|
Vĩnh
Biệt Vaclav
Havel
Havel, Hitchens and Kim
Things come in
threes
Nhất sinh nhị, nhị sinh tam.
"Whereof one
cannot speak, thereof one
must be silent," Ludwig Wittgenstein observed.
Khi không thể nói, thì phải im lặng.
Nếu không, chết sao?
Khi hai đối
thủ của chủ nghĩa toàn trị thế kỷ 20, đi tầu suốt cùng trong 1 tuần lễ,
cái đó
gọi là bi kịch. Khi cái chết của họ được "gia nhập" (ở đây đúng ra
nên dùng từ bị "lu mờ"), bằng cái chết của 1 tay độc tài của thế kỷ
20, có lẽ là hài kịch. Hay có thể vẫn là bi kịch.
Christopher
Hitchens, Kim Jong Il và Vaclav Havel chết, cách nhau chỉ vài ngày giữa
họ với
nhau. Đầu tiên, Hitchens, sụm xuống vì ung thư thực quản vào ngày 15
tháng 12,
thọ 62 tuổi, nạn nhân của những tật hư, thói xấu của ông, và của DNA
(cha truyền
con nối: ông via của ông cũng chết vì bịnh này). Kim, "Người Cầm Đầu
Đáng
Yêu" bịnh hoạn của Bắc Hàn, xìu đi, tàn lụi đi, rồi đi luôn vào Thứ
Bẩy,
69 tuổi. Và vào bữa Chúa Nhật, tới lượt Havel, chiến đấu cũng cả thập
niên với
đủ thứ bịnh, và sau cùng, thua, bỏ đi xa.
Thất thập cổ
lai hi, 75, vậy là OK rồi!
Bi giờ hãy vờ
Bắc Hàn đi 1 tị, và chỉ nói tới hai đấng kia, hai gã đàn ông trơ cu lơ,
hơi bị ồn,
và hơi bị thông minh, láu lỉnh.
Ngoài ồn và
láu ra, chắc chẳng còn gì giống nhau giữa họ.
Vào thập
niên 1970 và 80, Havel, cá nhân ông, kinh qua cú nặng tay [bàn tay
thép?] của
chủ nghĩa CS, thời gian ông ở tù cũng bằng [thật ăn ý, thật xứng đôi],
với thời
gian Hitchens ở quán nhậu, tiệm rượu, ổ gái…
Cái chế độ
Xô Viết mà Havel chống đối như là phi lý, thì lại là 1 điều gì đó mà
Hitchens
nghiêng về để tiểu thuyết hoá, từ một quãng xa an toàn của đỉnh cao con
sào của
ông, ở the "Nation”. [Tờ báo ông thường xuyên đóng góp bài vở]
Havel là nhà
đạo đức, có ảnh hưởng, được yêu mến, tuy nhiên e thẹn, nói năng nhỏ
nhẻ.
Hitchens thì là 1 tay nhà nghề rất nghề, dân pro, mồm mép có hạng, rất
thính
tai, thính mũi, độc đoán, hách xì xằng. Phò chiến tranh Iraq, (Havel
cũng phò),
khiến Hitchens bị tả phái đuổi ra khỏi phe. Havel thì là tổng thống
được dân bầu
lên của xứ Czech, cũng thú vị chứ!
Tuy nhiên cả
hai đều là những tay tranh luận có hạng, có hiệu quả, kết hợp bởi niềm
tin của
họ vào quyền uy ngôn ngữ. Cả hai đều tin vào tự do, quyền cá nhân, và
sự tìm kiếm
không khoan nhượng, sự thực.
Đồng ý hay
không với họ - và Hitchens rất thú cái chuyện, bạn phải cực chẳng đã
thì mới bằng
lòng - cả hai đều kiên định bảo vệ quan điểm của họ. Thời gian và tuổi
tác
không làm yếu họ. Ngay cả Hitchens ngày càng bịnh, cũng cố bò khỏi cái
giường
ra cái bàn, tiếp tục nguệch ngoạc.
