*




He used to tell his students that they probably were not terribly familiar with the Decalogue, but it was possible to learn, since there were only seventeen: the Ten Commandments and the seven cardinal sins-taken together, the foundation of our civilization. His Muse, the spirit of language, was, he said, Christian, which explains the Old and New Testament themes in his poetry.
Milosz: Notes about Brodsky
[Nàng thơ của ông, linh hồn, tinh anh của ngôn ngữ là Ky Tô giáo, điều này giải thích những đề tài Cựu và Tân Ước trong thơ của ông]

“Tây nguyên” trong bài là lúc ông cùng tôi về Bảo Lộc. Tiếng gà trưa từng khiến cho nhiều người nao lòng, dứt cơn nghĩ ngợi mông lung. Nhưng tiếng gà làm cho một người điếng hồn, có lẽ là lần đầu tiên được nhà thơ Nguyễn Đức Nhân diễn tả. Trong một thư điện tử gần nhất, Nguyễn Đức Nhân khẳng định với tôi và Nguyễn Lương Vỵ rằng anh chưa bao giờ qua thơ để so đọ về tài năng. Vì đó là cõi thị phi của làng văn nghệ. Những con chữ rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm nhất là: “làm sao có thể từ thơ đến được với cõi vô ngôn”.
Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu
(1)

Đã 1 Thầy Kuốc, phịa ra … Roland Barthes.
Bi giờ thêm 1 nhà thơ VCC, phịa ra…  Brodsky, “đếch biết gì về Ky tô giáo", đúng hơn, "đếch gắn liền với một tín điều cụ thể nào"!!
Khủng thật!
Chắc là cũng nghi, đếch ai tin, cho…  chắc ăn, ông nhà thơ Mít bèn lôi 1 tay Trùm Viện Hàn Lâm Thụy Điển ra, để bảo chứng!
Làm thơ dở như NDN, vậy mà, không chỉ sợ cõi thị phi hỏi thăm tới ông, mà còn đòi mò tới cõi vô ngôn!
Cả hai cõi đó, chúng đâu thèm biết đến thơ “điếng hồn” của ông!
Viết lách liều lĩnh, áo thụng vái nhau, vậy mà bày đặt khai quật, làm sống lại một nền văn chương bị VC quăng vô thùng rác, tìm lại hồn cho nó!
Việc này, có lẽ nên để cho đám hậu duệ VC làm, có lẽ lại bảnh hơn, chăng?


Đời tôi 1 tiếng gà trưa điếng hồn

*

Võ Chân Cửu là một nhà thơ nổi tiếng từ trước 1975. Thú thực Gấu chưa từng đọc thơ ông. Bởi là vì hồi đó, Gấu chưa biết thơ là gì, và cũng chưa đọc thơ, không mê thơ. Và đúng hơn nữa, mê Cô Ba, chẳng màng đến chi, nói chi thơ.
Chỉ đến khi ra được hải ngoại, thì mới bày đặt đọc thơ. Thành ra, những gì Gấu đọc ở ông, là những bài tản mạn mà ông gọi là “mặt tiền nghệ thuật”. Đọc, thú thực, thì cũng chỉ xếp vô loại áo thụng vái nhau giữa những nhà thơ. Thí dụ rõ nhất, là bài thơ với câu kết, “Đời anh là tiếng gà trưa điếng hồn”!

Có lần, đọc “tản mạn”, thấy ông khoe, dẫn lời Nguyễn Mộng Giác, và qua NMG, Hà Nội có nhắc tới ông, thời kỳ còn chiến tranh, và xếp vô loại thơ thiền!
Cũng 1 thứ…  vô ngôn, chăng?

Qua tập tản mạn mới được phát hành ở trong nước, thì tham vọng của ông khi viết loạt bài này, cũng cực cao: tìm lại phần hồn cho thơ Mít Miền Nam thời còn chiến tranh.
Nếu có phần hồn như thế, mà theo như cách ông viết “tản mạn”, GCC sợ rằng cũng theo…  vô ngôn mà thôi.
Hay, áo thụng vái nhau.
Hay, vực dậy cái xác chết Miền Nam.

Viết, là phải can đảm. Đừng tránh né mới được, còn không thì đừng viết.
Coi chúng là tro than, là rượu quí, là cái gì đi chăng nữa, thì cũng phải có con mắt phê phán nhìn vô, và giải mã chúng.

