Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà vợ của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
Why did
Beckett accept the Nobel Prize at all? Certainly not for the money,
since he
gave the sum of 375,000 kronor (worth at the time £30,000, or about
$45,000)
away very quickly. He arranged, for instance, for various payments to
be made
even before the money was transferred to France. One of the chief
beneficiaries
was the library of Trinity College, Dublin; this gift was a riposte,
surely, to
those who accused him of insulting his native country. Many individual
writers,
directors, and painters also benefited financially from the prize, the
money
arriving anonymously, although recipients could not fail to be aware of
the
source. One very real reason for Beckett accepting the Nobel Prize was
that he
did not wish to be publicly discourteous (Sartre had earlier caused
something
of a public scandal by turning it clown). Another was that he wanted
the publishers
who had shown faith in his work, especially in the early days, to be
rewarded
with an increase in the sale of his books. To turn the prize down would
also
have seemed unfair, and again, discourteous, to those who, since
Maurice Nadeau
and others had put his name forward twelve years before and regularly
proposed
him for the prize. But there had always been an unusual mixture of
perfectly
genuine humility and concealed pride in Beckett. He after all, invested
almost
everything in his work, knew what it had cost terms of effort and
sacrifice,
and could not lightly reject an his achievement at such a high level.
Nói cho
cùng, tại sao Beckett nhận Nobel văn chương, một khi vợ thì than, thảm
họa,
còn ông chồng, mệt quá, distressed. Chắc chắn đếch phải vì tiền,
bởi là vì
chưa nhận tiền thì ông đã xài hết số tiền đó, thật là mau lẹ, bằng cách
kín đáo
chuyển tới cho 1 số cơ quan, đoàn thể, hoặc cá nhân. Thư viện trường cũ
là
chính, để cảm ơn, tất nhiên, và cũng để trả lời những kẻ chửi ông phản
bội Đất
Mẹ [bỏ qua Tây, viết văn bằng tiếng Tẩy, thí dụ]. Một trong những lý do
chính
khiến ông đành nhận Nobel, là không muốn trở thành 1 xì căng đan giống
như trường
hợp của Sartre. Ngoài ra, cũng là 1 cách cám ơn những người đã tin
tưởng ở nơi ông,
những ngày đầu, dám bỏ tiền ra in sách của ông, nhờ giải Nobel sẽ bán
thêm được
sách, rồi những người năm nào cũng nhắc tới ông với Uỷ ban Nobel.
Nhưng luôn có
1 sự trộn lẫn không giống ai, ở trong cái sự gật đầu, cũng đành đó, 1
sự trộn lẫn
của 1 tâm hồn hết sức khiêm nhường, và 1 sự kiêu ngạo ngầm ở nơi ông.
Beckett
chứ đâu phải 1 tên cà chớn nào khác, đúng không, hà, hà!
Beckett, kẻ đầu tư
hầu như tất cả vào tác phẩm, đã chịu bao nhiêu đau thương, cay đắng… làm sao có thể vứt bỏ 1 sự thừa nhận, ở một đỉnh
cao chói lọi như là giải Nobel văn chương!
Hình như có
lần Fitz than với Hemingway [trong Paris là
1 ngày hội?], anh nổi tiếng vì thành công, còn tôi, thất bại.
Nếu đúng thế, thì đây là 1 tự hào.
Hemingway không thể viết được Tender.
Khi cố viết,
bèn tự đòm mình 1 phát!
Vừa xem lại
"The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim Tầu hay
nhất,
dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
K
Tay
Beigbeder đọc Anh Môn, của
Alain-Fournier, cuốn đứng hàng thứ 9 trong Bảng
Phong Thần Cuối Cùng, đã nhắc tới Gatsby
của Fitz, và tự hỏi, liệu Fitz đã từng
đọc Le Grand Meaulnes (1913)
trước khi viết Gatsby, bởi sự
giống nhau của hai
tác phẩm: đều là hai người kể chuyện, ở bên ngoài, kể về một mối tình
bất khả của
một kẻ thứ ba, và hơn thế nữa, xuyên qua những bữa tiệc đốt đuốc chơi
đêm, những
hội hè đình đám của thế giới ‘đại gia’.
Đọc Một Chủ
Nhật Khác của TTT thì Gấu lại nhớ tới Dịu Dàng Như Đêm, tức Cuộc Tình Bỏ Đi,
Tender Is The Night của Fitz. Kết cục của Một Chủ Nhật Khác thê lương hơn
nhiều,
và cái danh hiệu đỉnh cao chói lọi mà nhân loại ban cho Fitz, một
Orpheus hiện
đại, “a modern Orpheus” đúng ra là phải thuộc về Trung Uý Kiệt của Quân
Lực
VNCH, bởi vì Kiệt đã từng xuống địa ngục, [hay thiên đường] khi đưa
Hiền tới
đó.
Lục Mạch Thần
Kiếm, Kiều Phong loạn đả quần hùng tại Tụ Hiền Trang, chỉ vì
muốn cứu nàng hầu
của Mộ Dung Công Tử, là A Châu, trúng đòn Thiếu Lâm khi vô chùa chôm
Dịch Cân
Kinh, sói cô đơn Khiết Đan bị đàn chó Trung Nguyên xúm lại làm thịt,
may được vị
đại hán mặc áo đen cứu thoát. Trước khi bỏ đi, vị đại hán bợp cho Kiều
Phong một
cái, mắng, tại sao chỉ vì một đứa con gái bá vơ mà liều cái mạng quí
báu của
mình?
