Một chuyến đi
"Đúng
ra chúng tôi đã có
dịp quen nhau từ lâu,
từ những ngày..."
Lần đầu gặp, nghe ông kể đã
từng tới "đỉnh cồn", Đài Liên Lạc Vô Tuyến Điện Thoại Quốc Tế, cũng
là nơi các phóng viên ngoại quốc tới đọc tin về trụ sở chính của họ;
ông lúc đó
làm cho hãng tin nước ngoài, còn tôi, một chuyên viên kỹ thuật của Đài:
-Như vậy là ông làm việc ở
đó? Sao tôi không gặp nhỉ? Tôi vẫn còn nhớ những lần tới, thang máy
thường là
hỏng, cứ phải lội bộ. Đúng là còn xa hơn cả London, cái đỉnh cồn của ông! Đọc
ông, tôi cứ
ngờ ngợ, như thế là chúng ta đã san sẻ cùng một nỗi bực mình, cùng
những cơn
thở dốc!
Nơi tôi làm việc là tầng lầu
trên cùng một
building..., tôi đã viết về nơi chốn đó, nhưng... cái thang máy, ờ nhỉ,
tôi còn
nợ nó quá nhiều kỷ niệm. Tôi bật cười thầm, như nhìn thấy mấy người
phóng viên
đang ì ạch leo lên mấy tầng thang lầu. Nói ì ạch, kể hơi quá - cho thỏa
nỗi bực
bội, ghen tức - bởi vì họ leo nhanh lắm, để tranh đưa tin, trước đồng
nghiệp!
Thế ra là trong số đó, có cả cái ông bạn mới quen này, tóc bạc trắng
như những
sợi cước, chiếc tẩu thuốc luôn luôn nhả khói, mớ tóc bồng bềnh như bờm
sư tử,
chẳng thấy một chút già nua nào, trong bất cứ một cử chỉ. Thú nhất, là
cách ông
nâng ly...Tôi có cảm tưởng, bây giờ ông bạn mới có thì giờ thưởng thức
cuộc
đời, thưởng thức văn chương bằng cách bịa đặt ra nó, bởi vì cả một thời
trẻ:
còn lo chạy trước đồng nghiệp!
"... cay nghiệt
đó."
Cay nghiệt, chắc không đâu,
với ông. Làm hãng tin ngoại, bất cứ lúc nào ông cũng có thể nhẩy ra
khỏi lò
lửa, tôi đã từng thèm khát một chân phóng viên như vậy, thèm làm một
người gia
nhập cuộc chiến, không phải vì bắt buộc, mà là tự nguyện. Chết là do
mình chọn.
Còn nhiều "đặc ân"
khác nữa: những đặc ân về thông tin, biết những điều có khi chỉ mình
mình biết.
Đọc ông, tôi có cảm tưởng, ông viết cho một người đọc không còn nữa,
cho phần
người ở trong ông nay cũng không còn nữa: Đừng hỏi chuông đổ vì ai
(1)... tôi
như nhìn ra con-người-nhỏ-nhen-tôi. Nhỏ nhen, vì nghĩ những ký giả chân
trong
chân ngoài đối với cuộc chiến như ông "sướng hơn, may mắn hơn" tụi
tôi; nếu muốn, họ có thể phủi bụi, bỏ đi bất cứ lúc nào. Nhìn ông tôi
hiểu,
đừng hỏi...
Bởi vì người chết không bắt
buộc chỉ là người đã chết, mà còn có kẻ sống sót, nhất là những người
"biết quá nhiều"...
Gần mực thì đen, tôi còn
nghĩ, với những đặc quyền thông tin như vậy, người phóng viên thật dễ
trở thành
điệp viên. Không chỉ phóng viên, mà luôn cả nhà văn - như một người
được thông
tri đầy đủ những dữ kiện của thời đại. Graham Greene, George Orwell đều
làm
việc cho phản gián Anh. Orwell tin ông đúng, cả trong việc dò xét những
đồng
nghiệp. Ở Việt Nam, là trường hợp Phạm Xuân Ẩn. Không hiểu hồi đó, ông
bạn của
chúng ta có biết vụ CIA "giả đò" làm Mặt Trận Giải Phóng thả con vịt
cồ, sẽ họp báo ở trong chiến khu, tuyên bố ly khai với Miền Bắc. Hầu
hết các
báo chí phương Tây đều mắc hỡm, trừ Mỹ. Họ không, có thể do CIA vờ đi,
không
gửi thiệp mời, hoặc Phạm Xuân Ẩn, lúc đó làm cho tờ Time, báo động ông
chủ chi
địa, và cũng muốn lập công. Phạm Xuân Ẩn, sau được Nguyễn Khải hư cấu
thành
nhân vật Quân, trong Thời Gian Của Người. Lạ một điều, không phải kết
cục của
Quân - sau khi công thành danh toại, nghe nói bị thất sủng, dù đã được
Đảng cho
đi "thiền" một thời gian, để dứt nọc độc khi nương náu nơi cửa Thời
(Time) - nhưng chuyện Mặt Trận Giải Phóng ly khai với miền Bắc đã thực
sự xẩy
ra, qua sự kiện câu lạc bộ kháng chiến của đám CS miệt vườn Miền Nam.
Nhân
lúc vui câu chuyện, bữa
gặp nhau ở nhà ông Tôn, tôi chêm vô: "thằng này" cũng đã từng biết
trước một cuộc đảo chính sắp sửa xẩy ra...
-Ông nói sao, ông biết trước
có đảo chính?
-Chỉ mỗi một lần. Do tình
cờ...
Thời gian dân Sài-gòn thay vì
đi ciné không được, do giới nghiêm, nên đành ở nhà chờ coi đảo chính.
Bữa đó
phiên trực, nửa đêm không biết làm gì, tò mò theo dõi hai anh chàng Mẽo
nói
chuyện qua cái máy viễn ấn:
-Sài-gòn đảo chính chưa?
-Chưa thấy gì hết.
-Sao lại chưa, bên này đã
được thông báo rồi?
Chỉ một lát sau, "sự
thực" xẩy ra.
Phải
nói thêm: phần vụ của
đám chuyên viên Đài, là kiểm tra mạch viễn ấn, vô tuyến điện thoại, mỗi
khi có
sự cố; không liên can gì đến chuyện kiểm duyệt báo chí.
Trong bữa tiệc ở nhà ông Tôn,
bào đệ ông bạn
chúng mình đang nhắc tới, tôi là một kẻ "ngoại đạo", một
"intruder" (2), một kẻ xâm nhập lén lút, trong cái "Thi Văn
Đoàn" này. Họ coi tờ báo (3) như là một cái cớ, cho những cuộc vui chơi
của riêng họ, vào những ngày cuối tuần.
Tôi dự cuộc họp, thứ bẩy tuần
trước tại tư gia ông bạn văn có nhã ý cho tụi này tá túc. Một dịp giới
thiệu
khách phương xa, sẵn cuối tuần gặp mặt theo thông lệ. Bữa đó thiếu mấy
bậc
trưởng thượng, nhưng thêm tôi, và cuốn sách vừa xuất bản. Khi tặng
sách, họ đều
giúi vào tay tôi một tờ giấy bạc; riêng chủ nhà, là một bản thường
nhưng đặc
biệt, vì rất phong nhã, và cũng rất có ý nghĩa, cả về tình lẫn tiền.