Steiner viết:

Thứ hai, phê bình có thể kết nối. Vào một thời đại mà sự mau lẹ của truyền thông kỹ thuật, nó thực sự che giấu những rào cản chính trị, ý thức hệ thuộc loại bướng bỉnh; nhà phê bình có thể xử sự như một kẻ trung gian, và người bảo quản. Đây là một phần của công việc của anh ta, để thấy rằng một chế độ chính trị không thể giáng yểm một tác phẩm của một nhà văn vào cõi quên lãng và bóp méo nó, rằng những cuốn sách [dù có bị] thiêu huỷ, tro than được vun vén, và được giải mã. (1)

Trách nhiệm của những nhà văn như THT, nhà thơ như VCC, những kẻ có đóng góp thực sự vào dòng văn chương Miền Nam trong cuộc chiến vừa qua, theo tôi, đúng là như Steiner phán.

Cả hai chỉ mới làm được cái việc vun vén, và thay vì giải mã, thì xúm lại vái nhau.
Một bài thơ dởm như của Nguyễn Đức Nhân, mà nào là “vô ngôn”, nào là “điếng hồn”!
Rồi phán bậy nữa chứ: Thơ Brodsky làm đếch gì có tính tôn giáo, mà giả như có, thì cũng đếch dính tới một tôn giáo nào!
Đã phán bậy, lại còn viện 1 ông phê bình, nhà văn, nhà ngoại giao, đại diện cho Viện Hàn Lâm Thụy Điển ra để bảo đảm cho cái sự "tâm đắc" của mình!

Chán thật. NQT


Đời tôi 1 tiếng gà trưa điếng hồn

*

GCC & NLV & VCC & NDT & DPP

Note: GCC, gõ Google, cố tìm nguồn câu của Sture Allen, qua VCC, [Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”], không thấy, nhưng thấy câu của ông, việc cho nhà thơ Nga lưu vong Nobel văn chương không có tính chính trị.
Brodsky đang ngồi ăn trưa với Trùm viết gián điệp John le Carée thì nghe tin được Nobel.
Khó hiểu là, tại làm sao mà Sture Allen lại âu lo đến chiều kích tôn giáo trong thơ Brodsky, và tại làm sao ông lại “nhấn mạnh” nó đếch dính đến 1 tôn giáo cụ thể nào, và với Brodsky thì rõ là Ky Tô giáo?
Không lẽ ông này muốn chọc quê đám tín hữu Ky Tô?
Giả dụ đúng “ở trái tim của Brodsky là 1 tên tà ma, ngoại đạo, a pagan”, liệu Giáo sư Sture Allen “thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987”, nói ra điều này?
Khó hiểu còn là cái sự “tâm đắc” của Võ Thi Sĩ.
Chuyện Brodsky thì liên quan quái gì đến... vô ngôn.
Nên nhớ Brodsky coi ngôn ngữ là…  Trùm: Ngôn ngữ - Thời gian – Không gian.
Và vô ngôn thì liên quan quái gì đến 1 bài thơ tán gái!
Hay là Võ thi sĩ lầm “không có tính chính trị” với “không có gắn liền với 1 tín điều” nào?

Bi giờ viết về cái cú bằng cách nào Gấu khám phá ra và “tâm đắc” thơ Brodsky!

Nhơ bửn vs bị khinh ghét

Nhân tiện nói luôn, cái mẩu trên Gió O, được diễn đàn này dịch toàn bản văn, và giữ nguyên từ “dirty word”, thay vì “bị khinh ghét”:

“Cộng sản“ vẫn là một "từ dơ bẩn" trong vùng di cư của người Việt (1)
Cộng sản’ vẫn còn là một chữ bị khinh ghét trong Cộng Đồng Người Việt Di Dân (2)

GCC thích cụm từ”cộng đồng người Việt di dân” hơn! 
Từ “di cư” có nghĩa “chết” với dân Mít, dùng cho cú 1954.
Bắc Kít di cư, Bắc Kít 75, chúng đâu ưa nhau?
Hai câu dịch trên, 1 của 1954, 1 của 1975, theo Gấu.
Hà, hà!

Giai thoại, trong bài viết dưới đây, tình cờ Gấu vớ được, khi lướt net, cho thấy, bạn không chỉ phải rành tín điều Ky Tô, mà còn phải là 1 tên tù VC Liên Xô, thì mới là thi sĩ, và được Nobel văn chương nhờ thơ của mình.

Milosz chẳng đã quá thèm được như Brodsky, mà cuộc đời không bợn 1 chút bụi và chẳng khác gì 1 câu chuyện thần tiên ư?

