*




AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

The Disquieting Resonance of 'The Quiet American'

by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET

An American comes into a foreign place full of ideas of democracy and how he will teach an ancient culture a better — in fact, an American — way of doing things. An Englishman awaits him there, protecting himself against such foolishness by claiming to care about nothing at all. And between them shimmers a young local woman who seems ready to listen to either suitor, and certain to get the better of both.
The Quiet American, by Graham Greene, was written in 1955 and set in Vietnam, then the site of a rising local insurgency against French colonial rule. In its brilliant braiding together of a political and a romantic tangle, its characters serve as emblems of the American, European and Asian way, and yet ache and tremble as ordinary human beings do. It also is a typically Greenian prophecy of what would happen 10 years later when U.S. troops would arrive, determined to teach a rich and complex place the latest theories of Harvard Square. Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are a lantered backdrop to a tale of irony and betrayal.
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American, like many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every other hotel. And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same story.

Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết.
Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai 
Người Mẽo trầm lặng của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American, like many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every other hotel. And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same story.
Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ rang là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác.
Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.

Trường hợp Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng từ từng mỗi viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức được so đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác phẩm Những Người Âu Châu, nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy ra ở trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào một trận địa. Độc giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy, bẩn thỉu, tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều cuộc chiến khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù những “nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa. Những nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định được, của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần, một khi con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt. Nhưng, cho dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler đã tìm được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với Fowler. Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được sợi thừng cứu mạng!

“Tôi là một kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”

Ở Lò Luyện Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và cùng với nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn bà thực, đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.

Gừng càng già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:

“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.  Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”

Nhưng theo Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo [fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của  Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau, vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.

Nhưng tác phẩm của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.

Ruth Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể, đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao được vậy.
Nó quả đã không bị phí phạm.

NQT



Cuộc chiến Mít, với những tội ác của nó, con số người chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương tâm đạo đức, mất tất cả "cái gọi là Mít", là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi từ "ý hướng tốt" của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng thứ ba, không theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít đúng là Mít, cho xứ Mít!
Những tài liệu, văn kiện, sự kiện liên quan tới cuộc chiến giữa anh Tẩy và Việt Minh, mới nhất, từ phía Tẩy đưa ra, mà Gấu đọc, thời gian sau này, cho thấy, cuộc chiến đó có thể tránh được, ít ra là về phía Tẩy, nhưng Vẹm, không chỉ cố tình và còn mong mỏi, làm đủ mọi cách cho nó xẩy ra, để làm cỏ sạch những đảng phái khác, mà chúng gán cho tội Việt Gian, bán nước, chưa kể những nhà ái quốc như Phạm Quỳnh, thí dụ. Bởi vì chỉ có cách đó, mới thu gom mọi quyền lực vào tay chúng.
Cũng thế là cuộc chiến thứ nhì, với Mẽo, chỉ có cách đó, mới biến cả 1 miền đất thành thù nghịch.

Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!

Ho Chi Minh

Visiting President Ho Chi Minh, I found him very courteous, and he explained the difficulties which had made him refuse my previous visit. He took me for a walk in the countryside surrounding his HQ. One had to keep a weather-eye open for American bombers. A helicopter approached and I wondered whether it was American, but it proved to be one of 'ours' and landed. A very pretty European girl appeared and began to walk off on her own. "Is she safe" I asked Ho Chi Minh and he called after her, "Come back. You don't know what our boys mightn’t want to do with you."
Graham Greene
[Thăm Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tôi nhận thấy ông rất lịch sự. Ông giải thích những khó khăn khiến ông từ chối lần thăm trước của tôi. Ông dẫn tôi làm một vòng dạo quê, quanh Tổng Hành Dinh của ông. Mọi người lúc nào cũng phải trông chừng máy bay Mẽo. Một chiếc máy bay lên thẳng sà xuống, tôi nghĩ thầm, dám tụi khốn đó nhưng hoá ra là của "phe ta". Chiếc lên thẳng đậu xuống mặt đất, và một em Âu Châu xinh đẹp xuất hiện, cứ thế làm một đường tự biên tự diễn, vung va vung vẩy đi một mách, không thèm ngó ngàng mấy đồng chí công an hay cận vệ...
"Này, liệu con bé có yên ổn không đấy", tôi hỏi ông Hồ.
Ông gọi với theo cô gái:
"Quay lại đây, con ngốc! Mày không sợ mấy thằng bỏi của chúng tao làm thịt mày hả?"]. 