"Khi không thể
nói được thì phải im lặng" Ludwig Wittgenstein phán. Trong vài trường
hợp, quả là "khó có thể nói", nào là Cớm VC đưa đi học tập cải tạo
không cần án
tòa, nào
là Cớm VC đạp vô mặt, một cách rất ư hung hãn. “Không nói” thường là
để tự bảo
vệ, sự im lặng của những người không có quyền lực, bị đàn áp, bách hại.
Chính vì họ
mà cả hai thường lên tiếng. Thành thử có rất nhiều, có đủ thứ, để mà
tưởng niệm
họ, khi họ đi xa, và bặt tiếng.
Và cái sự bặt tiếng dài dài, nhất định không chịu
“có thể nói”, ở Bắc Hàn quả là 1 trò mê tín, quái đản.


Mê tín quái
đản. Le Futur immobile. Tương lai sững

Trong túi
luôn thủ sẵn cái bàn chải đánh răng. Cớm VC
Tchèque tới lúc nào là đi lúc đó.
Quái làm
sao, GCC lại nhớ đến tay soạn nhạc người Nga, Shostakovich, thời gian
thất sủng,
không dám ngủ ở trong nhà, mà ở hành lang, chờ KGB tới bắt, để vợ con
khỏi phải
nhìn thấy cảnh tượng này. Trên TLS số mới có 1 bài hay lắm về ông, đúng
hơn, về
cái thế đi hai hàng của ông. Để thủng thẳng TV giới thiệu độc giả, coi
có giống
đám sĩ phu Bắc Hà không.
GCC coi lại,
trên tờ Điểm Sách London, số 1, Dec 2011, không phải TLS.
Số này còn 1 bài Tim
Parks điểm Beckett’s Letters, cũng được lắm.
Whose
side was Shostakovich on?
[PD ở phe nào, Ngụy hay VC?]
by Alex Ross, The New Yorker,
March 20, 2000
Alex Ross là
1 chuyên gia về âm nhạc. Một lần tình cờ đọc 1 bài của ông, thật tuyệt,
chỉ nhớ mỗi một câu. (1)
Rồi mất luôn số báo.
Sau gặp lại…
(1) Nhiều
thính giả không chịu nổi nhạc của Schoenberg. Khi nhạc viện “Met
Opera”,
vào năm 1999, trình diễn "Moses und Aron" của ông, một bà già lẩm bẩm,
“Tôi đã sống sót Lò Thiêu - Đừng bắt tôi ngồi đây trải qua nó 1 lần
nữa”.
TV sẽ
giới
thiệu bài này.
Học yêu nhạc Schoenberg, Learning to love Schoenberg
Huýt sáo trong bóng đêm, Whistling in the Dark, cuộc cách mạng dang dở
của
Schoenberg.
Trong túi
luôn thủ sẵn cái bàn chải đánh răng. Cớm VC
Tchèque tới lúc nào là đi lúc đó.
Quái làm
sao, GCC lại nhớ đến tay soạn nhạc người Nga, Shostakovich, thời gian
thất sủng,
không dám ngủ ở trong nhà, mà ở hành lang, chờ KGB tới bắt, để vợ con
khỏi phải
nhìn thấy cảnh tượng này. Trên TLS số mới có 1 bài hay lắm về ông, đúng
hơn, về
cái thế đi hai hàng của ông. Để thủng thẳng TV giới thiệu độc giả, coi
có giống
đám sĩ phu Bắc Hà không.
GCC coi lại,
trên tờ Điểm Sách London, số 1, Dec 2011, không phải TLS.
Số này còn 1 bài Tim
Parks điểm Beckett’s Letters, cũng được lắm.
Một thoáng
Havel
Cuộc “song đấu” giữa
Vargas Llosa và
Vaclav Havel, trong 1 chương trình truyền hình của Tây.
TV sẽ giới thiệu bản tiếng
Việt. Tuy nhiên, thú nhất với riêng GCC, là cú chót, đóng lại bài viết:
In one of
his essays, Havel quotes the terrible observation of Eugene
O'Neill: 'We have fought for so long against small things that we've
become
small ourselves.' I trust now that he no longer has to confront the
formidable
adversities of before, but rather the small and sordid adversities of
the daily
art of governing, the president of the Czechs will go on being the
discreet and
pure man that he is still today.
