
|

BORGES AND
THE RAVENS
I'm in
Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a
cold
autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few
rays that
cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic
tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery:
the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across
from the
grave of some government minister. It's really more like a park than a
cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I
the
keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and
tells me
how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From
what he
says it's clear that visitors always coming and going. But this morning
the cemetery
is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no
one
nearby. I think about Calderon, I think about the English and German
Romantics,
I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all.
I just
look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges,
the date
of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse.
And then
I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a
croak, a few
steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a
poem by
Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens,
enormous black
ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees
or run
through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like
walking, looking
at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what
I do,
growing more and more uneasy, with the ravens following me, always
keeping
within the bounds of the cemetery, although I suppose that one
occasionally
flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of
the lake
to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.
Roberto
Bolano: Between parentheses
Note:
Tay
Bolano
này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực,
trong
khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà
văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến,
cái nước mình nó thế!
GCC hình như
cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết
về… BHD,
hà hà!
Borges
và những con quạ
Tôi ở Geneva
và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời
lạnh, mặc
dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân
Geneva, một
giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên
lên.
Plainpalais,
nghĩa địa
Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà
Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1),
nơi, cứ xế trưa
là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của
một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa,
một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẩu đất cũng được chăm sóc.
Khi tôi
hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất,
gật gật cái
đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều
ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó,
quái làm
sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai
lảng vảng
quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng
Mao và Đức.
Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ
cái mẹ gì
hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông
sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái
băng ghế
đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn
ngữ quoạc
quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì
ở
Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận
ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò
giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ.
Và tôi cảm
thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu
may mắn,
tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi
lúc một thêm
bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong
nghĩa địa,
và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1
chuyến bay tới
đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái
vẻ dè bỉu,
khinh khi, tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những
hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa
Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở
thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
Borges
by Cioran
Cái ý tưởng
Borges đúng ra “không nên ca ngợi, người của bóng tối”, thực ra, nhiều
người đã
nói tới, trong số đó, có Borges, như lần ông phàn nàn Callois, người
giới thiệu
ông với nước Pháp, hay lần ông cho biết, sách của ông in ra, chỉ bán
được lèo tèo
có mấy cuốn, thế rồi đùng 1 phát, nổi tiếng khắp thế giới!
Hay như Steiner, khi
cho rằng cái giải thưởng cho Borges và Beckett khiến cả hai ông này đều
được biết
đến, làm khổ cả hai ông, và làm khổ chính độc giả của ông, một dúm
người thực tình
đọc được ông, coi ông là gia tài của riêng họ….
Theo Gấu,
Borges ghê gớm ở chỗ, ông rất “xoàng”, đối với người không đọc được
ông. Thí dụ,
Naipaul, hay Yann Martel, tác giả “Life of Pi”.
Mà đúng thế thực! Thơ của ông, “hay
vì xoàng”, theo Gấu. Chính Borges cũng nhận ra, và thú nhận, tớ làm thơ
xoàng,
nhưng vẫn mê làm thơ!
Tưởng
niệm Borges
Tôi muốn kể về cái lần tôi gặp
Borges. Tôi được bà bạn Victoria
Ocampo mời dùng bữa trưa có Borges cùng
dự, và được phái đi đón ông, tại Thư Viện Quốc Gia, để đưa ông tới căn
phòng của
bà, bởi vì ông mắt ông mù không còn nhìn thấy đường. Ngay khi cánh
cửa thư
viện đóng lại phía sau, là chúng tôi bắt đầu nói chuyện văn chương.
Borges nói
tới ảnh hưởng của G. K. Chesterton, và của Robert Louis Stevension ở
hậu thời ở
nơi ông. Thơ xuôi của Stevenson ảnh hưởng lớn lên tôi, ông cho biết.
Nhân
tiện, tôi châm vô 1 cú. Robert Louis Stevenson ít nhất là đã từng làm
thơ, và ít
nhất, tôi còn nhớ một bài của ông ta. Một bài thật là bảnh. Viết về tổ
tiên. Ðã từng xây những ngọn hải đăng lớn nơi bờ biển Scotland, và tổ
tiên là một
đề tài ruột của Borges.
Bài thơ bắt đầu:
Ðừng nói với tôi chuyện,
tôi chẳng khoái sinh con đẻ cái,
để nối giái tông đường, và,
thay vì vậy,
thì đánh bài chuồn ra biển
Những cái tháp mà chúng ta xây, và những ngọn đèn mà chúng ta thắp
Ðể chơi ở nhà với tờ giấy như một đứa bé.
