Top 12 of 2014. No.10:
it is now 65 years since George Orwell died, and he has never been
bigger. His phrases are
on our lips, his ideas are in our heads, his warnings have come true.
How did this happen?By
Robert Butler
In a piece inPolitico,
Timothy Snyder, professor of history at Yale, advises,“To understand Putin, read Orwell.”By Orwell, he means “1984”:
“The structure and the wisdom of the book are guides, often
frighteningly precise ones, to current events.” This is just the top
end of the range. Barely a minute goes by when Orwell isn’t namechecked
on Twitter. Only two other novelists have inspired adjectives so
closely associated in the public mind with the circumstances they set
out to attack: Dickens and Kafka. And they haven’t set the terms of
reference in the way Orwell has. One cartoon depicts a couple, with
halos over their heads, standing on a heavenly cloud as they watch a
man with a halo walk towards them. “Here comes Orwell again. Get ready
for more of his ‘I told you so’.” A satirical website, theDaily Mash,
has the headline “Everything ‘Orwellian’, say idiots”, below which an
office worker defines the word as “people monitoring everything you do,
like when my girlfriend called me six times while I was in the pub with
my mates. That was totally Orwellian.”
Bếp Lửa, "miêu tả không
khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia
lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong
khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân
vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của
lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp
Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết
(l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tièdeur de
mort). Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra...
TTT trả lời Le Huu Khoa, trong Thơ giữa chiến tranh và Trại Tù
“Thơ Thanh Tâm Tuyền
phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố
mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh
ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Quỳnh Giao.
Hai cái tít Ung Thư, và
Nỗi Chết Không Rời, như trên cho thấy, là từ câu của Malraux, GCC nhớ
đại khái, hình như trongLa
Voie Royale, mais accepter vivant la vanité de son existence, comme
un cancer, vivre avec cette tièdeur de mort dans la main.
Tuy nhiên, cái tít Mắt Bão, tên một cuốn tiểu thuyết mà ông tính viết,
như trong thư riêng gửi “đảo xa” của nhà thơ, cho biết, là của… Gấu!
Nhớ, lần ngồi Quán Chùa, GCC nói với ông anh, mình sẽ viết 1 cuốn tiểu
thuyết đặt tên là Mắt Bão, trung tâm của bạo động, nhưng bất động, đúng
cái cảnh GCC ở trên đỉnh cồn, là Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, gửi
hình chiến sự trên toàn cõi Miền Nam, đi khắp nơi trên toàn thế giới,
tức là ngồi ở mắt bão..., ông anh gật gù, gợi ý thêm, mi phải đọc
sách...địa
lý, thì mới khui ra được những cái tít thần sầu.
Chắc là thấy thằng em chẳng viết viếc [làm đệ tử Cô Ba mà viết khỉ gì
nữa], ông anh bèn lấy cái tít và tính viết giùm thằng em chăng?
Chắc là không, vì cuốn mà ông tính viết, như thư riêng gửi “đảo xa” cho
thấy, thì vẫn là thời của ông, và Hà Nội, trước 1954.
Một câu hỏi, có tính 'tâm linh', liên quan tới cái việc cắt bỏ những
năm tháng cải tạo của TTT, trong đời ông, khi đưa cây thơ TTT vô Văn
Miếu.
Liệu đây là một việc làm tuyệt vời, theo nghĩa, thơ của ông, nhất là
những dòng thơ ở đâu xa, khi hoàn thành, là hoàn toàn thoát ra khỏi cõi
đó, cõi tù, hay hơn cả cõi đó, cõi đời?
Chúng, như hạc vàng "đi mất từ xưa", như rồng "được điểm nhãn", "nhất
khứ bất phục phản"?
Theo cái nghĩa mà Bonnefoy nói về thơ, D.M. Thomas nhận định về Dr.
Zhivago.
Hay, TTT nói về cõi thơ tù.
“...There
is another, more recent poetry which aims at salvation. It conceives of
the Thing, the real object, in its separation from ourselves, its
infinite otherness, as something that can give us an instantaneous
glimpse of essential being and thus be our salvation, if indeed we are
able to tear the veil of universals, of the conceptual, to attain to
it".
["Có một thứ thơ khác, gần đây thôi, nhắm sự cứu rỗi. Nó cưu mang Sự
Vật... trong sự tách rời của nó ra khỏi chúng ta... trong cõi khác vô
cùng của nó... nếu cần phải xé toạc bức màn vũ trụ, bức màn quan niệm
để có cho được."
Khi nhớ
quê hương, kẻ thì "thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi,
tôi nhớ biển...
Lèm bèm về
biển là phải lôi hai ông này ra. Ông thứ nhất là..
Borges: Joseph Conrad?
Và ông thứ nhì là tác giả Cá Voi Trắng.
Borges: Đúng như thế. Nhưng hai ông này chẳng có gì giống nhau. Conrad
trau giồi thứ văn nói. Lẽ tất nhiên chúng là những câu chuyện của vì
phong nhã Marlow, người kể của hầu hết những câu chuyện. Về ông kia,
thì là Herman Melville, trong Cá Voi Trắng… một cuốn sách gốc, tuy
nhiên nó có hai nguồn, Shakespeare và Thomas Carlyle.
Trong Cá Voi Trắng, đề tài của nó: cái trắng khủng, the dread of the
whiteness. Thoạt đầu ông ta có thể nghĩ là, con cá voi trắng, con vật
đã xẻ thịt vì thuyền trưởng, được lọc riêng ra, từ những con cá voi.
Rồi ông ta phải nghĩ là, tốt nhất nên làm khác đi, bằng cách làm cho nó
thành trắng, tức cái tư tưởng, trắng là một màu cực khủng. Thường thì
chúng ra gán cho màu đen, với sự ghê rợn. Đen, rồi đỏ, như máu, thí dụ.
Nhưng Mleville bèn phán, trắng mới khủng, mà khủng thực. Có lẽ ông ngửi
ra điều này, từ 1 cuốn sách ông đang đọc.
Tôi nghi, ông ta kiếm ra điều này, là do đọc Poe, cuốn Chuyện Kể của
Arthur Gordon Pym. Bởi là vì đề tài của những trang chót, bắt đầu bằng
nước ở những hòn đảo, thứ nước thần kỳ, sau cùng bật ra cái trắng
khủng. Điều này còn giải thích Miền Bắc Cực đã từng bị xâm lăng bởi
những con vật khổng lồ màu trắng. Pym phán, bất cứ cái gì trắng gây
khiếp sợ. Và Meilville bèn chôm liền. Thú vị là, có 1 chương mang tên
“Cái Trắng Của Cá Voi”, trong đó, ông lèm bèm về trắng thì rất ư là
khủng khiếp.
Hóa ra câu
phán của Camus, Gấu đọc hồi mới lớn, tiếng Tẩy ăn đong, là ở trong
“Énigme” [Bí
ẩn]: Tớ lớn lên cùng với những người cùng tuổi, cùng tiếng trống Đệ
Nhất Thế
Chiến, và lịch sử của chúng tớ, từ đó, không ngừng chỉ là, sát nhân,
bất công,
hay bạo lực.
Vậy mà tìm
hoài!
16.5: SN [chắc
là dởm] Bác Hồ. Gấu tới Bangkok đúng ngày này, cc 1990. Khi điền lý
lịch UNHCR,
Gấu đẩy lui lên, hai hay ba ngày, cho khỏi xui, vì, những ngày như thế
đó, VC
biến đau thương thành hành động, dâng xác chết Mỹ Ngụy làm quà SN Bác!
Chắc là dởm,
vì đó là ngày Sainteny tới Bắc Kít, tính hoà đàm. Hồ bèn phịa, SN tớ,
để nhân dân kết hoa chào mừng!
Trước
1975, Gấu có một cái
hình, độc nhất, đóng vai nhà văn, một cái tiểu sử độc nhất, như sau
đây. Không
thể ngờ, chúng trở thành những lá bùa cứu khổ cứu nạn, khi đi thanh
lọc, được
nhà nước tạm dung xếp vào thành phần tị nạn chính trị, thay vì di dân
kinh tế.
Nhờ vậy mà sau đó, được phái đoàn Canada chấp nhận.
Trích
Hai Mươi Năm Văn Học
Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên tập,
xb trước 1975.
Năm sinh của Gấu, trên ghi
1938, theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh 16.8.1937
Theo
Gấu đoán, sau khi gieo
quẻ mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG, là do
nỗi buồn
lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh
chạy về
xin đầu thú đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”, ‘chết trong tâm
hồn’.
Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát
chết,
những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó thù mấy thằng khốn nạn
VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến
tranh bằng cách đẩy thằng
khác vô thế chỗ mình, mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một
nỗi “chết
trong tâm hồn” khác…
Thú thực Gấu chưa từng thấy một
anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng chưa từng có một bài viết,
bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái sự về
châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm thế.
Gấu này đã từng về "bắt tay với
VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được cảnh cáo, thời tiết không đẹp
như ngày
anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn tụi này, thành thử rét.
Nói rõ hơn, Gấu thù chủ nghĩa
CS, chưa từng thù một ông VC nào, trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng
tởm.
Gấu tởm chúng một, chúng tởm Gấu muời. Hẳn thế!
Anh vẫn chưa
viết một chữ nào. Cái máy chữ đặt trên chiếc bàn con ngay kế sau lưng
bám bụi,
cùng với cái cassette còn lắp cuốn băng Vivaldi nghe từ hôm bị đụng
đầu. Hơn
tháng không nghe nhạc, tại mải nghe những lóc cóc trong đầu mình, nghe
những
cơn gió lửa và tuyết thổi qua thân mình. Thật là tơi tả.
Anh chưa biết
là quyển tiểu thuyết sẽ viết ở ngôi thứ mấy. Cũng chưa biết gọi nó là
cái gì.
Có hai cái tên có thể tạm dùng được thì bị hư rồi. "Ung thư" thì đã
viết đăng tùm lum, đã đưa cho nxb An Tiêm lấy tiền tiêu mà vẫn chưa
chịu cho
in. Bây giờ mà đặt tên ấy nhất định là ông sư Thanh Tuệ sẽ đòi in và
mình chẳng
có đồng xu bản quyền nào nữa. Tên thứ hai là "Nỗi chết không rời" - hồi
đi Thủ Đức trích đăng ở Bách Khoa đã dùng - sau bị ông Trần Phong Giao
lấy xài
ngang xương cho một tập truyện của 2 anh em ông Duy Lam mất. Bí ngay từ
cái
tên. Nhưng thôi cứ gác đó chưa vội gì.
Truyện anh định
viết là một truyện tình. Truyện tình của hai kẻ không chỉ sống riêng
với nhau
trong một thế giới. Họ đều là những kẻ chịu chằng chịt những ràng buộc
với xung
quanh và mối tình chẳng bao giờ là của riêng họ. Họ sống với nhiều
người, sống
với hư tưởng bao trùm cả một đời. Và tình yêu sẽ như thế nào trong hoàn
cảnh ấy?
Anh đang chiêm nghiệm. Câu truyện tình của anh mang đầy những tham
vọng. Nó sẽ
cho người ta thấy những con người, một xã hội và một lịch sử nào đó.
Tấn thảm kịch
của hai người cũng là tấn thảm kịch của VN mấy chục năm trở lại đây. (1)
Flamme
seule, je suis seul
Bruler
seule, rêver seul
Grand
symbole, double symbole incompris
Le premier
pour la femme,
toute
brulante, doit rester seule, sans rien dire;
Le second
pour l'homme taciturne qui n'a qu'une solitude à offrir.
Trong một
đêm anh đọc đoạn trên trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép lại
cho em
đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng diễn của Bachelard -
philosophe già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô cùng. Anh có ý lấy
đoạn này
để cho Mắt Bão. Em thích không ? (1)
Note: "Quảng
diễn", không phải "quãng diễn". TTT viết lộn.
Mắt Bão, từ này của Gấu. Đã trình với ông anh, nhưng chắc
là thấy thằng em lậm Cô Ba quá, viết gì nổi, ông anh bèn dùng luôn.
Em thíck
không?
Không biết
Em có thích không, nhưng Gấu thì không thích!
Hà, hà!
Bây giờ, Gấu
mới đọc được Thư gửi Đảo Xa, và bèn được sống lại cả 1 quãng [dấu
"ngã"] đời còn Sài Gòn.
Tks.
Date:
Tue, 5 Apr 2005 13:44:01 -0700
(PDT)
From:
Subject: Hỏi thăm Ngày xưa,
trong thời chiến, anh đọc để trốn, để tìm một nơi an toàn cho mình. Bây
giờ anh
đọc để làm gì?
2005
Khi đó, độc giả của TV chỉ
lèo tèo mấy mạng, hẳn thế, daily visit
average
40/50.
Gấu khi đó, viết, gần như chỉ cho Gấu!
Và "Khi về già, chín
nẫu, chín rục ra", với con số cả ngàn visits một ngày, và với TV, với
FB, thì quả
là có lúc, "như Borges tếu táo", Gấu bắt đầu nghi, rằng thì là bi giờ
cả thế giới
biết tới Gấu!
SN, nhận lời chúc của FB,
Gấu giật mình!
Hà, hà!
Trước 1975, đọc
để trốn, để tìm nơi an toàn, nhưng vẫn hăm he 1 câu hỏi, tại sao cuộc
chiến đó?
Đọc Lukacs, đọc Lefebvre chắc là vì thế.
Nhưng, ra được hải ngoại,
chỉ đến khi cầm cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng lên, thì có câu trả
lời: Huyễn hoặc khủng khiếp mà
cuốn sách gây
ra ở nơi Gấu, chính là hình ảnh nhà văn Tam Ích, [a "Mạc Xịt"] tà tà
xếp những cuốn
sách của
ông thành một chồng, rồi tà tà leo lên, tròng cái thòng lọng vô cổ, rồi
bye bye
cuộc đời, sau khi đưa chân đá đổ chồng sách.
Trong cái chấn động mà những trang sách, những dòng chữ của Steiner gây
nên ở
nơi Gấu, có hình ảnh của Tam Ích, như trên!
Cùng với hình ảnh đó, là lời than của ông: Tuổi trẻ của tôi đúng là
thật tuyệt
vời, nếu tôi không vớ phải những cuốn sách viết về Lò Thiêu.
It was
Samuel Valenzuela, of Las Ultimas
Noticias, who really let me know that I was back. We talked for a
while. I
did have much to say. So what I did was ask questions and Samuel
Valenzuela
answered them all. Samuel Valenzuela looks like someone out of a Manuel
Rojas
novel. I think he paints in his spare time. It was the first day, I was
still
jet-lagged, and we were at a ranch that they'd brought me to, an
agrarian nightmare
as painted by Miquel Barcelo. Vicente Huidobro used spend his vacations
here,
someone said behind me. This ranch-where one hundred and twenty
patriots or
maybe two hundred and twenty, or maybe just twenty or maybe even only
two took
refuge during the War of Independence, and which is now a vineyard,
museum, and
restaurant-is the dadaist setting of my first event on native soil. I
look around
and the ghosts of those patriots appear and disappear, fading into the
whitewashed
walls and the huge, sad trees of the great park that surrounds the
ranch, in one
corner of which there's a Roman bath built by a previous owner that
gave me the
shivers when it was pointed out to me. The tweeness of Chileans has no
equal on
the planet. Neither does Chilean hospitality, and in my case it's
unceasing.
Until Samuel Valenzuela takes me aside for an interview. We talk about
Chilean
wine. Wine that I can no longer drink. We also talk about empanadas.
What does
it feel like to be back? he asks. I tell him I don't know. Nothing, I
say, it
doesn't feel like anything. The next day our interview is in the paper.
The
headline reads: "Bolalo Can't Go Home Again." When I read it, I
think: it's true! With that headline, Samuel Valenzuela told me
everything that
he could humanly, metaphysically, ontologically, or tellurically tell
me. That
was when I knew I was back in Chile.
EVERYBODY
WRITES
In Chile
everybody writes. I realized this one night when I was waiting to do a
live
television interview. A girl who had been Miss Chile, or something like
that,
was on before me. Maybe she'd only been Miss Santiago or Miss Burst
Into
Flames. Anyway, she was a tall, pretty girl, who talked with the empty
poise of
all Misses. She was introduced to me. When she found out that I had
been a
juror for the Paula contest she said that she had almost sent in a
story but in
the end she hadn't been able to, and that she would submit something
next year.
Her confidence was impressive. I hope she'll have time to type up her
story for
the 1999 contest. I wish her the best of luck. Sometimes the fact that
everyone
in the world writes can be wonderful, because you find fellow-writers
everywhere, and sometimes it can be a drag because illiterate jerks
strut
around sporting all the defects and none of the virtues of a real
writer. As
Nicanor Parra said: it might be a good idea to do a little more reading.
Trong bài viết
về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker,
sau in
trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn
của
Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành
dương,
illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.