Trong 1 bài tiểu luận, Havel trích một nhận xét khủng khiếp của Eugene
O'Neill: Chúng ta mải miết chiến đấu với những điểu nhỏ mọn, và sẽ đến
1 lúc,
chính chúng ta, trở thành nhỏ mọn.
Thảo nào mấy vị độc giả thân hữu của TV cứ bực bội hoài vì cái mục
Dọn!
Tks Both of
U.
Happy Noel!
NQT
Chính
Luận
Histoires et totalitarisme
Pour la plupart des
journaux occidentaux la Tchécoslovaquie
semble être la plupart du temps un pays où “il ne se passe rien”. Tel
est bien
l'“idéal” de ses dirigeants, aspirant avant tout à une anesthésie de la
société, au silence des sujets, à l'abolition du temps et de la parole.
Havel
met en relief le caractère dramatique de cet étouffement de toute vie
publique,
la menace qui en résulte pour la vie privée même, l'arrêt de mort
dressé contre
toute une société. C'est pourquoi il insiste tant sur le pluralisme
comme
valeur sociale, seul antidote au poison lentement inoculé par le
pouvoir.
Tin Văn sẽ giới thiệu bài
viết “Những lịch sử [câu
chuyện] và chủ nghĩa toàn trị”.
Bởi vì xứ Mít cũng y chang:
Với đa số báo
chí Tây
Phương, thì ở xứ Mít chẳng có
chuyện gì xẩy ra. Và đó là “lý tưởng” của Bắc Bộ Phủ, giấc “hôn thụy”
cho toàn
xã hội, bãi bỏ thời gian, và lời nói. Havel nhấn mạnh vào cái tính
khủng khiếp
của sự bịt miệng đến nghẹt thở này, về tất cả cuộc sống công cộng, ăn
lấn tới cuộc
sống riêng tư, một tử điểm, điểm ngưng, điểm chết đối với tất cả xã
hội. Chính
vì vậy, ông nhấn mạnh đến chủ nghĩa số nhiều, đa giọng, như là 1 giá
trị xã hội,
một thứ thuốc chủng độc nhất chống lại thuốc độc chậm BBP ban cho dân
Mít

Cuốn này, GCC mua ở tiệm
sách cũ, mất jacket. Tuyệt cú
mèo. VH là người đầu tiên tiếp Phật Sống. Tả hữu can, cảnh cáo, thể nào
thằng Tẫu
cũng không tha ông. Hóa ra Tẫu không dám nhúc nhích, chẳng dám cắt
ngoại giao, hợp đồng kinh tế. Thế là thiên hạ theo ông, tiếp Phật
Sống hầm bà làng.
Câu này là chẳng thú sao:
SOMETIMES
people say that, in my handling of foreign affairs, I am too much of an
idealist, a dreamer, a philosopher, a poet, a utopian. I have no wish
to deny
anyone his impressions or his feelings. I merely point out that, if
Czechoslovakia enjoys the respect it does in the world today, then it
is due -
among other things - to the kind of basic decency and humanity with
which
Communism was overthrown here, and the moral direction of our foreign
policy.
Will this respect last, or will we soon lose it as a result of our
incapacity
to settle our domestic affairs in a reasonable way?
Đôi khi
người ta chê cung
cách hành nghề ngoại giao của tôi, quá lý
tưởng, một
tên mơ mộng, một triết gia, một nhà thơ, một kẻ không tưởng. Tôi đâu
muốn xía
vô tình cảm, ý nghĩ của bất cứ ai. Nhung nếu Czechoslovakia được sự nể
trọng
như hiện nay, đó là do cái nền lễ nhạc nhân bản, nhờ nó mà đá
đít được
đám VC Czechoslovakia...
Vĩnh Biệt Vaclav
Havel
Exit
Havel
The King leaves the Castle.