Trong khi vui câu chuyện,
nghe nói tôi còn ở thêm vài ngày, ông Tôn mời, tuần tới lên nhà ông. A,
thì ra
luân phiên! Tôi buồn cười, tự dưng nhớ đến một ông chú, ông Năm của tôi.
Dòng họ Nguyễn tôi có mấy anh
em: Bác Cả Hoán, thân sinh chị Giậu, phu nhân ký giả Hiếu Chân. Tôi
thuộc dòng
ông Ba. Bà cô, cô Dung, người nuôi nấng tôi thời gian học Hà-nội, là
con ông
Tư. Bà lấy chồng Pháp, một ông kỹ sư sở Hỏa-xa Đông-dương. Ông Năm, một
người
nổi tiếng "ăn học, ăn chơi", tứ đổ tường gì cũng biết. Nghe kể lại,
ông có một bảng danh sách những bạn bè, và cứ theo đó, đến hẹn lại lên,
tùy
theo gia tư nạn chủ mà ăn vạ, vừa cơm trắng vừa cơm đen. Không ngờ "quí
tướng" của ông "ứng" luôn vào thằng cháu: suốt thời gian ở Cali,
tôi đóng vai thực khách, hết ông bạn này mời tới ông bạn khác... có
ông, như Đỗ
còn bực bội, vì đã mời mà không chịu tới, để cho ông và người bạn từ
Paris qua
chờ mấy tiếng đồng hồ!
Nhân đây, cũng xin ông bạn Đỗ
tha lỗi, về bữa tụi này hụt ăn, và về cái trí nhớ tồi tệ của tôi. Tôi
cứ nghĩ,
tôi quen ông những ngày ở Sài-gòn, nhưng thực ra là từ thuở học Hà-nội.
Sau
chuyến đi, ông có liên lạc: đọc ông nhớ Hà-nội quá, thêm chi tiết "động
trời" về "văn nghiệp" của tôi: đã từng ở trong thi văn đoàn
Trường Bác Cổ (4)! Ông kể một vài tên; ngoài ông ra, tôi biết thêm một,
cùng
học Nguyễn Trãi. Cùng lớp.
Về ông bạn cùng lớp này, tôi
có một kỷ niệm thật dễ thương. Số là, ông giáo dậy Anh văn Nguyễn Trãi
lúc đó
tên là Xuân, dậy đám Đệ Lục chúng tôi, rất vui tính, và cũng rất
nghiêm. Một
bữa tới lớp, thấy trên bảng nguệch ngoạc vài nét chân dung, với cái tên
ở dưới:
Mr. Spring, thầy giận dữ truy cho ra thủ phạm. Tính bắt phạt, anh học
trò láu
lỉnh cãi: Thưa thầy, Spring đâu phải tên thầy! Ông bật cười gật gù,
đúng rồi,
tên thầy là Xuân, đâu phải Spring. Kỷ niệm dễ thương kia, liên quan đến
người
bạn cùng lớp. Bữa đó, thầy Xuân gọi anh lên trả bài, hóa ra anh chẳng
hiểu tại
sao Spring không phải tên thầy, đại khái như vậy. Thầy Xuân bữa đó,
thay bài
giảng Anh văn sống động, L'anglais vivant, bằng bài học về sự quan
trọng của
ngoại ngữ (biết thêm một ngoại ngữ là một người biến thành hai người).
Giờ Anh
văn sau, ông xin lỗi người học trò: Lần trước, tôi có lớn tiếng về anh
bạn,
thực không đúng, vì sau đó, khi ra về, tôi được anh tặng một tập thơ,
anh là
tác giả. Thầy nói tiếp, không có vẻ chi chế diễu, theo đó, khi người ta
có
thiên tài về ngôn ngữ mẹ đẻ, ngoại ngữ có khi không còn cần thiết. Thầy
Xuân
tiên đoán dúng, về người học trò của mình, sau là một thi sĩ nổi tiếng.
Tiếng
Anh bây giờ nhà thơ chắc đã rành rẽ. Học ngoại ngữ lúc nào mà chẳng
được. Nhưng
thơ, đâu bạ ai, bạ lúc nào cũng học được?
Giáo sư Anh văn năm học Đệ
Ngũ sau đó, là thầy Kỳ, luôn luôn dậy cuốn "Nàng nhún mình để chinh
phục" (5). Tôi có một kỷ niệm về thầy Kỳ: sau khi Cộng Sản tiếp thu
Hà-nội, những ngày đầu, hai thầy trò vẫn tiếp tục tới trường. Một bữa
thầy và
tôi cùng đi muộn, chưa đầy năm phút, ông cán bộ gác cổng đã không cho
vào lớp,
sau đó thầy còn bị làm tờ kiểm điểm. Đây là một lý do, trong nhiều lý
do, khiến
thằng học trò của ông từ biệt Nguyễn Trãi, từ biệt Hà-nội.
Bữa tại nhà ông Tôn, có thêm
một vài người,
trong số đó là một vị nữ lưu, bạn đồng nghiệp với mấy ông bạn của tôi
còn ở lại
Sài-gòn. Bà biết Huỳnh Phan Anh, nhưng tỏ ra ngạc nhiên khi nghe tôi
nói về
Nguyễn Nhật Duật, và cái lần anh đụng độ với một thi sĩ nổi tiếng: ông
bạn
chúng mình chẳng có vẻ chi là người đam mê văn chương! Tôi bật cười
thầm, nghĩ
bụng, ông bạn này còn là chủ nợ của đám chúng tôi, những lần cháy túi
vì tật
nặn xì. Chắc chắn là bà không biết, Nguyễn Nhật Duật khởi đầu không
phải bằng
phê bình mà bằng một truyện ngắn, đăng trên đặc san văn nghệ của trường
Sư Phạm
Đà-lạt. Tên truyện là Huyền, và trong truyện ngắn, anh không hề thay
Huyền,
bằng bất cứ một chữ nào khác, thí dụ như nàng, cô ta, người nữ muôn
đời, thánh
nữ... Báo hại Huỳnh Phan Anh phải nhẩy xe đò về Sài-gòn, chỉ để mang
lên một mớ
chữ "Huyền" cho một nhà in ở Đà-lạt vốn không thể lường trước một sự
thiếu hụt lạ lùng, bất ngờ, và cũng thật lý thú như vậy!
Nhân lúc Bạch Mao Sư Vương,
sư tử bờm trắng bỏ ra ngoài, tôi nói, rất thích những bài viết của ông,
ông Tôn
ghé tai tôi nói nhỏ, tôi biết là anh thích, vì cũng một dòng mà ra: Ông
anh tôi
rất mê Nguyễn Tuân.
Có lẽ như vậy thật, văn Trúc
Chi phảng phất không khí tùy bút Nguyễn Tuân.
Nguyễn
Tuân nổi tiếng với tùy
bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó.
Những người
viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như
vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi
Tây, đi
Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra
cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái
khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh
bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay
hồn nhân
hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn
thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay
phút đầu
tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn
này:
Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông, những chữ như thế này,
phải tìm
đất khác để mà tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái
lĩnh, ông
đã nhập vào những chữ chưa khô mực.