Tò mò, Gấu
kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ
cho đọc,
không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau,
một phụ nữ
trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì
chỉ có
cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên
nàng”.
Borges coi
nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những
câu chuyện
đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện
nhỏ, nhẹ,
nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên
net, Gấu
mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra,
của cả Miền
Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và
1 thằng
đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau
khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề
Gòn, và thấy
Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!
"The
Intruder," a very short story recently translated into English,
illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman.
One of
them kills her so that their fraternity may again be whole. They now
share a
new bond: "the obligation to forget her."
Borges
himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The
Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is
as
if Borges, after his rare voyage through languages, cultures,
mythologies, had
come home and found the Aleph in the next patio.
Steiner cho
rằng cái sự nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như là 1 sự
mất mát riêng tư.
Và theo ông,
nó bắt đầu, cùng với sự kiện, cả hai đấng rất ư được người đời ít biết
đến, và đọc
được họ, là Beckett và Borges, khi hai đấng này chia nhau giải thưởng
Formentor
Prize, vào năm 1961.
Năm sau, cuốn Mê Cungvà Giả Tưởng của Borges có
bản tiếng Anh.
Vinh danh rớt xuống, như mưa: Honors
rained.
Vào cái tuổi
già chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu nghi, rằng thì là bi giờ cả
thế giới
biết tới mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi là vì vào năm 1932, cỡ đó, tôi có cho
xb 1 cuốnsách, và cuối năm, tôi khám phá
ra, chỉ bán được có 37 cuốn!
Beckett thì
cũng rứa! Gấu nhớ là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân hận.
TTT cũng thế.
May sau đó,
nhờ Nguyễn Đình Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn, nhờ thế cuốn sách
tái
sinh, từ tro than, từ bụi đường!
Khủng nhất,
là, ông già NDV như tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền văn chương
của cả 1 Miền
Nam, sau đó, sau 1975!
Gấu là thằng
may nhất, nếu không có cú bán xon của NDT, Gấu không làm sao được đọc
Bếp Lửa!
"My
author is Kafka", Calvino once told an interviewer when asked about his
influences, and his presence is discernible throughout Calvino's work,
from The
Argentine Ant to the 1984 story Implosion. Here Calvino links two of
literature's most introspective characters, the doomed prince Hamlet
(the story
begins: "To explode or to implode – said Qfwfq – that is the
question") and the mole-like creature from Kafka's death-haunted story
The
Burrow, in a beautiful but deeply melancholic rumination on black holes
and the
death of the universe, and an apprehension that obliteration lies at
the heart
of each individual consciousness:
"Don't distract yourselves fantasizing
over the reckless behaviour of hypothetical quasi-stellar objects at
the
uncertain boundaries of the universe: it is here that you must turn
your
attention, to the centre of our galaxy, where all our calculations and
instruments indicate the presence of a body of enormous mass that
nevertheless
remains invisible. Webs of radiation and gas, caught there perhaps
since the
time of the last implosions, show that there in the middle lies one of
these
so-called holes, spent as an old volcano. All that surrounds it, the
wheel of
planetary systems and constellations and the branches of the Milky Way,
everything in our galaxy rests on the hub of this implosion sunk away
into
itself."
Thầy của tôi
là Kafka.
Không 1 tên
Mít nào viết nổi 1 câu thật là bình thường như vậy.
Bài viết này,
nằm trong loạt bài nghiên cứu về truyện ngắn của tờ Guardian. Bài này
cũng thật là tuyệt
Date: Tue, 5 Apr 2005 13:44:01 -0700
(PDT)
From:
Subject: Hỏi thăm
Không biết bắt đầu từ khi nào mà người viết thư nầy thấy mình điên quá
chừng.
Điên vì nhìn chung quanh không thấy ai giống mình cả. Người nào cũng
sống rất
điều độ, ăn uống điều độ, ngủ ngáy điều độ, nói năng điều độ, làm việc
điều độ.
Còn mình thì chỉ dành một ngày ba bốn tiếng để ngủ, còn thì bao nhiêu
thì giờ
ngồi trên máy mà đọc. Ngồi trên máy mà tưởng mình đang ngồi giữa thư
viện bao
la, sách cao chất ngất, thơ thẩn bay như bươm bướm, chữ nghĩa muôn màu
nhấp
nháy hoa cả mắt, không biết nên giở cuốn nào trước, cuốn nào sau, nên
đọc sách
nghiên cứu, sách phê bình, truyện ngắn, truyện dài, điểm sách, tin tức,
thời
sự.....Đang sợ mình bị bệnh nghiền Internet, nhưng biết chắc mình không
phải
vậy. Nhiều người nghiền vào Internet chỉ để "chat", tìm một đối tượng
để tâm sự. Còn mình thì nhảy từ site này sang site khác. Nội vào trang
Tin Văn,
đọc cho hết chắc cũng mất hết mấy tiếng đồng hồ. Đó là chưa kể từ một
dữ kiện
được nhắc đến trong một bài, một câu nào đó, để thấu đáo, lại search
lung tung
cả ra xem thử dữ kiện ấy mang phần hành, ý nghĩa gì trong đoạn mình vừa
đọc.
Một câu hỏi chợt loé lên trong đầu lúc đang đọc say sưa, quên cả giờ
phải đi
làm (nói chi đế chuyện quên cả ăn, ngủ) là mình đọc để làm gì? Để biết?
Biết để
làm gì? Những chuyện như các ông nhà văn lưu vong Nga hay các nước Đông
Âu muốn
ở lại đất nước tạm dung hay trở về nguyên quán mà chôn thì có liên quan
gì đến
đời sống hiện tại của một người tị nạn mô nà. Có nên đặt những câu hỏi
như thế
mỗi lần đọc một bài phỏng vấn những nhà văn xa lạ không? Ngày xưa,
trong thời
chiến, anh đọc để trốn, để tìm một nơi an toàn cho mình. Bây giờ anh
đọc để làm
gì? Chỉ để thoả mãn sự đòi hỏi của tri thức? Sự đòi hỏi ấy càng
ngày càng
tham lam. Người ta nói rằng, cứ ba mươi giây là có một cuốn sách được
in ra.
Làm sao mà đọc cho xuể. Nghĩ rằng, trong sự đọc sách, hẳn cũng phải có
một qui
luật nào đó mình phải tuân theo, không phải như hồi còn bé, thấy đâu vơ
đó, hay
như hồi còn đi học, chỉ đọc những cuốn xoay quanh môn học của mình cộng
thêm
vài ba cuốn giải trí hoặc mở mang kiến thức vừa đủ để đừng tan loãng
trong đám
đông. Internet mở ra một chân trời mới, bao la quá khiến mình ngợp lúc
quay trở
lại với văn chương sau mấy chục năm chạy theo cơm áo và bổn phận, đọc
toàn sách
mua được trong các quầy sách hạn chế trong thành phố đang ở.
Site của anh là một trong những site mà
người viết thư này hay vào. Tuy không quen, không biết anh, người viết
cũng
đánh bạo mà xin anh cho vài câu trả lời dùm : Làm cách nào mà anh đọc
nhiều,
viết thật nhiều, maintain cái site của anh, giữ mối liên lạc bằng hữu
và người
thân, mà không thức trắng đêm, ngày này sang ngày khác vậy???
Cám ơn anh,
Viết cho anh như thả lá trong dòng
suối, không biết có người vớt hay trôi tuốt ra biển cũng không
chừng.
Phúc đáp,
Rất vui, và rất mừng, khi đọc thư bạn.
Mạn phép đăng, vì nghĩ có liên quan đến một số vấn đề có thể cùng thảo
luận
trên Tin Văn
Tôi hiện đang hàn huyên với bạn cũ Sài Gòn, từ hồi còn đi học, ở Tiểu
Sài Gòn.
Khi về, sẽ có thư trang trọng hơn.
Tôi nhìn
thấy Pleiku lần đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy nhà gỗ
trải dài trên
đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió lùa vì hai
mặt trước
sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba hay bốn dãy, lâu quá
tôi
không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng trước nhà tôi nhìn
thấy rừng
cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một chút, bên phải, tôi nhìn thấy
biển mênh
mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục
ngôi mộ của
người tị nạn. Đứng phía sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn
thấy dãy
nhà phía dưới.
Phố núi cao
phố núi mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . .Tiếng nhạc vọng từ dãy nhà bên dưới, có một
người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói củi
ướt nhóm
trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như
sương.
Bất giác lại
nhớ đến lần gặp 1 nữ văn sĩ ra đi từ Miền Bắc.
Bà nói,
trong bài viết của cháu, được ông nhắc tới, có 1 câu, cháu rất thích,
và cháu
không hề nghĩ, có người tìm thấy nó, vậy mà ông tìm đúng câu đó, để mà
lọc ra.
Bông hoa thứ ba,
Từ cuốn tiểu sử của Kafka, "Những năm đốn ngộ":
CHAPTER SIX
Kafka
Encounters His Readers
The only place to eat your
fill is at
your own table.
-Eastern European Jewish proverb
Dear Sir,
You have
made me unhappy.
I bought
your "Metamorphosis" as a present for my cousin, but she doesn't know
what to make of the story.
My cousin gave it to her mother, who doesn't
know
what to make of it either.
Her mother
gave the book to my other cousin, and she doesn't know what to make of
it
either.
Now they've written to me. They want me to explain
the story to them because
I am the one with a doctorate in the family. But I am baffled.
Sir! I spent
months fighting it out with the Russians in the trenches without
flinching, but
if my reputation among my cousins went to hell, I would not be able to
bear it.
Only you can
help me. You have to, because you are the one who landed me in this
situation.
So please tell me what my cousin ought to make of "The
Metamorphosis."
Yours
sincerely,
Dr.
Siegfried Wolff
*
Kafka,
Mi làm phiền
ta quá!
Kiếp trước
mi đúng là con đỉa!
OSVALDO
FERRARI. Today we will talk about beauty. But before we do so, we will
transcribe your views about the place of art and literature in our
times as
discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS
BORGES. Art and literature ... should try and free themselves from
time. Often,
I have been told that art depends on politics or on history. I think
that's
untrue. It escapes, in some way, from the organized causality of
history.
Whether art happens or doesn't, either depend on the artist.
FERRARI.
Another matter not usually talked or thought about, apart from the
spiritual
life, is beauty. It's odd that, these days, artists or writers do not
talk
about what is supposedly always their inspiration or objective, that
is,
beauty.
BORGES.
Perhaps the word has been worn out but not the concept- because what
purpose
does art have other than beauty? Perhaps the word 'beauty' is not
beautiful
though the fact is, of course.
FERRARI.
Certainly, but in your writing, your poems, your stories ...
BORGES. I
try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible, doesn't it? But
there
have been so many literary movements with horrible names. In Mexico,
for example,
there was a literary movement frighteningly called Stridentism. It
finally shut
up, which was the best thing it could do. To aspire to be strident-how
awkward,
isn't it!
My friend
Manuel Maples Arce led that movement against the great poet Ramon Lopez
Velarde. I remember his first book-without any hint of beauty, it was
called
'Inner Scaffolding'. That's very awkward isn't it? (Laughs)
To possess inner scaffolding? I remember one line of a
poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed
suicide
in all the newspapers'. It's the only line I recall. Perhaps my
forgetfulness
is kind-if that was the best line in the book, on shouldn't expect much
from
the rest of it. I saw him many years later in Japan. I think he was the
Mexican
ambassador there and that had made him forget not only literature but
his
literature. But he has remained in the histories of literature, which
collects
everything, as the founder of the Stridentist movement (both
laugh). Wanting to be strident-one of the most awkward of
literary desires.
FERRARI. As
we are talking about beauty, I would like to consult you about
something that
has caught my attention. Plato said that of all the archetypal and
supernatural
entities, the only visible one on earth the only manifest one, is
beauty.
BORGES. Yes,
made manifest through other things.
FERRARI.
Caught by our senses.
BORGES. I'm
not sure about that.
FERRARI.
That's what Plato said.
BORGES.
Well, of course, I suppose that the beauty of a poem has to appeal to
our ears
and the beauty of a sculpture has to pass through touch and sight. But
these
are mediums and nothing more. I don't know if we see beauty or if
beauty
reaches us through forms which could be verbal or sensual or, as in the
case of
music, auditory. Walter Pater said that all the arts aspire to the
condition of
music. I think that is because form and content fuse in music. That is,
one can
tell the plot of a story, perhaps even give it away, or that of a
novel, but one
cannot tell the story of a melody, however straightforward it may be.
Stevenson
said, though I think he was mistaken, that a literary character is
nothing but
a string of words. Well, it is true, but at the same time it's
necessary that
we perceive it as more than a string of words.
We must believe in it.
FERRARI. It
must, in some way, be real.
BORGES. Yes.
Because if we sense that a character is only a string of words, then
that
character has not been well created. For example, reading a novel, we
must
believe that its characters live beyond what the author tells us about
them. If
we think about any character in a novel or a play, we have to think
that this
character, in the moment that we see him, sleeps, dreams and carries
out
diverse functions. Because if we don't, then he would be completely
unreal.
FERRARI.
Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught my eye as much as
one by
Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God and the devil fight and
the
battlefield is man's heart.'
BORGES.
That's very similar to one by Ibsen, 'That life is a battle with the
devil in
the grottoes and caverns of the brain and that poetry is the fact of
celebrating the final judgment about oneself.' It's quite similar,
isn't it?
FERRARI. It
is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission. And among us,
Murena has
said that he considers beauty capable of transmitting an other-worldly
truth.
BORGES. If
it's not transmitted, if we do not receive it as a revelation beyond
what's
given by our senses, then it's useless. I believe that feeling is
common. I
have noticed that people are constantly capable of uttering poetic
phrases they
do not appreciate. For example, my mother commented on the death of a
very
young cousin to our cook from Cordoba. And
the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora, in
order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive!
She was
unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later in a
story:
'You only need to be alive'-you do not require any other conditions to
die,
that's the sole one. I think people are always uttering memorable
phrases
without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such
phrases and
retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions
are the
ones he had casually overheard. But that could be another clever
feature of
Shaw's modesty.
FERRARI. A
writer would be, in that case, a great coordinator of other people's
wit.
BORGES. Yes,
let's say, everyone's secretary-a secretary for so many masters that
perhaps
what matters is to be a secretary and not the inventor of the sayings.
FERRARI. An individual memory of a collective.
BORGES. Yes,
exactly that.
Bạn chỉ cần
còn sống, và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ đụng 1 cuộc chiến khác,
khủng khiếp
cũng chẳng kém: Văn Chương.
Note: Mới tậu. Đi liền cú,
Borges lèm bèm về Kafka, nhân TV đang dịch Trước Pháp Luật:
Kafka Could
Be Part of Human Memory Kafka có thể [có, là] phần hồi ức lịch sử
"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với
hồi ức Mít: Chúng ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa",
thí dụ vậy,
Ferrari hỏi
Borges, nghe người ta nói là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử của
thời
chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì đúng
như thế,
nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng ta!
Ui chao em của
GCC, HA, trách Gấu, mi viết hoài về TTT, ở trên net, rồi mi chết,
thì mất liêu luôn, sao không chịu in ra giấy, vì TTT còn quan trọng hơn
cả hồi ức
Mít!
Hà, hà!
FERRARI. But
we are told that we cannot make a faithful interpretation of our times
without Kafka's help.
BORGES. Yes,
but Kafka is more important than our times....
Mới ghé tiệm
sách, mua kính. Không biết đánh rớt ở đâu! Tiện thể cầm lên cuốn trên.
Tomas Transtromer
có bài thơ thần sầu, tặng TTT lại càng thần sầu, đúng cái ý Nghệ Thuật
nên tự
nó ruỗi ra khỏi thời gian, mà Gấu đã từng lèm bèm, nhân nhắc tới nhận
xét của cô
học trò của ông, thơ TTT không thể đọc tới chỉ được, nếu không đóng
khung nó vào
biến cố 1954.
TOMAS
TRANSTROMER (b. 1931)
After
Someone's Death
Once there
was a shock
that left
behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains
us. It blurs TV images.
It deposits
itself as cold drops on the aerials.
You can
still shuffle along on skis in the winter sun
among groves
where last year's leaves still hang.
They are
like pages torn from old telephone directories-
the names
are eaten up by the cold.
It is still
beautiful to feel your heart throbbing.
But often
the shadow feels more real than the body.
The samurai
looks insignificant
beside his
armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết
của Ai Đó
Một lần, có 1
cú sốc
Nó để lại đằng
sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng
ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính
nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt
băng trong mặt trời mùa đông
giữa những
khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống
như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị
cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp
như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường
là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp
của anh ta, và
những cái vảy
rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài
thơ thần sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác thân nào
còn, linh hồn
thì cũng có khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi miền cực lạc.