Vua
Rời Lâu
Đài
Misunderstood,
maligned, but eventually loved
Vĩnh
Biệt Chính
Trường
Vaclav Havel
Lời giới thiệu:
Vaclav Havel
sinh ngày 5 tháng Mưòi 1936, tại Prague, Tiệp Khắc. Cha của ông là một
thương
gia giầu có. Khi cuộc đảo chánh do những phần tử được Moscow hỗ trợ nắm
quyền
Czechoslovakia vào năm 1948, gia đình ông bị liệt vào danh sách "kẻ thù
của
giai cấp", và bị tịch thu tài sản. Bản thân ông, bị cấm không được học
quá
chương trình tiểu học. Ông học xong trung học một cách lén lút, vào ban
đêm,
trong khi ban ngày làm chuyên viên phòng thí nghiệm. Bị bác đơn xin học
ngành
nghệ thuật, ông học kinh tế tại Đại học Kỹ thuật Czech. Sau khi tốt
nghiệp vào
năm 1957, phục vụ quân đội trong hai năm.
Nhà soạn kịch,
chính trị gia, nhà đối kháng, ly khai và tranh đấu cho nhân quyền. Bị
bắt 4 lần,
trải gần 5 năm trong tù, 1977-89. Được dân bầu làm tổng thống Tiệp
(Czechoslovakia),
1989; và bầu làm tổng thống Cộng Hoà Czech Republic (1992).
Thập niên
1960, ông sáng tác những bi hài kịch theo kiểu Kafka, nhằm chỉ trích sự
phi lý
của chế độ thư lại cộng sản. Trong vở kịch dài "The Garden Party"
(1963), những nhân viên nhà nước cộng sản đã không làm sao phá huỷ được
chế độ
thư lại, chỉ vì không làm sao giải được ngôn ngữ mật mã mà nó sử dụng.
Thời kỳ
đen tối ngay sau khi xe tăng Liên Xô giập nát "Mùa Xuân Prague 1968",
lợi dụng chút tự do ngắn ngủi, ông viết hai vở kịch mang tính hiện
sinh,
"The Conspirators" và "The Mountain Hotel".
Thời gian
dài sau đó, tiếp theo sau cuộc xâm lăng của Liên Xô, ông quay qua viết
chui, với
những tác phẩm như Phỏng Vấn, "Interview" (1975), Một Cái Nhìn Riêng
Tư, "A Private View" (1975), và Phản Đối, "Protest" (1978).
Nhân vật là chính ông, có cái tên là Vanek ở trong những vở kịch kể
trên, một
nhà ly khai, và nhà văn, bị nhà nước bách hại. Những vở kịch trên đều
được
trình diễn trong bí mật.
Bà vợ của
ông mất vì ung thư, tháng Giêng 1966. Bản thân ông cũng đã trải qua
những cuộc
điều trị ung thư phổi.
Sau đây là
bài diễn văn của Tổng Thống Havel, tại Nữu Ước, vào ngày 19 tháng Chín,
2002, tại
Graduate Center of the City University, nhân chuyến công du nước Mỹ sau
cùng của
ông, với cương vị Tổng thống xứ Cộng Hòa Czech Republic.
Trong những
số tới Jennifer tôi sẽ giới thiệu thêm về những tác phẩm của Havel.
*
Vẫn còn ngời
ngời trong tôi, là kỷ niệm chuyến đi mười ba năm trước đây, vào tháng
Hai 1990,
thành phố Nữu Ước chào mừng tôi, như là vị tổng thống mới tinh của xứ
Czechoslovakia. Lẽ dĩ nhiên, đây không phải vinh danh cá nhân tôi, mà
là một
cách vinh danh tất cả những đồng bào của tôi, mà, bằng một hành động
không bạo
động, đã có thể lật đổ một chính quyền quỉ ma từng ngự trị trên xứ xở
này. Và
cũng vinh danh tất cả những người, trước tôi, hay cùng với tôi, đã
chống cự, cưỡng
lại chế độ đó, một lần nữa ở đây, bằng những phương tiện không bạo
động. Rất
nhiều người yêu tự do trên toàn thế giới, đã nhìn chiến thắng của cuộc
Cách Mạng
Nhung Czechoslovak Velvet Revolution tại Tiệp khắc như là một loài chim
đem tin
mừng, về một thế giới nhân bản hơn đang cận kề, một thế giới mà trong
đó, tiếng
nói của thi sĩ thì cũng đầy quyền uy, chẳng thua gì của ông chủ ngân
hàng.
