*





*

Tóm được số báo cũ, mới vỡ ra, tại sao “Kier” lại là bạn thì thầm của Thầy Kuốc: Không chỉ triết gia mí nhau, mà còn dandy, như nhau!
Bằng liên tưởng khùng Gấu còn vỡ ra là tại sao mà MT “moa toa” với Thầy Kuốc: Cùng 1 lứa bên trời lận đận, Cùng phong lưu, phong nhã, handsome, như nhau!
Kier còn có cái nick, “Tên dụ gái buồn”, “Le séducteur mélancolique”! Ông cũng từng viết “Nhật ký của tên tán gái” [Le journal du séducteur]!
Ông vua tán gái Cà mũi lõ, phán, về đàn bà: Em buông thả, nhưng mà là cưỡng lại đấy, la nature féminine est un abandon sous forme de résistance!

*

Note: Thay vì đọc luận văn của Thầy Kuốc, TV sẽ giới thiệu cuốn này. “Tựa”, của Steiner. Trong có 1 chương khá dài về hiện thực XHCN, Lukacs đặt nó kế bên chủ nghĩa hiện thực phê bình, critical realism, Critical Rralism and Socialist Realism,  sau khi so sánh nó với  chủ nghĩa hiện thực trưởng giả. Ông viết, viễn ảnh của hiện thực XHCN, chính là cuộc chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội, the perspective of socialist realism is, of course, the struggle for socialism.
Bài viết này tuyệt lắm, hy vọng sẽ lèm bèm thêm về nó. NQT

Mò ra bài này (a)

‘out of reality are our tales of imagination fashioned’: dù tưởng tượng thế nào thì những giả tưởng của chúng ta đều chui ra từ thực tại.
Câu trên của Hans Andersen, Greene dùng nó như là một đề từ để mở ra cuốn The Human Factor của ông.
Gấu này, cũng đã lần sử dụng hình ảnh Tôn Ngộ Không câu đẩu vân ta bà thế giới, tè bậy một phát ở kẽ núi Ngũ Hành, hóa ra là vẫn quanh quẩn trong lòng bàn tay Phật.

Có một thứ chủ nghĩa hiện thực hết thời, là hiện thực xã hội chủ nghĩa, thứ đồ dởm chuyên tô hồng thực tại.
Coetzee, trong bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là đã "đặt một cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho văn học Nga cái chất quí hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng rác: Thân phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic perception of life.

Ở Việt Nam, nhiều người, nhất là những người thân với chính quyền, thường tiếp tục bênh vực cho chủ nghĩa hiện thực.
NHQ, Blog VOA

Cái chủ nghĩa mà những người “thân với chính quyền” bênh vực này là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, không mắc mớ gì tới chủ nghĩa hiện thực của những bậc thầy như Balzac, thí dụ.
Hiện thực thần kỳ, quái đản, biểu hiện… thì vẫn là [chủ nghĩa] hiện thực.

Giả như hiện thực chủ nghĩa lỗi thời, thì, không chỉ lỗi thời mà là cáo chung luôn cả con người lẫn thực tại!
GNV thực sự tin rằng, chưa bao giờ trong nước cần tới chủ nghĩa hiện thực như lúc này.
Nó, chính nó, mới ghi nhận đích thực xã hội hiện tại, ba thứ khác, chỉ là đánh lừa độc giả!
Nhất là cái thứ chủ nghĩa hậu hiện đại!
*

*

Nói đến chủ nghĩa hiện thực, mà bỏ qua Georg Lukacs thì thật.... nhảm. Nhà phê bình của chúng ta, thực sự không đọc nhiều, vả như đọc nhiều, thì theo kiểu tứ lung tung, thứ nào cũng ba chớp ba nhoáng, thành ra chẳng đi sâu vào bất cứ một tác giả, một trường phái, rồi viết ẩu, phán nhảm. Ngay mấy vị độc giả quen thuộc của Người, đọc bài viết chủ nghĩa hiện thực lỗi thời, cũng chẳng hiểu Người tính nói gì!

