|
February 7,
2014
Le Promeneur
Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser
Posted by The New Yorker
This essay
is adapted from a chapter of “A Place in the Country,” a collection of
essays
by W. G. Sebald (1944-2001), translated from the German by Jo Catling,
which
comes out next week from Random House. In these linked essays, Sebald
takes up
the troubled lives of five writers and one painter with the delicacy,
intensity, and tone of sombre mystery for which he was known.
Bài tiểu luận
này được phóng tác từ 1 chương của "Một Chỗ trong Một Xứ", tuyển tập
tiểu luận của Sebald, sắp ra lò, trong đó, S. lèm bèm về những cuộc đời
chẳng
xuông xẻ của năm nhà văn và một họa sĩ, với trân trọng, với căng thẳng,
và bằng
1 giọng văn có tí bí ẩn lù tà mù, vốn ông thật thân quen với nó.
April 5,
2012
W. G.
Sebald’s Poetry of the Disregarded
Posted by
Teju Cole
Thơ của
những kẻ bị bỏ đi, chẳng ai thèm để ý đến, của
W.G. Sebald
Xuyên suốt
nghiệp viết của mình, W.G. Sebald làm những bài thơ, lạ làm sao, thật
gần gụi,
thật như văn xuôi của ông. Giọng điệu của ông, trong cả hai thể loại
thì luôn
luôn được nén xuống, kìm lại, nhưng làm sao giấu nổi đỉnh cao của
chúng, là của
1 thứ kinh cầu, tưởng niệm, thương tiếc. Thêm vào đó, là sự kiện này:
ông xóa
nhòa, làm mờ đi, những đường ranh phân biệt những thể loại văn thơ, và
thực thế,
hầu như tất cả những gì ông viết, không chỉ thơ và văn xuôi, thì còn
bao gồm lịch
sử, hồi ký, tiểu sử, phê bình nghệ thuật, những tuyệt chiêu về học giả,
kinh điển,
và sáng kiến, phát minh. Một chuyên
gia thuộc loại tổ sư trong cái việc trộn lẫn vào nhau những thể loại
văn học như
ông, thì đã được truyền nghề từ những bậc thầy rầu rĩ của thế kỷ 17, là
Robert Burton and Thomas Browne, và những câu văn dài thòng, quấn quít
vào
nhau, thành những vòng tròn giống như những cái thòng lọng, của Sebald,
thì cũng
còn là một hình thức tưởng nhớ đến những nhà văn tiếng Đức thế kỷ 19,
như Adalbert
Stifter và Gottfried Keller.
Nhưng mạnh hơn
nữa, là sự gần gụi của văn phong của
những tác phẩm của riêng ông, với những tác phẩm có trước chúng, của
những tác
giả như Robert Walser và Thomas
Bernhard.
Đối với chúng
ta, những kẻ đọc tác phẩm của ông, qua bản dịch tiếng Anh, tất cả tạo
thành, cái
gọi là, có tính Sebald [Sebaldian].
Tiếng tăm của
Sebald trụ vào bốn cuốn tiểu thuyết—“Vertigo,” “The Emigrants,” “The
Rings of
Saturn,” và “Austerlitz”— tất cả chúng, những suy tưởng về lịch sử của
bạo lực
nói chung, và về di sản của Lò Thiêu nói riêng. Cảm quan của chúng ta
về sự thành
tựu này còn được giầu có thêm nhờ những tác phẩm khác: những tác phẩm
xb khi ông
còn sống (những bài diễn thuyết “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, và
bài thơ dài
“After Nature”), và những tác phẩm xb sau khi ông mất (trong có tập
tiểu luận “Campo Santo”, những tập thơ ngắn “Unrecounted” và “For Years
Now”).
Vóc dáng của Sebald, giống của Roberto Bolaño, đưa ra ảo
tưởng,
cả hai đều sản sản xuất khoẻ lắm, khoẻ lạ thường, và “Qua
Đất và Nước”, "Across the Land and the Water”, tập thơ tuyển 1964-2001,
khi trình làng không làm
người đọc ngạc nhiên. Mười năm đã qua, vậy mà như ông vẫn còn sống, vẫn
đang viết.