Hôm nay
chúng ta vui vầy ở đây, ấm áp, ngời ngời, đầy ấn tượng, chẳng kém chi
lần trước,
và một không khí như vầy tự nhiên khiến tôi băn khoăn về một điều,
rằng, thời
gian mười ba năm trôi qua, tôi có gì thay đổi, và khoảng đời làm tổng
thống, chắc
là chẳng thoải mái, khó mà cảm thông, ảnh hưởng gì tới tôi, và những
kinh nghiệm
không thể nào đếm được, qua bằng ấy năm tháng chẳng thể nào êm đềm, đã
thay đổi
con người tôi, bằng những cách như thế nào.
Và tôi khám
phá ra một điều phải nói là kỳ quái. Bởi vì ai mà chẳng cho rằng, giầu
kinh
nghiệm như vậy sẽ làm cho tôi tự hào hơn, tự tin hơn, sáng sủa hẳn ra,
nhưng
ngược hẳn vậy. Tôi trở nên bớt tự tin, và càng khiêm tốn hơn. Các bạn
có thể
không tin, nhưng mỗi ngày tôi một thêm khớp vì phải lên sân khấu; ngày
nào tôi
cũng sợ, rằng mình không đóng tới nơi tới chốn vai của mình, và như
thế, tôi sẽ
làm tệ, làm hỏng công việc đó. Càng ngày càng trở nên khó khăn hơn, cái
việc viết
diễn văn, và càng sợ hơn, khi ngồi viết: cứ như là rắn cắn phải lưỡi,
nghĩa là
bổn cũ soạn lại, hàng nhiều lần. Cứ thế, tôi sợ rằng tôi sa sút một
cách thê thảm
đối với hoài vọng, và tới một ngày nào đó, mình lộ chân tướng: chỉ là
một gã bất
tài, một tên thất bại, và cho dù đầy thiện ý, tôi sẽ tạo những lỗi lầm
ngày
càng lớn, cho tới một ngày, tôi không còn được tin cậy, chẳng có chút
đáng giá,
nghĩa là vô dụng, và do đó mất quyền làm những gì tôi làm.
Và trong khi
những vị tổng thống khác, trẻ hơn tôi vào lúc tại chức, tỏ ra rất hân
hoan mỗi
lần có cơ hội gặp gỡ, giữa họ với nhau, hoặc với những người quan trọng
khác,
xuất hiện trên truyền hình, hay ban diễn từ, đọc diễn văn, bấy thứ đó
chỉ làm
tôi thêm sợ. Đòi phen, lẽ ra tôi phải hân hoan đón chào một cơ hội tốt,
thì tôi
lại cố tình tránh né do nỗi sợ phi lý, là tôi sẽ làm hỏng thời cơ kia
bằng cách
này cách khác, và còn có thể tổn hại đến chính nghĩa. Nói tóm tắt là,
tôi ngày
càng thêm ngần ngại, nghi ngờ, ngay cả với chính mình. Và tôi càng có
thêm kẻ
thù bao nhiêu, tôi càng cùng phe với họ bấy nhiêu, ở trong cái đầu của
mình, và
như thế, tôi trở thành kẻ thù khốn kiếp nhất, tệ hại nhất của chính tôi.
Làm sao giải
thích nỗi đoạn trường, cuộc truân chuyên, là cái nhân cách của tôi, ở
đây?
Có lẽ, một
khi không còn làm tổng thống nữa, tôi sẽ đào sâu thêm về vấn đề này,
nghĩa là kể
từ tháng Hai sắp tới, tôi sẽ có thì giờ, và có một quãng cách với chính
trường,
và, lại có tư cách của một con người hoàn toàn tự do, tôi sẽ khởi sự
viết một
cái gì đó khác với những bài diễn văn chính trị.