Một độc giả
mắt xanh của Kim Dung nhìn ra liền tù tì: tất cả là chỉ để sửa soạn cho
cái cú
sét đánh ở ngoài quan ải, khi Kiều Phong ôm một nửa linh hồn của mình
tung lên
trời, chờ rớt xuống ôm chặt vào tim vào lòng, giữa gió tuyết Nhạn Môn
Quan, và
biểu rằng, hai ta ra bên ngoài quan ngoại sống cuộc đời chăn dê chăn
cừu, từ bỏ
chốn giang hồ gió tanh mưa máu...
Độc giả Một
Chủ Nhật Khác sẽ tự hỏi, cớ làm sao, trong lần gặp cuối cùng,
trước khi đường
Thầy, Thầy đi, đường Oanh, Oanh đi, khi Oanh nói với ông
thầy Kiệt, Thầy coi thường Em quá, ông thầy
điên lên, vặc lại:
-Nên để cho
người ta coi thường mình. Mình là cái quái gì?
[Thai đố
này, xin để hậu hồi phân giải]
*
Anh còn nhớ
có lần em nhờ anh mua giùm một đôi guốc. Mua được rồi, anh nhét kỹ
trong người,
đi qua trạm gác phân chia hai khu vực.
Bây giờ ở
đây, khi gió, tuyết, và nỗi cô đơn lạnh cứng người, anh vẫn cảm thấy
chút ấm áp
của đôi guốc ngày nào. Và anh thèm sống lại cảm giác hoang mang, lo sợ
khi đi
ngang trạm gác.
Bụi
*
Không quay lại,
chàng trông thấy toàn thể quang cảnh doanh trại sau lưng, lặng lẽ và
thê lương.
Một bóng người đứng thật xa, nhỏ xíu trong tầm mắt Nghiêm - bấy giờ
chàng nhìn
thấy lại - đứng giữa con đường hoang vắng, bên những toà nhà như lún
thấp dần
theo độ dốc, cất tiếng kêu:
-Nghiêm…
Nghiêm… Happy Birthday!
Giờ Nghiêm mới
thực sự nghe tiếng gọi của Kiệt, chỉ còn là tiếng vang dội sau bao giờ
khắc qua
trong tưởng tượng và tiếng vang ấy hiển lộng, rền rĩ, quái gở khiến
chàng rùng
mình. Chàng cũng thấy lại cảnh tượng trong gian phòng khách ở nhà với
những
khúc nhạc baroque, niềm vui sướng bất chợt thái quá đến muốn ứa lệ,
buổi tối đã
qua. Lúc này Nghiêm ngó thấy Duy đầy mầu mè, khôi hài. Còn Kiệt cuống
rối, kỳ dị,
Nghiêm không ưa.
Đọc đoạn
trên, Hai Lúa bỗng dưng nhớ tới một truyện ngắn của Khái Hưng, Bóng Người Trong
Sương Mù [?], câu chuyện một anh chàng lái xe lửa, thoát chết
nhờ một con bướm
- mà ông tin rằng linh hồn người vợ đang đau nặng nằm nhà và đã mất,
rồi nhập
vào - vỗ đôi cánh ra hiệu cho đoàn tầu dừng lại, vì phía trước có nguy
hiểm.
Truyện này
Khái Hưng "thuổng" của tay nhà văn kinh dị nổi tiếng Georges
Langelan. Ông này còn truyện ngắn Con Ruồi, được coi là một trong những
truyện
kinh dị nhất thế kỷ, đã được quay thành phim, tờ Bách Khoa trước đây có
đăng bản
dịch tiếng Việt.
Cảnh trên
đây, là lập lại một cảnh trước đó. Cụm từ "bấy giờ chàng nhìn thấy lại"
thực sự là để đánh lừa người đọc.
Lần thứ nhất,
Nghiêm không hề nghe thấy tiếng của Kiệt.
Tương tự đoạn,
Duy nằm chết vì say rượu, nghe tiếng gió hú trên từng ngọn đồi Đà Lạt.
Đây là đòn
"phục bút" mà Thánh Thán đã từng nói tới. (1)
Mỗi lần Gấu
nhớ đến Một chủ nhật khác, là
cùng lúc, nhớ đến Dịu dàng như đêm,
Tender is the
Night, của Fitzgerald.
Quả có một
liên hệ tình cảm giữa hai cuốn, thật.
Đoạn sau
đây, mà chẳng đúng là câu thơ ‘Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày
sắp tới’
ư?
Chàng nhớ bữa
đó cỏ thì ướt. Nàng chạy tới chàng, và đôi dép của nàng ướt đẫm sương.
Nàng ôm
lấy chàng, tựa trên đôi giầy của chàng, và khuôn mặt nàng mở ra như một
trang
sách.
"Hãy
nghĩ anh yêu em đến là chừng nào. Em không đòi hỏi anh lúc nào cũng yêu
em nhiều
như lúc này, nhưng em xin anh một điều, hãy nhớ đến em. Cho dù mai sau
có như
thế nào, thì em vẫn đinh ninh một điều, em có ở trong em, điều em có
chiều hôm
nay."
F.S.
Fitzgerald: La Fêlure [Vết
nứt. Nguyên tác tiếng Anh: The
Crack-up]
Nhưng, Fitz
không mê gái bằng Gấu:
“Anh không sợ
chúng mình không thương nhau, mà chỉ sợ chúng mình thương nhau nhiều
quá”
Tứ Tấu Khúc