Sẽ có
người bực mình, đã đọc
Chữ Người Tử Tù, đâu có thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ,
đọc là mô
phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt... Nếu như bạn muốn trung thành với
văn
bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ
Nguyễn
đắc ý nhất, đắc địa chỉ có mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay
người
bên giáo?" Ôi chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao
nhiêu lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết (6) phải tàn bao nhiêu ngọn
đèn dầu
lạc, phải tu tận hoan (7) bao nhiêu lần, bỉnh chúc (8) bao nhiêu phen,
phải để
cho nhân vật của mình ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình,
rồi cứng
đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có thể phán một
câu nhẹ nhàng như vậy: "Xuyến người bên lương hay là bên giáo?"
"Nguyễn
Tuân hỏi tôi
:-Có nhớ Két không?
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn
54?
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ
nó. Không hiểu sao.
Thì ra cái đầu đường đêm hôm
chẳng thú vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi tưởng..."
(Cát Bụi Chân Ai, trang 12.
Tô Hoài, nhà xb Thanh Văn, Cali, không ghi năm).
Mắt xanh hay mắt trắng (To be or not to be?).
Văn là người, nhưng văn cũng để giấu người: chất khinh bạc vốn lồ lộ
trong
Nguyễn Tuân, là để giấu con người thực của ông. Người đọc sướng điên
lên, vỗ
đùi bành bạch, vì nét tài hoa, vì con mắt trắng dã của Nguyễn Tuân,
nhưng để
lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những câu văn nhẹ khôn kham:
"cứ
đến ngồi đây là mình lại nhớ đến nó. Không hiểu sao."
Tiện
đây, tôi xin chép lại cả
một đoạn phố, (cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị gì), với những người
ngợm của
nó: cái đống rác của cả một miền đất, sau "Mùa Thu", một thứ Xóm Cầu
Mới (9):
"Ở cái
ngã sáu đường đời
ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai và bếp lửa
thùng
cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông
mặt
người đạp xe cũng đoán được tung tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt
thời gian
và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về uống rượu
húp cháo
rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông
chánh,
ông lý tề vừa chạy tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng
trắng ven
nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào thành, trẻ hơn, đỡ lầm lỳ,
có thể
lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm kia...
-Lão xế lô, lão lục tào xá
này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà cứ
dấm dớ thế
nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?..."
Tôi trích một đoạn, trong Cát
Bụi Chân Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn - ở đây là Tô Hoài - quan sát
giống hệt
một điệp viên, và Nguyễn Tuân đã giải tỏa cả một đoạn văn đầy những chi
tiết
chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về người đã chết. Nghe nói Tô
Hoài viết
Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ lỗi" với vong hồn bạn, nhưng nhờ vậy,
chúng ta thấy một Nguyễn Tuân "không chính thức", và bằng cách nào
ông sống sót...
Trong hai nhà văn tiền bối kể
trên, Tô Hoài mới là người thân cận với tuổi thơ của tôi, của "chúng
tôi". Làm sao quên được cảnh tượng chú dế mèn võ sĩ được thiền sư xén
tóc
"cải hóa". (Hãy mường tượng ra, nghi lễ xuống tóc cho một tín đồ nào
đó!). Làm sao quên hương ngọc lan của một buổi hẹn hò. Ôi nỗi đắng cay
phải từ
giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền
cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa
nắng, không
còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt,
mà từ
lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày
tháng... Làm
sao mà hiểu nổi, một nhà văn với một thiên lương như vậy, với những
quan sát
tinh vi về loài vật, về một con người như Cu Lặc, lại có thể cay nghiệt
như thế
về một cõi tề, nguỵ? Đành phải giải thích bằng kinh nghiệm đọc Primo
Levi, một
nạn nhân của Lò Thiêu, qua bài viết: "Những cuốn tiểu thuyết do dế
kể" (11).
Primo Levi nhắc tới một bài
essay của Aldous Huxley, qua đó, nhà văn người Anh này, khi phải trả
lời một
người trẻ tuổi muốn nhờ ông ban cho một lời khuyên, bắt đầu viết như
thế nào:
hãy mua một đôi mèo, quan sát, rồi miêu tả chúng. "Nếu tôi (Levi) nhớ
không nhầm, ông nói với người trẻ tuổi, rằng loài vật, và đặc biệt động
vật có
vú, đặc biệt hơn nữa, những loài vật nuôi trong nhà, chúng như chúng
ta, nhưng
'bỏ cái nắp đí ('with the lid off'). Cư sử hành động của chúng giống
như của
chúng ta, một khi mà chúng ta mất đi được (thiếu, lack) sự kiềm chế."
Thế giới con người trong Cát
Bụi Chân Ai, lạ thay, là đảo ngược thế giới loài vật Tô Hoài mô tả,
những ngày
trước Mùa Thu. Những con vật của ông "người" hơn, so với những con
người sau này (so với cách ông miêu tả con người sau này). Vẫn theo bài
viết
của Levi, từ tiếng nhạc dế có thể suy ra khí hậu của môi trường sống.
Người ta
còn nhận ra một điều: dưới những điều kiện thiên nhiên bình thường, dế
đực và
dế cái cùng một nhiệt độ, nhưng nếu thân nhiệt của dế đực (thí dụ vậy)
tăng lên
chỉ một hay hai độ, tiếng nhạc của nó tăng lên bán-cung, và bạn lòng
của nó sẽ
không trả lời: con cái không còn nhận ra dục tính ở con đực. Môi trường
thay
đổi chút xíu, thế là có một "thảm họa", một bất toàn, một khiếm
khuyết, một bất xứng đôi, nẩy sinh: phải chăng chúng ta có một mầm
(germ) tiểu
thuyết ở đây? Levi tự hỏi.
Nguyễn Tuân buông một câu:
Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách giải thích "vấn nạn này",
và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách nào đó, Nguyễn
Tuân đã giữ
thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa Thu làm thay đổi. Và nếu
ông nghĩ
đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình. Ở đây, ta lại thấy vị
thiền sư xén
tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với giấc mơ trừ hết ác ôn tề
nguỵ. Và cái
câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì hành động của vị sư già
chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy hai ông sư giả cầy Mộ Dung
Bác,
Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ 72 tuyệt kỹ võ công
Thiếu
Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy vọng cải hóa...
Tôi đọc Trúc Chi, và tưởng
tượng, mình cũng đang ngấm chất văn chương của ông, theo kiểu nhân vật
cái bang
ngấm chất trà của một thời vang bóng, theo kiểu Trúc Chi ngấm chất rượu
bữa gặp
mặt, hay như... nhân vật xưng tôi ngấm tiếng đàn của một người đẹp
không thể
đàn được nữa. Tôi cứ hồi hộp, cái ông này, làm thế nào bây giờ, làm sao
lại làm
khó người yêu xưa, ở xứ người, bằng tiếng Cầm Dương Xanh (12) ngày nào,
ngày
nào...
Nghe Đàn (13) mở ra bằng một
lời nhạc: Dạo ấy đời đẹp thiệt, đẹp hơn bây giờ...