Nhưng cái
bóng thì lại càng ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ: VC bi giờ
coi bộ trân trọng
cái bóng của ông cùng cái áo giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn
cả đám bạn
quí hải ngoại của ông! (a)
After a
Death
Once there
was a shock
that left
behind a long, shimmering comet tail.
It keeps us
inside. It makes the TV pictures snowy.
It settles
in cold drops on the telephone wires.
One can
still go slowly on skis in the winter sun
through
brush where a few leaves hang on.
They
resemble pages torn from old telephone direcu
Names
swallowed by the cold.
It is still
beautiful to hear the heart beat
but often
the shadow seems more real than the body.
The samurai
looks insignificant
beside his
armor of black dragon scales.
Còn trẻ, Gấu đọc ai, nếu
không ưa, không hợp, thì thường là bỏ qua, và chính vì bỏ qua, vờ, nên
đã
bị Duyên
Anh chửi ròng rã gần 1 năm trời trên nhật báo Sống.
Vờ, không nhắc tới Duyên
Anh, chưa nói chê, mà đã bị chúng đánh đòn hội chợ.
Rồi khi mới
ra hải ngoại, báo nào cũng viết, mặt dầy, không cần mời, vẫn bị chúng
chửi, nào
talawas, nào Hạ Bộ, nào Da Mùi.
Gấu bắt đầu
chửi, là khi đã quá thất vọng về văn chương Mít, và, bèn thay đổi
policy, chửi, thật
dữ, may ra có thay đổi.
Cái vụ Gấu
chửi đám nhà văn lính Ngụy, là có lý do: Chính chúng có phần lỗi, quá
nặng, trong
cuộc chiến, do cái thứ văn chương lính tráng, viết đã dở, mà hơi chút
là vãi nước đái ra
Liệu có ai tò mò đếm coi nhà văn cận thị nặng, thám báo thám biếc, đã
bỏ
ra bao nhiêu dòng, để viết, chỉ về cái hành động, ngưng chiến tranh 1
tí, để… lau kính?
[Ý này, Gấu diễn lại 1 câu nói của
NMG về văn của THT]
V/v Viết dở
như hạch, và hơi 1 tí là vãi nước đái ra.
GCC đọc lại
dòng trên, và kỳ cục làm sao, bất giác nhớ tới bài viết ngắn của
Bolano, trong “Trong
ngoặc”, về Gunter Grass.
Bolano đọc
"Thế Kỷ Của Tôi", của Grass, và chê, như kít, so với "Cái Trống Thiếc",
cũng của
Grass, như … Trời!
GCC post dưới
đây, và dịch sau.
GRASS'S
CENTURY
From a
writer like Gunter Grass, one expects a masterpiece even on his
deathbed;
though by all indications My Century (Alfaguara) will be only the
second-to-last of his great books. It's a collection of short stories,
one for
each year of the century now behind us, in which the great German
writer examines
the frequently tortured fate of his country. From the first soccer
teams to
World War I, from the economic crisis of the twenties to the rise of
Nazism,
from World War II and the concentration camps to the German Miracle,
from the post-war
period to the fall of the Berlin Wall, everything has a place in this
book,
which manages to seem short though it's more than four hundred pages
long,
perhaps because the succession of horrors, the succession of disasters,
and the
human instinct for survival despite everything make it feel that way:
the
century has exhaled. The Grass of this book, of course, isn't the Grass
of The Tin
Drum or of Dog Years or The Flounder, to mention just three of his
great and
all-encompassing works. Here we have before us a crepuscular and
fragmentary
Grass, as merited by the occasion, and also a seemingly (though only
seemingly)
weary Grass, who embarks on the review of his German century, which is
also the
European century, with the convict of having traversed an enduring
piece of
hell and also with the certainty, the old and maligned and magnificent
certain:
the Enlightenment, that human beings deserve to be say even though
often they
aren't saved. We're exiting the twentieth century marked by fire.
That's what
Grass tells us. And he tells it in some wonderful stories, alive with
humor and
pain written as if by a young man of thirty, full of energy and with a
long
life ahead of him.
Từ 1 nhà văn
khổng lồ như Grass, người ta hy vọng 1 cuốn khổng lồ, ngay cả khi ông
đang hấp
hối nằm trên giường, chờ chết. Tuy nhiên, dù có thổi như Tố Hữu thổi
Xì, thì cuốn
“Thế Kỷ Của Tôi”, chỉ đáng...chùi đít!
Me-xừ Grass của cuốn này, không phải me-xừ Grass của Cái Trống Thiếc….
Còn trẻ,
Gấu đọc ai, không ưa, thường là bỏ qua, và chính vì bỏ qua, vờ, nên đã
bị Duyên
Anh chửi ròng rã gần 1 năm trời trên nhật báo Sống.
Vờ, không nhắc tới Duyên
Anh, chưa nói chê, mà đã bị chúng đánh đòn hội chợ như thế đấy.
Rồi khi mới
ra hải ngoại, báo nào cũng viết, mặt dầy, không cần mời, vẫn bị chúng
chửi, nào
talawas, nào Hạ Bộ, nào Da Mùi.
Gấu bắt đầu
chửi, là khi đã quá thất vọng về văn chương Mít, và, bèn thay đổi
policy, chửi, thật
dữ, may ra có thay đổi.
Cái vụ Gấu
chửi đám nhà văn lính Ngụy, là có lý do: Chính chúng có phần lỗi quá
nặng trong
cuộc chiến, do cái thứ văn chương lính tráng, viết đã dở, mà hơi chút
là vãi nước
mắt.
Liệu có ai tò mò đếm coi nhà văn cận thị nặng, thám báo thám biếc, đã
bỏ
ra bao nhiêu dòng, để viết, chỉ về cái hành động, ngưng chiến tranh 1
tí, để… lau kính?
[Ý này, Gấu diễn lại 1 câu nói của
NMG về văn của THT]
Quoc Tru Nguyen Niềm tin vào sách giấy
thì cũng
giống như niềm tin bất cứ 1 linh hồn nào cũng có 1 thể xác, để mà sờ!
Câu này ở
trong 1 số báo về Thơ.
Nguyên văn:
Founded in
1912 by Harriet Monroe
Volume 201,
Number 2
The
unadmitted reason why traditional readers are hostile to e-books is
that we
still hold the superstitious idea that a book is like a soul, and that
every
soul should have its own body.
ADAM KIRSCH
Độc giả truyền thống không
chịu nổi e-books là do chúng ta vẫn giữ thói mê tín, cuốn sách thì như
1 linh hồn, và mỗi 1 linh hồn như thế nên có 1 thân xác riêng của nó.
In the
late summer of that year we lived in a house in a village that looked
across
the river and the plain to the mountains. In the bed of the river there
were
pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was clear
and
swiftly moving and blue in the channels. Troops went by the house and
down the
road and the dust they raised powdered the leaves of the trees. The
trunks of
the trees too were dusty and the leaves fell early that year and we saw
the
troops marching along the road and the dust rising and leaves, stirred
by the
breeze, falling and the soldiers marching and afterward the road bare
and white
except for the leaves.
So
goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell to
Arms,"
which I was moved to reread by the recent announcement that what was
said to be
Hemingway's last novel would be published posthumously next year. That
paragraph, which was published in 1929, bears examination: four
deceptively
simple sentences, one hundred and twenty-six words, the arrangement of
which
remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I first
read them,
at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them closely
enough and
practiced hard enough I might one day arrange one hundred and
twenty-six such
words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa hè năm
đó, chúng tôi sống trong một căn nhà
trong một cái làng
nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá
mòn,
khô và trắng trong ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng,
xanh ở
trong những dòng rẽ. Những toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi
dấy lên
phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn
thấy những
toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây, theo làn
gió thổi
rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó con lộ trần trụi, vắng
hoe, và
trắng toát, ngoại trừ những chiếc lá cây. Đó là đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã từ
vũ khí, mà tôi,
thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của
Hemingway sẽ
được xb, sau khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn
câu đơn,
126 từ, sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại
tôi vẫn cảm
thấy như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu nhìn
thật gần,
gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với
chúng, thì có
một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!
Mới tậu cuốn, Câu chuyện
một thập kỷ,
của nhà xb The New Yorker, trong có bài về Hemingway. Tác giả bài viết
so sánh,
và, chọn Chuông Gọi Hồn Ai, bảnh hơn Giã Từ Vũ Khí.
Đứng ở tiệm sách, đọc gần
như hết bài viết, thật tuyệt. Đành bệ về.
Thêm cuốn này, bonus đầu năm!
“Những bài
essays hay nhất của Mẽo trong năm 2014”. Qua bài giới thiệu, của tay
Guest
Editor, đề tài của số này, là về “giải pháp sự thực”, trong cái gọi là
non-fiction.
In recent years we’ve heard a lot about the issue of truth in
non-fiction…
Non-fiction,
thí dụ hồi
ký, bắt buộc
phải là facts, những sự kiện, không được bịa đặt. Nhưng cho dù facts,
liệu cái
gọi là sự thực ở trong đó, "tin" được không?
Gấu mua số
này, là để “kiểm tra” cái cú VC bịa ra đầu độc tù Phú Lợi, bịa ra cuộc
chiến, 1
cách nào đó, làm tan nát nước Mít như bây giờ.
Còn trẻ,
Gấu đọc ai, không ưa, thường là bỏ qua, và chính vì bỏ qua, vờ, nên đã
bị Duyên
Anh chửi ròng rã gần 1 năm trời trên nhật báo Sống.
Vờ, không nhắc tới Duyên
Anh, chưa nói chê, mà đã bị chúng đánh đòn hội chợ như thế đấy.
Rồi khi mới
ra hải ngoại, báo nào cũng viết, mặt dầy, không cần mời, vẫn bị chúng
chửi, nào
talawas, nào Hạ Bộ, nào Da Mùi.
Gấu bắt đầu
chửi, là khi đã quá thất vọng về văn chương Mít, và, bèn thay đổi
policy, chửi, thật
dữ, may ra có thay đổi.
Cái vụ Gấu
chửi đám nhà văn lính Ngụy, là có lý do: Chính chúng có phần lỗi quá
nặng trong
cuộc chiến, do cái thứ văn chương lính tráng, viết đã dở, mà hơi chút
là vãi nước
mắt.
Liệu có ai tò mò đếm coi nhà văn cận thị nặng, thám báo thám biếc, đã
bỏ
ra bao nhiêu dòng, để viết, chỉ về cái hành động, ngưng chiến tranh 1
tí, để… lau kính?
[Ý này, Gấu diễn lại 1 câu nói của
NMG về văn của THT]
Quoc Tru Nguyen Niềm tin vào sách giấy
thì cũng
giống như niềm tin bất cứ 1 linh hồn nào cũng có 1 thể xác, để mà sờ!
Câu này ở
trong 1 số báo về Thơ.
Nguyên văn:
Founded in
1912 by Harriet Monroe
Volume 201,
Number 2
The
unadmitted reason why traditional readers are hostile to e-books is
that we
still hold the superstitious idea that a book is like a soul, and that
every
soul should have its own body.
ADAM KIRSCH
Độc giả truyền thống không
chịu nổi e-books là do chúng ta vẫn giữ thói mê tín, cuốn sách thì như
1 linh hồn, và mỗi 1 linh hồn như thế nên có 1 thân xác riêng của nó.
In the
late summer of that year we lived in a house in a village that looked
across
the river and the plain to the mountains. In the bed of the river there
were
pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was clear
and
swiftly moving and blue in the channels. Troops went by the house and
down the
road and the dust they raised powdered the leaves of the trees. The
trunks of
the trees too were dusty and the leaves fell early that year and we saw
the
troops marching along the road and the dust rising and leaves, stirred
by the
breeze, falling and the soldiers marching and afterward the road bare
and white
except for the leaves.
So
goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell to
Arms,"
which I was moved to reread by the recent announcement that what was
said to be
Hemingway's last novel would be published posthumously next year. That
paragraph, which was published in 1929, bears examination: four
deceptively
simple sentences, one hundred and twenty-six words, the arrangement of
which
remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I first
read them,
at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them closely
enough and
practiced hard enough I might one day arrange one hundred and
twenty-six such
words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa hè năm
đó, chúng tôi sống trong một căn nhà
trong một cái làng
nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá
mòn,
khô và trắng trong ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng,
xanh ở
trong những dòng rẽ. Những toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi
dấy lên
phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn
thấy những
toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây, theo làn
gió thổi
rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó con lộ trần trụi, vắng
hoe, và
trắng toát, ngoại trừ những chiếc lá cây. Đó là đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã từ
vũ khí, mà tôi,
thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của
Hemingway sẽ
được xb, sau khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn
câu đơn,
126 từ, sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại
tôi vẫn cảm
thấy như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu nhìn
thật gần,
gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với
chúng, thì có
một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!
Mới tậu cuốn, Câu chuyện
một thập kỷ,
của nhà xb The New Yorker, trong có bài về Hemingway. Tác giả bài viết
so sánh,
và, chọn Chuông Gọi Hồn Ai, bảnh hơn Giã Từ Vũ Khí.
Đứng ở tiệm sách, đọc gần
như hết bài viết, thật tuyệt. Đành bệ về.
Thêm cuốn này, bonus đầu năm!
“Những bài
essays hay nhất của Mẽo trong năm 2014”. Qua bài giới thiệu, của tay
Guest
Editor, đề tài của số này, là về “giải pháp sự thực”, trong cái gọi là
non-fiction.
In recent years we’ve heard a lot about the issue of truth in
non-fiction…
Non-fiction,
thí dụ hồi
ký, bắt buộc
phải là facts, những sự kiện, không được bịa đặt. Nhưng cho dù facts,
liệu cái
gọi là sự thực ở trong đó, "tin" được không?
Gấu mua số
này, là để “kiểm tra” cái cú VC bịa ra đầu độc tù Phú Lợi, bịa ra cuộc
chiến, 1
cách nào đó, làm tan nát nước Mít như bây giờ.
Cảm ơn bác Trụ, Tin Văn, thỉnh thoảng
đưa lên trang của bác
để khen. Bác này hay chê nhưng luôn nhẹ tay với phụ nữ nhất là mấy bà
tập sự, mới
quọt quẹt viết như tôi. (1)
Tks
Chúc Mừng Năm Mới to All there. NQT
Không phải như vậy. Gấu không có thói
quen khen vuốt đuôi,
khen nhẹ tay, mà chỉ biết khen thực tình, và chê cũng tới chỉ. Hồi mới
vô Làng,
đánh thi sĩ chuyên làm thơ tán gái 1 cú, ông đau tới già, vì, đánh
trúng tim của
ông.
Những câu văn của Bà Tám, mà Gấu khui
ra, đều là những câu
thật khó viết, không phải thứ đánh vật mới có được, mà nó tự nhiên vô
cùng. Giả
như có đánh vật, chắc là phải có, thì trước đó, đến khi viết ra, nó cực
kỳ tự
nhiên.
Viết được 1 câu như thế, là trở thành nhà văn, đúng cái ý của Borges,
thơ
là để trao cho thi sĩ, và nếu như thế, thì văn cũng vậy.
Đa số những nhà văn nhà
thơ Mít, nổi tiếng, có khi cực nổi tiếng, không có nổi 1 câu như vậy.
"Khói củi
ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù
mù như
sương”
Tôi nhìn thấy
Pleiku lần đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong.
Trước khi thấy biển tôi
thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.
Proust
nói,
những gì đã sống đều mong được sống lại. Miêu tả
là làm sự vật sống lại, theo sự "sắp xếp" của người viết.
Như vậy
"cách" miêu tả rất quan trọng?
Đó là quan
niệm của Kafka, kỹ thuật chính là linh hồn của
văn chương.
Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Cây cầu
kêu dưới
bánh xe với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân trong buổi chiều ngất ngư
chưa muốn
ngã.
Trên chòi canh, hai con mắt người lính gác tối đen nhìn sang núi.
Khi viết về cuốn Bếp Lửa, ấn bản chung
quyết, Gấu đã đưa ra
mấy nhận xét, về TTT: Ông không viết văn, nhưng mà làm thơ, và khi làm
thơ, ông
không xử dụng ẩn dụ. Mỗi câu văn ở trong Bếp Lửa, là 1 câu thơ, và
những câu thơ
như thế, chứa trong nó, ảnh tượng. Một cách nào nó, chúng không lạm
dụng tính tự
sự, tính dòng kể, của văn chương. Barthes, gọi văn Camus là cách viết
trắng,
trung tính, nhưng phải là Sartre phán, mới thú: Mỗi câu văn là 1 hòn
đảo, mỗi câu
văn là 1 lại bắt đầu, mỗi câu văn như đến từ hư vô.
TTT cũng phán như thế, về
chính văn của ông: Dưng không trồi lên sự thực.
Văn học Miền
Nam trước 1975, phát sinh từ biến cố 1954, cùng lúc với hiện tượng Nhân
Văn Giai
Phẩm ở Miền Bắc.