[Câu chuyện đời tôi thì là một trong những kỳ tuyệt nhất mà tôi đã từng kinh qua. Đúng như vậy. Nó thiếu tí sáng sủa của chuyện đạo đức, răn đời, như của Joseph Brodsky: được nhà nước Đỏ cho đi bốc phân tại một nông trường tập thể gần Arkhangelsk, vài năm sau đó, ông lượm đủ thứ vinh quang, trong có giải Nobel văn chương. (1)

Joseph Brodsky: From Outcast to Nobel Laureate

This week, we’re exploring the lives of outcasts. In the biblical tradition, the greatest prophets often were outcasts. The jury is still out on whether Jay Bakker will, one day, rank as a great prophet. But there’s no question that the life of poet Joseph Brodsky took him from the old Soviet prison system to acclaim as a Nobel Laureate.
TODAY, we are recommending Lev Loseff’s compelling new biography, “Joseph Brodsky: A Literary Life,” which is available from Amazon.
ALSO, in reviewing the book as Editor of Read The Spirit, I’ll share my own fondest memory of Brodsky.

Why We Should Care about Joseph Brodsky (1940-1996)

Joseph Brodsky’s poetry is not easy for most Americans to enjoy. As Lev Loseff points out in his new literary biography of the poet, some of his most potent verses reflect on experiences such as riding as a convict in a filthy Soviet prison train. That’s not exactly a theme you’ll find rappers taking viral on YouTube today.
But, as Loseff also demonstrates, there remains a powerful, relevant message in Brodsky’s life interwoven with his poetry and prose: At his best, Brodsky proved that a stateless pilgrim—wandering between countries, between languages, between religious traditions—can build a new life, word by word, relationship by relationship, year by year. Having known Brodsky for one year—and having followed his work across many years—I continue to be startled by how much he understood about Western, English-language literature. Then, he became an English-language man of letters himself.

My son Benjamin’s favorite Brodsky book is the somewhat obscure, “Watermark,” which sometimes is mistaken as a travel book about Venice. In fact, “Watermark” is Brodsky’s prose tour de force about a city that he selected as a new kind of home for himself. What an audacious idea! Simply select a spot on the planet and declare it a new home! Yet, Brodsky did that and, after many years of visiting Venice, he wrote this book-length essay on his beloved city. Young adults today, facing a rapidly changing global community, would do well to learn from Brodsky’s life.

[Thằng con trai của tôi mê cuốn Thuỷ Ấn của Brodsky, một cuốn sách u tối và đôi khi bị hiểu lầm như là sách du lịch, về Venice. Sự thực Watermark là tản văn, một “tour de force”, về 1 thành phố mà ông ta lọc ra để coi như là nhà của ông. Đúng là 1 ý tưởng bảnh tỏng, cực cà chớn, cực liều lĩnh, cực chịu chơi! Giản dị chọn 1 điểm trên mặt địa cầu rồi tuyên bố đây là nhà mới của mình!]

Loseff’s book is largely about the connections between Brodsky’s life and his literary work. So, someday in the future, there’s still room for a “definitive” biography of Brodsky. But, I was so pleased to find that Loseff chose to include what I have always considered to be some of the best moments in Brodsky’s life. Among those scenes certainly are vignettes of Brodsky in a Soviet courtroom. In a nutshell, the young Brodsky refused to play by Soviet rules as an official writer, so he was charged as a “parasite.” This Kafkaesque legal charge arose, despite the fact that he tried to work as a writer and translator. He wrote outside the official system. By definition, in the Cold War Soviet view of society, his refusal to bow to official pronouncements made him a criminal. Here is one exchange between the courageous young poet and the judge—a ruthless and clueless figure one might imagine from some John Le Carré novel.

JUDGE: And what is your profession?
BRODSKY: Poet. Poet and translator.
JUDGE: And who told you you were a poet? Who assigned you that rank?
BRODSKY: No one. (nonconfrontational) Who assigned me to the human race?
JUDGE: And did you study for this?
BRODSKY: For what?
JUDGE: To become a poet? Did you try to attend a school where they train poets—where they teach—
BRODSKY: I don’t think it comes from education.
JUDGE: From what then?
BRODSKY: I think it’s (at a loss)—from God.

MY OWN FONDEST MEMORY OF JOSEPH BRODSKY

I studied poetry under Joseph Brodsky, when he was a freshly exiled university lecturer and still was largely unknown in the West. I can recall him restlessly rambling around Ann Arbor at that time, enjoying beers with students, vigorously debating a few lines of poetry for hours—and never suffering fools. Any student who came ill prepared or tried to take on Brodsky with bias masquerading as intellect would be quickly dispatched with one of Brodsky’s verbal darts.