Tôi nghiệm ra một điều, trí
nhớ của ông bạn là một nhạc viện, hơn là một thư viện. Hình như cái tật
của
ông, mỗi lần hồi tưởng, là phải bắt đầu bằng một lời nhạc. Tôi đã từng
"nhờ ông nhớ giùm" một câu hát, để choàng lên ý thơ cổ mà ông vua mê
gái Tự Đức đã mô phỏng, tất cả chỉ để "choàng hoa" cho một cô bạn
"của mình":
Đâu con phố đơn côi,
Như tên thường gọi
Nơi bóng cũ,
Gương xưa,
Gặp gỡ?
(Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet?
... Đập cổ kính ra tìm lấy
bóng).
"...
Bây giờ, phút này
tôi đang nhớ đến cái dáng trang trọng của Hương Cơ khi nàng bưng một lư
trầm
nhỏ ra đặt trên cái bàn con trong phòng khách, khẽ nhắc Phấn:
-Anh tắt bớt đèn đi.
Xong nàng đỡ cây đàn tranh
trên chiếu, thong thả ngồi xuống, rồi bắt đầu vặn trục so dây. Vẻ đẹp
của người
đàn bà vốn có sẵn nhan sắc thiên phú, lúc dịu dàng kéo lại tà áo cho
thẳng thớm
trước khi đem tấm lòng của mình ra mà ngỏ với một người mà nàng cho là
biết
nghe nhạc cổ của đế đô, tôi không đủ tài tả hết. Nhưng mà tôi cảm động
lắm, cảm
động đến độ vọt miệng nói ra một câu thật ngớ ngẩn:
-Nãy giờ chưa thấy chị ăn
uống chi cả. Để chị dùng cơm rồi mới đàn chứ.
-Dạ không, bụng có trống thì
tiếng đàn mới thanh thoát được, mới hư được. Thầy dậy tôi vậy. Là vì
tiếng đàn,
cái nhấn là để cho nó một phần thực thôi, còn thì phải là chín phần hư
mới
trúng cách.
... Phấn bạn tôi đã nằm xuống
rồi. Người sĩ quan thiện chiến và tài hoa ấy vào phút cuối cùng đã trối
với một
người bạn tù..."
Còn Hương Cơ (14), qua kể lại
của người con trai... "trong những ngày đói khó sau khi cha nó bị đem
ra
ngoài Bắc để cho người ta sửa đổi tạo một cái gì mới đó (tôi cũng không
biết
rõ) mẹ nó ở nhà xoay sang mở quán ăn để độ nhật. Trong khi nấu nướng
củi lửa
dầu mỡ sao đó mà Hương Cơ bị phỏng nặng... khiến cho ba ngón tay chết
cứng..."
Đọc là
liên tưởng, là mò mẫm
tìm sợi giây vô hình nối kết những con chữ, nối kết những linh hồn,
những tâm
hồn... tôi cứ tưởng tượng ra rằng Hương Cơ, trong một phút quá hoảng sợ
những
ngày sắp tới, quá nhớ nhung người chồng ở trại tù... đã "lơ đễnh" thò
tay vào chảo dầu cũng nên! Trong Trăm Năm Cô Đơn, bà cụ ngoại-ngoại của
Ursula
Iguarant, khi Sir Francis Drake đánh chiếm Riohacha vào thế kỷ 16, nghe
tiếng
chuông trống báo động, tiếng đại bác, bà mất vía, ngồi ngay lên cái bếp
than
hồng. Những vết phỏng biến bà thành một người vợ vô dụng suốt quãng đời
còn
lại. Ngay trong Nghe Đàn, Trúc Chi vẫn còn bị ám ảnh bởi biến cố Mậu
Thân ở
Huế, khiến ông phải "mở ngoặc đóng ngoặc", và chính nó làm cho ông
nhớ đến Hương Cơ...
Về tai nạn, Trúc Chi đành đổ
cho lịch sử, cho cuộc nồi da nấu thịt. Nhưng mượn cái cớ mà Nguyễn Du
vin vào
đó bắt Kiều mười lăm năm lưu lạc, người viết xin được đưa ra một hai
lời bàn
Mao Tôn Cương ở đây.
Là bởi
vì, ngay khi đọc ông
tả một nhan sắc, một tiếng đàn như thế, người đọc đã "hốt" rồi: làm
sao mà "lão tặc thiên" (chữ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn) không quen
thói má hồng đánh ghen cho được?
Sẽ có
người bực mình, bỏng có
ba ngón tay mà làm rối lên, nhất là sau một cuộc nồi da nấu thịt. Thật
ra,
chẳng thể nào mà trả lời cho một sự bực bội "thuần lý" như vậy, như
Nabokov khẳng định, khi đọc Hóa Thân của Kafka: biến thành con bọ, rồi
sao?
Nhưng ông cho rằng trước nỗi sững sờ "thuyền mấy lá đông tây lặng
ngắt", con người đành thốt lên: Beauté plus pitié, Cái Đẹp cộng Thương
Hại
(15). Đây cũng là tâm trạng cùng một lứa bên trời lận đận, đồng bệnh
tương lân
giữa nghệ sĩ và nghệ sĩ. Và đó cũng là cách chúng ta tiếp cận nghệ
thuật: Nơi
nào có cái đẹp nơi đó có thương hại, bởi vì một lý do thật giản đơn,
cái đẹp
phải chết: Mỹ nhân tự cổ như danh tướng...
Vả
chăng, cái tai nạn đó, là
bắt buộc phải có, như một chia sẻ cùng Nạn Lớn, Kinh Hoàng Lớn. Ở đây,
tôi lại
mượn Kafka, và "con bọ" của ông, và cứ nói "xưng xưng" ra
rằng: Phải có tai nạn đó, nhan sắc tiếng đàn của Hương Cơ mới được vẹn
toàn.
Walter
Benjamin, trong bài
viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện
Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be
beautiful)...
Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại
những nơi
u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ
"accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài
viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội
nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính
cái gọi là
vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái"
(17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu
bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka
nói. Điều
này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời:
Thượng
Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải
đâu,'
Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của
Thượng Đế,
một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới
mà chúng
ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng -
nhưng không
cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những
nhân vật
thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng
tròn
gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là
loài vật;
ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb
hay
Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình.
Không phải
ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố
mẹ, mà
không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu
đó, là
thừa hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm
của
người cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên
ngoài vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this
circle). (20).
(Hãy đặt câu hỏi: Một nhân
vật "toàn bích" như Tiêu Phong, tại sao là người Khiết Đan, mà không
phải người Hán, tại sao lại xâm hình con cáo ở trước ngực...? Hãy tưởng
tượng
Trung-nguyên/Hán/Tây-vực/Khiết-đan... là những nơi chốn, giống dân
khác...)
Tôi trích dẫn, cả một đoạn
dài Benjamin viết về Kafka, là để nhấn mạnh hai điều, có liên can đến
Hương Cơ,
đến chúng ta.
Thứ nhất: Hương Cơ, một nhan
sắc của cố đô, "vầng trăng mười bốn", chỉ tuyệt vời "nhờ"
tai nạn, và tiếng đàn của người n "tượng trưng cho cả một dân tộc",
chỉ tuyệt vời khi nàng không còn có thể đàn được nữa, như lần đàn sau
này...
Thứ hai: đã đến lúc chúng ta
phải có một cái nhìn khác, về phi nhân.