Cái đoạn Bác Hồ biện bạch lý do từ chối gặp GG, trong “Ways of Escape”, giải thích rõ hơn.
GG ra Hà Nội, xin yết kiến, Bắc Bộ Phủ đếch cho gặp, buồn quá, chàng đi hít, và đó là lần đầu tiên chàng biết thú đi mây về gió, và rồi suốt đời mê luôn, tuy không ghiền. Sau cùng, chàng tung vịt cồ,“ blackmail” [chữ của GG] BBP, khiến chúng phải cho gặp Bác.

I went back to Indo-China for the fourth and last time in 1955 after the defeat of the French in the north, and with some difficulty I reached Hanoi - a sad city, abandoned by the French, where I drank the last bottle of beer left in the cafe which I used to frequent with Monsieur Dupont. I was feeling very ill and tired and depressed. I sympathized with the victors, but I sympathized with the French too. The French classics were yet on view in a small secondhand bookshop which Monsieur Dupont had rifled a few years back, but a hundred years of French civilization had fled with the Catholic peasants to the south. The Metropole Hotel where I used to stay was in the hands of the International Commission. Viet Minh sentries stood outside the building where de Lattre had made his promise, 'I leave you my wife as a symbol that France will never, never ... ' Day after day passed while I tried to bully my way into the presence of Ho Chi Minh. It was the period of the crachin and my spirits sank with the thin day-long drizzle of warm rain. I told my contacts I could wait no longer - tomorrow I - would return to what was left of French territory in the north.
    I don't know why my blackmail succeeded, but I was summoned suddenly to take tea with Ho Chi Minh, and now I felt too ill for the meeting. There was only one thing to be done. I went back to an old Chinese chemist's shop in the rue des Voiles which I had visited the year before. The owner, it was said, was 'the Happiest Man in the World’. There I was able to smoke a few pipes of opium while the mah-jong pieces rattled like gravel on a beach. I had a passionate desire for the impossible - a bottle of Eno's. A messenger was dispatched and before the pipes were finished I received the impossible. I had drunk the last bottle of beer in Hanoi. Was this the last bottle of Eno's? Anyway the Eno's and the pipes took away the sickness and the inertia and gave me the energy to meet Ho Chi Minh at tea.
    Of those four winters which I passed in Indo-China opium has left the happiest memory, and as it played an important part in the life of Fowler, my character in The Quiet American, I add a few memories from my journal concerning it, for I am reluctant to leave Indo-China for ever with only a novel to remember it by.

Graham Greene: Ways of Escape

Ngô Đình Diệm mang trong ông huyền thoại về một con người Mít hoàn toàn Mít, không đảng phái, không Đệ Tam, Đệ Tứ, không Việt gian bán nước cho Tây, cho Tầu, cho Liên Xô. Cùng với huyền thoại về một vĩ nhân Mít hoàn toàn Mít đó, là huyền thoại về một lực lượng thứ ba, như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Greene. Fowles khuyên anh chàng Mẽo ngây thơ, trầm lặng, mang Phượng về Mẽo, quên mẹ nó lực lượng thứ ba đi: lịch sử diễn ra đúng như vậy, nước Mẽo đã dang tay đón bao nhiêu con người Miền Nam bị cả hai bên bỏ rơi, những cô Phượng ngày nào. (1)

Trở lại Anh, Greene nhớ Việt Nam quá và đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình cảm: cái tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam, tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày hạnh phúc.
*
Lần thăm Việt Nam cuối, chàng [Greene] hít nhiều hơn lệ thường: thường, nghĩa là ba hoặc bốn bi, nhưng chỉ riêng trong lần cuối này, ở Sài Gòn, trong khi chờ đợi một tờ visa khác, tiếu lâm thay, của Vi Xi, chàng "thuốc" chàng đến bất tri bất giác, he smoked himself inerte.
Trong những lần trước, thường xuyên là với những viên chức Tây, chàng hít không quá hai lần trong một tuần. Lần này, một tuần hít ba lần, mỗi lần trên mười bi. Ngay cả hít nhiều như thế cũng chẳng đủ biến chàng thành ghiền. Ghiền, là phải hít trên trăm bi một ngày.