Con phố Buenos Aires đông
người, quá ồn. Borges dừng lại ở hè
đường, đọc trọn bài thơ cho tôi nghe, không hỏng một từ. Sau bữa ăn dễ
chịu,
ông ngồi tại sô pha và lèm bèm tới chỉ về văn chương Anglo-Saxon, tung
ra những
tảng lớn, như những khúc cây. Tôi chịu, không thể theo kịp. Nhưng nhìn
vào mắt
ông khi đọc những tảng lớn thơ văn đó, tôi hết sức ngạc nhiên về cái sự
biểu
hiện của chúng. Chúng chẳng có chi là mù lòa. Nhìn, có cảm tưởng, như
thể,
chúng nhìn vào chính chúng, một cách thật là kỳ cục, và chúng thật là
bảnh,
thật thanh lịch, cao nhã.
Borges, tất nhiên cũng có cùng một cảm nghĩ như vậy về tổ tiên, về
những “gauchos” trong quá khứ. Những truyện ngắn hậu thời của ông, thì
đầy những
câu chuyện về những “gauchos”, một trong đó, ông viết, “Thì cũng như
những con
người của một vài xứ sở thờ phụng và cảm thấy tiếng gọi của biển, người
Á Căn Ðình
chúng tôi hú vọng về những cánh đồng bạt ngàn sôi reo dưới móng ngựa."
Ông là một người đàn ông can đảm cùng mình. Thời kỳ đệ nhị Peron, một
lần, khi ông
sống cùng dưới mái nhà với bà mẹ già, thì có 1 cú phôn bí ẩn. Một
giọng đàn ông,
“Chúng ông tới làm thịt mi, và bà mẹ của mi ngay bi giờ.” Bà cụ Borges
trả lời,
“ta chín chục bó, tới lẹ lên không không kịp, còn thằng con ta, nó thì
mù, chuyện
dễ ợt”. Giai thoại này theo tôi đưa ra 1 bức tranh toàn cảnh về gia
đình ông.
Lần
nào cũng như lần ấy, và thật nhiều lần, mỗi lần giở 1 cuốn sách của
ông, tôi đều
tìm thấy những câu, mà một thằng nhà văn như tôi, cũng từng có kinh
nghiệm viết
lách, thì thấy, cũng chẳng khác gì kinh nghiệm của tôi! Ông gọi, viết là một “giấc mơ
được dẫn dắt”, và
trong một dịp, ông viết:
“Ta đếch viết cho một thiểu số
được chọn lọc, chúng là cái chó gì
mà viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực thể lý tưởng ưa nịnh
hót, được
biết dưới cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn, trừu tượng, đó, ta đều
không
tin, tuy chúng thật là đáng quí đối với những tên mị dân. Ta viết cho
chính ta,
và cho bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời gian trôi qua."
Phán như thế,
thành ra, bất cứ
1 nhà văn, thứ thiệt, thì đều cảm
thấy ông thật gần gụi với họ.
.... Hỏi, chúng ta học được gì từ Mỹ Châu La Tinh, thì chẳng khác gì,
chúng ta học được gì từ "King Lear", những thảm kịch của Shakespeare.
Tôi nghĩ đến hoàn cảnh bi đát, the tragic situation, của Mỹ Châu La
Tinh. Thật khó mà biết chúng ta học đưọc gì từ đó, nhưng chúng ta phải
học được một điều gì đó, và nó tác động lên trí tưởng tượng của chúng
ta.
Một điều như cú làm thịt Archbishop Romero,
thí dụ.
Cám ơn Trời chúng ta không vướng vào hoàn cảnh như vầy, nhưng tôi tin
rằng một cách nào chúng ta học được 1 điều gì
đó, nó tác động lên vô thức của chúng ta.
Graham Greene
Note:
Đây chính là câu trả lời, “cũng” cho xứ xở chúng ta, mà Thầy Kuốc than
là, sao
bất hạnh quá!
Không lẽ
suốt “một thuở mang gươm đi dựng nước, ngàn năm thương nhớ Đất
Thăng
Long”, và làm thành 1 cái dải đất hình chữ S, sau khi làm cỏ không biết
bao nhiều
giống dân, sau cùng làm thịt luôn thằng em ruột thịt, và chỉ trong 40
chục năm làm cỏ cả 1 nền văn minh bốn ngàn năm, là chuyện... bất
hạnh?