"Qua
Đất và Nước”
khác hẳn mọi cuốn sách khác của Sebald ở điểm cực bảnh, thật đáng nể
này: nó có
cái phần viết đầu tay của ông. Bởi vì thành công văn học của ông đến
muộn (ông
được năm bó khi cái đầu tiên của những tác phẩm của ông được dịch qua
tiếng
Anh), và cái ông Sebald mà chúng ta biết đó, là 1 ông chín,“mature”
rồi, lừng lững một đấng rồi. Một
trong những cực thú của tập hiện đang, present, là ở trong cách
nó chỉ cho
chúng ta thấy, sự phát triển của giọng thơ của tác giả trên dòng thời
gian trên
mười năm, bắt đầu thập niên 1960, khi ông là một sinh viên. (1)
W.G. SEBALD'S
MENTAL WEATHER
A new documentary explores his wanderings
W.G.
SEBALD'S MENTAL WEATHER
Posted by
Simon Willis, January 26th 2012
When I left
the office the other afternoon for a screening of a new documentary,
the sky
was grey and overcast: good weather for watching any movie, perfect for
one
about W.G. Sebald. His book "The Rings of Saturn" (1995 in German,
1998 in English) records a walk he took around East Anglia in 1992,
during
which the author meditates on everything from herring fishing to the
Holocaust.
Darkness is always falling in Sebald's books, or clouds casting a
shadow or
"veils of mist" drifting in from the sea.
Grant Gee's
excellent new film, "Patience (After Sebald)", which is released in
Britain tomorrow, retraces the journey. The film combines grainy and
blustery
footage of Covehithe, Southwold, Dunwich and Somerleyton with
voice-overs from
writers and artists interpreting the book's web of associations. There
are also
audio recordings of Sebald himself. At one point he talks about fog and
mist,
and how much he admires the ability of Victorian novelists "to make of
one
phenomenon a thread which runs through a whole text."
That applies
to Sebald's work too. Weather in "The Rings of Saturn" is more than
mood. It's also a method of blurring what he sees, and a metaphor for
the
unbidden path the book takes. In the film, the author and academic
Robert
Macfarlane describes Sebald's work as "a vanishing of stabilities".
It's not unlike a phrase Macfarlane used in a recent piece about mist
for
Intelligent Life. Mist, he wrote, is
“trickster weather…it turns familiar landscapes strange, dampens
sounds, blurs
vision".
In one
passage in the book, which is explored in the film, Sebald takes a walk
on
Dunwich Heath in weather which is "uncommonly sultry and dark". After
a while—during which he thinks about Britain's forests, charcoal and
the
relationship between combustion and creativity—he finds himself back
where he
began, lost among the crisscrossing tracks. "The low, leaden sky; the
sickly violet hue of the heath clouding the eye...I cannot say how long
I
walked about in that state of mind, or how I found a way out."
"Patience
(After Sebald)" is released in Britain on January 27th
Khi
tôi rời văn phòng vào một buổi xế chiều, lo sàng lọc một tài tiệu mới,
bầu trời
khi đó thì xám xịt, đầy mây đen, đúng thứ tuyệt, để nằm dài coi phim,
và, vớ đúng
một phim về W.G. Sebald, thì quả là tuyệt cú mèo, như thằng cha Gấu vẫn
thường
xuýt xoa. Cuốn sách của ông, "The Rings of Saturn" (bản tiếng Đức,
1995,
tiếng Anh, 1998) viết về cái lần ông tản bộ East Anglia, vào năm 1992,
và
trong khi tản bộ ông trầm tư về mọi điều mọi thứ, từ đi câu cá
“herring” cho tới
Lò Thiêu.
Bóng tối luôn phủ xuống
những cuốn sách của Sebald, hay, mây làm
thành
1 cái bóng, hay một bức “màn sương”, lừng khừng từ biển trôi dạt về.