GNV đọc Lukacs từ hồi mới tập tạnh viết phê bình, điếc không sợ súng, bài viết Đọc BL 1973 Văn là từ Lukacs mà ra. DT, ông chánh tổng An Nam ở Paris thích bài này lắm!

Để tưởng nhớ ông, và tưởng nhớ chủ nghĩa hiện thực đã lỗi thời, TV sẽ giới thiệu một bài viết thật trứ danh về ông, của Steiner, được dùng làm bài tựa cho cuốn Chủ nghĩa hiện thực trong thời của chúng ta, Realism in our time.

Không phải anh Gấu bad, nhưng anh sống thật với lòng mình quá, nghĩ gì là nói liền . Và cái tài liên tưởng thì khỏi nói .

K

Tks

Cái gọi là viễn ảnh đối với Gấu, còn là cái gọi là liên tưởng, và, quá lắm, biến thành THNM: Nhìn đâu cũng thấy, hoặc VC, hoặc BHD.
Cái thật độc, thật xấu, được giải trừ bằng cái thánh thiện, thánh nữ, hà, hà!

Lukacs, theo GCC, đúng là vì y sĩ trong “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka, nếu bạn đọc bài của Steiner về ông: “Tờ Hợp Đồng với Quỉ của Lukacs”

The literary criticism of Georg Lukacs 

The Hungarian philosopher and literary critic Georg Lukacs is the senior figure living today within the borders of the Communist world who speaks a Marxism that it is possible for intelligent non-Marxists to take seriously.
I do not believe (as many do) that Lukacs is the figure who speaks the most interesting or plausible form of Marxism today, much less that he is (as he has been called) "the greatest Marxist since Marx." But there can be no doubt that he has a special eminence and claim to our attention. Not only is he the mentor of new intellectual stirrings in Eastern Europe and Russia; outside of Marxist circles as well, Lukacs has counted for a long time. His early writings, for instance, are the source of many of the ideas of Karl Mannheim (on the sociology of art, culture, and knowledge), and through Mannheim upon all of modern sociology; he has also had a great influence on Sartre, and through him on French existentialism.
He was born Georg van Lukacs, of a wealthy, recently ennobled Jewish banking family, in Hungary in 1885. From the start, his intellectual career was an extraordinary one. While still in his teens he wrote, gave public lectures, founded a theater, and launched a liberal journal. When he came to Germany to study at the Universities of Berlin and Heidelberg, he astonished his great teachers, Max Weber and Georg Simmel, by his brilliance. His main interest was literature, but he was interested in everything else as well.
His doctoral dissertation, in 1907, was The Metaphysics of Tragedy. His first major work, in 1908, was The Development of Modern Drama. In 1910, he published a collection of literary and philosophical essays, Soul and Form; in 1916, The Theory of the Novel. Some time during the First World War he moved from neo-Kantianism, his earliest philosophical view, to the philosophy of Hegel, and thence to Marxism. He joined the Communist Party in 1918 (dropping the von before his name) .
From here on, Lukacs' career is a stunning testament to the difficulties of a free intellectual committed to a view which has taken on more and more the character of a closed system, and, in addition, living in a society which listens to what intellectuals say and write with the utmost gravity. For, from the beginning, Lukacs' interpretation of Marxist theory was free-wheeling, speculative.
Shortly after joining the Party, Lukacs, for the first of two times in his life, took part in a revolution. Returning to Hungary, he became Minister of Education in the brief Communist dictatorship of Bela Kun in 1919. After the Kun regime was overthrown, he escaped to Vienna, where he lived for the next ten years. His most important book of this period was a philosophical discussion of Marxist theory, the now almost legendary History and Class Consciousness (1923) -of all his works, perhaps the one most esteemed by non-Marxists, and for which he immediately came under strong and unremitting attack from within the Communist movement. The controversy over this book marked the defeat of Lukacs in his battle with Kun for leadership of the Hungarian Communist Party, a battle which was fought in those years of exile in Vienna,