Nguyễn Tuân, trong một truyện
ngắn, cho rằng trăng mười bốn hơn trăng rằm: trong cái chưa chín có cái
chưa
tàn lụi. Nghe nói ở bên Nhật, có những cảnh chùa dở dang: cứ để dành
một khoảng
trống cho tín đồ nhập vào. Đây là sự khác biệt rất cơ bản giữa Đông và
Tây.
Charles Moore, trong lời giới thiệu tác phẩm Ca Ngợi Bóng Tối (21) của
nhà văn
Nhật Tanizaki, cho rằng đồng minh mãnh liệt nhất (the most powerful
ally) của
chúng ta (Tây phương) là ánh sáng. Dẫn Louis Kahn, một nhà kiến trúc:
'Mặt trời
chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã
xuống bức
tường của một tòa nhà'; do đó việc xây nhà dựng cửa (là một trong những
đòi hỏi
cơ bản, đòi hỏi trú thân, nối kết, quần tụ với nhau, cho dù theo kiểu
ăn xổi ở
thì với nơi chốn thuộc về con người, hay con người thuộc về nó, nhưng)
đối với
chúng ta, cái nhà phải tương hợp với mặt trời, đồng minh số một, phải
giúp đồng
minh ban ánh sáng. Và ông cho rằng Tây phương đã "tá hoả" khi nghe
chuyện ca ngợi bóng tối và bóng đen; và đã sững sờ thích thú khi nhận
ra rằng,
nhạc sĩ, ở đâu đâu cũng thế thôi, tạo nên những âm thanh của họ, là để
nắm bắt
sự im lặng, và kiến trúc sư, khi tạo ra nhà cửa, là để ôm lấy quãng
không.
Thành thử cái thuyết tài mệnh
tương đố mà Nguyễn Du vin vào đó để làm khổ cô Kiều, là nằm trong
truyền thống
Đông-phương: không phải ông Trời ghen cái đẹp, mà là: ông Trời chỉ đẹp,
khi té
xuống, khi nhập vào một con người luân lạc như Kiều. Với Hương Cơ của
Trúc Chi,
tiếng đàn, trong chín phần hư cần một phần thực, và phần thực này, chỉ
có cuộc
đời - cuộc nồi da nấu thịt, củi đậu đun hạt đậu, chúng ông "chơi"
chúng mày... - mang lại cho nó thôi.
Có lần, người viết nhắc tới
nữ văn sĩ người Nga Tatyana Tolstaya, và bài viết Những Thời Ăn Thịt
Người qua
đó, bà cho rằng cái chế độ toàn trị, cái tư duy chuyên chế không phải
tự trên
trời rớt xuống, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử
Nga.
Cũng theo tinh thần đó, người dân Đức bây giờ đã hiểu ra một điều:
Hitler là
một phần của họ, dù có muốn rũ bỏ cũng không thể được.
Cuối thế kỷ, tờ Time lo sửa
soạn danh sách một trăm nhân vật nổi cộm, những người để dấu ấn nặng nề
lên thế
giới, và lên cách sống của chúng ta, ngay cả trong tương lai, từ đó lọc
ra Nhân
Vật của Thế Kỷ (The Person of the Century). Tờ báo mời độc giả tham
gia, và đưa
ra một danh sách đề nghị, với những tên tuổi như: Churchill, Roosevelt,
Stalin,
Lenin, Henry Ford, Bill Gates... Gordon A. Craig, khi điểm cuốn "The
Hitler of History", tác giả John Lukacs (279p. nhà xb Knopf) cho rằng,
theo Lukacs, người xứng đáng hội đủ điều kiện nhất do tờ báo đưa ra,
phải là
Adolf Hitler.
Thế kỷ của chúng ta, thế kỷ
của bạo động; Hitler chính là hiện thân của nó, kể từ ngày ông kéo nước
Đức ra
khỏi Hội Nghị Tài Giảm Binh Bị, và Hội Quốc Liên, vào năm 1933, cho tới
khi ông
ta chết, giữa những hoang tàn đổ nát của Bá-linh, mười hai năm sau đó.
Cuộc chiến
tranh lớn nhất của thế kỷ sẽ không thể hiểu được, nếu thiếu sự hiểu
biết về
Hitler, vai trò của ông khi phát động nó. Trong một nghiên cứu,
"Anmerkungen zu Hitler", cách đây 20 năm, Sebastian Haffner viết: Thế
giới hôm nay, cho dù chúng ta yêu, hoặc ghét nó, là tác phẩm của
Hitler. Không
có Hitler, không có vụ chia cắt nước Đức và Âu châu;... không có Hitler
sẽ
không có Israel; không có chuyện xóa bỏ thuộc địa; ít ra cũng không
nhanh như
vậy; không có chuyện "đứng vùng lên, gông xích ta đập tan" tại Á châu,
Ả rập, Phi châu Da đen; Âu châu vẫn ở thế "thượng phong". Câu nói
"Chúng ta chưa xong đâu, với Hitler", của sử gia Đức Gerhard
Schreiber, bây giờ càng thực hơn, so với thời điểm 1980, khi nó được
viết ra.
Cuốn sách giá trị đầu tiên,
theo Lukacs, là một tiểu sử về Hitler, của Konrad Heiden (Zurich,
1936). Do sớm
sủa, nó không cho chúng ta biết, về chế độ độc tài, nhưng có nhiều
thông tin
chính xác, chi tiết, về những năm đầu đời, cho tới khi Hitler lên cầm
quyền. Vì
quá sớm nên cuốn sách cũng chưa đề cập đến một Hitler "bịnh", hay là
hiện thân của cái ác, như những cuốn tiếp theo sau. Heiden cũng phê
bình thẳng
thừng, những huyền thoại gán cho Hitler. Và Lukacs cho rằng cuốn sách
vẫn còn
có giá trị, nhất là vào lúc này, khi tác giả của nó tin rằng "Hitler đã
trở nên thực sự nguy hiểm, vì đã bị địch thủ, và đồng minh nhất thời,
đánh giá
quá thấp, nói rõ hơn, đã coi thường ông."
Sau khi nhìn lại một số sách
vở, một số tác giả, Lukacs đã giữ lại hai quan điểm, mang tính tương
đối và
khôi phục (rehabilitation); qua đó, ông tin rằng, sau 50 năm chúng ta
nhận ra
một điều, Hitler đa dạng, rắc rối hơn nhiều, so với con người một
chiều, một kẻ
cơ hội, như người ta vẫn thường nghĩ về ông.
Gordon A. Craig cho rằng, cái
nhìn của chúng ta về quá khứ không bao giờ "chỉ là một cái nhìn thường
trực, hoài hoài, bất biến". Nhìn lại (revision) là một phần của tiến
trình
lịch sử, không thể tránh né được, theo bước đi của thời gian, và theo
sự tích
luỹ những tri thức, hiểu biết mới. Nó còn được dẫn dắt bởi cơ may. Việc
thăm viếng
nghĩa trang Waffen-SS, tại Bitburg, vào năm 1985, của Tổng thống Reagan
đã
"đủ" để khuyến khích niềm thống hối, ân hận tại Đức, đưa đến những
cuộc bàn luận về Nazi sau đó.