Trong Ba Mươi Sáu Chước, Tẩu Vi Thượng Sách,  Ways of escape, một dạng hồi nhớ văn học, Greene cho biết, đúng là một cơ may, chuyện ông chết mê chết mệt xứ Đông Dương. Lần thứ nhất viếng thăm, ông chẳng hề nghĩ, mình sẽ đẻ ra được một cuốn tiểu thuyết thật bảnh, nhờ nó. Một người bạn cũ của ông, từ hồi chiến tranh, lúc đó là Lãnh sự  tại Hà Nội, nơi một cuộc chiến tranh khác đang tiến diễn và hầu như hoàn toàn bị bỏ quên bởi báo chí Anh. Do đó, sau Malaya, ông bèn nháng qua Việt Nam thăm bạn, chẳng hề nghĩ, vài năm sau, sẽ trải qua tất cả những mùa đông của ông ở đây.

 "Tôi nhận thấy, Malaya 'đần' như một người đàn bà đẹp đôi khi 'độn'. Người ở đó thường nói, 'Bạn phải thăm xứ xở này vào thời bình', và tôi thật tình muốn vặc lại, 'Nhưng tớ chỉ quan tâm tới cái xứ sở đần độn này, khi có máu'. Không có máu, nó trơ ra với vài câu lạc bộ Anh, với một dúm xì căng đan nho nhỏ, nằm tênh hênh chờ một tay Maugham nào đó mần báo cáo về chúng."
"Nhưng Đông Dương, khác hẳn. Ở đó, tôi nuốt trọn bùa yêu, ngải lú, tôi cụng ly rượu tình với mấy đám sĩ quan Lực Lượng Lê Dương, mắt tay nào cũng sáng lên, khi vừa nghe nhắc đến hai tiếng Sài Gòn, hay Hà Nội."
Và bùa yêu ép phê liền tù tì, tôi muốn nói, giáng cú sét đánh đầu tiên của nó, qua những cô gái mảnh khảnh, thanh lịch, trong những chiếc quần lụa trắng, qua cái dáng chiều mầu thiếc xà xuống cánh đồng lúa trải dài ra mãi, đây đó là mấy chú trâu nước nặng nề trong cái dáng đi lảo đảo hai bên móng vốn có tự thời nguyên thuỷ của loài vật này, hay là qua mấy tiệm bán nước thơm của người Tây ở đường Catinat, hay trong những sòng bài bạc của người Tầu ở Chợ Lớn, nhưng trên hết, là qua cái cảm giác bi bi hài hài,  trớ trêu làm sao, và cũng rất ư là phấn chấn hồ hởi mà một dấu báo của hiểm nguy mang đến cho du khách với cái vé khứ hồi thủ sẵn ở trong túi: những tiệm ăn bao quanh bằng những hàng dây kẽm gai nhằm chống lại lựu đạn, những vọng gác cao lênh khênh dọc theo những con lộ nơi đồng bằng Nam Bộ với những lời cảnh báo thật là kỳ kỳ [bằng tiếng Tây, lẽ dĩ nhiên]: "Nếu bạn bị tấn công, và bị bắt giữ trên đường đi, hãy báo liền lập tức cho viên sếp đồn quan trọng đầu tiên".
Dịp đó, tôi ở hai tuần, và tranh thủ tối đa, tới giây phút cuối cùng, cái giây phút không thể tha thứ , "the unforgiving minute". Hà Nội cách Sài Gòn bằng London xa Rome, nhưng ngoài chuyện ăn ngủ... ở cả hai thành phố, tôi còn ban cho mình những chuyến tham quan nơi đồng bằng Nam Bộ, tới những giáo phái lạ lùng như Cao Đài mà những ông thánh gồm Victor Hugo, Giê Su, Phật, Tôn Dật Tiên...

Norrman Sherry: Tiểu sử GG


AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

"*

THE QUIET AMERICAN

by Graham Greene, 1955

Greene's book is widely regarded as a classic, prophetic literary tale that examines the start of American engagement in Vietnam. The acclaimed English novelist and journalist, who covered the French war in Vietnam from 1951 to '54, set the book in 1954 Saigon. The quiet American of the title is Alden Pyle, who tries to forge an American solution to the Communist insurgency. Another character, cynical British journalist Thomas Fowler, say of Pyle : "I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused”. In a discussion of The Quiet American , essayist Pico Iyer said: “Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are a lanterned backdrop to a tale of irony and betrayal." Greene died in 1991.
Note: Bài viết ngắn trên, trong số báo trên, trong nhắc tới câu của anh ký giả ghiền Hồng Mao, nói về anh Mẽo trầm lặng: "Tôi chưa từng thấy thằng nào có những ý hướng tốt đẹp hơn, như anh, về những khốn nạn mà nó gây ra [cho xứ Mít, ở đây]".
Quả như thế thực. Đau thế.
Bài viết ngắn nhắc tới Pico Iyer. Tò mò, Gấu lần ra bài viết của tay, cũng thật là tuyệt vời, về GG:

The Disquieting Resonance of 'The Quiet American'

by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET

Cả cuộc chiến Mít, với những tội ác của nó, con số người chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương tâm đạo đức, mất tất cả "cái gọi là Mít", là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi từ ý hướng tốt của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng thứ ba, không theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít đúng là Mít, cho xứ Mít!
AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!