Susan Sontag

Friday, July 11, 2014
Thưa ông Trụ,

Đọc đoạn văn ông phê bình về dissertation của ông NH Quốc trên tanvien, tôi nghĩ ông chưa đọc nó trong bản tiếng Anh. Gửi kèm nó ở đây. Mong ông phê bình nó chứ không phải tác giả nó.  Xin ông tránh nhận định như PC Thiện. Nếu có chê hay khen nên đưa lý luận giải thích cho người đọc.
Cảm ơn ông trước
Kính,

Phúc đáp:
Cám ơn bạn. Tôi sẽ đọc, không phải vì nó, tác giả của nó, mà vì bạn, thịnh tình, thiện ý của bạn.
Regards
NQT

"Nếu có chê hay khen nên đưa lý luận giải thích cho người đọc".

Gấu này [xin bạn cho phép dùng nick này, quen rồi, và, tiện hơn so với những nick khác, và tên cúng cơm] chưa từng nhận định 1 cái gì, về 1 ai mà không đưa ra chứng minh.
Và đây là 1 thói quen khi học Toán. Với Gấu, văn, nhất là phê bình, rất giống Toán.
Một nhận định có tính phê bình, phát giác...  nó giống 1 viễn ảnh.

Thí dụ, khi khen Ngô Bảo Châu và bổ đề của ông, tờ Time dùng hình ảnh, tay này đã ném 1 sợi dây từ bên bờ sông này, qua bờ sông bên kia, nối được hai bộ môn toán, trước đây tưởng không có chút liên hệ [nhớ đại khái].
Einstein thì cũng thế, bằng 1 công thức toán, ông cho thấy vật chất chỉ là 1 dạng của năng lượng, energy. Archimedes và luật tỉ trọng...

Theo nghĩa đó, 1 bài dissertation bắt buộc phải có 1, hay có nhiều hơn 1, viễn ảnh của nó.

NHQ không có cái nhìn như thế, khi viết 1 bài luận văn [dissertation]. Ông toàn phán cho sướng cái miệng, rõ là như vậy.

Ông ta phán về Võ Phiến, nhà văn của thế kỷ 20, thí dụ.

Thế nào là nhà văn của thế kỷ 20, và tại sao VP lại nhà văn của thế kỷ 20, ông không giải thích!

Gấu không hề có cái ý định khốn nạn, làm 1 tên cớm văn nghệ. Những phát giác về những nhảm nhí, khi viết, khi dịch của NHQ, hoàn toàn là do đọc ông, bực quá, đành phải đi kiếm nguyên tác, để so sánh. 

Tôi sẽ đọc bản luận văn của NHQ, trong tinh thần trên, cố tìm ra 1 hay nhiều viễn ảnh của nó.

Đọc lời “cám ơn”, là tôi đã thấy có 1 từ không ổn, “insights”.

Insight, như định nghĩa từ điển, là cái nhìn, sáng suốt, thấu hiểu bên trong sự vật. Như thế, từ này dùng để chỉ NHQ và luận văn của ông, chứ không phải để chỉ cái ông mà NHQ cám ơn.
Insight, đúng là cái viễn ảnh, cái đốn ngộ mà 1 bản văn, nếu có tính sáng tạo, bắt buộc phải có.

Ông Sếp của NHQ cần gì đến…  insight?
NHQ, 1 câu văn tiếng Anh, như câu trong bài viết của Barthes, được dịch từ tiếng Tây qua, dịch sai, làm sao viết được luận văn bằng tiếng Anh?
Cái này là của Sếp của ông, bởi vì chính ông Sếp là tác giả bản luận văn!

Khi viết lời cám ơn, bằng “vô thức”, NHQ làm bật cái viễn ảnh [sự thực, chân lý…] của bản văn, “my own work”!