Chúng
ta phải học được một điều gì đó, một điều gì tác động, không phải lên
vô
thức, mà lên
lương tâm, của 1 tên Mít, nhất là 1 tên Bắc Kít, tên “thắng trận”?
Những tác giả nào ảnh hưởng
mạnh nhất lên ông, khiến ông thành nhà văn?
Vào những ngày ngu ngơ, thì
những tác giả ảnh hưởng mạnh lên tôi, tôi phải nói,
bây giờ đếch ai còn đọc họ: Henry, Captain Brereton, Percy Westerman,
Marjorie
Bowen. Họ làm tôi thèm viết những câu chuyện,
hơn là kinh
nghiệm tiểu thuyết.
Sau đó, khi tôi bắt đầu viết, tôi bị ảnh hưởng tồi tệ của Conrad. Tồi
tệ, ấy là
tôi muốn nói, tôi bị ảnh hưởng bởi 1 cuốn tiểu thuyết dở của ông, The Arrow of Gold. Và cuốn này, thì
chính Conrad lại chịu ảnh hưởng nặng nề của Henry James. Ông này cũng
ảnh hưởng lên
tôi, về mặt kỹ thuật. Từ Henry James, tôi học được điều gọi là sự quan
trọng
của quan điểm, point of view. Nhưng Stevenson một bà con về phía mẹ tôi ảnh
hưởng lên tôi như là 1 người kể chuyện
Note: Nhà văn Mít có ai chịu
ảnh hưởng của… mũi lõ, cũng như… mũi tẹt nào chăng?
Đéo có!
Đéo đọc ai làm sao mà ảnh hưởng!
Tao ị ra cho người khác đọc, chứ sao lại phải đọc 1 kẻ nào khác!
Hà, hà!
V/v can đảm
cùng mình
On cowardice:
Tôi nghĩ tôi
hèn nhát, về mặt thể chất nhưng không, về mặt đạo hạnh
I think I’m
a physical coward but not an ethical coward
Về đạo hạnh
Tôi cố làm một
người đạo hạnh
I try to be
an ethical man
[Borges on
Borges]
Note: Tay
Bolano
này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực,
trong
khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà
văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến,
cái nước mình nó thế!
GCC hình như
cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết
về… BHD,
hà hà!
BORGES AND
THE RAVENS
I'm in
Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a
cold
autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few
rays that
cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic
tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery:
the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across
from the
grave of some government minister. It's really more like a park than a
cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I
the
keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and
tells me
how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From
what he
says it's clear that visitors always coming and going. But this morning
the cemetery
is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no
one
nearby. I think about Calderon, I think about the English and German
Romantics,
I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all.
I just
look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges,
the date
of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse.
And then
I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a
croak, a few
steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a
poem by
Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens,
enormous black
ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees
or run
through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like
walking, looking
at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what
I do,
growing more and more uneasy, with the ravens following me, always
keeping
within the bounds of the cemetery, although I suppose that one
occasionally
flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of
the lake
to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.
Roberto
Bolano: Between parentheses
Borges
và những con quạ
Tôi ở Geneva
và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời
lạnh, mặc
dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân
Geneva, một
giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên
lên.
Plainpalais,
nghĩa địa
Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà
Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1),
nơi, cứ xế trưa
là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của
một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa,
một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẫu đất cũng được chăm sóc.
Khi tôi
hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất,
gật gật cái
đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều
ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó,
quái làm
sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai
lảng vảng
quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng
Mao và Đức.
Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ
cái mẹ gì
hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông
sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái
băng ghế
đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn
ngữ quoạc
quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì
ở
Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận
ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò
giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ.
Và tôi cảm
thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu
may mắn,
tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi
lúc một thêm
bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong
nghĩa địa,
và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1
chuyến bay tới
đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái
vẻ dè bỉu,
khinh khi, tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những
hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa
Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở
thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
THE
WOMEN
READERS OF WINTER
During the
winter they seem to be the only ones brave enough to venture out into
the icy
cold. I see them at the bars in Blanes or at the station or sitting
along the
Paseo Maritimo by the water, alone or with their children or a silent
friend and
always carrying some book. What do these women read? wondered Enrique
Vila-Matas a few years ago. Whatever they can. Not always great
literature
(though what is great literature?). Sometimes it's magazines, sometimes
the
worst best sellers. When I see them walking along, bundled up, buffeted
by the
wind, I think about the Russian women who fought the revolution and who
endured
Stalinism, which was worse than winter, and fascism, which was worse
than hell,
and they always had books with them, when suicide would have been the
logical
choice. In fact, many of those winter readers ended up killing
themselves. But
not all of them. A few days ago I read that Nadezhda Yakovlevna
Khazina,
exceptional reader, author of two memoirs, one of them called Hope Against Hope, and wife of the
assassinated poet Osip Mandelstam, took part, according to a recent
biography,
in a threesome with her husband, news that inspired astonishment and
disappointment in the ranks of her admirers, who took her for a saint.