Rợp bóng Greene: Tháng 11, 2005, trên tờ Newsweek, ký giả Christopher Dickey viết, “Một lần nữa, những lầm lẫn chết người của những thiện ý của Tông Tông Bush làm nhớ đến anh chàng Mẽo ngây thơ Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng”. Tay ký giả Mẽo đi 1 đường trích dẫn, về những ngày đầu Mẽo vô Miền Nam:
'He was absorbed already in the dilemmas of Democracy and the responsibilities of the West; he was determined - I learnt that very soon - to do good, not to any individual person but to a country, a continent, a world ... When he saw a dead body he couldn't even see the wounds. A Red menace, a soldier of democracy'. Replace the word 'Red' with 'Islamic', and fast forward 50 years.

Chỉ cần thay từ Đỏ, bằng từ  Hồi Giáo, là thấy 50 năm trôi qua.

Malcolm Pryce's top 10 expatriate tales

Michael Caine in The Quiet American.

Michael Caine as Fowler in The Quiet American. Photograph: PR

Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
Ostensibly it is about the eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the 50s. But what lingers is the relationship between the world-weary newspaper correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly skewers the superfluity of western notions of love that invariably inform such situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.

Cuốn Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.

Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của tay này mới thật là đểu: Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency. [Bên dưới cuộc tình thơ mộng là sự tính toán của bà chị, lợi dụng nhan sắc cô em để đảm bảo cuộc sống gia đình].

Nhưng mà đúng y chang!
*


*

I. REMINISCENCES
The creative writer perceives his world once and for all in childhood and adolescence, and his whole career is an effort to illustrate his private world in terms of the great public world we all share.
-"The Young Dickens," Collected Essays

Tác phẩm quan trọng. Nhưng con người của tác giả quan trọng hơn.

Nhà thơ NDT

Lạ. Thường thì người ta quan niệm con người chẳng là gì trước tác phẩm của nó. Roland Barthes chẳng đã từng đề nghị làm thịt tác giả, chỉ giữ lại tác phẩm.
Đọc bài viết cũng thật lạ. Nhà thơ rất chán, cái gọi là cái chết.
Khác hẳn Gấu, và 1 số người như Gấu, trong có bạn quí NXH. NXH thường hay than về chết, về chán, về tự tử. Chính vì thế mà anh thật mê câu của Camus, suy nghĩ đời đáng sống hay không đáng sống là trả lời câu hỏi cực kỳ cơ bản của triết học. TTT, trong Bếp Lửa, qua nhân vật Tâm, cũng nói đến cái chết giữa lũ Mít trên đường phố Hà Nội, vì đảng phái thanh toán nhau. Không phải vì bị Tẩy làm thịt.
Kỷ niệm đầu đời của Greene là hình ảnh của cái chết. Gấu cũng thế. Chính cái chết làm chúng ta nhận ra đời sống.

Cuốn trên, mới mang về nhà. Đọc loáng  thoáng, thấy cũng thật thú. Greene đúng là 1 tác giả Gấu cực mê, khi về già, tuy là 1 trong những tác giả, đọc ngay khi bắt đầu tập đọc những tác giả nước ngoài, chỉ để học tiếng Tẩy.
Kỷ niệm đầu đời nhớ hoài, của Greene là hình ảnh 1 con chó chết.
Của Gấu, thì là hình ảnh ông bố của mình, bị 1 đấng học trò buộc đá bỏ xuống sông Hồng, không xa nơi ông làm hiệu trưởng trường tiểu học Việt Trì.
Khi về lại Đất Bắc, Gấu đã thực hiện được giấc mơ của mình, tới đúng chỗ ông bố bị làm thịt, thắp 1 nén hương cho ông, rồi đi.
Thảo Trường nhận ra liền, phán, thế là đủ rồi, OK rồi, khỏi về nữa.