Tuy nhiên,
vào lúc này, hãy cho tôi thử đưa ra một trong rất nhiều lời giải thích,
về những
nguồn cơn cơ sự kể trên. Như bạn biết đấy, càng về già, càng trở nên
chín chắn,
về kinh nghiệm cũng như là về tâm trí, tôi dần dần nhận ra một cách đầy
đủ tầm
mức trách nhiệm của mình, và về những đòi hỏi rất đỗi thay đổi, đa
dạng, đẻ ra
từ cái công việc mà tôi chấp nhận. Hơn thế nữa, thời gian cứ thế tiến
gần,
trong khi những người chung quanh tôi, thế giới, và - điều tệ nhất –
lương tâm
của riêng tôi, chẳng còn hỏi tôi những điều đại loại như thế này: đâu
là những
lý tưởng, mục tiêu của tôi, tôi đã mong hoàn thành những gì, thay đổi
thế giới
ư, làm sao thay đổi... nhưng thay vì như thế, bây giờ là những câu hỏi
như thế
này: cuối cùng tôi đã làm được chút nào không, những ý hướng nào đã
được đề ra,
và hậu quả thế nào, di sản để lại, và cái kiểu thế giới nào, tôi muốn
để lại
sau lưng mình. Và bất thình lình, tôi cảm thấy nỗi nhức nhối, khó chịu,
vừa
mang tính tâm linh, vừa mang tính trí thức: vẫn là nỗi nhức nhối, đã có
lần tôi
cảm thấy, khi đứng lên, chống lại chính quyền toàn trị, và đi vào tù vì
dám làm
như thế. Chính nỗi nhức nhối này làm cho tôi đắm chìm vào những nghi
ngờ, về
giá trị việc làm của riêng tôi, về những việc làm của những người mà
tôi hỗ trợ,
và về ảnh hưởng của những người có được vì tôi.
Trong quá khứ,
mỗi lần được trao những bằng cấp danh dự, nghe những bài diễn văn ngợi
ca, tôi
thường cười với chính tôi, rằng, làm sao mà trong rất nhiều dịp như thế
này,
tôi lại nhớ tới một chú bé, trong câu chuyện cổ tích, nhân danh cái
tốt, đập đầu
vào bức tường tòa lâu đài của những ông vua độc ác, ma quỉ, cho tới khi
bức tường
đổ xuống, chú bé trở thành vì vua, và trị vì vương quốc trong nhiều
năm, bằng sự
khôn ngoan và tài đức của mình. Đừng trách tôi coi nhẹ những dịp lễ lạc
như
trên, tôi trân trọng, đánh giá cao những bằng cấp tiến sĩ danh dự mà
tôi đã được
trao tặng, và tôi luôn luôn cảm động, khi nhận chúng.
Tuy nhiên,
như trong câu chuyện thần tiên trên chứng tỏ, tôi chỉ muốn đưa ra một
mặt khác
- hơi có tính hài hước - của vấn đề. Bởi vì, tôi bắt đầu hiểu ra, tại
làm sao,
duyên cớ nào, tất cả giống như một cái bẫy quái quỉ mà số mệnh đã bầy
đặt cho
tôi. Bởi vì, như một viên đạn sỏi ở trong một cái ná của một đứa trẻ,
chỉ trong
một đêm, tôi thấy mình ở trong một thế giới của những câu chuyện thần
tiên, và
rồi, trong những năm tiếp theo, phải trở về trái đất, và nhận ra, những
câu
chuyện thần tiên chỉ là phóng chiếu những mẫu người (human archetypes),
và thế
giới chẳng hề được cấu trúc như một câu chuyện thần tiên. Và, chẳng bao
giờ cố
gắng làm một ông vua như trong chuyện thần tiên kể trên, mặc dù "bị"
số mệnh đẩy vào một sự biến của lịch sử, thì cứ nói như vậy, nhưng tôi
lại
không có được sự miễn nhiễm ngoại giao, khi té cái bịch xuống trái đất,
từ thế
giới hào hứng cách mạng vào thế giới thư lại tẻ nhạt thường ngày.
Làm ơn hiểu
dùm, tôi không hề muốn nói rằng tôi đã bỏ cuộc, đầu hàng, hay là mọi
chuyện đều
vô ích. Ngược lại, thế giới, nhân loại, và nền văn minh của chúng ta,
tất cả thấy
mình ở ngã tư, ngã năm, có lẽ quan trọng nhất, trong lịch sử của chúng,
vào lúc
này. Chưa từng có một cơ may nào lớn lao như vậy, trong những thời kỳ
mới đây
thôi, để hiểu tình thế, hoàn cảnh của chúng ta, và hai ngả đường mà
chúng ta phải
chọn lựa: gật đầu chấp nhận con đường của lẽ phải (reason), hòa bình,
và công
lý, thay vì con đường dẫn đến sự hủy diệt chính chúng ta.