Một trong những hệ luận rút
ra được, đó là, người ta đã không công bằng, khi lọc riêng ra nước Đức,
để mà
chê trách: hệ thống Xô-viết đâu có chịu thua Quốc xã, về sự tàn nhẫn,
độc ác?
Tại sao người ta bỏ qua thái độ bài-Bolshevik, của Hitler? Thời điểm
nào, ông
trở thành "the Hitler of history", hay rõ hơn, khi nào thì tư tưởng
của ông thăng hoa, con người của ông tới độ chín mùi, trưởng thành?
Khía cạnh ăn khách, bình dân
của ông cũng đáng được lưu tâm. Nước Đức của Hitler thường được coi như
là một
quốc gia toàn trị hay cảnh sát trị, điều này chỉ tới một mức độ nào đó.
Hitler
họa hoằn mới dùng từ toàn thể, "total", và phủ nhận ông ta là nhà độc
tài. Tinh thần quốc gia nở rộ, khi Hitler lên cầm quyền; nhân dân Đức
có chung
cảm giác, đây là lúc để tự hào về chính chúng ta, về vai trò của nước
Đức trên
thế giới, như diễn văn của Hitler vào năm 1934: Tại Đức, lưỡi lê chẳng
làm cho
dân chúng khiếp sợ. Đây là một chính quyền được hỗ trợ bởi niềm tin
tưởng của
toàn dân... Đối với họ, tôi không bị rằng buộc bởi bất cứ một cá nhân
nào. Tôi
trưởng thành từ dân chúng, và tôi luôn ở với họ, tôi trở về với họ.
Niềm hãnh
diện của tôi, đó là, tôi biết rằng, không một chính khách nào trên thế
giới có
đủ quyền hơn tôi, để mà tuyên bố rằng ông ta là người đại diện cho dân
chúng."
Hay như diễn văn vào năm 1923: Vì sự giải phóng của dân chúng, (chúng
ta) cần
(một điều gì đó) hơn cả một chủ trương kinh tế, hay một nền kỹ nghệ,
nếu dân
tộc trở thành tự do, điều nó cần, đó là niềm tự hào, quyền năng của ý
chí, sự
thách đố, hận thù, hận thù, và một lần nữa hận thù". Khi hô hào hận
thù,
Hitler biết ông tạo nên kẻ thù là những quốc gia láng giềng, và luôn cả
thế
giới, nhưng ông biết chắc chắn một điều, dân chúng Đức ủng hộ ông.
Lukacs, theo
Craig, có vẻ đã chọn Hitler là "Nhân Vật của Thế Kỷ", khi viết: Ông
ta có thể được coi như một nhà lãnh đạo cách mạng bình dân nhất trong
lịch sử
thế giới hiện đại. Cần nhấn mạnh khía cạnh bình dân, bởi vì Hitler
không thuộc
về thời đại dân chủ, quí tộc. Không thể so sánh ông ta với một Caesar,
hay Cromwell,
hay một Napoleon. Hoàn toàn khác biệt, hơn hẳn họ, ông ta có thể đem
đến nghị
lực cho đa số người dân, hầu hết là có học, thuyết phục họ đi theo ông,
vì
những thành quả gây kinh ngạc, hay những cố gắng khác thường, ông làm
cho họ
tin rằng họ đứng đây là để thách đố với cái xấu, với điều ác. Rồi cuộc
chiến,
và thất trận sau đó đã đem đến chua xót, cay đắng; và Hitler đã được
coi như
quỷ dữ, phản-Ky tô (anti-Christ), một hiện tượng vượt ra ngoài tri
thức, hiểu
biết của con người, rằng con quỷ (sau đó) biến mất vào trong những đám
mây siêu
hình. Sự thối lui vào một... địa ngục siêu hình được coi như một hình
thức
khuây khỏa, như thể người ta không muốn chấp nhận phần trách nhiệm "của
mình" trong "việc này".
Đã có nhiều lý do tốt đẹp đưa
đến hy vọng, tin tưởng, rằng quan niệm phủi tay chua xót nói trên đã
mất dần.
Nếu không, người ta không thể giải thích được thái độ của dân chúng
Đức, đối
với những tác giả như Daniel Goldhagen, khi ông cho rằng, những tội ác
của
Hitler đã được thực hiện đúng theo ước muốn của dân chúng Đức. Điều này
cho
thấy, tiến trình lịch sử hóa Hitler đã có những thành quả tốt đẹp: coi
Hitler
như là một phần của lịch sử nước Đức - không phải là một sức mạnh không
thể
giải thích nổi, ở bên ngoài lịch sử. Những người Đức vẫn còn cảm thấy
khó khăn
chấp nhận Hitler như là một phần của quá khứ của họ, sẽ chẳng thế nào
cảm thấy
có được một chút cơ may hạnh phúc, về một hình ảnh Hitler tái lâm, một
thứ
Diocletian (22), một kiến trúc sư bất hạnh cuối cùng của một trật tự
vương giả.
(Hiểu theo tinh thần trên, Tạ
Chí Đại Trường trong một bài viết, đăng trên Văn Học mà tôi không còn
nhớ số
mấy, tháng mấy, đã thật có lý khi cho rằng, Hồ Chí Minh là một "ông vua
bất hạnh nhất" của chế độ cung đình ở Việt Nam).
"Ngày
mai là ngày hôm
qua", đó là câu mở đầu cuốn tiểu thuyết "Gặp gỡ ở Westphalie"
của nhà văn Đức, Gunter Grass. Sau Cuộc Chiến Lớn 1939-45, những gì còn
lại của
nước Đức của ông chỉ là những điêu tàn, và một nền văn chương đã phát
sinh từ
đó: văn chương của những mảnh vụn, và phản ứng của một nhà văn trước
những mảnh
vụn đó: Làm thế nào, sau Hitler, những ngòi bút Đức viết lại sự sống,
Vũ Trụ
Luận? Làm thế nào con chim phượng hoàng thò cái mỏ của nó ra khỏi biển
lửa?
Heinrich Boll, Nobel văn chương (1972), nhà văn người Đức cùng thời với
ông, đã
viết: Chúng ta chẳng có bất cứ lý do gì để mà hổ thẹn về một nhãn hiệu
như
thế... Chúng ta nhìn sự vật như nó là, với con mắt trần tục, thường
không hoàn
toàn khô, và cũng không hoàn toàn ướt, nhưng mà là ẩm, bởi vì đừng
quên, từ
La-tinh diễn tả ẩm là humor, diễu cợt*. Nếu Grass không thể chọn một
văn phong
nào khác, ngoài văn phong ẩm (theo tôi có thể giải thích văn phong của
Phạm Thị
Hoài trong Marie Sến), ông cũng không thể nào chọn lựa những đề tài
khác: những
đề tài của tôi đã có sẵn, đã được "chỉ định": chế độ Nazi, hậu quả
của nó (theo như người viết được biết, đề tài, nhân vật trong Marie
Sến, đều
"thực" cả, tác giả của nó không hề hư cấu ra những nhân vật như thế).
(Làm
thế nào con phượng hoàng
thò cái mỏ ra ngoài... Làm thế nào hoa sen trong biển lửa? Làm thế nào
nàng
Hương Cơ lại có thể đàn?...)