Note: Câu của Greene, được trích dẫn trên, mở ra cuốn Portable, có thể áp dụng cho Căn Nhà Ngói Đỏ của NXH. Cái viết của NXH, thật nhất, là ở trong Căn Nhà Ngói Đỏ, như ý câu của Greene: Nhà văn sáng tạo cảm nhận ra thế giới của mình, một lần, cho tất cả, ở trong thời ấu thơ, và thuở ngây ngô ngốc nghếch của mình. "Hang Động Tuổi Thơ", Nha Trang, của NXH, có gì tương tự với Tipasa của Camus. NXH cũng đã từng có 1 bài viết Trở Về Nha Trang, như Trở Về Tipasa của Camus.
Trong những tác phẩm của NXH, khi Gấu ra hải ngoại quá trễ - hết Mùa Biển Động rồi, về lại với VC đi, như 1 trong 5 nhà văn nữ hàng đầu trước 1975 khuyên - Gấu chỉ có cuốn đó.
Và cũng chỉ đọc có cuốn đó, khi anh còn mỗi cuốn đó, gửi cho.

Gấu tính viết về cuốn Căn Nhà Ngói Đỏ, nhưng tìm hoài không thấy. Và trong khi lục lọi cái đống sách vở đang chờ để bị thiêu hủy, sau khi Gấu đi, như Gấu Cái thường hăm he, mi mà chết rồi, thì vứt thùng rác hết, đâu có ai đọc, vớ cuốn của Susan Sontag, Where the Stress Falls, trong có bài của bà về Joseph Brodsky. Bà viết thêm ra cái ý của Gấu, và của nhà thơ NDT:
The work, the example, the standards – and our grief – remain. Tác phẩm, thí dụ, những tiêu chuẩn – và nỗi đau của chúng – còn lại.
Thiếu nỗi đau, là đếch có được.
Bài cũng ngắn thôi, thư thả, TV sẽ dịch hầu quí vị độc giả TV.
Thú câu này:
Nhà là tiếng Mít. Đếch phải nước Mít.
Home was Russian. No longer Russia.
Nước Mít đếch còn nữa [tất nhiên là với GCC hay NXH]
Tuyệt!
Và thế là ông sống hầu hết đời của mình ở đâu đó: ở đây, Mẽo.
Cực tuyệt!
And so he lived most of his adult life elsewhere: here. 

Nguyễn-Xuân Hoàng: văn và người

Bùi Văn Phú

Tôi cũng là thày giáo, thuộc thế hệ đàn em và trưởng thành ở nước ngoài nhưng vẫn nhớ thời học sinh nên thường cùng anh chia sẻ vui buồn phấn trắng, bảng đen, về học trò tinh nghịch. Nói chuyện toán, lý hóa, vạn vật anh cũng đầy kiến thức, nhưng đam mê là với Nietzche, với Sagan, với Satre.

Note: Tên của N và của S, viết trật.
Gấu đi 1 cái còm dưới bài viết nhưng trục trặc hoài, nên đành phải post ở đây.
Cả hai đều là thầy cả, và NXH còn là thầy dậy triết, nhà văn… viết trật tên như thế, kỳ quá.
Thứ nữa, đam mê của NXH, là với Camus, đúng hơn. Nietzsche, có, do cái mùi hư vô ở trong những nhân vật của anh.
Sagan, chắc không. Nhí quá


By Clive James 

Your death, near now, is of an easy sort.
So slow a fading out brings no real pain.
Breath growing short
Is just uncomfortable. You feel the drain
Of energy, but thought and sight remain: 

Enhanced, in fact. When did you ever see
So much sweet beauty as when fine rain falls
On that small tree
And saturates your brick back garden walls,
So many Amber Rooms and mirror halls? 

Ever more lavish as the dusk descends
This glistening illuminates the air.
It never ends.
Whenever the rain comes it will be there,
Beyond my time, but now I take my share. 

My daughter’s choice, the maple tree is new.
Come autumn and its leaves will turn to flame.
What I must do
Is live to see that. That will end the game
For me, though life continues all the same:

Filling the double doors to bathe my eyes,
A final flood of colors will live on
As my mind dies,
Burned by my vision of a world that shone
So brightly at the last, and then was gone.