GCC đã nhận ra sự đồng cảm
giữa hai hiện tượng văn học, khi đi
1 đường lưu ý me-xừ Grass, trong thư ngỏ gửi ông ta:
Khi trả lời
Olivier Mannoni, trong một phỏng vấn dành cho báo Le Magazine
Littéraire, số 381,
Novembre, 1999, ông cho biết, sau cuộc chiến, và trong thời kỳ chiến
tranh lạnh,
nước Đức đã bị tuyệt đối chia cắt, về phương diện ý thức hệ, kinh tế,
quân sự;
nhưng văn chương, không. Hai nền văn chương cho dù nếu có tính xung
đột, vẫn có
những tương quan, giao tiếp với nhau. Và cuộc đối thoại này đã không hề
bị đứt
đoạn.
Văn chương
Việt Nam không được may mắn như vậy. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh
toàn cầu,
và chiến tranh nóng tại Đông Dương, văn chương Việt Nam đã bị chia cắt
và ô nhiễm.
Những nhà văn của cùng một ngôn ngữ là tiếng Việt đã không được phép,
và chẳng
làm sao có cơ hội nhận ra nhau, để thông cảm như những người cùng chung
môi trường
sống và định mạng lịch sử, ngay cả khi đất nước đã được thống nhất
(trước Đức
15 năm), và dân chúng của nó phải chạy ra biển, ở cả hai miền Nam và
Bắc.
Với nhà văn,
mất mát luôn luôn là thu nhập, (pour un écrivain, une perte est
toujours un
gain), như ông trả lời phỏng vấn trên tờ Lire, nhân cuốn "Tất cả câu chuyện"
được dịch ra tiếng Pháp; đã có những tiếng nói văn chương phản kháng ở
trong nước,
hay tiếp nối dòng văn chương của Miền Nam trước 1975 ở hải ngoại; nhưng
tiếng
nói Miền Bắc, đối thoại thực sự với tiếng nói Miền Nam, chưa có.
Những nhà
văn Việt Nam trưởng thành khi cuộc chiến Đông Dương ngưng lần thứ nhất,
đã để lỡ
cơ hội ngay sau năm 1954, khi không hòa giải được với nhau qua tiếng
nói và qua
sinh mệnh của dân tộc. Một số nhà văn Miền Bắc thuộc nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm đã
nhận ra hiểm họa, khi sử dụng văn chương vào những mục đích chính trị
nhất thời
là làm cho nó bị tổn hại, và hậu quả sẽ không thể lường được. Họ đã yêu
cầu Đảng
và Nhà Nước: hãy lấy tất cả, nhưng trả văn chương cho chúng tôi.
Nhà văn Phan
Khôi đã nói thẳng với những nhà văn nhà nước: Đảng dậy chúng ta (làm)
chính trị,
chứ đâu dậy chúng ta (làm) văn chương!
Nhà thơ Trần Dần, đã nhìn sự huỷ diệt thủ
đô lịch sử và văn hóa, và cùng với nó là biểu tượng của cả một dân tộc,
qua viễn
ảnh Tận Thế Là Đây, ApocalypseNow:
Tôi bước đi,
không thấy phố, không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa
sa trên mầu cờ đỏ.
Họ đã bị tù đầy, cô lập về
kinh tế, đi lại, và
cuối cùng tiếng nói văn chương thực sự của một miền đất nhằm chống lại
chính
sách độc đoán, toàn trị của Đảng CSVN đã bị bóp nghẹt vào năm 1958,
trước khi
cuộc chiến Đông Dương lần hai khai màn.
Ở Miền Nam, những
tiếng nói hòa giải, chống chiến tranh của Phật Giáo, nghệ sĩ, trí thức,
sinh
viên, thanh niên cũng đã bị chính quyền Sài Gòn bóp nghẹt.
Chúng ta hãy
giả sử, nếu hai tiếng nói đó cùng cất lên, mở ra một lối thoát cho xã
hội, cho
văn chương, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền có thể đã không xẩy ra.
Đầu năm
2000, văn giới hải ngoại có gửi thư ngỏ dưới đây, tới nhà văn Đức,
Gunter
Grass. Sau đó, ông, và sau đó, Hội Văn Bút Đức, có lên tiếng, và - có
thể còn
do nhiều yếu tố khác nữa - trường hợp đã được giải quyết đúng như sự
mong muốn
của tất cả.
Thật sự, câu
hỏi của nhà báo Lý Kiến Trúc dành cho tôi là:
Nền văn học miền Nam có phải là một
nền văn học vệ quốc hay một nền văn học chống cộng, còn nền văn học
miền Bắc có
phải là một nền văn học giải phóng, thống nhất hay không?
Hai nền văn học đó có
khi nào gặp nhau, hoặc không gặp nhau? Và nếu gặp nhau thì gặp nhau ở
điểm nào?
Tôi đã trả lời
là trong một cuộc chiến tranh như thế thì cả hai đều có tính cách vệ
quốc cả,
nhưng dùng từ “vệ quốc” thì nghe có vẻ Liên-Xô quá. Tôi nghĩ nên nói là
bảo vệ
đất nước, gìn giữ đất nước và bảo vệ tổ quốc. Mỗi dòng văn học có cái
bối cảnh
riêng của nó. Dòng văn học miền Bắc là dòng văn học được chỉ đạo cẩn
mật. Nó
mang cái âm hưởng, giọng điệu sử thi, tô hồng cuộc chiến, thậm chí che
mất đi
những dấu vết thật sự của con người, cái nhân văn của con người. Dĩ
nhiên, nền
văn học miền Bắc có một giá trị riêng của nó khi ta nhìn toàn bộ nền
văn học Việt
Nam trong bối cảnh 20 năm chiến tranh. Còn nền văn học miền Nam, như
tôi đã
trình bày, là một nền văn học rất phong phú. Nó là một nền văn học bảo
vệ đất
nước, nhưng nó cho phép con người, trong khi bảo vệ đất nước, vẫn có
thể sống
cuộc đời của mình, thở cái hơi thở của mình. Hai nền văn học đó rất
khác nhau.
Chúng có những đặc tính riêng và những giá trị riêng của chúng.
Vệ quốc là vệ
quốc, khi BVP giải thích, nó vưỡn có nghĩa như thế.
Liên Xô dùng
từ vệ quốc, vì bản chất của thứ văn chương đó, là vệ quốc,bảo vệ đất nước chống lại quân đội Nazi của
Hitler.
Miền Nam, nếu
dùng từ vệ quốc, thì cũng theo nghĩa đó, chống lại Bắc Kít xâm lăng.
Nên nhớ Miền
Nam và Miền Bắc là hai thể chế khác biệt, như nhiều nước cũng ở trong
thời kỳ đó.
Bắc Kít là CS, thành ra vệ quốc với chống cộng thì cũng mắm xốt kít!
Phải trả lời,
đại khái như thế.
Cả 1 bài
thuyết trình dài
thòng thì cũng vưỡn chào hàng,
étalage.
Ông này viết không được, như mấy ông phê bình của hải ngoại khác, theo
thiển ý của GCC. Tuy
nhiên, ở
cốt lõi của vấn đề, nếu văn học Miền Nam thực sự là chống cộng, vệ
quốc, thì nó
ra làm sao, ở những tác giả nào, và tại sao nó thất bại, nghĩa
là... làm mất nước?
Câu hỏi của bạn Lý Kiến Cắn thì cũng tiếu lâm, làm sao mà hai thứ đó
gặp nhau?
Dĩ nhiên, nền
văn học miền Bắc có một giá trị riêng của nó khi ta nhìn toàn bộ nền
văn học Việt
Nam trong bối cảnh 20 năm chiến tranh.
BVP
Viết như thế, thì đúng là ba phải.
Theo kiểu huề vốn.
Với GCC, văn học miền Bắc chỉ
được có mỗi 1
cuốn, của Bảo Ninh, để... chấm dứt nó, cái thứ văn chương ăn cướp
[khai
hóa,
lịch sự hơn], như trong bài viết về VP:
Văn Học
Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về
nhà văn
Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút hiệu khác nhau, rồi
giả dụ
Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và không hiểu cả hai miền, còn hạ
giá
(hay quá đề cao?) nhà văn Miền Nam.
Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh
thần
chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá,
vẫn tự coi
như là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học,
và phải
trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá!
Một
cách nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách
Mạng Pháp,
và chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn
học hiện
thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn
theo cách
thế đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản
kháng ở
trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời
nói lành
lặn của nó...
Gấu đã
nói rồi, ông này đếch biết viết!
Phán, văn học
Miền Nam “kế thừa” tiền chiến, cũng cực nhảm.
Cái cú 1954, là 1 đứt đoạn khủng
khiếp đối với văn học Mít, như TTT [lại vẫn TTT] nhìn ra, khi trả lời
tay Le Huu
Khoa.
Chính biến động này khai sinh ra nền văn học Miền Nam.
Nhà thơ chủ yếu
của văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Tâm Tuyền đã hai lần đóng góp, và
đóng góp
nào cũng mang tính uyên nguyên, cho cuộc sống văn học sau 1945.
Về thơ, ông
cắt đứt truyền thống cổ điển về nhạc tính trong thơ, và trong mảnh đất
mới mẻ
này, ông là người đại diện của nó: người sáng lập ra trường phái thơ tự
do. Hai
tập thơ đầu 'Tôi Không Còn Cô Độc' và 'Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy' khai
sinh ra
một thế hệ "làm thơ", "không làm những câu thơ".
Về văn xuôi,
truyện kể đầu tay, Bếp Lửa, cũng đánh dấu sự không thể trở lại với cách
kể chuyện
cũ nữa. Tính ngắn gọn của thông điệp làm tăng nhịp văn và làm chủ cảm
quan thẩm
mỹ.
Được nhìn nhận,
nhưng không được nghiên cứu sâu, bởi giới phê bình trong thời kỳ chiến
tranh
1954-1975, tuy nhiên, vào lúc này, ông quả là một tác giả đáng gờm của
giới phê
bình văn học Việt Nam, bởi tính đa dạng trong đường hướng sáng tạo, và
bởi lý
thuyết văn học mang tính tổng hợp. Tất cả điều này sở dĩ có được, là
nhờ dựa
trên một phát kiến mới mẻ của ông về nhạc tính của thơ.
Thanh Tâm Tuyền
thuộc trong số những nhà văn sớm cảm nhận sự huỷ hoại của đất nước Việt
Nam chiến
tranh triền miên nhưng ông cũng là một trong số những người hiểu thế
nào là sống
trong một chế độ toàn trị kìm kẹp như chế độ hiện thời, trải qua tù
đầy, trại cải
tạo, trong nhiều năm ròng rã, dưới sự áp bức của chế độ mới, từ năm
1975 tới
1990. Ông kể lại sau đây, kinh nghiệm viết của ông, dưới áp bức, kìm
kẹp.
Kinh nghiệm
văn chương của ông trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 tới 1975?
Ngoài thơ
ra, tôi trải qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi.
Cuốn đầu, Bếp
Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những
chọn lựa
miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà
văn cách
mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi:
"Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ
nghĩa,
nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ
diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tôi đã
trả lời
là trong một cuộc chiến tranh như thế thì cả hai đều có tính cách vệ
quốc cả
BVP
Đọc
câu văn cà chớn của BVP, thì lại toát ra cái mùi muốn bò về.
Một thằng ăn cướp mà cũng… vệ quốc ư?
Đừng chơi trội.
Hãy chân thật. Bởi vì bạn đâu phải cái rốn của vũ trụ. Còn có rất nhiều
người
khác. Thành thử cái chuyện trèo lên bục cao, tới giữa sàn diễn, tới
giữa vùng
ánh sáng kia, là thể nào cũng đụng chạm tới phần của kẻ khác, những
người không
chịu trèo. Chuyện, bạn lỡ dẫm lên chân của kẻ khác, đâu có nghĩa, bạn
tha hồ đạp
lên đầu lên vai họ?
Joseph
Brodsky: Nói chuyện với sinh viên [Speech
at the Stadium]
Ngay từ những
ngày cuộc chiến “chưa” hứa hẹn những điều khủng khiếp, Mậu Thân chưa
xẩy ra, Đại
Lộ Kinh Hoàng chưa có… đọc 1 cuốn tiểu thuyết với cái air “bất hạnh, da
vàng,
nhược tiểu…” Gấu đã lên tiếng báo động rồi. Thế rồi cuộc chiến tàn khốc
xẩy ra,
rồi tù đầy cải tạo, và,chính ở những
nơi chốn đó, văn chương Miền Nam tìm ra sinh lộ, đúng như câu thơ của
Holderlin, mà Camus cực mê, chỉ ở những nơi chốn hiểm nguy, thì mới có
cứu rỗi.
[But where there is danger, there grows also what saves: Nhưng ở đâu có
hiểm
nguy, ở đó chồi cứu chuộc nẩy lên].
Vậy mà đến
bây giờ, vẫn có những tên ngu si đần độn, gọi văn chương Miền Nam, là
văn chương
bất hạnh!
Một tên học
hành không ra gì, VC không ra VC, Ngụy không ra Ngụy, 1 câu tiếng Anh
không dịch nổi,
tiếng Pháp thì mù, điếc, câm... đặc, vậy mà ngồi chủ tọa 1 cuộc diễn
đàn nhìn lại
VHMN trước
1975!
Ian Buruma,
trong bài viết mà Tin Văn tính dịch giới thiệu độc giả, Những niềm vui
và những
rủi ro khi khoe bất hạnh, “The Joys and Perils of Victimhood”, viết:
… Finally,
and I think this goes to the heart of the matter, we should recognize
that
truth is not just a point of view. There are facts that are not made up
but
real. And to pretend there is no difference between fact and fiction,
or that
all writing is fiction, is to paralyze our capacity to distinguish
truth from
falsehood. And that is the worst betrayal of Primo Levi and all those
who
suffered in the past. For Levi's fear was not that future generations
would
fail to share his pain but that they would fail to recognize the truth.
Sau
cùng tôi đi thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Sự thực không phải chỉ là
quan điểm -
mi nói bất hạnh, ta nói không phải - Có những sự kiện, không phải được
phịa ra,
dựng đứng lên, nhưng mà là sự thực. Và giả đò chẳng có khác biệt giữa
sự kiện
và giả tưởng, mọi cái viết đều là giả tưởng, là làm tê liệt khả năng
phân biệt
giữa sự thực và giả trá. Và đó là sự phản bội tồi tệ nhất đối với Primo
Levi và
tất những người đã đau khổ trong quá khứ. Bởi là vì nỗi sợ của ông,
không phải
những thế hệ tương lai sẽ thất bại trong cái việc chia sẻ nỗi đau của
ông,
nhưng họ thất bại, không nhận ra sự thực.
Một nền văn chuơng bất
hạnh mà có những nhà văn, nhà thơ như TTT, Bùi Giáng, Tô Thuỳ Yên.... ?
Một nền văn chương bất hạnh mà sao cả nước bây giờ nâng niu, tìm đọc?
Cái chuyện kẻ thắng hành hạ nó, phần thư nó, là niềm hãnh diện của nó,
làm sao mà có thể gọi là bất hạnh?
Đúng là 1 lũ ngu đần, làm nhục cả hải ngoại lẫn trong nước. NQT
Coetzee,
viết
về Brodsky, về những chuyến đi mang tính tự thuật của ông [in his
autobiographical
journeys], ông không hề nhắc tới vụ án nổi tiếng, bị nhà nước gán cho
tội ăn bám
xã hội, và kết quả là bản án lưu đầy nội xứ, lao động cải tạo, ở mãi
mạn bắc, và
Coetzee giải thích, cái sự im lặng này có tính cân nhắc, deliberate:
Tao đéo khoái
cái trò phô ra cho người đời thấy, những vết thương của ta, tao đéo bao
giờ bất
hạnh, thi sĩ đéo bao giờ là nạn nhân.
Hiểu chưa, lũ
ngu?
Nếu một nhà
thơ, đéo bao giờ là nạn nhân, thì một nền văn học như của Miền Nam
trước 1975, đéo
bao giờ bất hạnh!
Bằng mọi giá,
tránh cho bằng được, cái khốn nạn, ngu si, tự ban cho mình cái thế giá
nạn nhân, ông
khuyên nhủ sinh viên [At all cost try to avoid granting yourself the
status of
the victim]
Remarque vs Bảo Ninh
Hồ
Đình Nghiêm viết:
Erich
Maria Remarque là nhà văn có số lượng người đọc nhiều nhất trong thế kỷ
20. Mặt
trận miền Tây vẫn yên tĩnh là tác phẩm trác tuyệt, người lính qua văn
chương của
E.M. Remarque là biểu tượng của sự mất mát, tang hoang, mất niềm tin,
cô đơn
cùng cực. Trong giao thông hào ở tuyến đầu hay ngồi tàu hoả về phép tận
hậu
phương. Đúng như Trần Vũ nhận xét, tiểu thuyết của ông tựa một cái kính
vạn hoa
luôn có sự biến hoá mỗi lần đọc lại và tôi ngờ rằng cái hấp lực ấy đã
tạo ra một
phiên bản khác, phủ chụp xuống Bảo Ninh khi viết cuốn Nỗi buồn chiến
tranh. Tôi
cũng cả tin, nếu Trần Vũ viết về đề tài chiến tranh, tôi nghĩ Trần Vũ
sẽ đẩy
lùi Bảo Ninh vào bóng tối.