In my own book, “Our Lent: Things We Carry ” I included this scene in Brodsky’s class:

In the mid-1970s, I was among a group of University of Michigan Creative Writing students who were disappointed to learn that our poetry seminar would not be led by one of the leading lights in our division of the university, called Residential College. Instead, we were to be shoved off on a Russian immigrant, rumored to have quirky habits like chain-smoking foul-smelling cigarettes. It wasn’t even clear if he knew much English.

So, the first evening of that nighttime seminar, we all wandered skeptically into an RC lounge where our class was to meet, draping ourselves over the beat-up easy chairs and frowning at the sour smoke already filling the room.
Poet Joseph Brodsky smirked at us, shook his head disdainfully, stubbed out his cigarette in an already overflowing coffee cup, lit another, inhaled, exhaled—and then asked in a thick accent: “So, who among you knows a Psalm?”
The silence was so complete we could hear his breath sucking through the cigarette.
“I can wait,” he said. And he did.
Then, a cigarette later, he repeated his plea, “Let’s hear a Psalm. Surely you know them. You must. Because if none of you knows a Psalm—a single Psalm—then we have got so much more to memorize in this class than I had planned.”

He sighed wearily. The ominous word “memorize” transfixed us.
Finally, a brave young skeptic brushed the shaggy curls from his eyes and said, “This is a poetry seminar. Why would you expect us to memorize the Bible?”
Brodsky smoked his way through the rest of that cigarette. Then, he stubbed it out. Lit another.
At length, he said, “Because, someday, if you are sent to a prison camp—the poetry you carry in your memory may be your entire world. So, we must choose well what world we will carry, no?”

Một ngày nào đó, nếu bạn bị đi tù VC, thơ mà bạn mang theo trong đầu có thể sẽ là trọn thế giới của bạn.

Cũng ý trên, Brodsky lập lại trong bài viết về Nữ Thần Thi Ca Sụt Sùi, The Kneeling Muse, làm bài Tựa cho tập thơ của Akhmatova, sau in trong tập tiểu luận Less Than One của ông:

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way:

Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!

Watermark
Dấu Nước

Và trộn vào giấc mơ tuổi thơ, là cơn mộng đời rực rỡ. Sẽ trở thành nhà văn. Sẽ viết một truyện dài nối liền được hai thành phố.

NQT: Lần Cuối Sài Gòn 

Brodsky có lẽ cũng có một giấc mơ như vậy, và ông đặt tên cho nó là "Thuỷ Ấn", hay nôm na, "Dấu Nước", Watermark.

Đây là một từ chuyên môn. Bạn cầm một tờ giấy [tác phẩm] nhìn, hay đọc, không thấy, nhưng soi lên ánh sáng, thì nó hiện ra.
Trong Thủy Ấn, Brodsky viết về lần ông thăm viếng Venice, thành phố ở trên nước. Nhưng đọc nó, thì lại ra Petersburg, thành phố quê hương của ông.

"Đối với người cùng quê với tôi, thành phố hiện ra, qua những trang này, thật dễ nhận, và cảm thấy, đây chính là Petersburg được nới rộng ra, mời gọi vào trong một lịch sử [một câu chuyện] tốt đẹp hơn, khoan nói tới vĩ độ, not to mention latitude."

Làm sao viết về Sài Gòn, mà "soi lên" thì lại ra.. Hà Nội, hả.... Gấu?
Khoan nói tới vĩ độ? Không lẽ Brodsky không muốn nói tới vĩ độ thứ... 17?
Dấu Nước còn làm nhớ tới Dấu Bèo. Đài Gương soi đến Dấu Bèo này chăng?
Nhưng đâu là Đài Gương, đâu là Dấu Bèo? Đâu là Sài Gòn, đâu là Hà Nội?

Hỏi như vậy, ấy là bởi vì Gấu, trong một lần ghé xóm, nhân ghé Hà Nội, một em, khi nghe Gấu giở giọng pha tạp chẳng ra nam mà cũng chẳng ra bắc, để làm quen, trước khi làm tình, đã bĩu môi, "chửi xỏ":

-Anh là một thằng Nam Kỳ mà lại bắt chước giọng Bắc Kỳ của... chúng em!
Giọng của em có vẻ bực bội, như có ý trách, sao có thằng ngu, học gì không học, lại học cái trò giả dạng nói tiếng Bắc!

*

Câu mở ra Dấu Nước, của Brodsky:

Nhiều trăng rồi, đô Mẽo 870 lire và tôi thì ba mươi hai.
[Many moons ago the dollar was 870 lire and I was thirty-two]. 