ACKNOWLEDGEMENTS

In the course of writing this thesis I received aid and support from many people. My greatest debt is to my supervisor, Emeritus Professor John McLaren, who not only carefully read and commented on my writing but also frequently motivated me to continue, particularly when I was discouraged. Without his insights and patience thesis could not have been completed.

DECLARATION

I, Tuấn Ngọc Nguyễn, declare that the thesis entitled Socialist Realism in Vietnamese Literature: an Analysis of the Relationship between Literature and Politics is no more than 100,000 words in length, exclusive of references. This thesis contains no material that has been submitted previously, in whole or in part, for the award of any other academic degree or diploma. Except where otherwise indicated, this thesis is my own work.

Tôi đã đọc hết bản văn của NHQ, và thú thực, không thể nào viết về nó được.
Nó nhảm quá. Toàn phán theo kiểu vô tội vạ.

Thí dụ, câu này, trong phần ABSTRACT:

Despite having been imported from France, the socialist realism which was officially adopted in Vietnam was mainly that interpreted by China’s Maoists.
Mặc dù được nhập cảng từ Pháp, chủ nghĩa hiện thực XHCN chính thức được chấp nhận ở Việt Nam chủ yếu là được giải thích bởi những Mao Ít của TQ 

1.    Chủ nghĩa HT/XHCN nhập cảng từ Pháp, được nói tới ở đây, là qua những tác phẩm, trường hợp nào?
2.   
Những Mao Ít của TQ là những ai? Họ giải thích HT/XHCN của những ai? Như thế nào? 

Theo thiển ý, cái gọi là hiện thực XHCN ở Miền Bắc, thực ra có thực, có từ lâu rồi, qua rất nhiều tác giả thời tiền chiến, thí dụ Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng… Họ sống, viết, và miêu tả cái xã hội mà họ đang sống, tức xã hội Bắc Kít, cần gì nhập cảng từ Pháp?
VC cướp chính quyền, làm thịt mọi đảng phái, quơ mọi tên viết lách bắt buộc phải theo chúng, dưới lá cờ hiện thực XHCN.
Đơn giản chỉ có vậy

Viết/phán loạn cào cào.
Thua!

Xin lỗi bạn.
Và để thay thế, tôi sẽ lèm bèm về 1 cuốn của Lukacs, viết về chủ nghĩa hiện thực. Và cùng lúc giới thiệu bài viết của Susan Sontag về ông, trong “Against interpretation”
Thú vị hơn nhiều!
Regards

NQT

CÀ PHÊ VÀ KIERKEGAARD

Ly cà phê latte thứ tư trong ngày và là ly cà phê thứ hai trong cùng một tiệm, chiều nay, ở Sydney, sau khi thuyết trình xong về đề tài “ngôn ngữ và bản sắc trong văn học Việt Nam tại Úc” (Vietnamese Australian Writings: Issues of Language and Identity) trong một cuộc hội nghị ở Đại học Sydney. Vừa uống café vừa đọc Søren Kierkegaard. Lâu lắm rồi, dễ đã gần 20 năm, mới đọc lại Kierkeggard. Lần đọc này, chỉ qua những câu trích dẫn của ông thôi, có cảm giác như chưa bao giờ thấy ông gần gũi đến như vậy. Hình như trong việc đọc, trí tuệ và kiến thức không, chưa đủ; người ta cần có một thời điểm và một tâm trạng nào đó, thật thích hợp, để cái hiểu và cái cảm mới thực sự sâu lắng. Mới thấm. Đọc trở thành một sự chia sẻ. Như nghe những lời thầm thì của một người bạn.

FB Thầy Kuốc

Bữa trước Thầy Kuốc đã đi 1 đường cà phê, kế bên Milosz và Brodsky, là hai tác giả mà Thầy cực mê, Gấu Cà Chớn bèn “phụ hoạ”, là, hai vị bạn của Thầy này, thơ của họ sặc mùi trí tuệ, và đẫm chất Ky Tô, cả hai món, Mít không ưa.
Theo Gấu, Mít chúng ta chỉ đọc và làm thơ, thứ thơ vãi lệ, thơ tán gái. Và thơ... nhớ bạn, khi ngồi...   cà phe!