Hoàng
Đại Dương viết:
Tôi
bất chợt tìm thấy Trần Vũ có nét lãng mạng như tướng Patton, tuy sinh
sau Đệ Nhị
Thế Chiến, anh vẫn còn hơi thở của cuộc chiến tranh này!
Note: Cái sự so sánh Bảo Ninh với Remarque, và đánh giá ông này hơn ông
kia, theo Gấu hơi bị nhảm.
Một trong những lý do, là, hai cuộc chiến mà hai tác giả đụng phải khác
nhau.
Trên Tin Văn cũng đã đề cập tới cả ba, nghĩa là, với cả cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của
Graham Greene:
Chuyện mấy anh Mẽo hay nhắc tới Greene
khi viết về Ẩn,
và Ẩn, khi thú nhận, mình học từ ông thầy Xịa cách luyện chó để trị
cảnh sát, tất
cả đều có nguyên nhân sâu xa của chúng.
Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ, Cuộc
Đời Greene,
của ông, có đưa
ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào, trên đường
tới Việt
Nam, vào những năm tháng nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là
cuốn "Người
Mỹ Trầm Lặng."
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ
tự truyện, Cõi Khác, Gấu đã
lầm,
khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ
tưởng viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc dáng
"Mặt
Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh" của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn" như thế? Liệu có phải Greene hơn
Remarque? Gấu vẫn thường tra
vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một số tác giả, trong số đó, có
Steiner, Benjamin, Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ
NhấtThế Chiến, không thể có một Mặt
Trận
Miền Tây nào, cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm
dứt thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)
Đây là điều những nhà phê bình nước
ngoài nhận ra, khi đọc "Nỗi Buồn
Chiến Tranh" của Bảo Ninh, và coi nó cao hơn "Mặt Trận Miền Tây".
Cao hơn không phải là do Bảo Ninh có tài hơn, mà là, chiến tranh, con
người, ở trong "Nỗi Buồn Chiến Tranh" khác với chiến tranh, con nguời
như
được miêu tả trong "Mặt
Trận Miền Tây."
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của
Greene, là phải viết "Người Mỹ Trầm Lặng". Những so sánh nhắc nhở tới
ông, là vì ai cũng muốn được như... ông.
Toan tính rõ rệt nhất, và,
thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn "Thời Gian Của Người" của
Nguyễn
Khải. Nó thất bại, là do muốn hay hơn cả "Người Mỹ Trầm Lặng", theo
nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả con người lẫn cuộc
chiến, và nhất là của con người, như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái
phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô như Greene,
[so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một tôn giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi
tôi”.
Nhân vật Quân [hoá thân của Ẩn,] trong
"Thời Gian Của Người" "thánh thiện
quá" [theo nghĩa "thép đã tôi thế đấy"], nhà văn như Nguyễn Khải, một
lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới
ánh sáng của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như Gide nói.
[Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương tồi].
Một cách nào đó, cuốn "Người Mỹ
Trầm Lặng" có một vị thế [position,status], của cuốn "Bóng Đêm Giữa Ban
Ngày" của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án của thế kỷ. (1)
Không giống như "Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh", đây là một cuốn tiểu
thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện viết, về tuổi
trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới
thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence,
in lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn] (2)
Nhưng
phải
là Ngụy cơ, thì mới thấy sự khác biệt giữa 1 Bảo Ninh, và 1, Trần Vũ,
giả như
anh chơi một cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến Mít.
Cái vị thế của Trần Vũ, sẽ
là của
1 số tác giả mà Ian Buruma đề cập tới và quan tâm, như trong lời giới
thiệu về
ông, trong cuốn "Ác Kịch". Tất cả những tác giả này, thì đều quan tâm,
dính [affected] tới phát xít, và những hậu quả khủng khiếp của nó, và
tất cả đều
nhìn vào vực thẳm và làm ra nghệ thuật từ điều họ nhìn thấy, all
“looked into
the abyss and made art of what they saw”.
Bảo Ninh không làm sao ở
được vào 1 vị thế như thế, để viết. Trước mắt anh chỉ có vinh quang,
làm gì có vực thẳm.
Chỉ 1 khi anh dám phán, tao tởm cuộc chiến đó, thì
may ra! NQT
Trong lời giới thiệu "Ác
Kịch", Ian Buruma viết:
The question
of how a civilized, highly educated people, like the Germans in
the 1930s, could follow a murderous demagogue into an abyss of
moral depravity will never let go of me. But I am well aware that those
Germans who followed Hitler were not unique. There are no eternal
good guys or bad guys. Nor do I do take the easy cynical view that
there is an evil Nazi in all of us, waiting to get out. I am convinced,
however, that many people, if given the opportunity to wield
absolute power over other human beings, will abuse it. Unlimited
authority, often cloaked in the moralism of a great cause, leads
invariably
to the torture chamber. A way to
deal with our fearful fascination with power and cruelty and death is
to act it out vicariously, in art. Hence the title of this book. This
is not to say that all great art or drama has to deal with these
sinister themes. But the art and drama that interest me most reveal
something of what lies beneath the varnish of what we call civilized
behavior. Which is one reason, I suppose, why I love the German art
of the 1920s. My favorite artists of that time, such as Max
Beckmann, George Grosz, or Ernst Ludwig Kirchner, witnessed the
barbarism of which man is capable with their own eyes, in the trenches
and
field hospitals of World War I and later in the streets of Berlin, a
capital made skittish by the horrors of war, poverty, crime, and moral
collapse. They looked into the abyss and made art of what they saw.
Theo GCC, giả
như Trần Vũ viết về cuộc chiến Mít, thì sẽ ở trong 1 tâm trạng như thế.
Chúng ta đã thấy bàng bạc
điều này, khi anh viết về Ác Quán Mãn Doanh, HPNT: Nhìn vào tên Đại Ác,
vào vực thẳm Mậu Thân, mà ra nghệ thuật!
Gấu
chưa hề thích, bất cứ một
cái gì từ Mr. TV [Không phải Mr. Tin Văn]. Anh ta cường điệu quá. Đây
là cú viết
đầu tiên của anh ta, không cường điệu, và quá bảnh.
Trường hợp TV làm Gấu nhớ đến
một xen trong Thạch Kiếm. Tay kiếm sĩ này bị kẻ
thù săn đuổi, được một em kỹ nữ chứa chấp. Thấy mặt mày kiếm sĩ căng
thẳng quá,
em kỹ nữ mới đi một đường truyền dậy bí kíp đánh đàn, và em nói, y
chang bí kíp đấu kiếm.
"Căng quá, thì giống thế này
này”, và em cầm kiếm đi một đường đứt hết dây đàn.
Đại khái vậy.
Một tay kiếm sư trong phim Scaramouche mà Gấu coi từ
hồi nhỏ cũng
phán, cầm kiếm như cầm.... chim.
Chặt quá, nó nghẹt thở, chết.
Lỏng quá, nó
bay mất.
Từ trước giờ TV cầm chim chặt
quá, chết mẹ mất chim. (1)
Bây giờ mới biết cầm!
NQT
(1) Cái tay cầm lỏng quá, theo Gấu, là me-xừ Đỗ KH.
Còn một tay nữa, cầm chim cũng chặt quá, mặt mày hầm hầm, như sắp O.K. Corral tới nơi, thấy ớn,
là PNH.
Đố bạn biết là ai?
NQT
Note: Bài viết của TV link broken, mất tiêu luôn. Sorry
V/v Đỗ KH: Quả đúng như Gấu viết, từ hổi nảo hồi nào. Tay này bi giờ hư
rồi. Uổng quá.
Uổng cả cái cú ông Trùm Tân Hình Thức trao tạp chí Thơ cho anh ta. NQT
Cioran có 1 câu, Gấu cực
mê, tôi mơ tưởng một thế giới, ở đó, người ta có thể chết chỉ vì một
cái dấu phẩy.
Về già, Gấu nhận ra, có sự
tham dự của... Quỉ, ở trong 1 câu văn, theo ý của Gide, khi đọc
Dos: Tác phẩm lớn có phần đóng góp của Quỉ.
Nhưng, nếu như thế, thì cũng có phần đóng góp của hy vọng ở trong, chỉ
1 câu văn.
Trên TV, Gấu đã từng nhắc tới câu văn của chính Gấu, viết khi ở nhà tù
Quốc Tế Bangkok, chỉ được nửa câu, chỉ đến khi được Cao Uỷ Tị Nạn đem
xe tới rước vô Trại, thì câu văn mới có cơ hội hoàn tất, với tất cả hy
vọng một cuộc đời mới của 1 gia đình - gia đình GCC - ở trong nó:
"Trong những đêm chập chờn
mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng
đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa
cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần
đời đó mới đáng kể." (1)
Người phụ nữ đó dậy từ 4
giờ sáng, chị mặc áo ấm, quàng
khăn, sỏ chân vào đôi giầy vải. Chị sách theo mình vài cái túi
chợ, một cái đèn pin dài, loại của những người đi cắm trại. Chị bắt đầu ra khỏi nhà, rẽ phải, lao xuống con dốc nhỏ. Hai hàng
cây hạt dẻ đang chờ chị. (2)
Câu văn trên, theo GCC, có mấy cái lỗi:
"sách": "xách" mới đúng
Những từ, Gấu cho in
nghiêng, có thể bỏ được. Hoặc dư, hoặc, không hợp với văn phong. Trong
văn mạch, như được tả, không thể “lao” được.
Càng viết nhẹ nhàng, thì càng ra cái vẻ “chờ” của hai hàng cây.
Làm sao viết chỉ 1 câu văn, là thế.
Nói chung, thì là, làm dáng quá, thành ra làm hư cả 1 đoạn, cả 1 bài
viết. NQT
Thơ Mít, thời này, trong
nước không nói, chỉ có hai thứ, tán gái, và ngồi cà phê nhớ bạn hiền!
Văn, rỗng tuếch. Nhạt thếch. Giả, dởm.
Chưa chắc đã nhớ, nhưng cứ ngồi bên ly cà phê, là nhớ bạn hiền, tếu
thế!
Với giọng văn như trên, chưa chắc hai hàng cây hạt dẻ đã nhớ thi sĩ của
GCC!
Mít cần, đúng thứ văn của
Patrick Modiano, thi học của sự tìm kiếm, nghệ thuật đào bới hồi ức, để
tìm lại linh hồn của hàng triệu con người bị Cái Ác Bắc Kít huỷ diệt.
Nghe thì kêu quá, nhưng đúng là như vậy.
Như 1 tiếng vọng, câu văn
trên gọi ra câu của… BHD, mở ra một trong Tứ Tấu Khúc:
Chỉ ở những
năm trung học, người ta mới cảm thấy mình là học sinh thực thụ: những
buổi học theo thời khóa biểu nhất định, và thời khắc biểu rõ ràng; buổi
sáng thức dậy sớm, có khi trước cả tiếng chuông đồng hồ báo thức, có
khi trước cả người đàn bà giúp việc vặt trong nhà; đánh răng, rửa mặt,
trở lên phòng thay quần áo, chải tóc, sắp xếp sách vở trên mặt bàn, lựa
những cuốn cần thiết cho buổi học, đến bên giường ngủ của Bé đắp lại
chiếc chăn cho ngay ngắn, rồi khép cửa buồng, xuống nhà, giả vờ như vội
vã nên quên ăn sáng, vì biết rằng lát nữa sẽ cùng người yêu bước vào
phía sâu trong một quán cà phê nhỏ bé trên đường từ nhà đến trường. Chàng sẽ gọi hai tô mì nhỏ và hai ly cà phê sữa, ly
ít cà phê dành cho tôi; cả hai ngồi yên lặng, chăm chú nghe những người
ngồi bàn bên cạnh – những người phu quét đường, những công nhân một tư
sở phía bên kia đường, một hai công tư chức... – trò chuyện. Những câu
chuyện của họ thật bình thường, giản dị cũng như những cử chỉ của họ,
khi châm điếu thuốc, khi đổ cà phê từ chiếc ly ra lòng đĩa; câu chuyện
cùng tiếng nói giống như những giọt cà phê đổ ra, vừa đủ, không dư,
không thiếu, khi chăm chú nghe, câu chuyện vừa bắt đầu, khi không muốn
chú ý đến nữa, câu chuyện chấm dứt; giống như những làn khói thuốc lởn
vởn chập chờn trước mắt, lúc hết tò mò, tất cả đột nhiên tan biến vào
không khí buổi sáng mát lạnh.
Khi đến nơi hò hẹn thường lệ, thấy chàng say mê nhìn một bà cụ già đang
lúi húi bầy hàng bên lề đường, dưới mái hiên căn nhà bên cạnh tiệm cà
phê bình dân. Những gói thuốc lá từ từ choán đầy khung kính, những gói
kẹo buộc thành túm treo lòng thòng trên sợi dây, một cây nhang dài cắm
bên thùng kính, buổi trưa đi học về thấy còn khoảng một nửa, một cái
mẹt trên lăn lóc vài trái ổi, cóc, mận... Chàng đang làm quen buổi sáng
sớm vừa bắt đầu cùng với tiếng chén đĩa trong quán cà phê vọng ra,
tiếng người nói lao xao, vài tiếng ho thúng thắng.... Chàng ngẩng đầu
lên nhìn tôi vẫn còn đứng bên này đường, và tôi biết chàng sẽ mỉm cười,
một phần nụ cười dành cho tôi, phần còn lại là của buổi sáng sớm. (a)
Nhân nhắc
tới văn thơ của phái nữ, bèn giới thiệu nữ thi sĩ số 1 của Mẽo, và cuốn
mới xb của bà.
Louise Glück
b. 1943
Louise Glück is considered by many to be one of America’s most talented
contemporary poets. The poet Robert Hass has called her “one of the
purest and most accomplished lyric poets now writing,” and her poetry
is noted for its technical precision, sensitivity, and insight into
loneliness, family relationships, divorce, and death. Frequently
described as “spare,” James K. Robinson in Contemporary Women Poets also noted
that “Glück’s poetry is intimate, familial, and what Edwin Muir has
called the fable, the archetypal.” Rosanna Warren has described Glück’s
“classicizing gestures”—her frequent reworking of Greek and Roman myths
such as Persephone and Demeter, for example—as necessary to her lyric
project. According to Warren, Glück’s “power [is] to distance the lyric
‘I’ as subject and object of attention” and to “impose a discipline of
detachment upon urgently subjective material.” Glück’s early books
feature personae grappling with the aftermaths of failed love affairs,
disastrous family encounters, and existential despair, and her later
work continues to explore the agony of the self. In the New York Times,
critic William Logan described her work as “the logical outcome of a
certain strain of confessional verse—starved of adjectives, thinned to
a nervous set of verbs, intense almost past bearing, her poems have
been dark, damaged and difficult to avert your gaze from.” (b)
Ui chao bèn nhớ liền Vàng Anh, cũng 1... Sagan của... VC, như bạn
quí của Gấu, HPA, đã từng thổi!
Nhìn cái bình tro cốt thân phụ, một đại công thần của Vương Quốc Quỉ Đỏ
VC, em than, chỉ có thế này thôi ư!
Điều đáng
nói là nhân vật của Vàng Anh, khi tỉnh táo cũng như lúc điên rồ, họ
không hề
đánh mất sự thuần khiết, ngay trong tuyệt vọng bế tắc. Họ thường là nạn
nhân
trong những cuộc chơi liều lĩnh, táo bạo, mặc dù họ vẫn sáng suốt. Có
lẽ họ nhẫn
tâm với chính họ hơn là với cuộc sống. Họ làm những trang văn của Vàng
Anh trở
nên thơ và xúc động hơn trong cái không khí âm u, xám xịt của chúng. Họ
đáng
yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi
đọc
Vàng Anh bởi sự buồn chán, sự nổi loạn không đẩy họ tới những buông
thả, phá
phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi
trẻ nào
khác, ở một nơi nào khác. (1)
Phan Thị Vàng Anh, theo
tôi, cũng nằm trong hiện tượng
"không giờ" của văn chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong
những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương
chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về
nỗi cơ cực
của những con người quanh "cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về phận
người, theo kiểu "Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan. Khi "Buồn
ơi…" xuất hiện tại Pháp, người ta chào đón nó như một loài chim quí.
