewitness accounts, provided incontrovertible evidence if the Nazi's mass extermination of Jews.

Đọc bài viết, thì lại nghĩ đến cú bịp của VC: Y chang!
Tuy nhiên cũng trong số báo này, có 1 câu cách ngôn, cũng thật đúng với nó: Những lời dối trá bảnh nhất, good lies, thì luôn luôn được tráng men, bằng chân lý: Chính cái chân lý nước Mít là một, kèm vào đó, là cái đói, cái khổ, và cùng với nó, là giấc mơ, một cuộc đời khác đẹp đẽ hơn nhiều, ở “quá”, beyond, lũy tre làng, đã khiến Miền Bắc nhỏ máu đầu ngón tay tình nguyện vô Nam chiến đấu.


Khi “Shoah” ra lò vào năm 1958, nó lập tức biến thành lịch sử. Tông tông Pháp lúc đó, Francois Mitterrand đi coi ngày đầu chiếu. Nhà cầm quyền Ba Lan đề nghị cấm. Gorbachev ra lệnh, chỉ một vài lần chiếu cho công chúng coi, ở Liên Xô, vào năm 1989.

Vaclav Havel coi ở trong nhà tù Czechoslovak.
Lần thứ nhất được chiếu trên màn hình TV, là ở Thổ Nhĩ Kỳ.
“Shoah”, tiếng Hebrew có nghĩa là "tai ương, thảm họa", và, kể từ khi có nó, thì nó “vượt” cái từ “Lò Thiêu”.

Lanzmann gọi "Shoah", một “giả tưởng về sự thực” và nói, ông tưởng tượng ra mình, như là cái đầu và như là linh hồn, của cả hai đấng, kẻ giết người và nạn nhân.
Ông cũng ơn ớn những rủi ro về mặt đạo đức, nhưng tin rằng, ông tuân theo cả hai: một, “ta ra lệnh cho mi tìm cho được cái gọi là sự thực”, và một, “làm ra một tác phẩm của ‘cái đẹp’”.

Vào lúc trình làng cuốn phim, ông phán, “Tôi cực kỳ tin nghệ thuật và đạo đức đồng nhất, là một. Tôi không làm phim tài liệu mà là một phim thực, và tôi muốn phim thực này thì tuyệt là đẹp”, và làm bật ra cái gọi là “cái đếch chịu được thì chịu được”: "make the unbearable bearable."
Cuốn phim như là 1 đáp ứng, phản pháo, đúng hơn, cho câu phán khủng khiếp của Adorno: "Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man".

*

LOOK AGAIN

"Shoah" and a new view of history.

What he doesn't emphasize (he says it in passing) is that Hitler's war against the Jews was an attempt to eliminate an entire people-to efface their identity altogether-whereas Stalin's campaign against, say, Ukraine was an attempt to eliminate not all Ukrainians but those who conceivably might resist collectivization and the triumph of Communism.

Điều ông không nhấn mạnh là cuộc chiến của Hitler chống lại Do Thái, là toan tính làm cỏ cả một dân tộc – xóa sạch căn cước của 1 giống dân – trong khi cuộc chiến dịch của Stalin chống lại Ukraine là toan tính làm cỏ không phải toàn thể dân Ukraine mà là những người chống lại tập thể hóa, và chiến thắng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Khi đám VC Bắc Kít thắng cuộc chiến, và đẩy đám sĩ quan Ngụy lên miền rừng thiêng nước độc Bắc Bắc Việt, và chiến dịch tiếp theo, sẽ đưa hết đám vợ con Ngụy lên đó, chẳng phải là để xóa sạch tất cả đám Ngụy, "một nửa" giống dân Mít?
Giả như không có tụi Tẫu dậy cho VC 1 bài học, liệu có còn, chỉ 1 tên Ngụy, sống sót?