Nhiều trăng rồi, khi Gấu đi, mới mười bẩy, về, trên sáu muơi.
Và cái lần "đi" và bị em chửi xỏ, mi là thằng Nam Kít, bày đặt nói tiếng Bắc Kít, là năm trăm ngàn!
Năm chục đô Canada!

*

Nhiều trăng rồi.... 

Hồi ở Hà Nội, Gấu khù khờ lắm.

Nhân đọc bài viết của ông bạn Kiệt Tấn, SCTBT, trên talawas,Gấu chợt nhớ ra, là, người dậy Gấu may tay, là một ông cậu. Cậu H. Khi Gấu ở Bạch Mai, những ngày đầu từ nhà quê ra Hà Nội học.
*

Sự thực, Brodsky chọn Venice làm thành phố quê hương của ông, là vì... nước.

Cái tít "Thuỷ Ấn" là cũng nói ra điều đó. Nên nhớ Petersburg là thành phố trũng, như Hà Nội. Đâu phải tự nhiên mà Gấu muợn cái tít bài viết của mình, từ thơ Akhmatova: Nơi người chết mỉm cười, để viết về Hà Nội của Gấu.

Theo một nghĩa nào đó, Petersburg giống như những thành phố lớn khác. Xuyên qua lịch sử văn hóa Tây-phương, thành phố đứng sừng sững, như để chứng thực nỗi hoang mang của con người, về mối liên hệ giữa nó và cái thế giới do nó tạo dựng nên: Babylon, Babel, Rome, Sodom, New Jerusalem đã đem đến cho trí tưởng tượng của những người Thiên chúa giáo, những hình ảnh về quyền lực và sự ung thối, sa đọa, thiên đàng và địa ngục. Sự hủy diệt của những thành phố thường làm cho con người khiếp đảm.

Nhưng Paris của Baudelaire, Prague của Kafka... là những thành phố không thực, những thành phố của trí tưởng, những chuyển hóa mang tính thấu thị của chuyện thường ngày. Trái lại, vẻ siêu thực của Petersburg đập ngay vào mắt du khách, như Hầu tước Custine:

Một cái gì không thể nào diễn tả trọn vẹn bằng lời... Khu đất thấp của thành phố với những tòa nhà chạy dọc theo hai bờ sông Neva hình như lơ lửng giữa trời và biển, và du khách có lúc đã mong đợi nhìn thấy nó nhạt nhòa vào một cõi trống không... Có thể vậy chăng, đây là thủ đô của một Đế Quốc rộng lớn, một dúm đất chấp chới trên mặt nước, như bọt bèo bị cuốn theo cơn lũ; những điểm đen nhỏ nhoi, lộn xộn, thật khó mà nhận ra giữa mầu trắng của trời và của nước? Hay đây chỉ là một ảo tưởng thị giác? Đó là những cảm nhận của ông, vào một trong những đêm trắng của mùa hè phương Bắc, năm 1939, khi đứng trước "sự bí mật không thể hiểu được": sự hiện hữu của một thành phố như để thách đố trật tự đạo đức và vật lý của sự vật. Ý nghĩa biểu tượng của một thủ đô nước Nga tại bờ cõi phía Tây đã khiến cho Peter Đại Đế chọn lựa một trong những khung cảnh không một chút hứa hẹn mà còn là mồi ngon của ngoại xâm: Ông đã muốn thành phố mọc lên từ vùng đất hoang vu sũng nước trước mặt ông, như thành quả của một cố gắng nhằm biến đổi xứ sở thành một quốc gia hiện đại, Âu hóa. Trong một túp lều ở miệng Vịnh Phần-lan, là ý nguyện của một con người chống lại sức mạnh của thiên nhiên, kinh nghiệm lịch sử, và những hoài vọng của cả một quốc gia. Thành phố đã được dựng lên không phải vì dân chúng mà là để chống lại họ. Nếu Moscow là biểu tượng của truyền thống quốc gia, tôn giáo, thủ đô mà người dân Nga hằng gắn bó, Petersburg vốn được người dân Nga nhìn như một Phản-Ky tô, Antichrist. Nỗi nôn nóng hoàn thành (thành phố đã được coi là tân thủ đô của Nga, 14 năm sau khi ngôi nhà thứ nhất được xây dựng, vào năm 1703), đã lấy đi không biết bao nhiêu mạng con người. Hàng chục ngàn công nhân chết vì đói, bệnh và kiệt sức trong những công việc làm nền, đóng móng, nhằm chống lại nước, trên đó, thành phố đã mọc lên.