Phong Nhựt Bổn

Cái chết của bạn, liền bi giờ, thì cũng là chuyện dễ dàng
Một cái chết từ từ, theo kiểu nhạc TCS, nhạt nhoà trong mưa, thường không làm đau
Hơi thở ngắn đi, đúng là không được thoải mái cho lắm
Bạn cảm thấy não khô kiệt, hết xí oát, nhưng ý nghĩ và cái nhìn, còn:

Thực sự mà nói, như được cú hích - nhập cuộc, dấn thân, chúng ta đã xuống thuyền, nói theo kiểu hiện sinh-
Bạn có khi nào nhìn thấy cái đẹp ngọt ngào, dịu dàng, nhiều đến như thế này, bao giờ chưa,
Khi mưa nhẹ, mịn, [cái “gì gì”, "đậu bằng quá giá vũ như ti","have you ever seen the rain"]
Mưa, mưa trên cây nhỏ
Và làm đầy những bức tường gạch khu vườn đằng sau
Ui, biết bao nhiêu là Amber Rooms và “cao đường minh kính”?

Điêu tàn/hoang tàn/đổ nát… biết bao, khi bóng đêm thả xuống
Cái lung linh của cái gì đang trở thành hoang tàn, đổ nát,
Làm sáng ngời không khí, bầu trời
Chẳng bao giờ tận.
Bất cứ khi nào mưa rơi, là cái đẹp như thế, bèn trở về, bèn xuất hiện, bèn có đó
Vượt quá cả thời gian của tôi, nhưng vào lúc này, tôi có phần chia của mình

Con gái tôi chọn, cây phong, mới
Thu tới, và lá của nó trở thành ngọn lửa
Điều tôi phải làm là,
Sống và chiêm ngưỡng nó
Cuộc chơi kể như chấm dứt với tôi, như thế đó,
Mặc dù cuộc đời vưỡn tiếp tục, vũ như cẩn:

Làm đầy cửa kép, tắm mắt tôi
Bằng trận lũ mầu sắc sau cùng
Sẽ sống mãi
Trong khi cái đầu của tôi ngỏm
Do bị đốt cháy bởi viễn ảnh của mình
Nó chiếu sáng rực rỡ đến phút chót
Và rồi, xong!
Adieu bạn quí,
GCC!
NDTM!

Hà, hà!

Note: Bài thơ này, đăng trên tờ The New Yorker, và được tòa soạn cho điểm, most popular!
GCC chôm liền, khi mua tờ báo!

Pablo Antonio Cuadra
Spanish
1912-2002

THE PAIN

What tells me to start
fingering the harp strings?-
already in me
the pain of distance begins.
One
Sail
            a long way out
                                   is all it takes.

Cái đau

Điều nói với tôi khi bắt đầu bấm sợi dây đàn
Thì đã có ở trong tôi ngay từ lúc bò ra khỏi bụng mẹ rùi
[Thành thử mới khóc dữ như thế]
Nỗi đau của khoảng cách – thì cứ phán đại, từ Toronto tới San Diego –
Bắt đầu
Một cú ra khơi
Một viễn du dài
Là tất cả những gì mà nó lấy

Note: Bài thơ này, ngược hẳn lại với bài thơ trên, tuy nói cùng 1 điều, mà Weil phán, và Milosz vinh danh bà, khi lập lại, trong diễn từ Nobel của ông:

Simone Weil mà tôi mang nợ rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả. Tôi là Ðứa bé của Âu châu, như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa nhận, nhưng đó là 1 thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn sách tự thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ chi, có tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một Âu châu thứ nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của Thế Kỷ 20”. Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát. Tôi phải nói về thơ ca và cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với một số hoàn cảnh kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw Milosz

Chính là nhờ đọc đoạn trên đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng đời đẹp nhất, và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của những bản nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.
Cái câu phán hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong những bản nhạc sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!


AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

Đầu năm nay, trong khi dậy khóa MFA ở Đại Học Columnia, tôi có 1 cuộc bàn luận sôi nổi với một nhóm sinh viên về Người Mỹ Trầm Lặng. Với một số, ở giữa tuổi đôi mươi thì đây là lần đầu gặp GG, qua sách. Hầu hết thì coi phim, ấn bản mới, làm lại, với Brendan Fraser là diễn viên. Ai cũng có nhiều điều để nói, đặc biệt là về tính cách của nhân vật chính Alden Pyle, và, anh ta là cái gì đối với xã hội văn hoá, và chính trị Mẽo.
Điều thú vị của buổi nói chuyện, là, nếu có ai tình cờ ghé qua, và trong đầu chẳng có gì về cuốn sách, hay là có tí ti, thì cũng đều tỏ ra ngỡ ngàng, tại làm sao mà 1 cuốn tiểu thuyết được xb cách cả nữa thế kỷ, mà lại "hot" đến như thế