“Bạn” của Thầy, là Ngài VP, rất bực thứ thơ trí tuệ này.

Bi giờ, Thầy lại cà phê với Kierkegaard, Thầy cho biết, Thầy quen từ 20 năm về trước, và đọc K, như có người thì thầm bên tai!
Có điều Thầy không trích [quote], 1 câu thì thầm nào của K cả!

Thầy lại bịp thiên hạ nữa rồi, hà hà!

Theo GCC, K cũng thật khó đọc, vì cũng lại 1 khúc xương… Ky Tô & phản Ky Tô, lại...  hà hà!

Đọc mấy cái còm, thì lại nhớ tới...  Mộ Dung Cô Tô, khi giấc mộng làm vua tan tành, thì bèn làm vua 1 đám con nít, ngày ngày thiết triều, cho chúng tung hô, xong, ban phát cho chúng vài cái kẹo…

Đám con nít, cũng phụ họa Thầy, viết nhảm về K, nào là hiện sinh chán đời, cái con mẹ gì đó…
Đây là “giọng chung”, và đã trở thành những bản kẽm về chủ nghĩa này.
Nào chán đời, nào hư vô, nào yếm thế…
Với đám VC thì thêm vô mấy bản kẽm nữa, sa đọa, nô dịch, vọng ngoại…  

Nhân đây xin giới thiệu 1 cuốn nhỏ về hiện sinh. Và 1 cuốn của K.

*

*

Note: Cuốn của WK, theo GCC, rất tuyệt. Bạn nào cần nghiên cứu về chủ nghĩa này, nên đọc. Chưa có chủ nghĩa triết học nào bị hiểu lầm nhiều, như là hiện sinh, như trang bìa cho thấy.
Còn 1 cuốn nữa, GCC đọc hồi mới lớn, của Sartre, "Hiện sinh là 1 chủ nghĩa nhân bản," khởi  từ 1 câu của Dos, nếu Thượng Đế không có, thì mọi chuyện đều được phép, và ra cái ý, "hiện hữu có trước yếu tính", nổi tiếng, của Sartre:

« L'EXISTENCE précède L'ESSENCE.»

C'est «la» formule célèbre de Sartre. Il tient à la distinguer d'une formule voisine chez Heidegger: «L'existentialisme athée, que je représente, est plus cohérent. Il déclare que si Dieu n'existe pas, il y a au moins un être chez qui l'existence précède l'essence, un être qui existe avant de pouvoir être défini par aucun concept et que cet être c'est l'homme ou, comme dit Heidegger, la réalité humaine. Qu'est-ce que signifie ici que l'existence précède l'essence? Cela signifie que l'homme existe d'abord, se rencontre, surgit dans le monde, et qu'il se définit après. L'homme, tel que le conçoit l'existentialiste, s'il n'est pas définissable, c'est qu'il n'est d'abord rien. Il ne sera qu'ensuite, et il sera tel qu'il se sera fait. Ainsi, il n'y a pas de nature humaine, puisqu'il n'y a pas de Dieu pour la concevoir. L'homme est seulement, non seulement tel qu'il se conçoit, mais tel qu'il se veut, et comme il se conçoit après l'existence, comme il se veut après cet élan vers l'existence; l'homme n'est rien d'autre que ce qu'il se fait.» (1)

Nhân Thầy Kuốc “thầm thì” với....  Kierkegaard, Gấu Cà Chớn bèn… “quote” Susan Sontag!

Trong bài viết về Simone Weil, trong “Against interpretation” bà Mẽo này nhắc tới Kierkegaard:

Some lives are exemplary, others not; and of exemplary lives, there are those which invite us to imitate them, and those which we regard from a distance with a mixture of revulsion, pity, and reverence. It is, roughly, the difference between the hero and the saint (if one may use the latter term in an aesthetic, rather than a religious sense). Such a life, absurd in its exaggerations and degree of self-mutilation-like Kleist's, like Kierkegaard's-was Simone Weil's. I am thinking of the fanatical asceticism of Simone Weil’s life, her contempt for pleasure and for happiness, her noble and ridiculous political gestures, her elaborate self-denials, her tireless courting of affliction; and I do not exclude her homeliness, her physical clumsiness, her migraines, her tuberculosis. No one who loves life would wish to imitate her dedication to martyrdom, or would wish it for his children or for anyone else whom he loves.