Tôi nhấn mạnh,
chỉ điều này: gay go lắm, chông gai lắm, là con đường của lẽ phải, hòa
bình và
công lý. Chấp nhận gian khổ, phải tự xóa mình, phải kiên nhẫn, phải
chịu học –
phải có tri thức – phải có một cái nhìn khái quát, điềm đạm, và phải
dám chịu rủi
ro, do hiểu lầm, hiểu sai. Cùng lúc đó, chấp nhận con đường của lẽ
phải, hòa
bình và công lý còn có nghĩa: mọi người nên tự phán đoán về chính mình,
rằng
tài cán ấy, sức lực này, có thể làm nên cơm cháo gì, và hành động tùy
theo
"nội lực" của mình, đừng để xẩy ra tình trạng tẩu hỏa nhập ma, hại
không chỉ riêng mình mà còn gây họa cho người khác; chỉ như vậy thì cái
nội lực
của mỗi con người mới không bị cạn láng; mà ngày một tăng thêm, nhịp
nhàng với
những nhiệm vụ, mục tiêu mới mà tự mình đề ra cho mình. Nói một cách
khác, sẽ
chẳng có chuyện dựa vào bí kíp, kỳ thư, hoặc thần dược, hay linh chi
ngàn năm;
nghĩa là đừng dựa vào những câu chuyện thần tiên và những người anh
hùng ở
trong đó. Cũng chẳng còn có chuyện dựa vào những sự biến của lịch sử,
nhờ đó,
những nhà thơ ngồi chễm chệ vào những chiếc ngai của những ông vua bà
chúa, những
ông tướng, ông tá vừa bị lật nhào. Những tiếng nói cảnh giác của những
nhà thơ
cần phải được lắng nghe hết sức cẩn trọng, và càng được cẩn trọng nếu
đem ra áp
dụng, có lẽ còn cẩn trọng hơn cả của những tiếng nói của mấy ông chủ
nhà băng
hay mấy ông giao dịch chứng khoán. Nhưng cùng lúc đó, chúng ta đừng
hoài vọng,
rằng thế giới – ở trong tay những thi sĩ – bất thình lình biến thành
một bài
thơ.
Có lẽ phải
như thế thôi. Có một điều tôi biết thật rõ, là, cho dù tôi đã đóng vai
trò của
mình như thế nào, cho dù tôi rất muốn, hoặc xứng đáng được trao cho,
cho dù
tôi, nhiều hoặc ít, hài lòng với những cố gắng của mình, tôi hiểu ra
rằng, cái
việc làm tổng thống đó đúng là một món quà tặng tuyệt vời mà số mệnh đã
ưu ái
trao cho tôi. Tôi đã có cơ hội, có cái phần của mình, ở trong những
biến động lịch
sử, chúng thực sự đã thay đổi bộ mặt của thế giới. Và còn điều này nữa,
như là
một kinh nghiệm của cuộc đời, và một cơ hội có tính sáng tạo, nó thật
đáng, với
tất cả những cạm bẫy ẩn giấu ở trong nó.
Và bây giờ,
nếu các bạn cho phép, sau chót, tôi cố gắng tạo một khoảng cách với
chính mình,
và thử đưa ra ba, trong số những "đoan chắc", đúng ra là những nhận
xét (observations) ngày nào của tôi, mà cái quãng đời làm tổng thống ở
trong giới
chính trị cao cấp, đã chứng nghiệm:
(1). Nếu
nhân loại sống còn, và tránh được những thảm họa mới, thì, cái trật tự
chính trị
toàn cầu phải được đi kèm bởi một sự kính trọng lẫn nhau một cách thành
thực,
giữa những lục địa, quốc gia, văn hóa, văn minh trên những vùng địa cầu
khác
nhau; và bởi những cố gắng thực thà, lương thiện của mỗi thành phần như
thế đó,
trong việc tìm kiếm những giá trị hay là những thế giá đạo đức cơ bản
mà họ cảm
thấy có thể là của chung, và coi chúng là những viên gạch xây dựng
những nền tảng
của cuộc sống chung của họ, ở trong một thế giới được nối kết vào với
nhau,
trên mặt toàn cầu.