Tiếng Gà Trưa Điếng Hồn

“Tây nguyên” trong bài là lúc ông cùng tôi về Bảo Lộc. Tiếng gà trưa từng khiến cho nhiều người nao lòng, dứt cơn nghĩ ngợi mông lung. Nhưng tiếng gà làm cho một người điếng hồn, có lẽ là lần đầu tiên được nhà thơ Nguyễn Đức Nhân diễn tả. Trong một thư điện tử gần nhất, Nguyễn Đức Nhân khẳng định với tôi và Nguyễn Lương Vỵ rằng anh chưa bao giờ qua thơ để so đọ về tài năng. Vì đó là cõi thị phi của làng văn nghệ. Những con chữ rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm nhất là: “làm sao có thể từ thơ đến được với cõi vô ngôn”.

Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)

Có vài vấn đề, do chỉ mấy dòng trên đặt ra.

1.   So đo tài năng.
Nhà thơ không so đo tài năng với nhà thơ [khác].
Có thể. Nhưng cũng hơi bị hiếm, ở cõi thơ Mít.

Nhưng độc giả nhận ra, 1 nhà thơ có tài, hay là không có tài.
Và đây là vấn đề "đẳng cấp". Brodsky có 1 nhận xét rất thú về vấn đề này, khi lèm bèm với Volkov.

Volkov: Viết về Stravinsky, Auden cho rằng chính cái gọi là tiến hoá tách biệt một nghệ sĩ bậc thầy với thứ cà mèng. Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng, bạn không thể nào nhận ra, bài nào viết trước, bài nào sau. Nói như vậy có nghĩa, khi tới một độ chín nào đó, nhà thơ cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế dậm chân tại chỗ. Còn thứ nghệ sĩ lớn lao đếch bao giờ hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo lên đỉnh trời cao hơn...
Brodsky: Trời hỡi, bạn nói đúng quá đi mất. Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ trong tiến trình sáng tạo. Khi một nghệ sĩ đạt đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn phong, thay cả tên của mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng ba chục thời kỳ khác nhau.

Bởi vậy mà Milosz mới “Ghi chú về Brodsky”, như sau:

BRODSKY'S PRESENCE acted as a buttress and a point of reference for many of his fellow poets. Here, was a man whose work and life always reminded us that despite what is so often said and written today, a hierarchy does exist. This hierarchy is not deducible through syllogisms, nor can it be decided upon by discussion. Rather, we confirm it anew every day by living and writing. It has something in common with the elementary division into beauty and ugliness, truth and falsehood, kindness and cruelty, freedom and tyranny. Above all, hierarchy signifies respect for that which is elevated, and disdain, rather than contempt, for that which is inferior.
The label "sublime" can be applied to Brodsky's poetry. In his fate as a representative of man there was that loftiness of thought which Pushkin saw in Mickiewicz: "He looked upon life from on high."

Sự hiện diện của Brodsky bảnh, hách, chẳng khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay ngọn hải đăng cho rất nhiều bạn thơ của ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm và cuộc đời của người đó luôn luôn nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài thường lải nhải, phải có cái mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện đại’, thì vẫn có đẳng cấp. Đẳng cấp này, thì không được rút ra từ ba trò tam đoạn luận, hay trao đổi, đối thoại, tranh luận cái mẹ gì. Nó là điều mà chúng ta làm mới hàng ngày, bằng cách sống và viết. Nó có một điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư là tiểu học, bình dân, và cũ xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc ác, tự do và bạo tàn. Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc trưởng thượng, với điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái hạ cấp, hạ vệ!
Những mỹ từ như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’ có thể áp dụng cho thơ Brodsky. Trong số mệnh của ông, như là kẻ đại diện con người, có cái đỉnh cao vời vợi của tư tưởng, và đây là điều mà Pushkin nhìn thấy ở Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian”.
Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông, cũng là một nhà thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống người, đã khám phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận cùng. Nhập vào lòng mê cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ cái chi, nếu mà sống sót từ quá khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý ‘mày khác tao, tao khác nó, nó khác mày’, tức nguyên lý dựa trên đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ xoa đầu hay nâng bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ, thí dụ vậy.
Mandelstam, khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.