Với
Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp
đẽ về một
chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương cũng đã nhận ra điều này
với bao
nhiêu tác phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng
cho họ,
một người tình. Nhưng xã hội
Tây Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những năm kinh tế khá ổn
định, và
giới tính đang được mùa. Có còn hơn
không. Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người ta biết,
cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái độ đạo đức-phi đạo đức
như vậy.
Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức,
một cách
nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả
trong nước
có một cô bé õng ẹo, giữa một đám đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha
chú của
cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều
này,
nhưng ông nói, với một sự châm chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ
họ
nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống".
[Vàng Anh là
con gái nhà thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô
là do bố
sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết, trong một truyện ngắn
viết về
người bố, sau khi mất được hỏa thiêu, nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại"
của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi
chế độ, hỏi
đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi à""] (2)
Aimez-vous....
Vàng Anh?
Mai Thảo đã
từng dịch Sagan, “Aimez-vous Brahms?” [Paris, Julliard, 1959]
Thú, là văn
Sagan có gì giống… MT, nếu đọc cái tít
bài viết trong số báo ML về em, “Sagan, ou le non-style”: Thật khó mà
định nghĩa
cách viết của tác giả, thứ văn của quyến rũ, mê hoặc, sa langue a du
charme:
Mai Thảo chẳng thế ư? Mấy em chẳng quá mê MT ư?
After the grim work of the
Second World War and the hard work of
the post-war reconstruction, Bonjour Tristesse burst onto the
French
literary scene like a carnival. It announced what seemed like a new
species,
youth, la jeunesse, who had but one message: have fun with us
or be
gone; stay up all night at a jazz club or never come out with us again;
don't
talk to us about marriage and other boring conventions; let's smoke and
be idle
instead; forget the future who's the new lover? As for the tristesse
of
the title, it was an excuse for a really good pout.
YANN MARTEL
Sau một ‘cần lao’ khốc liệt
thời Đệ Nhị Chiến và một ‘cần lao’ cật
lực tái xây dựng thời hậu chiến, Buồn Ơi Chào Mi nổ ra như một
trái bom
trên nền trời văn học Pháp và cùng với nó, là một ngày hội. Nó thông
báo sự ra
đời của một chủng loại mới, tuổi trẻ, la zơn nét, la jeunesse,
thứ sinh
vật mới mẻ này có một thông điệp, và chỉ một mà thôi: hãy vui chơi với
tụi tớ,
nếu không, biến đi cho được việc; nhẩy nhót suốt đêm tại một vũ trường
jazz,
nếu không, đừng bao giờ rủ tụi này đi chơi; đừng nói với tụi này về hôn
nhân,
về ba lẩm cẩm khác, hãy hít đến mụ cả người ra, hãy vờ tương lai – ai
là thằng
bồ mới của mi?
Và cái từ buồn ở trong cái tít quả đúng là một cái trề môi,
'thôi bỏ đi
tám'!
Ui chao, đám jơn nét VC
ở trong nước, con cháu của những
đại gia Bắc Bộ Phủ, hay HNV[Hội Nhà Văn], hay HNT [Hội Nhà Thổ], quả đã
xử sự đúng như vậy, nhưng
ở trong
tim trong gan trong hồn trong não của chúng, có một nỗi buồn,
đúng hơn,
một 'ô nhục': thắng trận!
Một
ông sĩ quan VNCH như một
THT, làm sao có được nỗi ô nhục ‘bảnh’ như thế?
Một thằng, thì đánh đến ngàn năm cũng đánh, chết hàng triệu triệu cũng
đếch cần,
còn 1 thằng thì cứ mỗi lần cầm đến cây viết là vãi nước đái ra, ai
thắng, ai bại?
Nỗi ô nhục càng ngày càng lộ ra, chúng đem cả vợ con ra cầm cho Tẫu, để
thắng
cho bằng được trận này!
June 25,2007
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
From London, England, I'm sending you an English translation of a
French novel.
In this novel people smoke, people get slapped in the face, people
drink
heavily and then drive home, people have nothing but the blackest
coffee for
breakfast, and always people are concerned with love. Very French d’une
certaine epoque. Bonjour Tristesse came out in France in 1954. Its
author, Francoise
Sagan, was nineteen years old. Immediately she became a celebrity and
her book
a bestseller.
More than that: they both became symbols. Bonjour Tristesse is narrated in the first person by
seventeen year-old
Cecile. She describes her father, Raymond, as "a frivolous man, clever
at
business, always curious, quickly bored, and attractive to women." The
business cleverness is never mentioned again, but clearly it has
allowed
Raymond to enjoy freely his other attributes, his frivolity, curiosity,
boredom
and attraction, all of which revolve around dalliances of the heart and
loins.
He and his beloved daughter share the same temperament and they are in
the
south of France for the summer holidays with Elsa, his latest young
mistress.
This triangle suites Cecile perfectly and she is assiduous at pursuing
her idle
seaside pleasures, which come to include Cyril, a handsome young man
who is
keen on her.
But all is ruined when her father invites Anne to stay with them. She's
an old
friend of the family, a handsome woman her father's age, made of
sterner, more
sober stuff. She starts to meddle in Cecile's life. Worse, a few weeks
after
arriving, fun Elsa is dumped when Raymond starts a relationship with
Anne. And
finally, not long after, Anne announces that she and her father are
planning to
get married. Cecile is aghast. Her serial frolicker of a father and
Anne,
husband and wife? She, Cecile, a stepdaughter to Anne, who will work
hard to
transform her into a serious and studious young person? Quel
cauchemar!
Cecile sets to work to thwart things, using Elsa and Cyril as her
pawns. The
results are tragic.
After the grim work of the Second World War and the hard work of the
post-war
reconstruction, Bonjour Tristesse burst onto the French
literary scene
like a carnival. It announced what seemed like a new species, youth, la
jeunesse, who had but one message: have fun with us or be gone;
stay up all
night at a jazz club or never come out with us again; don't talk to us
about
marriage and other boring conventions; let's smoke and be idle instead;
forget
the future who's the new lover? As for the tristesse of the
title, it
was an excuse for a really good pout.
Such a brash, proudly indolent attitude, coming with an open contempt
for
conventional values, landed like a bomb among the bourgeoisie.
Francoise Sagan
earned herself a papal denunciation, which she must have relished.
A book can do that, capture a time and a spirit, be the expression of a
broad
yearning running through society. Read the book and you will
understand
Zeitgeist. Sometimes the book will be one a group strongly identifies
with -
for example, On the Road, by Jack Kerouac, among American youth
- or,
conversely strongly identifies against - Salman Rushdie's The
Satanic Verses among some Muslims.
So that too is what a book can be, a thermometer revealing a fever.
Yours truly,
Yann Martel
FRANCOISE SAGAN
(1935-2004),born Francoise Quoirez, was a
novelist, playwright and screenwriter. Sagan's novels centre around
disillusioned bourgeois characters (often teenagers) and primarily
romantic
themes; her work has been compared to that of J.D. Salinger. The writer
Francois Mauriac described her as "a charming little monster." Her
oeuvre includes dozens of works for print and performance. She suffered
a car
accident in 1957, an experience that left her addicted to painkillers
and other
drugs for much of her life.
Em còn nhớ
hay Em đã quên?
Chúng ta là cái mà chúng ta nhớ, và ngay cả phịa ra nó, chúng ta viết,
cái
chúng ta nhớ.
Số này có bài Cám ơn Em có Anh, Thank U
for having Me, đọc loáng thoáng bắt mắt, bèn vơ về, như là Quà SN,
từ Em
Hà, hà!
NÊN
GHI XUẤT XỨ
Tôi
mới thấy trên trang của bạn
Minh Ý Nguyễn câu
status thế này: "Không ai muốn chiến tranh, nhưng nếu phải chọn lựa
giữa
chiến tranh và nô lệ thì chỉ có những kẻ khốn nạn nhất mới chọn nô lệ."
Thấy
quen quen, tôi tìm lại trong các bài mình đã post, mới phát hiện đó là
câu văn
của mình. Mong, lần sau, bạn Minh Ý nên ghi xuất xứ cho đàng hoàng.
Nguyễn Hưng
Quốc.
FB
Thầy Kuốc
Note:
Theo GCC, đừng ghi xuất xứ, nếu sự thực… thuổng,
từ ai đó. Nhưng nhớ viết, nhớ ai
viết đâu đó, cho chắc ăn!
Đúng như câu
ở bìa sau tờ Granta, trên: Mọi dòng
là 1 mẩu của một điều gì đó, của ai đó, ở đâu đó, every line is a
fragment of
something else.
Như
mấy trường hợp dưới đây.
Hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn, Gấu lôi từ ký ức ra, [hình như] chưa
từng đăng
báo, được 1 ông đại thi sĩ trích dẫn trong 1 bài viết, và ghi, nhớ đọc
đâu đó,
hình như trên Thời Tập của
VL, trước 1975:
Khuya
nức nở những cõi lòng không ngủ Đợi vì sao dậy sớm
tiễn người đi.
CON
ĐƯỜNG
DÀI VÀ ĐẪM
MÁU NHẤT
Chếđộ
cộng
sản
tại
Việt
Nam hiện
nay là
một
chếđộ
phong kiến
nhưng
không
cóáo
mão.
Vậy
thôi.
Nếu
ở
Tây
phương,
sau khi chủ
nghĩa
cộng
sản
cáo
chung ởĐông
Âu,
người
ta nhận
định:
“Chủ
nghĩa
cộng
sản
là
con đường
dài
nhất
vàđẫm
máu
nhất
từ
chủ
nghĩa
tư
bản
đến
chủ
nghĩa
tư
bản”
thìở
Việt
Nam, nơi
người
ta, nhân
danh cách
mạng,
kết
liễu
một
triều
đại
có
thật
nhiều
lăng
để
xây
dựng
một
triều
đại
mới
trên
nền
tảng
một
cái
lăng
thật
đồ
sộ
và
thật
uy nghi, như
một
thánh
đường,
ngay giữa
trung tâm
thủđô,
chúng
ta cũng
có
thể
nói:
Chủ
nghĩa
cộng
sản
là con đường
dài
nhất
vàđẫm
máu
nhất
từ
chếđộ
phong kiến
đến…
chếđộ
phong kiến.
Câu nói trên, cái gì gì “đẫm
máu nhất”… là của Todorov, Tin Văn
trích dẫn trong bài viết về ông, cũng lâu rồi, trên mục tạp ghi do Gấu
phụ
trách, của tờ Văn Học của Nguyễn Mộng Giác:
Cùng với sự sụp đổ của chủ
nghĩa CS, đây là lúc "thanh toán
quá khứ". Khi mà người ta còn thấy trước mặt, một sức mạnh không
làm
sao tránh né, khi đó, sự đau khổ vẫn còn có ý nghĩa. Ngày mà chúng ta
chấp nhận
ý nghĩ bi thảm, khi tuyên bố, chủ nghĩa CS là con đường nhức nhối
(tortueuse)
dẫn từ "chủ nghĩa tư bản" đến "chủ nghĩa tư bản", khi
đó, những người dân tại những nước cựu-toàn trị chẳng thể nào nhìn ra,
ý nghĩa
cuộc đời này (Todorov, p.69, sđd).
QUÊ HƯƠNG
Nhớ, có ai đó nói câu này
rất hay: Một mảnh đất
chỉ trở thành quê hương khi có hài cốt của ít nhất một hai thế hệ chôn
cất ở
đó. Quê hương, như vậy, không phải chỉ là đất đai mà còn là máu thịt
của cha
ông và của đồng bào. Tính chất thiêng liêng của lãnh thổ nằm ở phần máu
thịt ấy.
Đó chính là lý do tại sao người ta, một mặt, không dễ dàng chấp nhận
một quốc
gia mới nào đó mình đang định cư là quê hương; mặt khác, có thể sẵn
sàng đổ máu
để bảo vệ một mảnh đất xa lơ xa lắc do cha ông để lại.
FB Thầy Kuốc
Note: Ý đó của
Garcia Marquez, Thầy vừa mới đi 1 đường tưởng niệm. Vỗ ngực xưng tên
nhà tiến
sĩ phê bình, mà “có ai nói" hoài.
Tuy nhiên, có thể Thầy vờ GM, vì GCC
là người
khui ra hình ảnh thần sầu đó (1)
Tàn Ngày tuyệt
bản, được tái bản, Rushdie đi 1 đường chào mừng, trên tờ báo ngày Globe
and
Mail, trích từ lời giới thiệu của R. nhân cuốn sách tái xuất
hiện trên
chốn
giang hồ, một tác phẩm cổ điển
Cuốn này GCC
đã từng giới thiệu, ngay từ ngày mới ra hải ngoại, trên 1 đài TV của
Toronto,
trong 1 chương trình chừng 15 phút của Mít.
Tếu thế.
Nói chuyện
cam chịu lịch sử, và nổi tiếng nhờ nó, bảnh nhất, theo Gấu, là nhà văn
Anh gốc
Nhật, viết văn bằng tiếng Anh 'hách hơn Ăng lê', Kazuo Ishiguro, tác
giả “Tàn
Ngày”, được Booker Prize. Ông thuộc trào lưu những nhà văn trẻ bảnh của
Anh, gồm
Martin Amis, Salman Rushdie… Trên số báo Le Magazine Littéraire, April
2006, đặc biệt về 'em' Duras, cô đầm ở xứ An Nam Mít, có bài phỏng vần
ông, do
Trần Minh Huy thực hiện, ‘K.I., thời của hoài nhớ’, ‘K.I, chúng ta là
những đứa
trẻ mồ côi’...
Khi được hỏi,
sự thiếu vắng nổi loạn thật là rõ ràng trong tất cả các tác phẩm của
ông, K.I.
trả lời: "Đúng như thế, nhữngnhân
vật như Stevens trong Tàn Ngày, họ chấp nhận những gì đời đem đến cho
họ, và, bằng
mọi cách, đóng trọn vai trò cam chịu lịch sử, thay vì nổi loạn, bỏ
chạy… và cố
tìm trong đó, cái gọi là nhân phẩm, chẳng bao giờ tra hỏi chế độ."
Cái gọi là
nhân phẩm, bật ra từ Tàn Ngày, và là
chủ đề của cuốn tiểu thuyết đưa ông đài danh vọng, và đã được quay
thành phim…
"Tôi [K.I. muốn chứng minh sự can đảm của Stevens, nhân phẩm của anh
ta,
khi đối mặt với cái điều, là, người ta đã làm hỏng đời của anh ta”.
Rushdie đọc Tàn Ngày, khác, cái sự thất bại lớn lao
nhất của Stevens, là hậu quả của niềm tin sâu thẳm của ông ta - rằng
chủ của
ông, sư phụ của ông, his master, làm việc cho điều tốt của nhân loại.
Đọc, “lệch
pha” đi, thì nó ra cái thất bại lớn lao nhất của xứ Mít:
Chúng cứ nghĩ đất nước,
độc lập thống nhất, qui về 1 mối, là số 1, là tốt nhất cho… Mít!
Đếch phải như
thế!
Cả hai số
báo mới này, thì đều có bài về Pamuk, nhân Tẩy cho xb bản tiếng Tẩy,
cuốn tiểu
thuyết đầu tay của nhà văn Thổ này!
Bài phỏng vấn
trên tờ Lire, tuyệt. Thí dụ như câu
này, của Pamuk:
Cái sự lên
hương của tiểu thuyết thì trùng hợp với sự nở rộ của những quốc gia, và
tinh thần
hậu thuộc địa. Và theo tôi [Pamuk], đây không phải là một ngẫu nhiên.
Hay câu này:
Những cuốn tiểu thuyết tốt phải làm lộ ra cho thế giới thấy điều được
ẩn giấu
dưới cái nhìn thông thường
Les bons
romans doivent révéler au monde ce qui est dissimulé au regard ordinaire
Câu sau,
theo Gấu, đúng ra, là của 1 nhà phê bình, hoặc điểm sách.
Allan Massie viết về ông:
[If Wilson and Swift may be
considered
quintessentially English], then Kazuo Ishiguro [and Timothy Mo] offer
evidence of how the English-language novel is now enriched from a
diversity of cultures. The former is of Japanese extraction, the latter
of Chinese, though both were educated in England. Ishiguro's three
novels - A
Pale View of Hills (1982), An Artist of the Floating World (1986) and
The Remains of the Day (1989) - have all been distinguished by an
exquisite precision; he is a writer who works scrupulously within
self-imposed limits, achieving his effects by understatement and the
adroit deployment of his material. Each of his novels has an
unmistakable identity; yet he displays his virtuosity in his use
of a different narrative voice in each.
The Remains of the Day, for
instance, is narrated by an elderly English butler. In his portrayal of
this character, so different from himself, Ishiguro shows himself a
pure novelist. The central
question which occupies Mr Stevens, the narrator, is `what makes a
great butler?'. This may seem an extraordinary question for a young
novelist to pose at the end of the twentieth century; yet Ishiguro uses
it in order to be able to ask the far more important question of how a
man's life is justified.