*

Bịp

Bịp thì phong nhã hơn là thuổng
Cheating is more honorable than stealing

Cách ngôn Đức

Chúng ta bịp con nít bằng hột xúc xắc, bịp người lớn bằng lời thề dưới ánh sáng của Đảng
We cheat boys with dice, and men with oaths

Lysander, c.407BC

Chính cái tên Cù Lần mà tôi lừa dối hoài hoài là kẻ tôi yêu thương hoài hoài
It was the men I deceived the most that I loved the most

Marguerite Duras, 1987

Đàn ông sinh ra là để nói dối, vì đó là phần số của họ. Còn đàn bà, để tin họ.
Men were born to lie, and women to believe them

John Gay, 1728

Bạn có thể chắp cánh cho 1 con heo, nhưng chớ có biến nó thành con chim ưng
You can put wings on a pig, but you don’t make it an eagle

Bill Clinton, 1996
*

1942: Auschwitz

WHAT HAPPENED HERE

The ramp, symbol of Auschwitz for millions because they saw little else except the gas chambers. A huge, bare platform that lay between Birkenau and the mother amp and to which transports rolled from all parts of Europe, bringing Jews who still believed in labor camps. Scene of the infamous selections, where a handful of workers were sent to the right and the rest, the old, the very young, the unfit, were sent to the left, to the lorries, to the crematoria, still believing that somewhere ahead lay a resettlement area.

There I worked for eight months. There I saw three hundred transports arrive and helped to unload their bewildered cargoes. There I saw in action the greatest confidence trick the world has ever known; and there I had a profound change of thought about escaping.

I was determined to get out; but no longer because I wanted freedom for myself. I wanted to warn those yet to come what lay ahead because I knew they would rise and fight, as the Jews of the Warsaw Ghetto had fought. Once they knew the truth, they would refuse to walk meekly to the slaughterhouses.

The system behind the Great Swindle was very simple and very effective. As soon as a transport arrived, it was surrounded by SS men with submachine guns, rifles, or heavy bamboo canes. As the dazed victims tumbled out, they were forbidden to speak, and about twenty or thirty SS men were detailed to ensure that this rule was observed.

They ran up and down the ragged, shuffling lines, bellowing: "Silence, everybody! This is not a synagogue! Behave like civilized human beings and you will be treated well. Behave like animals and you will be treated like animals."

Invariably the order was obeyed, for these were people who were thoroughly confused and already a little demoralized by the fetid squalor of their journey. They wanted no trouble, particularly because they had their families with them and partly because they saw how quickly any of the few rebels were clubbed down by the SS.

So simple, as I say, and so effective. Without speech, without a whisper to fan spirit into flame, there can be no rebellion. Those who had doubts kept them to themselves and felt a little easier in their hearts when they saw an ambulance with a big red cross go by, though they would not have been quite so comforted, had they known that it was filled with the chemicals which were to kill them in the gas chambers half an hour later.

Rudolf Vrba with Alan Bestic, from I Cannot Forgive. Vrba arrived at Auschwitz in June 1942 and was soon assigned the task of sorting the luggage of Jews murdered in the gas chambers. At six P.M. on April 7, 1944, an alarm sounded in the camp: two men were missing. After a three-day manhunt, at which point Vrba and his fellow Slovakian Alfred Wetzler were thought to have escaped, the two men left their hiding place, snuck past the last fence, and trekked to their homeland. They coauthored the Vrba-Wetzler Report, which, along with other eyewitness accounts, provided incontrovertible evidence if the Nazi's mass extermination of Jews.

Đọc bài viết, thì lại nghĩ đến cú bịp của VC: Y chang!
Tuy nhiên cũng trong số báo này, có 1 câu cách ngôn, cũng thật đúng với nó: Những lời dối trá bảnh nhất, good lies, thì luôn luôn được tráng men, bằng chân lý: Chính cái chân lý nước Mít là một, kèm vào đó, là cái đói, cái khổ, và cùng với nó, là giấc mơ, một cuộc đời khác đẹp đẽ hơn nhiều, ở “quá”, beyond, lũy tre làng, đã khiến Miền Bắc nhỏ máu đầu ngón tay tình nguyện vô Nam chiến đấu.