Notes about Brodsky    

2. Tiếng gà điếng hồn.

Đến Di Linh Cảm Tác

Nguyễn Đức Nhân

               Qua rừng nhớ áo em xanh
               Lệ xưa em đẫm hồn anh bạc màu
               Thu sang vàng một cơn đau
               Mù sương anh gửi mai sau tặng người
               Tuổi xuân anh mấy nụ cười
               Và, tóc xanh khéo ngậm ngùi phố xưa
               Tây nguyên mai nắng chiều mưa
               Đời anh một tiếng gà trưa điếng hồn.
                                                               (Tập san Thời Tập-1974) 

GCC đọc bài thơ của Nguyễn Đức Nhân, thú thực, với tư cách độc giả, không điếng hồn vì tiếng gà trưa.
Sợ còn thua, lời nhạc Trịnh Công Sơn, dưới đây:

Lời thiên thu gọi

Về trong phố xưa tôi nằm
Có lần nghe tiếng ru bên vườn
Chợt như xác thân không còn
Và cạnh tôi là đồng vắng

Về trên phố cao nguyên ngồi
Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi
Chợt như phố kia không người
Còn lại tôi bước hoài

Lòng ta có khi tựa như vắng ai
Nhiều khi đã vui cười
Nhiều khi đứng riêng ngoài
Nhiều đêm muốn đi về con phố xa

Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà
Giòng sông trước kia tôi về
Bỗng giờ đây đã khô không ngờ
Lòng tôi có khi mơ hồ
Tưởng mình đang là cơn gió

Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ phờ
Chợt tôi thấy thiên thu là
Một đường không bến bờ. (1)

Bài thơ của NDN, nghe thật ẻo lả, không dẫn tới "đời anh 1 tiếng gà trưa điếng hồn" được, nói chi tôn giáo, nói chi vô ngôn.
Nói rõ hơn, nó không ăn với nhau. Trong khi lời nhạc TCS quá ăn với tiếng gà "khan" trên đồi.
GCC "điếng hồn", là vì cái âm "khan" này.

3. V/v “tín điều” của Joseph Brodsky

Ông, cũng như Milosz, là hai nhà thơ Ky Tô. Và đều từ những nước CS mà ra.
Joseph ở đây là tên thánh, như Joseph Huỳnh Văn, thi sĩ Ky Tô.
Tuy nhiên, như 1 tác giả nhận xét, sau đây, “Ở trái tim, ông là 1 tên tà giáo”: “At heart, Joseph was a pagan”, một tác giả [Mark Strand] nhận xét về Brodsky, khi phải bàn về chất Ky Tô của thơ ông [‘Brodsky’s every poetic breath praises God’: Mọi hơi thở của Brodsky đều ngợi ca Chúa].

Brodsky phán:

Xuyên suốt cuộc đời 1 người, Thời gian nói [address] với Con Người trong muôn vẻ, variety, ngôn ngữ; ngôn ngữ của sự ngây thơ, tình yêu, niềm tin, kinh nghiệm, lịch sử, ... Trong những ngôn ngữ đó, ngôn ngữ của tình yêu rõ ràng là một lingua franca, ngôn ngữ bắc cầu. Bộ từ điển của nó, its vocabulary hấp thụ, nuốt, absorb, tất cả những tiếng nói khác, other tongues, và sự phát ra của nó, its utterance, thí dụ, anh thương em, làm hài lòng, gratify, một chủ thể, a subject, cho dù vô tri vô giác, inanimate, cỡ nào. Bằng cách thốt ra như thế, anh thương em, chủ thể sướng điên lên, và cái sự sướng điên lên đó, nói lên, làm vọng lên, echoing, cả hai chiều: chúng ta cảm nhận những đối tượng của những đam mê của chúng ta, và cảm nhận Lời Chúa [Good Book’s suggestion], và Chúa là gì, as to what God is. Tình yêu thiết yếu là một thái độ được gìn giữ, maintain, bởi cái vô cùng đối với cái hữu hạn. Sự đảo ngược, the reversal, tạo nên, hoặc niềm tin, hay thi ca.

Đoạn trên, theo GCC, là cơ bản thiết yếu, của thơ Brodsky.
Nói rõ hơn, thơ của ông là thơ tôn giáo, thơ của một nhà thơ Ky Tô. Chính vì thế, GCC khó nhập vô thơ ông, vì là 1 tên ngoại đạo. GCC viết ra, để phúc đáp 1 vị độc giả, tại sao Gấu lèm bèm hoài về Brodsky mà không dịch thơ Brodsky! (1)

Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”

Bởi là vì không có nguyên tác, nên cũng khó nói.
Và VCC, khi tâm đắc, là cũng không coi Joseph Brodsky, nhà thơ Ky Tô?
“Chiều kích tôn giáo trong thơ Brodsky không gắn liền với 1 tín điều cụ thể nào”, nếu đúng như thế, thì chúng ta không được quyền coi Brodsky là nhà thơ…  Ky Tô?