Lẽ dĩ nhiên, sinh viên của tôi khó có thể, là những người đầu tiên, nhận ra sự thích đáng của những đóng góp, xây dựng trong những giả tưởng của Graham Greene lên thực tại, là chính trị của thế giới thực của thế kỷ thứ 21. Phillip Noyce, giám đốc 2002 film version, đã làm 1 đường so sánh, trong 1 cuộc phỏng vấn với tạp chí Salon, trước khi xẩy ra cú xâm lăng Iraq:
“G. Bush đúng là từ cái bóng của anh chàng Mẽo, Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng, bò ra!” Anh ta thật khó mà là người dưng, kẻ xa lạ, kẻ ở bên lề, mà đúng "một trăm phần dầu" Mẽo, đi tới đâu là mang đủ hành lý Mẽo, chật cứng những thiện ý, luôn tin tưởng, ta là người đem đến câu trả lời: Anh ta rất ư là ngây thơ, naïve, nói cho cùng, đếch phải thứ cực kỳ thông minh, cực kỳ sáng suốt, thật sáng ngời, nhưng than ôi, bất hạnh thay, cực kỳ nguy hiểm!”
Monica Ali

Gấu phải đi 1 đường dài dòng như vậy, để cánh cáo lũ VC, vào lúc này, chúng mê Mẽo hơn bao giờ hết, sau khi dâng vợ con cho thằng Tẫu, để đánh cho bằng được Mỹ Cút, Ngụy Nhào, ăn cướp cho bằng được, Miền Nam, tống cho bằng được lũ Ngụy vô Lò Cải Tạo.

Đọc Ways of Escape, một thứ tự thuật, thì thấy là Graham Greene quá mê xứ Mít, Nam Kít đúng hơn, nhưng ông tin tưởng ở cuộc chiến, khi đứng về phía Bắc Kít, và coi trận Điên Biên Phủ, là “top ten”, trong những trận chiến nổi danh trên thế giới. (1)
Thì ai cũng nghĩ như thế cả, làm sao nghĩ khác đi cho được, nhất là Miền Nam!
Chỉ đến sau 30 Tháng Tư thì chân lý mới lộ ra, và chỉ đến bây giờ, thì cả nước mới biết được, VC đã đem cầm cả đất nước cho Tẫu, và còn dâng thêm vợ con cho chúng, để ăn cướp cho được Miền Nam!
"Hà Lội ta hiên ngang ngẩng đầu" cái con khỉ.
Cách đọc "Người Mỹ Trầm Lặng", ngay cả ở thế kỷ thứ 21, thì cũng nằm theo dòng suy nghĩ này.
Đau thế!

(1)

Còn 1 hồi nhớ khác nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được, là 24 tiếng đồng hồ sặc mùi tận thế là đây, mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng Giêng 1954. Chín năm sau, tôi được tờ Sunday Times đi 1 đường hỏi thăm, và đề nghị viết, về 1 “trận đánh quyết định”, tùy tôi chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.
Mười lăm trận quyết định trên thế giới, là cái tít thật là cổ điển mà Edward Creasy đã ban cho cuốn sách của Sir, vào năm 1851. Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó, có một, bảnh, “quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào năm 1954.
Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.

Tưởng Niệm Greene [1904-1991]

“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.  Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”

Nhưng theo Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo [fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của  Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau,  vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.
Nhưng tác phẩm của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.
Ruth Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể, đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao được vậy.
Nó quả đã không bị phí phạm. (1)