(2). Cái độc,
cái ác phải được đối mặt, và hủy diệt ngay từ khi còn trong trứng nước;
và nếu
không có cách chi để mà diệt cái ác ngay từ mầm mống của nó, thì đành
phải sử dụng
tới vũ lực. Nếu cái kho tàng vũ khí hiện đại, tinh vi hữu hiệu là như
thế, tốn
tiền tốn bạc là như thế, phải được lôi ra sử dụng, thì hãy sử dụng nó
cách nào
mà không làm khổ, làm hại tới dân lành. Nếu không thể được như vậy,
nghĩa là
người dân lành cứ thế mà chết theo, thì cái kho võ khí khốn kiếp kia là
một sỉ
nhục cho toàn nhân loại, và bao nhiêu thời giờ, bạc tỉ, sức lực, trí
tuệ đổ vào
đó, thật đáng gọi là một sự tốn hao vô ích.
(3). Nếu
chúng ta xem xét những vấn đề mà thế giới hiện nay đang phải đối đầu,
nào là
kinh tế, xã hội, sinh thái hay là những vấn đề mang tính tổng quát về
văn minh,
cho dù muốn hoặc không, chúng ta đều đụng với câu hỏi: tiến trình hành
động như
thế đó, có thích đáng hay là không, và theo một cái nhìn dài hạn, mang
tính
toàn cầu, trách nhiệm của nó ra sao. Trật tự đạo đức và những nguồn gốc
của nó;
nhân quyền và những nguồn gốc về quyền của dân chúng, từ đó chúng ta có
được những
điều được gọi là nhân quyền như hiện nay; trách nhiệm làm người và
những nguồn
gốc của nó; lương tâm con người và một cái nhìn thấu đáo, mà qua đó,
không có
gì có thể che giấu, bằng bức màn tre hay màn sắt, hay bất cứ thứ màn
gì, của sự
dối trá, hay của những lời nói cao thượng, phong nhã, quân tử: Trong
niềm xác
tín sâu xa nhất của tôi, và trong kinh nghiệm của tôi, đó là những chủ
đề chính
trị quan trọng nhất của thời đại chúng ta.
Các bạn thân
mến, khi nhìn quanh tôi, và thấy rất nhiều người nổi tiếng có vẻ như từ
trên trời
sa xuống trái đất, tôi không thể không có cảm giác, rằng, sau cùng, sau
cú té
dài từ thiên thai xuống trái đất cứng rắn này, bất thình lình tôi lại
thấy
mình, một lần nữa, ở trong một câu chuyện thần tiên. Có lẽ chỉ có chút
khác biệt:
bây giờ, tôi có thể thưởng thức cảm giác này, nhiều hơn là lần cách đây
mười ba
năm.
Jennifer
Tran chuyển ngữ
(Từ bản tiếng
Anh của Paul Wilson, dịch từ nguyên bản tiếng Czech, đăng trên tờ Điểm
Báo Nữu
Ước, NYRB, số đề ngày 24 tháng Mười, 2002).
GCC biết tới
Havel, là nhờ đọc Todorov. Câu phán
của ông thật tuyệt, chôm luôn, đưa vô 1 bài Tạp Ghi đăng trên tờ Văn
Học của
NMG:
Kẻ Bán Xới
Theo Vaclav
Havel, đây là chủ nghĩa tự động-toàn
trị (auto-totalitarisme) của xã hội.
Vẫn theo ông, chế độ toàn trị đặc biệt ở
chỗ: khác hẳn những chế độ bạo chúa truyền thống, ở đây không có thiểu
số áp bức
đa số, mà là, mỗi cá nhân đều bị cuốn hút vào guồng máy: họ vừa là đao
phủ, vừa
là nạn nhân, tuỳ theo mức độ nào đó. Mỗi cá nhân là một bộ "nạn
nhân-đao
phủ", "tù nhân-cai ngục". Mấy ông Trung Ương Đảng cũng không
thoát khỏi "qui luật" này: Một phần thân thể, tôi chịu đựng hệ thống;
phần kia, tôi điều khiển nó, làm cho nó hoạt động. Đây chính là phần số
bi thảm
mà chế độ toàn trị đã áp dụng lên mỗi cá chân.
|