Cuốn
phim mới thần sầu của Grant Gee vẽ lại chuyến đi đó. “Nhẫn nại, (Theo
Sebald)”
["Patience (After Sebald)”], sẽ trình làng ở Anh, ngày mai [27 Tháng
Giêng,
2012].
Gồm những thước phim của
Covehithe, Southwold, Dunwich and Somerleyton,
lồng tiếng của những nhà văn, nghệ sĩ dẫn giải "lưới sách".
Có những đoạn là tiếng nói, audio recordings, của chính tác giả. Có 1
khúc, ông lèm
bèm về sương mù, sương muối, và thú nhận trước bàn thờ, ông mới mê làm
sao, những
nhà văn thời kỳ Victoria, ở điều này: cái khả năng thần kỳ của họ:
“biến một hiện
tượng thành 1 dải, chạy dài xuyên suốt trọn bản văn”
Đây là thủ
pháp “rắn nằm
trong cỏ”, "đếch biết đâu là đầu, đâu là đuôi", của Đông Phương ta. Rắn
thì cũng
1 loại rồng, đúng không?
Trên blog
của HHT có trích từ sách coi tướng
của VTL, giai
thoại “Song Long Nhiễu Nguyệt”, nói về hai
sợi râu [râu với lông thì cũng rứa],
dài ơi là dài:
Tướng
của cô
ta ẩn bên trong, không bong ra ngoài. Cô có hai sợi râu rồng, kéo thẳng
ra thì
dài tới đầu gối, để tự nhiên thì soăn lại từng vòng tròn nằm hai bên.
Tướng ấy
sách gọi là Song Long Nhiễu Nguyệt, Hai Rồng Nằm Ấp Mặt Trăng.
Độc giả TV tự
kiếm đọc, Gấu không dám viết ra ở đây, sợ Gấu Cái chửi, mi già rồi,
đừng tục
tĩu quá.
Đương nói
chuyện Lò Thiêu, vậy mà mi cũng đem chuyện dơ dáy chêm vô!
Hà, hà!
Nhưng điều
Sebald phán, về tiểu thuyết thời Victoria ở Anh, thì cũng áp dụng ngay
bong vô
của ông. Thời tiết ở trong "The Rings of Saturn" thì còn quá cả cái gọi
là “tâm trạng, tính khí”, mood. Đây cũng là một phương pháp viết: Làm
mờ những
gì ông nhìn thấy. Và còn là một ẩn dụ về một lối đi không mời mọc, tạ
từ khách, theo đó, cuốn sách lầm lũi đi mình ên. Trong cuốn phim, tác
giả, nhà
khoa bảng Robert
Macfarlane miêu tả tác phẩm của Sebald thì như là một sự “biến mất sự
vững vàng, tại
vị”. Như ông phán, trong 1 bài viết mới đây cho Intelligent Life, sương
mù thì
một thứ “khí hậu bịp bợm… nó biến những phong cảnh quen thuộc trở thành
lạ lẫm,
kỳ quặc, làm ẩm ướt âm thanh, tiếng động, làm mờ viễn ảnh, tầm nhìn”.
Bạn đọc, thấy
lại từ "ẩm ướt", và có phải là nó liên quan tới cái cửa mở ra mọi
siêu hình
học và tôn giáo, và tất nhiên, tới hai sợi râu rồng dài ơi là dài?
Trong 1 đoạn
của cuốn sách, được thăm dò, thám hiểm ở trong phim, Sebald làm 1 cú
lang thang
tại Dunwich, và thời tiết vào lúc đó thì “oi bức, âm u thật không giống
ai, không
giống bất cứ 1 lúc nào khác, nghĩa là rất ư là khác thường”. Sau một
lúc –
trong 1 lúc đó, thì ông nghĩ về những khu rừng của Ăng Lê, than củi, và
sự liên
hệ giữa đốt cháy và sáng tạo - ông thấy mình ngược trở lại, đúng ở nơi
bắt đầu,
thất lạc giữa những lối đi trùng lấp, “những con đường rừng chẳng dẫn
tới đâu”.