Graceful, humorous, subtle and enquiring, Ishiguro is a writer who
impresses by his willingness to submerge his own personality and by his
fidelity to his material. Each of his novels is thoroughly and
perfectly composed; the proportions are always seemly. They acquire a
strength and authority from Ishiguro's acceptance of physical realities
and from the exactness of his perceptions.
(1)
Each
of his novel has an unmistakle identity: Mỗi một cuốn tiểu thuyết
của ông là một căn cước không thể nào lầm với ai được.
*
`What makes a great butler?: "Cái gì làm một ông quản gia, lớn"? Từ một
bận tâm như vậy, mà đưa đến, làm thế nào chứng nghiệm đời người, thì
quả là khác thường, extraordinary, thật.
*
Rusdhie
viết
về “Tàn Ngày”: Câu chuyện thực ở đây là về một thằng đàn ông bị huỷ
diệt vì những
ý nghĩ, lý tưởng cái con mẹ gì của hắn, trên đó, hắn xây dựng cuộc đời
của mình.
Nhận xét này áp dụng vô bất cứ 1 tên bộ đội Bắc Kít, vượt Trường Sơn đi
cứu nước.
Có lần, đã lâu, tôi giải
thích lý do viết lách
của mình: Vì ngứa. Ngứa ngáy ngoài da thì gãi, ngứa ngáy trong tâm hồn
thì viết.
Trước, tôi chỉ bị ngứa ngáy vì văn chương; sau, thêm những cơn ngứa về
chính trị.
Với những cơn ngứa văn chương, sau khi hoàn tất bài viết hay cuốn sách
vừa ý,
tôi thấy rất “đã”. Nhưng với những cơn ngứa chính trị thì khác: cái hay
cái dở
không thuộc phạm trù văn chương nữa. Một bài viết về chính trị dù hay
đến mấy
nhưng không tác động được lên người đọc, không dẫn đến một hiệu quả cụ
thể nào
thì cũng vô ích. Nhưng đo lường được cái gọi là hiệu quả hay tác động
ấy không
phải dễ. Nó mông lung. Nó mơ hồ. Nó cần thời gian, đôi khi, dài đằng
đẵng. Để hạt
giống thành cây. Biết vậy, nhưng, thú thực, nhiều lúc tự dưng tôi thấy
mỏi mệt
và chán nản lạ lùng. Thấy trong việc post bài mới có cái gì như nặng
nề. — with
Tuan Nguyen.
FB Thầy Kuốc
Sở dĩ Thầy
Kuốcthù Gấu, vì chính Gấu là thủ phạm
cái vụ “ngứa” này, khi dám vuốt râu hùm, trong bài viết về Nguyễn Du,
đăng trên Văn của bạn quí
NXH:
Lại có ông,
cứ mong được người đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ
than: đây là
nghiệp của tôi. Ông khác thì nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu
được.
Ôi ngứa thì gãi, nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết
nghiệp. Đừng
để ba trăm năm sau, thiên hạ khóc cho cả… đất nước mình! (1)
Tuy nhiên,
giả như đúng, vì ngứa nên viết, thì cũng đếch được, theo Fowles:
Viết, nếu bạn phải, bởi vì bạn
cảm thấy thích viết; chớ khi nào,
bởi vì bạn cảm thấy phải viết [never because you feel you ought to
write].
Đừng bao giờ viết vì bị bản năng nóng, hot instinct, cắn vào đít, vào
tay, vào
chỗ ấy..., gây ngứa, bắt phải viết. Bạn chỉ có thể viết do kinh nghiệm
lạnh, by
cold experience. Đó là lý do nhiều tiểu thuyết gia phải đợi qua bốn bó,
[after
the age of forty], mới gãi bật ra được tất cả những tác phẩm bảnh của
họ [do
all their best work] (2)
Nhớ chưa, đừng viết vì ngứa.
Bởi vì, có khi ngứa là do di chứng của giang mai, cũng nên!
Hà, hà!
Nhân nhắc tới
Thầy Kuốc, bèn đi thêm 1 đường, về bạn quí đồng chủ tịch cái trang Hạ
Vệ của ông.
“Tuyệt” trong tiếng Việt,
vừa có
nghĩa “số dách”, như trong “tuyệt vời”, vừa có nghĩa “hết”, như trong
“tuyệt tự”,
thí dụ.
Thành ra dùng "bất tuyệt", sợ... hỏng cẳng: Bị chữ cắn lại kẻ dùng chữ!
Đấng HNT,
Trùm Cớm văn học hải ngoại, cũng đã từng trúng đòn “chữ cắn lại chủ”,
khi ca ngợi
LCD, đã “vấp ngã” [fail] trước VC!
Khi mở diễn đàn, hai đấng này muốn nó phải là số 1, cực mới, nên “tiền
phong,
khai phóng, mở đường....” đều có người dùng rồi, đếch được.
Thế là chọn ngay tên
1 thằng đá banh, cho chắc ăn, đếch còn đụng hàng nữa! Trong
cái tít của Trùm Cớm, dùng từ “bất diệt”, ‘được, được’, thuổng cách nói
của MT- nhưng có lẽ nên dùng từ “bất hủ”,
khiêm
nhường hơn!
Nhưng "bất tuyệt" thì... khủng quá!
GCC đã nói rồi, cả hai diễn đàn "cột chèo” gì đó, của văn học
Mít hải
ngoại, đều đếch rành tiếng Mít!
Hình chụp
trong cuộc biểu diễn lực lượng của Hồi Giáo ở Luân Đôn,
Pictures
from London:
These
pictures are of Muslims marching through the STREETS OF LONDON during
their
recent 'Religion of Peace' Demonstration.
Tờ Globe and
Mail, Toronto, đã coi năm 1914 mở ra cuộc Thế Chiến, có gì tương tự với
2014
Is 2014,
like 1014, a prelude to world war?
Liệu 2014, như 1914, con
chim "báo bão"?
Thằng bé,
the boy, làm thịt Archduke và mở cánh cửa cuộc chiến toàn cầu [The
Globe and
Mail]
Mít, khùng,
như GCC, làm sao mà không nghĩ đến cú Văn Cao làm thịt tên “Việt Gian”
DDP, mở
ra cuộc chiến Mít lần thứ nhất?
Một lần trốn vé xe, tôi cùng
một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại
với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi
có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một
tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu
tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm.
Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc
đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không
hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát
nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười
ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm
ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát
vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn
tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng
không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó
đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ
hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng
bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên
đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh
thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc
mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ
nó nhận ra tôi. (1)
Children have never been
very good at listening to their elders, but they have never failed to
imitate them.
-James Baldwin, 1960
Con nít chẳng hề lắng nghe
người lớn, nhưng chẳng hề thất bại, trong cái việc bắt chước người lớn.
There comes
a time in every rightly constructed boy-life
when he has a raging desire to go somewhere
and dig for hidden treasure.
-Mark Twain,
1876
c. 1550:
Shanyin
SWEET AND
COLD
A man who
lives by the sea tells of a young boy who, preparing to
eat some candy, tied the string of his kite around his
waist. Suddenly, a great wind started to blow, sweeping the
kite off toward the sea. The boy fell to his death. When
his body was recovered, the candy was found still
clutched in his hand.
(The kite
speaks:)
When the
wind is gentle
and I want
to rise
I cannot
rise.
When the
wind is strong
and I want
to land
I cannot
land.
Can I cross
the ocean?-Depend on me
to make it
by myself;
What a shame
that I have carried a boy-
as he ate
some candy-
to his
death.
Ngọt và Lạnh
Một
người đàn ông sống kế bên biển, nói với thằng con trai, khi nó tính ăn
1 cái
kẹo. hãy cột dây diều vào cổ tay. Bất thình lình một trận gió lớn nổi
lên, cuốn
thằng nhỏ cùng con diều xuống biển. Khi kiếm thấy xác, thì cái kẹo,
ngọt và
lạnh, vẫn dính ở tay thằng bé.
[Con
diều bèn phán]:
Khi
gió nhẹ
Tớ muốn bay lên
Tớ
không làm sao bay lên được
Khi
gió lớn
Tớ
muốn hạ cánh
Tớ không làm sao hạ cánh
Làm
sao băng qua biển - Tuỳ theo tớ
tự
làm điều này;
Xấu
hổ làm sao,
Tớ còn đèo thêm 1 đứa bé
Ăn
cái kẹo
Và chết vì tớ.
Xu Wei, 'A
Kite." After failing the civil-service examination on eight
occasions, Xu became the personal secretary to a military commander in
1558 and assisted in defending his hometown from the
attacks of Japanese pirates. After his patron's downfall and death,
he was faced with serious professional difficulties - and, either
insane or faking it effectively, attempted suicide by pushing an
awl through his ear and pounding his testicles with a hammer.
Later, he killed his third wife and went to prison but won release
after seven years.
Bài thơ trên
làm Gấu nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn, đọc khi ở Trại Tị Nạn, trong 1
cuốn sách
tiếng Anh, 1 thứ sách dùng để dạy tiếng Anh cho những người mới tới
được đất tạm
dung thân, học, trong khi chờ được 1 đất nước thứ ba cho tái định cư.
Với những
người đi trễ quá, như Gấu, thì phải trải qua thanh lọc, do chính quyền
của đất
nước cho tạm trú quyết định coi có đáng là tị nạn chính trị, nếu không
phải, mà
chỉ là tị nạn kinh tế, thì trả lại VC.
Cuốn sách này, lấy câu thơ của
thi sĩ Mẽo
làm tít, chắc là cũng để nhắn nhủ, đừng quên những lời hứa, Promises to
keep.
GCC hình như cũng đã kể ra rồi, bèn lập lại, đại khái như sau.
Một cái trứng
chim ở trên tổ, bị gió thổi rớt xuống đất, may sao không bể, được 1 vợ
chồng vịt
nuôi, sau khi bà vợ vịt ấp. Chú vịt gốc chim, cứ nghĩ mình là vịt, nên
không thể
bay được, như những con chim khác. Còn ông bố vịt thì không làm sao
hiểu nổi,
muốn cho nó biết bay, thì phải đạp cho nó 1 phát, ra khỏi tổ!
Đây là câu
chuyện ngụ ngôn về nước Mít bi giờ, và lũ Mít, con cháu của thành quả,
của hai
cuộc chiến vĩ đại, đánh thắng hai thằng đế quốc vĩ đại, là Trùm thực
dân cũ và
mới.
Cái tay NG của
đài Bi Bì Xèo, hình như cũng đã từng viết về đàn vịt này, ở sân nuôi gà
vịt Hà
Lội!
Người ta thường
ví xứ Mít bây giờ là cả 1 nhà tù, tù trong tù...
Gấu nghĩ hơi
bị khác: Cả 1 sân nuôi gà vịt, kế bên 1 trại tù!
Mấy câu chuyện
ngụ ngôn, promises to keep, mở ra cuốn sách tiếng Anh, quái làm sao,
hình như đều
là để nhắn nhủ, lũ Mít - trong có GCC tất nhiên, nhưng phải nhấn mạnh,
“nhất là
Gấu Cà Chớn”, hà, hà!
Thí dụ, chuyện
này: Một anh chàng, nghèo quá, khổ quá, thèm ăn 1 trái chuối, rồi bất
thình lình,
có 1 lần, được ăn, và cảm thấy ngon quá. Và nhớ hoài.
Thế rồi sau đó,
số phận run rủi, trở thành giầu có, tha hồ ăn chuối, nhưng không làm
sao cảm thấy
ngon như lần đầu được ăn.
Thế là suốt
một đời, sống, là để đi tìm lại cái trái chuối đầu đời của thằng chả!
Ngay cả cuộc
tình của thằng chả với em BHD cũng vương vất mùi trái chuối đầu đời,
được ăn ở
cái xứ Bắc Kít khốn khổ khốn nạn đó, hà, hà!
Em cũng… Bắc Kít, như GCC!
Mi đâu có thương
yêu gì ta, mi thương 1 đứa con nít….. là theo nghĩa đó!
Chuyện này nữa:
Một anh chàng,
sáng sớm, mò lên cái suối, ở Bản Giốc cái con mẹ gì đó, nơi cả làng
thường lấy nước về uống, và thấy hai
thằng Tầu Khựa, đang tính lén đổ thuốc độc xuống đó.
Chúng nói nhau, cho lũ Mít
này thành điên khùng hết, ai bảo chúng quên ơn Thiên Triều.
Anh chàng nọ
hoảng quá, bèn chạy về làng báo động, sau khi khuân mấy hũ nước chưa
dính thuốc
độc về để dành.
Dân làng buồn
cười quá, nói, mi có khùng không đấy, chúng ông vưỡn uống mà, có sao
đâu.
Anh chàng nọ,
sau khi khuyên rã họng, dân làng vưỡn trơ ra, bèn đổ bỏ mấy hũ nước
chưa trúng độc,
và uống nước suối, như mọi người khác.
Anh lý luận,
nếu mình ta không trúng độc Tẫu Khựa, thì sống để làm gì, làm sao sống,
khi không
còn bạn Mít quí nào nữa!
The poet's
trade, the writer's trade, is a strange one. Chesterton said: "Only one
thing is needful-everything." To a writer this everything is more than
an
encompassing word; it is literal. It stands for the chief, for the
essential,
human experiences. For example, a writer needs loneliness, and he gets
his
share of it. He needs love, and he gets shared and also unshared love.
He needs
friendship. In fact, he needs the universe. To be a writer is, in a
sense, to
be a day-dreamer-to be living a kind of double life.
I published
my first book, Fervor de Buenos Aires, way back in 1923. This book was
not in
praise of Buenos Aires; rather, I tried to express the way I felt about
my
city. I know that I then stood in need of many things, for though at
home I
literary atmosphere-my father was a man of letter was not enough. I
needed
something more, which I found in friendships and in literary
conversation.
What a great
university should give a young writer is precisely that: conversation,
discussion, the art of agreeing, and, is perhaps most important, the
art of
disagreeing. Out of all this, the moment may come when the young writer
feels
he can make his emotions into poetry. He should begin, of course, by
imitating
the writers he likes. This is the way the writer becomes him through
losing
himself-that strange way of double living, of living in reality as much
as one
can and at the same time of living in that other reality, the one he
has to
create, the reality of his dreams.
This is the
essential aim of the writing program at Columbia University's School of
the
Arts. I am speaking in behalf of the many young men and women at
Columbia who
are striving to be writers, who have not yet discovered the sound of
their own
voices. I have recently spent two weeks here, lecturing before eager
student
writers. I can see what these workshops mean to them; I call see how
important
they are for the advancement of literature. In my own land, no such
opportunities are given young people.
Let us think
of the still nameless poets, still nameless writers, who should be
brought
together and kept together. I am sure it is our duty to help these
future
benefactors to attain that final discovery of themselves which makes
for great
literature. Literature is not a mere juggling of words; what matters is
what is
left unsaid, or what may be read between the lines. Were it not for
this deep
inner feeling, literature would be no more than a game, and we all know
that it
can be much more than that.
We all have
the pleasures of the reader, but the writer has also the pleasure and
the task
of writing. This is not only a strange but a rewarding experience. We
owe all
young writers the opportunity of getting together, of agreeing or
disagreeing,
and finally of achieving the craft of writing.
Note: “Nói
chuyện thơ”, “On poetry”. Bản tiếng Anh này là ấn bản mới,
GCC mua,
về mới biết là có rồi, từ hồi mới ra hải ngoại, khi ở Vancouver, mua ở
tiệm sách
cũ. Trong có nhắc tới cuốn Kinh Dịch, và mấy quẻ trong đó.
Gấu dịch
mấy quẻ theo nghĩa đen, tính tìm 1 bản KD nào đó, tiếng Việt, để coi là
những
quẻ gì, và chúng có ý nghĩa như thế nào, có liên quan tới thơ không,
rồi lu bu
quên luôn!
Sau được một ông Trùm hải
ngoại, Hoặc Ngữ, tức HNT, lôi ra “rũa”, dưới đây.
Cuốn trên có
ba bài, về giả tưởng, thơ, và dịch. Đọc ở cuối bài Nói Chuyện Thơ, bản dịch của GCC,
thấy ghi, có bỏ đi 1 ít, không dịch.
Bất giác lại nhớ đến SN
năm nào, K post cái bài dịch Brodsky, và đề
nghị dịch những đoạn phóng tác.
SN sắp tới, lại trúng cú này. Đành phải coi lại
và dịch lại toàn bài. Coi như quà SN của Gấu tặng Gấu!