Văn phong của Trúc Chi không
hẳn mang tính khinh bạc của Nguyễn Tuân (sau một cuộc chiến đó, khó mà
còn có
thể khinh bạc), nhưng mà là "ẩm", theo nghĩa của Henrich Boll. Cái
kiểu nhớ khói tỏa lên từ những đám lá nhà ai đang đốt xưa kia, rồi buồn
vì nhân
sinh ở đây giờ này không diệu nghệ với con người. Hay như đoạn trò
chuyện với
vợ, nhân một câu chúc tết hơi sớm của người bạn:
-Hôm
nay là mấy ta rồi?
-Mới hăm mấy tháng mười.
-Sớm hơn vua Quang Trung hai
tháng.
-Anh nói chi?
Đoạn
đối thoại làm tôi liên
tưởng tới Nguyễn Tuân, khi "bị" vợ thỏ thẻ có bầu, và lần này có thể
sinh đôi:
-Đại bất hạnh!
-Anh nói gì?
-Không!
Như vậy
là chúng ta đã từng
san sẻ...
Chúng
ta còn san sẻ những kỷ
niệm về đất Phật.
Ngay
khi đọc ông, về những kỷ
niệm xứ Phật, tôi cứ tự nhủ, cái giọng văn này có thể là đã được lọc,
rửa, bằng
khí hậu, con người, thời tiết Lào. Hình như con người của tôi cũng đã
trải qua
những lọc rửa như vậy, khi chạy trốn quê hương. Dùng một hình ảnh thô
bạo của
xứ văn minh, đối với một con người từ những xứ mọi rợ tới, nhân viên y
tế có
thói quen khử trừng, trước khi cho vô đất nước của họ: hình như đó là ý
của
Phật khi chọn lựa cho tôi một đất tạm.
Tôi vốn
không có thói quen
cất giữ báo Việt, thí dụ tờ Văn Học. Mỗi lần muốn viết, tôi đi tìm ông
để đọc
(để hỏi) lại, nhưng...
Đúng
ra, tôi đã cố từ bỏ thói
quen đó. Bởi vì muốn giữ cũng không được: cứ nhìn ánh mắt dò hỏi, hoặc
ra vẻ
ngần ngại, của một vị khách tình cờ gặp gỡ, là lại tắc lưỡi, "thôi ông
cứ
lấy đi, khi nào cần sẽ xin thưa lại..."
Lần đọc
ông viết về một ông
bạn tá túc tại một cảnh chùa nơi đất Phật: tôi cũng đã từng tá túc ở
một cảnh
chùa, chùa Long Vân, Paksé, trong những ngày chờ đợi vượt sông Mekong.
Ông bạn
của ông sau ở lại luôn với chùa, với Phật; còn tôi, sau đó nhập vào đám
người
cùng số phận, trong một trại cấm Thái-lan...
Bức
hình Hòa thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu mà tôi đã đem theo cùng với tôi suốt cuộc chạy trốn
quê
hương, là từ ngôi chùa Long Vân ở Paksé. Không hiểu ông có biết nhà thơ
tu sĩ
Tuệ Sĩ vốn sinh ra và trưởng thành tại Lào. Cho tới lúc tôi vượt sông
Mekong,
gia đình, thân nhân của nhà thơ vẫn sinh sống tại đó.
Tôi cứ
lẩn thẩn so sánh những
nhận xét của ông, với của tôi, về xứ Phật. Và tôi cũng thực sự tin
rằng, ông còn
giữ riêng cho mình, nhiều chi tiết đặc biệt về người về cảnh.
Cứ mỗi
lần nghĩ đến đất Phật,
tôi lại muốn san sẻ với ông.
Trong
chuyến "hành
phương Nam", tới Tiểu Sài-gòn, tôi gặp hai người bạn văn mà có thể
chúng
tôi đã từng gặp nhau mà chẳng hay. Trúc Chi, và Tạ Chí Đại Trường. Ông
sử gia
này học cùng năm với tôi, cùng ban B, chỉ khác lớp, tại trường Chu Văn
An, khi
đó còn ăn nhờ ở đậu bên cạnh trường Pétrus Ký; miếng đất sau trở thành
Trung
Tâm Học Liệu. Dân toán mà mê sử; còn tôi, văn chương. Hay là người ta
cứ phải
mê toán đã, rồi muốn mê gì thì mê: con số tuyệt đối, bài thơ tuyệt đối,
trang
sử tuyệt đối, là một?
Ôi về
già, mà làm sao còn
hăng say, và hết lòng với nhau như vậy: Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được,
ông vội
vàng bỏ ra về, ngay khi vừa gặp, để lục lọi cho được một cuốn sách cho
tôi.
Cuốn này là cuối cùng còn lại trong nhà; không phải để tặng, mà chỉ ký
tên
trang đầu: cuốn sách do lỗi kỹ thuật, thiếu một trang.
Đó cũng
là lần đầu tôi gặp vợ
chồng ông bạn văn đã có nhã ý cho tụi này tá túc. Riêng ông chồng, tôi
đã có
dịp "đụng độ", trên trang giấy.
Kỷ niệm
về một lần đụng độ,
tôi quên sạch. Cho tới khi ngồi tại nhà một ông bạn họa sĩ, với ông bạn
mới
quen, Vũ Huy Quang, vừa là tài xế tắc-xi vừa là một khám phá tuổi già
đối với
tôi, về một tình bạn chẳng cần quen biết trước. Ôi quá nửa đêm, nghĩa
là đã
sang ngày hôm sau, ông bạn này cố níu kéo đêm hôm trước, bằng cách tới
tận cửa,
réo dậy đi mày, đi uống bia với tao. "Ông bà ấy ngủ rồi...". Chơi với
Vũ Huy Quang là nhiều lúc bực mình lắm đấy, hắn có thể tới 'mộ' mình
dựng dậy,
nếu cần, chỉ để đi uống với nhau một lon bia; ấy là tôi suy diễn nỗi
bực rất
đáng yêu, về người bạn vừa mới gặp đã xoắn xuýt lấy nhau này, qua lời
cảnh cáo
của vị chủ nhà.
Khi
nghe tôi nói hiện đang ở
tại... ông bạn họa sĩ la lớn: Quên rồi hả, hồi xưa mày "đập" anh ta
nặng lắm mà? Tôi ngớ người, không nhớ là đã đụng độ với ông bạn chủ nhà
trong
trường hợp nào. Ôi chao, lần tới Cali đầu tiên lại là lần phải đối diện
với quá
khứ, những ngày tuổi trẻ hăng máu Đông Ky-xốt, bạ ai cũng đập, chẳng
cần có lý
do gì hết. Hoá ra lần này phải trả cả vốn lẫn lời!
Thấy
mặt tôi buồn so, ông bạn
họa sĩ lại còn gật gù: "Phê bình" là phải vậy! Mũi tên đặt trên cây
cung, phải bắn thôi!
Sau đó,
tôi hỏi lại ông bạn.
Ông xác nhận có, nhưng đó là một bài phê bình thực sự, không có ác ý.
Thực sự,
nhưng sai, theo ông. Qua bài viết, tôi cho rằng ông không thể viết
truyện dài,
nhưng ông là tác giả của hai thiên truyện dài tại hải ngoại.