“Trời thì thấp, xám xịt một màu chì, cái màu tím bịnh hoạn của cái nóng
làm mù
mắt… Tôi không thể nói chừng bao lâu tôi lêu bêu trong trạng thái của
cái đầu như thế, và bằng cái nào tôi lại mò ra lối ra”.
Nguyễn Hà
Đông, người viết trò chơi điện tử 'Flappy Bird' thông báo trên Tweeter
là gỡ bỏ
nó khỏi App Store và Google Play từ trưa Chủ Nhật 9/2/2014. (Hình:
Thanh niên) (1)
Note: Cũng 1
cas “Bắc Kít cực kỳ thông minh”, như … Nobel
Toán, chăng?
NQT.
Nobel Toán, là cũng 1 thứ
“Phép Lạ Bí Ẩn”, như trong truyện ngắn của
Borges, “điều mi xin, đã được chấp thuận, granted”.
Trường hợp
Nobel Toán, có thể nói, Thượng Đế trao lộn món quà. Ông ta xin cái nhà,
Thượng
Đế lại nghĩ ông ta xin, cái bửu bối Nobel, để sử dụng nó, hô lớn, cái
Lăng Bác
kia, đi chỗ khác chơi cho được việc!
Còn với anh
Bắc Kít thông minh tài ba nghĩ ra trò chơi trim, Gấu nghi rằng, anh ta
rét. Đây
là tranh chấp quyền lợi, có thể.
Hình chụp liền
sau khi tới Toronto, chừng ít ngày, gặp lúc Sĩ Phú có show hát ở
Montreal, nghe
tin, bèn xỉa ngay cho năm trăm đô, nhờ Ngạc trao lại. Bèn đi thăm bạn,
và lấy
tiền gửi về cho mấy đứa nhỏ ở bên Lào. Khi anh về lại Mỹ, Gấu có phôn
cám ơn,
anh nói, mày mà qua sớm hơn 1 chút, khi tao còn làm business, thì khá
hơn thế
nhiều!
Bạn hút 1 thời.
Tks, many
Tks.
Thời gian nằm
Trại Phục Hồi Nhân Phẩm, ở Bình Triệu, Gấu gặp 1 tay, chuyên đóng hài,
hề của 1 đoàn
cải lương, nổi tiếng lắm, Gấu không còn nhớ tên, nhân tình cờ nhắc tới
SP, anh
cho biết, sư phụ tôi đó.
Hóa ra là anh bị gọi lính, bèn chạy chọt vô Không Quân,
được làm lính hầu cho ông Trùm Nha Trang, là Sĩ Phú!
Anh ta kể những
phen phục vụ Thầy, thí dụ như trong 1 cuộc diễn thuyết trước binh
chủng,
chỉ cần Thầy làm 1 cử chỉ nào đó, là Trò biết liền, và bèn bưng ly
“sinh tố”
tới!
Tuyệt!
Chưa kể bộ bàn đèn dã chiến, hai Thầy Trò đi đâu cũng thủ theo!
Tình cờ Gấu mới đọc bài
viết của Lý Hoàng Phong, về người em ruột, thi sĩ Quách Thoại.
Trước giờ Gấu cứ nghĩ, QT chết vì bịnh lao. Hóa ra ghiền. Ghiền qua lao
phổi.
Quách Thoại by LHP
GCC ôm hồ
sơ,
chờ thanh lọc, tại Trại Cấm Sikew Thái Lan
Viết
Khi gặp Faulkner, Gấu bèn nhận
ngay
là thầy - hay ngược lại, ông bèn nhận ra Gấu đúng là đệ tử của ông -
linh cảm ngay ra một điều
là, ông này sẽ dậy mình viết văn. Linh cảm ngay rằng thì là, dòng độc
thoại nội
tâm, dòng ý thức mà do ông là một trong những người khai sáng, không
chỉ hợp với
tạng người như Gấu, mà còn có thể, là một cơ may, thay đổi hẳn văn
chương Việt
Nam, vốn trọng cách viết những câu ngắn, từng ý từng ý, hết ý này mới
dám nhẩy
qua ý khác, trong khi với Faulkner, ý tưởng, câu kệ trùng lấp, chìm ẩn,
giấu mặt,
chỉ những độc giả sành điệu, chịu khó, chịu gian khổ cùng với người
viết, thì mới
nhận ra (1).