Một nhân vật “thần kỳ” [exemplary], “kính nhưng mà né xa ra, đừng tới gần” như Kierkegaard, hay như Simone Weil, mà ngồi cà phê với Thầy Kuốc, thầm thì với Thầy Kuốc!
Đúng là Đại Bịp!

NQT

*

Chống “Dẫn Giải”

Trong cuốn này, GCC có đọc đâu…  hai ba bài, viết về mấy tác giả Gấu quan tâm, thí dụ, Simone Weil, G. Lukacs… Bữa nào rảnh, có thể, Gấu sẽ giới thiệu hai bài này, cũng ngắn, nhưng không dám hứa lèo!

Re: Kierkegaard, quote.
Mò Tin Văn, ra câu này:
"The individual has manifold shadows, all of which resemble him, and from time to time have equal claim to be the man himself."
Kierkegaard, quoted in Highsmith’s 1949 journal (1)
Hay câu này:

Like Kierkegaard, Greene knows that the loneliest of men is he who has no secret-or, more exactly, who has no one to whom to betray a secret. Thus there is a bizarre communion in all treason, and a theology echoed in Lear's mysterious admonition to Cordelia: let us be "God's spies" and sing like the birds in their cage. (2)
K còn là tác giả mà Hannah Arendt đã từng đọc, khi mới lớn, và có thể, đã ảnh hưởng lên Bà, và từ đó, là những nhận định khủng khiếp của Bà về chủ nghĩa toàn trị:
Trước khi lấy bằng tú tài – như thí sinh tự do tại Konigsberg – bà đã theo những bài giảng (cours) của Romano Guardini ở Berlin, và đọc Kierkegaard. Với bà, triết học trở thành phiêu lưu, mạo hiểm. (3)
Chỉ vài "quote" thôi, cho thấy, ông K này khó mà...  thì thầm được!

Đúng là Đại Đại Bịp!

NQT

Note: Thầy Kuốc và Mộ Dung Cô Tô cùng có giấc mộng "Hưng Quốc" như nhau. Đâu phải tự nhiên mà VC đá đít Thầy tới hai lần. Chúng chẳng đã từng hẹn gặp Thầy ở đồn CA, để tra hỏi, về giấc mộng lớn này.

Theo Gấu, quả là Thầy có nó, giấc mộng "Hưng Quốc", những ngày mới ra hải ngoại.
Đâu chỉ 1 mình Thầy, mà có thể, cả 1 miền đất!
Đừng có bao giờ coi thường VC: Cái Ác Bắc Kít gặp cái Thâm Cái Độc Trung Kít làm thành cái nền của Bắc Bộ Phủ.
Chưa kể Cái Ác của Tầu Khựa, mà để có nó, thì mới ăn cướp được Miền Nam, chúng bèn hiến cả vợ con cho lũ Tẫu.
*

Friday, July 11, 2014

Thưa ông Trụ,

Đọc đoạn văn ông phê bình về dissertation của ông NH Quốc trên tanvien, tôi nghĩ ông chưa đọc nó trong bản tiếng Anh. Gửi kèm nó ở đây Mong ông ông phê bình nó chứ không phải tác giả nó.  Xin ông tránh nhận định như PC Thiện. Nếu có chê hay khen nên đưa lý luận giải thích cho người đọc.

Cảm ơn ông trước

Kính,

Phúc đáp:

Cám ơn bạn. Tôi sẽ đọc, không phải vì nó, tác giả của nó, mà vì bạn, thịnh tình, thiện ý của bạn.

Regards

NQT