Trong
cái "nghiệp"
phê bình của tôi, tôi đã đụng độ với quá nhiều người. Riêng trường hợp
ông bạn,
tôi quên, nhưng rất nhiều lần tôi nhớ. Có khi vừa nhớ, vừa cầu mong, hy
vọng
rằng bài phê bình của mình có thể có ích nào đó. Ngay cả trường hợp ông
bạn,
tôi cứ tự hào một cách thật tếu là, biết đâu, nhờ lời nói "khích" của
tôi, ông đã để lại cho đời hai đại tác phẩm.
Mà có thể thế thật! Thí dụ
như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà xuất bản cuốn Vào Nơi Gió
Cát. Tôi
đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn Học Nghệ Thuật của nhật báo
Tiền
Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau ông giao lại cho
Huỳnh Phan
Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn "láu cá' Bắc-kỳ,
cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản, làm một
tuyển tập
truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao nhất, so với
các nhà
xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút còn một
bữa ăn
linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất bản. Rồi
tới Vào
Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng
chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm tắt nội dung phần đầu, tôi
kết
luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng khiếp! (Chấm xuống
dòng đàng
hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo
dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết, người phụ trách
trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng khiếp". Ông cho đăng, dưới
cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận
dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà trả lời sau đó bằng tác phẩm
Cuộc
Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm tuyệt vời nhất, nói "không"
về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà, một người vợ tất tả
chạy
ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng. Một ấn bản khác về chàng
Orphée.
Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo,
trao cho
vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề: Nếu Dostoevsky muốn kéo
Thượng Đế
xuống cho ngang bằng con người, ở đây Nguyễn Thị Hoàng muốn kéo địa
ngục lên
ngang tầm trái đất...(23)
(Riêng về ông bạn, xin cho
tôi nợ một chuyến đi, tới đất Phật, vượt dòng Cửu Long, vào Trại Cấm
Thái
Lan...).
Nguyễn Quốc Trụ
(Bài
viết đã đăng trên Văn
Học (Hoa Kỳ), số Xuân Kỷ Mão; người viết có sửa lại một vài chi tiết).
Chú
thích:
1. Thơ John Donne, Hemingway
dùng làm tựa đề Chuông Gọi Hồn Ai:... any man's death diminishes me,
because I
am involved in Mankind; And therefore never send to know for whom the
bell
tolls; It tolls for thee (Meditation XVII). Tạm dịch: Bất cứ một người
nào mất
đi là tôi mất đi một phần, bởi vì tôi mắc míu với Nhân Loại; Do đó đừng
hỏi
chuông gọi hồn ai; Chuông gọi hồn anh đó.
2. Mượn chữ của George
Steiner; trong Tuyệt Bi, Absolute Tragedy, ông coi con người là những
"unwanted intruders on creation": chui vào đời chỉ để uống rượu phạt!
3. Một tạp chí văn học, xuất
bản tại Cali, Hoa-kỳ.
4. Địa điểm những nhà văn nhí
gặp gỡ, nói chuyện văn chương!
5. She Stoops to Conquer
(1773): kịch của nhà văn Ái-nhĩ-lan, Oliver Goldsmith (1728-74).
6. Chữ của G. Steiner trong
Tuyệt Bi nhân nói về Shakespeare.
7. Nhân sinh đắc ý tu tận
hoan: Cao Bá Quát trích dẫn Lý Bạch, (trong bài Tương Tiến Tửu).
8. Sực nhớ chữ cổ nhân bỉnh
chúc, thơ Cao Bá Quát (Bỉnh chúc dạ du: Đốt đuốc chơi đêm).
9. Nhan đề một tác phẩm của
Nhất Linh.
10. Sợ.
11. Novels dictated by
crickets, trong Other people's trades (Bản tiếng Anh của Raymond
Rosenthal, nhà
xb Summit Books, 1989).
12. Nhan đề một chuỗi thơ của
Joseph Huỳnh Văn.
13. Tạp chí Văn Học, Cali, số
tháng Giêng 1998.
14. Hương Cơ, cô gái của sông
Hương, xứ Huế, theo Trúc Chi, là người Nam, tên Khương. Không hiểu tác
giả có
biết "mật ước" của các vị vua nhà Nguyễn: Nên chọn "Đệ Nhất Phu
Nhân", người Miền Nam, nếu được người đẹp Gò Công, là nhất. (Đức Từ Dụ,
Hoàng hậu Nam Phương đều là người Nam).
15. Beauté plus pitié: Trong
bài viết của Nabokov về Hóa Thân, in trong phần phụ lục, bản tiếng
Pháp, tủ
sách bỏ túi.
16. Franz Kafka: Nhân ngày
giỗ thứ mười, trong Illuminations, Essays and Reflections, Hannah
Arendt giới
thiệu, nhà xb Shocken Books NY, ấn bản bìa mỏng in lần thứ nhất: 1969
17. Tôi đi ngang xóm chị em
như đi ngang nhà người yêu thương của mình (Kafka, nhật ký 1910;
Kundera trích
dẫn, trong Những Di Chúc Bị Phản Bội, bản tiếng Pháp, nhà xb Gallimard,
1993.
Câu này đã bị Brod kiểm duyệt, cắt bỏ).
18. Bạn thân của Kafka, người
đã không theo di chúc yêu cầu huỷ bỏ tác phẩm, của bạn mình.
19. Tôn giáo thần bí.
20. Người viết bài nhấn mạnh.
21. In Praise of Shadows, bản
tiếng Anh của Thomas J. Harper và Edward G. Seidensticker, nhà xb
Jonathan Cape,
London, 1991.
22. Diocletian (245-313):
Hoàng đế La-mã (284-305), vào năm 303 đã khởi xướng những vụ bách hại
tín đồ
Ky-tô.
23. Hương Cơ của Trúc Chi làm
nhớ tới một Điêu Thuyền của Miêng (trong tuyển tập những nhà văn hải
ngoại).
Làm nhớ tới "người đàn bà ngoại tình" của Miêng trong Biển. Từ đó suy
ra, nhân vật nữ, tượng trưng một giải thoát khả hữu cho cuộc nồi da nấu
thịt,
cho thế kỷ đọa đầy. Hãy tự hỏi, tại sao nhân vật tỏ mắt độc nhất trong
Mù Lòa
của José Saramago, lại là nữ? Hãy tự hỏi, những Thanh của một tiếng hát
làm ấm
Bếp Lửa (Thanh Tâm Tuyền), những Phương của những Nỗi Buồn Chiến Tranh
(Bảo
Ninh)... Hãy nhớ lại một A Châu, của riêng một Tiêu Phong. Em hy sinh
không
phải vì đại cuộc, không vì muốn giải oan cho mối hận thù về một kẻ Đại
Ác...
Nhà họ Đoàn có môn Lục Mạch Thần Kiếm, nếu anh giết Đoàn Chính Thuần,
họ sẽ
giết anh. Em hy sinh là vì anh đó!
*Y khoa cổ điển Hy-lạp phân
con người thành bốn loại khí chất. Humor đưa đến từ "humide", ẩm ướt,
hay (ở đây là) rướm lệ. Văn phong của những tác giả Đức như Boll hay
Grass, là
bi-hài theo nghĩa của G. Steiner, trong Tuyệt Bi: Hữu cơ là bi hài, ở
nơi chắt
chiu nhất của nó (The organic is tragi-comic, in its very essence).
Nguyễn
Quốc Trụ