Có những hình ảnh, khi xuất
hiện, là chỉ để đấy, cho khỏi quên, chờ
đến đúng lúc mới nhập vào văn mạch.
Còn Graham Greene, đọc ông như
1 cách học tiếng Tây, phải đến già, đọc lại, Gấu mới nhận ra đây là một
trong những
ông thầy dậy văn chương của mình.
*
Eric Ormsby, khi điểm A Study
in Greene: Graham Greene and the art
of the novel, của Bernard Bergonzi, và Articles in Faith: The collected
‘Tablet’ journalism of Graham Greene, [TLS, số đề ngày 15 Tháng
Chạp
2006], cho
rằng, miền giả tưởng Greeneland ngày càng dễ nhận ra, chẳng khác gì một
Wessex
của Hardy, hay một Yoknapawpha County, của Faulkner, mặc dù Greene
chẳng ưa cái
nhãn hiệu này.
Hơn thế nữa, Greeneland là một
thứ "quê hương", miền giả
tưởng mà chúng ta mang theo cùng với chúng ta. Cho dù nó tít mù ở Phi
Châu, xa
lắc mãi Mexico, chúng ta nhận ra liền, nói chi đến Đông Nam Á, đến một
Phượng của Người Mỹ Trầm Lặng,
và Sài Gòn: Chúng là trạm ngưng cuối cùng, ga
chót, của
cuộc hành trình đạo đức của thế kỷ chúng ta.
Ông [Eric Ormsby] viết: Greeneland is a
demoralized landscape, Greeneland là quang cảnh quê ta, đã bị hư ruỗng,
thoái hóa, mất mẹ đạo đức.
Đây chính là hình ảnh 1 nước Mít, sau 1975.
(1) Nhóm "Sáng Tạo", trong
những
cuộc thảo luận, khi tấn công Tự Lực
Văn Đoàn, đã không nhận ra yếu tố câu kệ như trên [từng câu ngắn, sáng
sủa, mạch
lạc] của nó. Khi coi, với TLVĐ, chỉ là vấn đề ngôn ngữ, tới Sáng Tạo
chúng tôi,
mới có thứ văn chương của ý thức huỷ diệt sáng tạo, vô tình nhóm ST đã
đề cao
TLVĐ.
Bởi vì văn chương, nói cho
cùng, chỉ là vấn đề ngôn ngữ. Đây là điều
Roland Barthes nhận ra, khi đã quá chán thứ văn chương dấn thân của đám
hiện
sinh.
*
Cảnh tượng quê ta, the
"Greeneland", thì hư ruỗng. Những chi tiết trần
trụi, ngay cả khi lẩn lút, vưỡn bầy ra điều này. Cuốn “The Power and
the Glory”
bắt đầu: “Ngài Trench bước ra ngoài đường, trong nắng chói lòa, và bụi
trắng
xóa của xứ Mexico. Mấy con kên kên, từ trên mái nhà, dửng dưng vô hồn
nhìn xuống:
thằng cha này chưa chết, thịt chưa rữa, chưa bốc mùi”. Tuy Greene vẫn
được kể
như là một nhà văn với con mắt của một nhà điện ảnh, những dòng trên
cho thấy,
quyền năng của chúng, không phải chỉ do sự quan sát sắc bén, mà còn do
cay đắng
đến dã man, tàn bạo, của dòng chót. Ở những nhà văn kém tài hơn, sẽ trở
thành cải
luơng, thành hề, thành vãi linh hồn, nhưng Greene, vốn là một chuyên
viên bậc
thầy, cắt đánh rụp ba cái thứ khóc lóc ỉ ôi, ngay cả khi ông ló mòi dễ
dãi với
chúng. Đây là cái chất dửng dưng vô hồn, của những loài chuyên ăn thịt
người chết,
được đẩy lên đến tận đỉnh, theo nghĩa, rắn độc không còn biết cắn ai,
bèn nhè
chính cái lưỡi mình mà cắn!