*

AFTERWORD

Reading Graham Greene in the Twenty-First Century

Monica Ali

Earlier this year, while teaching on the MFA course at Columbia University, I had a lively discussion with a group of students about The Quiet American. For some of the students, mainly in their mid-twenties, it was their first (print) encounter with Graham Greene. Most had seen the movie - the remake version, starring Brendan Fraser. Everyone had plenty to say, particularly about the character of Alden Pyle and what he signified about American society, culture, and politics, and the role of the United States in international affairs. What was remarkable about the discussion was that if someone had walked into the seminar halfway through they would have had little idea that the book being discussed was written and published over half a century ago, such was the contemporary heat of the debate.
    Of course my students were hardly the first to notice the relevance of Greene's fictional construct to the real-world politics of the twenty-first century. Phillip Noyce, the director of the 2002 film version, drew this comparison in an interview with Salon magazine, prior to the invasion of Iraq: 'George Bush is the ultimate Alden Pyle! He's hardly been out of the country, he's steeped in good intentions, believes he has the answer, is very naive, ultimately not that bright, and extremely dangerous'. In a November 2005 article in Newsweek, journalist Christopher Dickey, had this to say: 'Once again, President Bush's lethally misguided good intentions are reminiscent of Alden Pyle in Graham Greene's novel The Quiet American, about the early days of the US involvement in Vietnam'. He goes on to quote a key passage from the book. 'He was absorbed already in the dilemmas of Democracy and the responsibilities of the West; he was determined - I learnt that very soon - to do good, not to any individual person but to a country, a continent, a world ... When he saw a dead body he couldn't even see the wounds. A Red menace, a soldier of democracy'. Replace the word 'Red' with 'Islamic', and fast forward 50 years.
    President Bush himself, in a speech to the Veterans of Foreign Wars convention in 2007, referred to the novel. 'In 1955, long before the United States had entered the war, Graham Greene wrote a novel called The Quiet American. It was set in Saigon and the main character was a young government agent called Alden Pyle. He was a symbol of American purpose and patriotism and dangerous naivety'. Bush's, surely misguided, intention was to turn around Greene's idea of American naivety in entering the war and apply it to those now calling for troop withdrawal from Iraq. That Greene should have written a novel that remains so alive today, called upon by both sides of a contemporary political divide, is testament to his brilliance not only as a chronicler of the trouble spots of the twentieth century, but also as a writer who cuts to the quick of the ideas, attitudes, and human foibles that continue to fuel conflicts in this new millennium.
    It is perhaps somewhat ironic that Pyle, a character who has frequently been decried as mere caricature, retains the power to stir controversy so long after his inception. Characterisation, however, is one of Greene's great strengths. He can draw in a line or two a clearer portrait than many writers produce over several pages. Consider this description of the soldier briefing journalists visiting the field of combat. 'A young and too beautiful French colonel presided'. Or this, of the American Economic Attache. 'He was a man one always forgot'. An indelible way of describing an unmemorable average Joe. Fowler, the apparently cynical British reporter, who is Greene's narrator, wants nothing more than not to be involved. 'It had been an article of my creed'. But, as with all of Greene's major characters, his desires are deeply conflicted and complex. Fowler has an opium habit, a Vietnamese girlfriend, and a wife back at home in London. He is a classic Greene creation - a mixture of seedy habits and tortured conscience. Why continue to read Greene in the twenty-first century? The reasons are legion, but one is simply as an antidote to what the critic James Wood has referred to as a 'contagion of moralising niceness', in contemporary literary fiction, in which the reader is invited to empathise entirely with the protagonist. From the cynical Fowler to the world-weary Querry of A Burnt-Out Case via the Catholic murderer of Brighton Rock and the obsessive adulterer Bendrix in The End of the Affair, Greene's protagonists are sharply drawn and deeply flawed.
    Greene's major methods of characterisation are dialogue and action. Above all (a lesson to us all, this) he never stops the story in order to characterise. In his obituary of Greene, published in The Guardian, Ian McEwan wrote of the experience of reading Greene's novels as a child, 'One of the first lessons I took from them was that a serious novel could be an exciting novel - that the novel of adventure could also be a novel of ideas'. This powerful combination certainly provides a large part of the explanation of Greene's popularity and one of the reasons why his work endures so well. At the same time, it perhaps underlies why he has been ranked lower in the canon than the great modernists of the twentieth century, such as James Joyce and Virginia Woolf. Greene is committed to telling a story, and described himself as a storyteller. In a biting exchange in The End of the Affair, Bendrix, a novelist and the book's narrator, is asked by a literary critic, 'You used the stream of consciousness in one of your books ... Why did you abandon the method?' Greene himself had indeed experimented with the method in an early novel, England Made Me, and never turned back to it again. 'Oh, I don't know,' Bendrix replies to the critic, 'Why does one change a flat?'
    The literary snob, typified by the critic in The End of the Affair, has tended to look down somewhat on the conventional narrative techniques at which Greene excels. E. M. Forster in Aspects of the Novel refers to story as 'this low atavistic form' and laments that a 'gaping audience of cave men ... can only be kept awake by "and then ... . and then ... “’Forster was onto something there. For it does indeed seem that our lust for story is primal and innate. Story is something we cannot do without. We need it in our lives, in order to make sense of the world around us and our place within it. It is as essential as food and drink. With human biologists such as Lewis Wolpert now theorizing that the compulsion to create story is biological and represents a 'cognitive imperative', it seems clear that we will be reading Greene, the master storyteller long into this century, sitting on the edge of our seats, eagerly awaiting the next 'and then .. '.