I,
however, was happy to hear it. It told me that in the middle of winter
Nadezhda
and Osip didn't freeze and it confirmed for me that at least they tried
to read all the books. The saintly readers of
winter are women of flesh and blood, and they couldn't be braver, Some,
it's
true, committed suicide. Others endured the horrors and returned to
their
books, the mysterious books that women read when it's cold and it seems
as if
winter will never end.
Roberto Bolano
Note: Bài này thú quá.
Đúng giọng cà chớn của Gấu Cà Chớn. Sẽ đi 1 đường dịch liền, để tặng nữ
độc giả của Tin Văn, nhân dịp SN GCC!
Nữ độc giả của
mùa đông
Vào mùa đông,
có vẻ như chỉ có họ, là những người, đủ can đảm, để “ai đi ngoài băng
giá”: Tôi
nhìn thấy họ, ở những ba ở Blanes, hay ở nhà ga, hay ngồi dọc Paseo
Maritimo, kế
bên dòng nước, một mình, hay với nhóc của họ, hay với 1 người bạn, và
luôn luôn,
với cuốn sách nào đó.
Đờn bà đọc,
OK, nhưng họ đọc cái giống chi, “nhẩy”?
Cách đây vài
năm, Enrique Vila-Matas đã lầu bầu 1 câu hỏi như thế. Thì bất cứ cái
gì họ có thể. Không phải luôn luôn, thứ văn chương nhớn (nhưng nè, văn
chương nhớn là
cái đéo gì vậy, hà, hà!] Khi
thì tạp chí, khi thì sách bán chạy nhất, thứ tệ nhất. Khi tôi nhìn họ
dảo bước,
co dúm người vì gió, tôi nghĩ tới những phụ nữ Nga chiến đấu cuộc cách
mạng và
chịu đựng chế độ Xì Ta Lin, tệ hại hơn mùa đông, chế độ Phát Xít, tệ
hại hơn địa
ngục và họ vưỡn có sách cùng với họ, khi mà tự tử là cách lựa chọn bảnh
nhất, hợp
lý nhất. Sự thực, rất nhiều độc giả của mùa đông đó chấm dứt, cả đọc
lẫn họ, bằng
tự tử. Nhưng không phải tất cả họ. Cách đây vài ngày, tôi đọc mẩu tin, Nadezhda
Yakovlevna Khazina, một nữ độc giả đặc
biệt, tác giả của hai hồi ký, một có cái tên là “Hy Vọng Chống Lại Hy
Vọng”, vợ
của nhà thơ Osip Mandelstam, bị Xì làm thịt, theo một cuốn tiểu sử mới
đây cho
biết, bà đã tham dự 1 trò chơi ba người, cùng với ông chồng. Một mẩu
tin như thế
gây ngỡ ngàng và bất bình, trong số những người ái mộ bà, vì họ vốn coi
bà là vì thánh. Tôi, khi đọc mẩu tin đó, thì lại cảm thấy rất ư là hạnh
phúc.
Bởi là
vì nếu như vậy, thì là kệ cha mùa đông, kệ mẹ giá lạnh, cả hai ông bà,
súng ống,
bãi đáp…. thì
đều OK cả, nó xác nhận với tôi, ít ra
cả hai đã cố đọc tất cả những cuốn sách.
Những độc giả thánh nữ của mùa đông là những phụ nữ bằng xương bằng
thịt, bằng
máu bằng huyết, và họ can đảm rất mực, không ai có thể can đảm hơn. Một
vài người
tự tử, đúng như thế. Những người khác chịu đựng những điều ghê rợn,
khủng khiếp, và trở lại với những
cuốn sách của họ, những cuốn sách bí ẩn mà phụ nữ đọc khi trời lạnh, và
có vẻ
như mùa đông sẽ chẳng bào giờ chấm dứt.
|
|