Kể từ khi Greene mất vào năm
1991, và lần kỷ niệm lần thứ 100, năm
sinh của ông, vào năm 2004, tiểu sử của ông được quá chú ý, như muốn
hất bỏ phần
sáng tác qua một bên. Tiểu sử, hồi ký, thêm bộ tiểu sử khổng lồ, “được
phép của
tác giả”, gồm ba cuốn, của Norman Sherry. Tuy nhiên, vẫn còn một câu
hỏi làm bực
người đọc, đó là bản chất Ky Tô giáo của Greene, nó ra làm sao.
Ngay cả câu khẳng định nổi
tiếng của ông, đại ý, tôi phải kiếm ra
một tôn giáo, để đo lường con quỉ ở trong tôi, câu này cũng gây bực
mình, có
khi còn là do sự cố ý của chính người nói ra: Greene vốn là một thầy,
trong trò
đùa hóm hỉnh như vậy. Một kẻ tự huyền hoặc, cứ lấp la lấp lửng về chính
mình.
Những khuyng hướng, sắc thái
như thế, được sử dụng vào trong tiểu
thuyết, làm nổi bật cái “mép bờ nguy hiểm”, the “dangerous edge” của
chúng.
Về cuối đời, Greene định nghĩa
mình, kêu như chuông, một tay vô thần
Ky Tô giáo, a “Catholic atheist”. Tuy nhiên, có một sự miễn cưỡng, về
phần ông.
Bởi vì, với Greene cũng như với nhiều người Ky Tô, niềm tin là một cái
gì liên
quan tới ước muốn, ý chí. Và ý chí, thì cũng có khi mờ nhạt đi, yếu đi,
để rồi
lại mạnh lên, sau đó. Nhiều người chỉ trích Greene, Ky Tô giáo của ông
quá hạn
hẹp, chỉ chú trọng tới địa ngục và sự trầm luân. Nhưng những bài tiểu
luận tình
cờ, tản mạn của Greene, trong Aticles
of Faith, cho thấy, khác. Niềm bí
ẩn về Nhập
Thế mới làm Greene đau đầu, hơn là Lửa Địa Ngục.
Khi đọc cuốn "Nửa Đêm" của
Julian
Green, ông [Greene] viết, tay đồng
nghiệp người Tây của ông “có thể tả một cái dù khô dần đi dưới ánh lửa
bập
bùng, làm sao cho trở thành hình ảnh của trọn một kiếp nhân sinh”. Điều
này,
Greene cũng đã làm. Miền Greeneland có những cú thần sầu như vậy. Thần
sầu như
ánh lửa chập chờn hong ấm một cây dù ướt sũng nước mưa.
Theo nghĩa đó,
ngay cả mấy chú
kên kên đang ngồi trên đầu me-xừ
Trench kia cũng tượng trưng cho những sự kiện khủng khiếp, the
appalling facts,
về Nhập Thế. (1)
Viết
Blog NL
một khoảnh
khắc lớn trong lịch sử phê bình văn học của Việt Nam: sự xuất hiện của
Đỗ Long
Vân
cái nhìn của
ĐLV ngay lập tức đã thể hiện tinh tuý của "cơ cấu luận": để mở đầu tiểu
luận này, ĐLV dùng hình ảnh "chảy nước", vì mọi thứ ở Hồ Xuâ...n
Hương đều là chảy nước từ trong ra ngoài, từ đó dẫn tới mối quan hệ nội
giới-ngoại
giới
ĐLV cũng sản
sinh những cách nói xuất chúng: người ta hay "sống điêu trên một thế
giới
xa nguồn"
quyển sách
"chính thức" in năm 66 ở nhà Trình Bầy, nhưng trước đó nó đã xuất hiện
lần đầu tiên trên tạp chí Đại Học ở Huế, số 37 tháng Hai 1964
Mùa thu sót
lại
“Ở đây giờ
chỉ còn lại màu nâu ánh lên trong nắng và mùi lá sồi khô nhẹ nhàng
thoang thoảng.