Tức là bắt ông từ bỏ cái “nick” Joseph?
Giả đúng như thế, thì coi ông là nhà thơ gì?
"Pagan", chăng?
NQT

Từ nỗi nhớ, “Qua rừng nhớ áo em xanh”, độc giả bị đẩy tới, “Đời anh 1 tiếng gà trưa điếng hồn”, chưa kịp hoàn hồn, thì lại bị “đầy”, tới cõi lưu vong nội xứ và chiều kích tôn giáo của thơ Brodsky, rồi lại bị rơi vào thế bí, liệu có cái gọi là tín điều Ky tô, hay nó chẳng dính tới 1 thứ tôn giáo nào, trong thơ Brodsky.
Chưa kể câu phán của vì giáo sư mà chúng ta chẳng biết thực hay hư, hay là nó ra làm sao, mà tại làm sao tại... tâm đắc?

Đúng là 1 đường Lăng ba vi bộ của thái tử họ Đoàn!

Những con chữ rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm nhất là: “làm sao có thể từ thơ đến được với cõi vô ngôn”.

Những con chữ rồi cũng sẽ nhạt phai.
Vô Ngôn, Kinh Vô Tự, Tiếng Vỗ Của Một Bàn Tay, Sự Thối Lui Của Chữ, [Kinh Nghiệm Lò Thiêu] Nói Không Được, Tro Than Hành Tinh Khác…. toàn là những "công án" khủng.
Thiền!

Thơ của Nguyễn Đức Nhân, nếu đọc chỉ một bài mà Võ Thi Sĩ trích dẫn, thì còn lâu mới tới được cõi vô ngôn!

Mà tới để làm gì?

Bảnh như Brodsky thì cũng chỉ ở trơng cõi ngôn ngữ, mà ông coi là cái còn lại sau cùng.
Cả 1 cõi thơ Brodsky là cũng chỉ tới cõi ngôn ngữ, và có lẽ ông cũng chẳng hề mơ tới cõi vô ngôn như những nhà Mít của chúng ta.
Ông thi sĩ Mít nào thì cũng nghĩ mình là bố thiên hạ, bố thơ, tao đếch có sư phụ, nhưng lâu lâu, có ai hỏi tới, hoặc được bạn thổi, là bèn giơ hai tay lên trời, “nghẹn ngào” phán, thơ của tôi là thơ… vô ngôn!

Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.

Thời Gian Lớn Hơn Không Gian.
Ngôn Ngữ Lớn Hơn Thời Gian
Thơ Lớn Hơn Văn

Theo bảng xếp loại của Brodsky, thơ đứng đầu. “Đồng đều là không thể, theo bản chất của nghệ thuật, và suy nghĩ của bất cứ nhà thơ, nhà văn nào cũng theo kiểu đẳng cấp như thế. Trong bảng xếp loại, thơ có vị trí cao hơn văn xuôi….”. Như vậy không có nghĩa, rằng thơ bảnh [better] hơn văn xuôi, nhưng đây là một kết luận mang tính lô gíc của Brodsky, từ quan điểm của ông về đẳng cấp Ngôn ngữ - Thời gian – Không gian ở trên. Thời hơn Không, Ngôn hơn Thời. Viết, như thế có nghĩa là, chiếm lại [regain], chặn đứng [hold back] thời gian, và với một mục tiêu như thế đó, khi nhà thơ thoải mái thì cũng là lúc nhà văn thiếu thốn, tù túng, chật hẹp: meter and caesuras, syntactic pauses, stressed and unstressed syllables [Vận luật, ngắt câu, ngưng nghỉ của cú pháp, vần bằng trắc]. Một trong những phương tiện chặn đứng thời gian là rhyme, nhịp điệu, nó qui chiếu ngược lại, nhưng còn sáng tạo ra ước mong - nghĩa là tương lai. [Nó hoài vọng, như người Việt mình nói].

Neither country nor churchyard will I choose
I’ll come to Vasilevsky Island to die.
Brodsky

Xứ sở làm chi, phần mộ làm gì,
Ta sẽ tới đảo kia để chết.

Khi thành phố mà tôi vinh danh, đã lụi tàn, mai một,
khi những con người bài thơ tôi ca ngợi, đã chìm vào quên lãng,
những con chữ sẽ vẫn còn hoài
Pindar (1)