Hôm qua và hôm nay trời ấm nhưng hồi trong tuần sáng thứ Năm đã có cơn
tuyết đầu
mùa, đủ đọng lại trên sân nhà chừng một hai giờ đồng hồ cho đến khi
nắng lên”
*
Xin chào bác
Trụ. Chắc bác chê cái câu này viết thiếu chủ từ hả bác.
Cần gì chủ từ
cho 1 câu văn như vậy.
"Khói củi ướt
nhóm trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù
như
sương". Câu này, trong "Pleiku một chút gì để nhớ" cũng không có chủ từ.
Có thể nói,
câu nào không có chủ từ là cực hay của Bà Tám!
Khi NQT tôi tập tành viết,
cũng
viết kiểu này, do học từ W. Faulkner, nhưng câu của NQT tôi cực dài,
cũng bắt
chước Faulkner, thí dụ, trong truyện ngắn Mộ Tuyết, trích:
Mộ Tuyết
Ba Xuyên, lần
viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên
viên kỹ
thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11
đường
Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ
dùng kỹ
thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái
tới những
đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu
thính viên,
biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa
chữa khi
trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè,
nhiều tạp
âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát
tín hiệu,
không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế
cùng
chuyên viên lắp đặt… Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một
hai ngày
làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười
ngày, nhiều
lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo
tìm kiếm,
sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.
Một thành phố
không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng
đài người
loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn,
hoặc khi
rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng
đời đã
qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ
trong
quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình…), hỏi khách tốt
nghiệp
đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn
làm việc,
thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể,
hay để
nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt
phạm vi
châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào
nhà
trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu
mới hiểu
chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này
Sự thực câu
văn không phải không có chủ từ, mà là, sử dụng cả 1 cụm từ, trong có
động từ
còn nguyên mẫu, infinitive verb, làm chủ từ. Kiểu viết này thường được
dùng cho
dòng văn độc thoại nội tâm, dòng ý thức… Sorry, dài dòng, nhưng biết
đâu
nhờ vậy
cách viết này sẽ được các nhà văn Việt khai phá thêm.
NQT
Cám ơn Bác.
Thật là cảm kích đã được Bác đọc, lại còn được Bác khen rất khéo. Nhưng
Bác khen
quá lời Tám không dám nhận sợ người đọc mắng cho. Chữ nghĩa của Tám
không đầy
lá mít làm gì dám so sánh với Faulkner và mong nhà văn Việt khai phá
thêm.
Bác có lẽ
thích khuynh hướng lãng mạn nên thích văn tả cảnh. Tám thì nghĩ sao
viết vậy
thôi. Cảm ơn Bác bao giờ cũng nói những lời tốt đẹp.
Tks. NQT
Sự thực, tôi
không thuộc khuynh hướng lãng mạn, và cũng không hẳn thích văn tả cảnh.
Nhưng mấy
câu tôi trích dẫn, nó “nói lên” tài miêu tả của người viết: sắp xếp
lại sự
kiện đúng như sự "tưởng tượng" của mình.
Dẫn ý Kafka,
để làm rõ thêm:
Viết như
thế chỉ là miêu
tả?
Proust nói,
những gì đã sống đều mong được sống lại. Miêu tả là làm sự vật sống
lại, theo sự
“sắp xếp” của người viết.
Như vậy
“cách” miêu tả rất quan trọng?
Đó là quan
niệm của Kafka, kỹ thuật chính là linh hồn của văn chương. (1)
|
|