GCC đang đọc
lai rai cuốn “Trong Ngoặc” của Bolano. Những bài thật ngắn, nhiều bài
thật thú,
thí dụ cái bài “Borges và Quạ”, dưới đây. Hay là bài Bolano giới thiệu
1
đấng bạn
quí của ông - vì cái tên tay này, mà Gấu tò mò: Roberto Brodsky, chuyên
trị truyện
kinh dị. Tay này kể, 1 lần đi câu ở 1 bãi biển vắng, và không hiểu làm
sao, tay
của anh dính chặt vào 1 mỏm đá, không làm gỡ ra được, và thuỷ triều thì
cứ từ từ
dâng lên. Bolano buồn cười quá, nghĩ thầm, làm đếch gì có chuyện quái
dị như vậy,
nhưng càng nghe bạn kể, thì càng nghĩ là thực, và bạn mình đúng là… ma!
Tuyệt!
Hà, hà!
Sau bài viết
Đáp lời Hoặc Ngữ , trên Tin Văn, và trên VHNT, tôi có nhận được email
từ tác giả
Hoặc Ngữ, qua diễn đàn Talawas, như sau:
Anh NQT
thân:
Cảm ơn bức
email của anh, và bài viết ngắn trên VHNT.
Tôi kèm theo
đây một vài điểm góp ý thêm....
Hoàng Ngọc
Tuấn
PS: Tôi lấy
bút danh Hoặc Ngữ từ năm 1987 (Thời tôi đứng ra làm tạp chí TẬP HỢP.
Bút danh
Hoặc Ngữ chỉ dùng vào việc dịch thuật. Tôi cũng dùng các bút danh khác
trong việc
dịch thuật như: Văn Phục, Trần Tuệ Minh. )
Khi “Đáp lời
Hoặc Ngữ”, Gấu không biết Hoặc Ngữ là Trùm Cớm Văn Học trong giới Giang
Hồ Hải
Ngoại, đã từng tố cáo Tổ Sư Văn Nghệ VC Hoàng Ngọc Hiến ngụy tạo tài
liệu văn học,
và chỉ nghĩ, một độc giả như mọi độc giả, thực sự cần, làm rõ 1 bản
văn. Khi
ông ta trả lời bài viết, và ló cái đuôi chồn HNT ra, là Gấu đánh bài
chuồn liền
tù tì!
V/v vụ này,
NTV, trong 1 lần phôn Sến Cô Nương, nhân tiện hỏi, đại ý,
như Gấu
còn nhớ, tại làm sao
lại để
cho 1 tên lạ hoắc, là Hoặc Ngữ, chất vấn 1 người viết có chút tên tuổi
- tại sao lại cho phép dùng tên HN, thay vì HNT – trong 1 bài
viết có
tính chất chính… như thế, Sến trả lời, HNT muốn như vậy.
Theo Gấu, “muốn
như vậy”, cũng đếch được. Nên nhớ, khi đó HNT đã dùng cái tên HNT, để
tố cáo
HNH ngụy tạo tài liệu.
Mấy trò nhơ
bửn này, Gấu quá rành, vì sống đã quá lâu trong giới giang hồ
gió tanh mưa máu, trước đám này rất nhiều.
Khi xẩy ra vụ
HN, Gấu đang ở Việt Nam, nhắn Gấu Cái, khi nhận được mail của Sến, tính
đăng
bài của HN, “nói với PTH, chờ Gấu về Canada rồi tính”, Sến trả lời,
“mất thời
gian tính”!
Sau vụ này,
Gấu nghỉ chơi với talawas, nhưng NTV lúc đó cần đăng mấy bài viết
trên
talawas, không chỉ cho anh, mà còn cho 1 số bạn nhưNguyễn
Khánh Long, và vì anh không có PC, nên yêu cầu Gấu liên lạc lại,
cộng tác tiếp, anh nói HN hay HNT, hay bất cứ ai thì cũng vậy, việc
thấy cần
làm là làm, cần bỏ qua là bỏ qua.
Lúc đó giấc mộng "vá bản
đồ bướm Mít rách bươm" vưỡn đáng mê quá, thế là Gấu lại
gật đầu xách rổ theo hầu Sến tiếp!
Nhớ, có ai đó nói câu này rất
hay: Một mảnh đất chỉ trở
thành quê hương khi có hài cốt của ít nhất một hai thế hệ chôn cất ở
đó. Quê
hương, như vậy, không phải chỉ là đất đai mà còn là máu thịt của cha
ông và của
đồng bào. Tính chất thiêng liêng của lãnh thổ nằm ở phần máu thịt ấy.
Đó chính
là lý do tại sao người ta, một mặt, không dễ dàng chấp nhận một quốc
gia mới
nào đó mình đang định cư là quê hương; mặt khác, có thể sẵn sàng đổ máu
để bảo
vệ một mảnh đất xa lơ xa lắc do cha ông để lại.
FB Thầy Kuốc
Ý trên, của
Garcia Marquez. Gấu đã từng chôm, để viết về Hà Nội, trong bài viết
“Bếp Lửa
Trong Văn Chương”, lần đầu đăng trên tờ Văn Học, cc 97, được mấy đấng
cán bộ, Đảng phái ra công tác hải ngoại, mê lắm, viết thư - khen và hỏi
vài chi tiết liên
quan tới thằng bé Bắc Kít ngày nào - tới ông chủ báo, và ông chủ báo
bèn phôn
viễn liên cho thằng làm công, khi đó đang ở Vancouver, hỏi, có phải anh
có ông
cậu làm ở Tuyên Huấn, và nay đã nghỉ hưu không [biết rồi khổ lắm tự
thổi
mãi]… và còn được 1 đấng nhà văn Bắc Kít ở Đông Âu,
gọi điện thoại chúc Tết ông chủ báo, nhân tiện nhắc tới bài viết “thần
sầu”, và
phán 1 câu cũng “thần sầu”, tay này, tức Gấu Cà Chớn, đã làm được cuộc
hôn nhân
giữa chính trị và văn học!
…. Tôi cũng
có đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành
phố.
Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn, (Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm
một đất
lành khác. Anh giải thích: "con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất
có một
người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một
cái mả, tôi sẽ ra đó nằm." Còn nhớ một cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ
oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông bà mình
làm sao
ngủ yên ?...
Khi GM mất,
1 tay trên tờ The New Yorker,
khi tưởng niệm ông, có nhắc tới chi tiết
trên, Gấu
đọc, và nhớ ra là mình đã chỉ nhớ tới cái nghĩa địa, mà quên cái nhà
bảo sinh!
At the
beginning of “One Hundred Years of Solitude,” Macondo’s patriarch, José
Arcadio
Buendía, wants to move the idyllic yet isolated community he founded to
another, more accessible location. And, since no one else wants to go
with him,
he decides that he and his wife, Úrsula, and their son should leave by
themselves.
“We will not
leave,” his wife says, reminding him that Macondo was their son’s
birthplace.
“We have
still not had a death,” he tells her. “A person does not belong to a
place
until there is someone dead under the ground.” To which his wife
replies, “If I
have to die for the rest of you to stay here, I will die.”
This was the
first thing that came to mind when I heard that Gabriel García Márquez
had
died. I have always loved that scene. For anyone who’s been forced, or
has
chosen, to start a new life in a new place, these words seem to provide
at
least two possible markers by which one can begin to belong. By
Úrsula’s
definition, it is through life. By her husband’s, it is through death.
Todorov phán,
hồi nhớ chỉ nhớ cái có ích cho con người, để tiếp tục sống sao cho
thoải mái.
Quả thế thật.
Khi viết bài viết, là thời
gian Gấu hăm hở với giấc mơ vá lại
cái bản đồ xứ Mít rách nát, mà đám Mít lưu vong chạy thoát quê hương
mang ra được.
Bởi thế mà khi bạn quí hỏi mày có cái tủ nào về VHHN cho tao mượn, để
đóng vai
lecturer Đại Học Mẽo, Gấu bèn lên giọng phán, VHHN có đến mấy cái khởi
đầu, nhưng
cái sau cùng mới là cái đầu tiên, khi có sự tham gia của đám viết lách
ra đi từ
Miền Bắc!
Bi giờ nhìn
lại, mới hỡi ơi, Kít, Kít, Kít!
GGM mở ra Trăm
Năm Cô Đơn, là cũng bằng 1 hồi nhớ thần sầu, với riêng Gấu. Khi
cái tay Võ Tướng
Quân đánh trăm ngàn trận đánh, trận nào cũng thắng, chỉ thua có mỗi một
trận, là
biến xứ Mít thành địa ngục, được đưa ra pháp trường cát ở bùng binh Xề
Gòn, trước khi chết, bèn nhớ đến cái
lần được sờ tay vô cục nước đá.
Ui chao, đúng
là kỷ niệm của thằng cu Gấu, nhà quê, lần đầu tiên được bà cụ cho ra Hà
Nội, lần
đầu tiên được liếm cây cà rem!
Suốt 1 đời,
mỗi lần được… liếm là bèn nhớ tới lần đó,
hà, hà!
Sự thực Thầy
Kuốc chắc là nhớ, của GGM, nhưng, vưỡn ý Todorov, trên, Thầy vờ, và
viết, của
ai đó. Bữa trước, câu của Todorov, chủ nghĩa CS là con đường nhức nhối
đi từ chủ
nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư bản, cũng GCC khui ra, Thầy cũng vờ:
Không lẽ
"citer" thằng khốn GCC!
Vậy mà nhớ,
"có ai đó" phán, cái gì gì, đầu óc kiệt xuất, không phải thời nào cũng
có, tài năng
lừng lững, kiến thức khổng lồ!
Viết như thế,
là làm hư ngòi viết của mình, và làm mất lòng tin ở nơi người đọc.
NQT
Khi Gấu mới
ra hải ngoại, Thầy Kuốc quả là 1 đấng lừng lững, khổng lồ. Thầy viết về
thơ, về
phê bình, Thầy citer đủ thứ Thầy, nào Barthes, nào Bloom…. Gấu thực sự
nghĩ, Thầy
cực bảnh, vì đâu có thì giờ đọc?
Cái vụ Gấu đụng
độ với Thầy Kuốc, khi nghĩ, chưa từng viết về Võ Phiến trước 1975, thực
sự Gấu
cứ đinh ninh như thế, chứ không có tính vuốt râu hùm. Và rồi, Thầy hất
hàm hỏi
có mấy thằng NQT như mi, Gấu cũng viết lời xin lỗi, vì cũng thực sự
không hề biết
bạn quí mang cái mẩu viết về VP trên tờ nhật báo Tiền Tuyến cho vô 1 số
Văn về VP.
Chỉ đến khi
rảnh rang, đọc Thầy, thì mới hỡi ơi, Thầy bịp thiên hạ. Cái chuyện Thầy
không dịch
được 1 câu tiếng Anh, trong 1 bản văn của Barthes, thì cũng thường,
nhiều người
không đọc được, không dịch được, có sao đâu, nhưng ở đây, Thầy bịp,
cũng trích dẫn,
trang mấy dòng mấy, nhưng… bịp, nghĩa là
đếch dịch được. Một câu thông thường, dịch không trôi, làm sao đọc,
những đấng
như Bloom, như Barthes, hay Milosz, hay Brodsky?
Không lẽ 1 đấng
như thế, mà kiến thức khổng lồ, lừng lững, không phải thời nào cũng có?
Chỉ có người
Việt là mọi rợ, cả anh thắng anh thua đều xử sự tiểu nhân. DMT (1)
CHIỀU THỨ BẢY
Chiều Thứ bảy,
sau khi post hai status trên facebook và viết hai bài cho blog trên đài
VOA,
tôi ra tiệm cà phê quen thuộc gần nhà, vừa uống rượu đỏ vừa đọc cuốn
sách về
hai nhà thơ tôi thích Czesław Miłosz và Joseph Brodsky: Cả hai đều sống
lưu
vong tại Mỹ (một người từ Ba Lan và một người Nga); cả hai đều đoạt
giải Nobel
văn chương (Miłosz: 1980; Brodsky: 1987); và cả hai, cũng giống tất cả
các nhà
văn và nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại, không ngừng trăn trở về vấn đề
ngôn ngữ:
nên viết bằng tiếng Anh hay tiếng mẹ đẻ.
Tôi vừa đọc
sách vừa nhâm nhi ly Shiraz vừa ngắm trời ngắm đất, quên bẵng chuyện
giàn khoan
thứ nhất và giàn khoan thứ hai của Trung Quốc, chỉ thấy đời phơi phới.
Nắng ấm
rực rỡ. Trời xanh ngắt. Tiếng nhạc nhẹ. Thật nhẹ. Ngỡ như tiếng mưa.
Bất chợt,
một lúc, bỗng lẩm nhẩm trong miệng hai câu thơ của Phạm Công Thiện:
Mưa chiều thứ
bảy tôi về muộn
Cây khế đồi
cao trổ hết bông.
Biết, hai
câu thơ ấy, Phạm Công Thiện “chôm” từ Hoàng Trúc Ly, người bạn ở Sài
Gòn của
ông:
Mưa chiều thứ
bảy tôi về muộn,
Em ngủ một
mình đêm gió mưa.
Mưa
chiều thứ bảy tôi về muộn,
Em ngủ một mình đêm gió mưa.
Thơ
Phạm Công Thiện :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn Cây khế đồi cao trổ hết
bông.
Nội
dung thì khác « chiều thứ bảy » trong thơ H.T.L. là một ngày trong
tuần, trước chủ nhật. Còn « chiều thứ bảy » trong P.C.T. là lấy ý tự
kinh Phật. « Cây khế » cũng vậy.
Dạo ấy, Thiện đi tu ở Nha Trang với thầy Trí Thủ, pháp danh Ngươn Tánh.
Một hôm xuống chơi nhà Võ Hồng – mà anh rất thân – khi về chùa thì làm
câu thơ này mà về sau anh tự dịch ra tiếng Pháp :
Je
suis le Retour / il fait tard sur le Chemin Sept jours
après la pluie tombe En haut du Temple L’arbre est le Défleuri (1)
*
Nhờ bài viết của DT, chúng
ta mới hiểu được nguồn gốc câu thơ của PCT.
Từ HTL, nhưng qua PCT nó lại mang hình ảnh khác. Có thể nói, câu thơ
của HTL đã sống lại, và có 1 đời sống khác, “nhiễm mùi Thiền”, qua của
PCT.
Ðây là trường hợp bản dịch hay hơn bản chính, nói theo Borges.
Và đây là cái điều mà một độc giả DM chê nhà thơ NDT, khi ông nhại lời
nhạc TCS. (1)
(1)
Tôi nhận thấy ông Nguyễn
Đăng Thường cũng có văn tài, thi tứ hùng hậu. Ước chi ông dùng “tài
năng” ấy mà sáng tác thì tôi tin sẽ thành công hơn là ngồi chọn chữ để
nhại lời bài hát a, b, c, d… Nhại lời như vầy làm thấp hẳn đi giá trị
câu chữ ông nặn ra; dù ý nghĩa ông gửi gấm trong đó có cao thấp, sáng
tối thế nào đi chăng nữa.
TYB [DM]
Sáng tạo từ cái cũ.
Xin phép cho tôi được nόi
thêm đôi lời: Với “Diễm nay”, “Một ngục tù không da vàng”, thậm chí
“Trở về cái chuồng xưa?”, tôi không nhại/diễu nhại ca từ của Trịnh Công
Sơn, Phạm Duy, mà chỉ… đặt lời mới. Ca sĩ, hay bất cứ ai đều cό thể hát
các lời này mà không cảm thấy ngượng miệng. Mong rằng tôi không chỉ xây
ảo mộng… hope against hope/hy vọng trong tuyệt vọng?
NDT
(1)
Mấy câu thơ tiếng Tây này,
“lệch pha” so với tiếng Việt. Dữ dằn hơn:
G tạm dịch [múa rìu qua ông Chánh Tổng]:
Tôi là Sự Trở Về/
muộn trên Ðường
Bảy ngày sau cơn mưa rơi
Ở trên cao Ngôi Chùa
Cây là Trổ Hết Bông
Ðộng từ Être,
To Be, rất quan trọng trong tiếng Anh, cũng như tiếng Tây.
To be or not to be.
Bữa nào rảnh, G sẽ đi một đường về cú này!
Hiện tượng say mê PCT của
một thời thanh niên Miền Nam, có gì giống như thanh niên ở trong nước
bây giờ, khi tìm đọc sách dịch. Chẳng có gì là khó hiểu cả, ở PCT, khi
ông giới thiệu những hố thẳm, ý thức mới… Ðó đúng là cái thanh niên
cần, trước khi được đi lính, bị ném vào cuộc chiến.
V/v Thầy Kuốc
mê Milosz & Brodsky.
Chắc là
không có, vì chẳng thấy Thầy mê hai ông này ở cái gì. Nhưng liên hệ hai
ông này
với đám Mít hải ngoại về “trăn trở”... thì sai.
Hai đấng mũi
lõ đều là giáo sư Đại Học Mẽo, đều viết được bằng cả hai thứ tiếng. Mít
hải ngoại
làm sao có thứ này?
Vẫn theo Gấu,
cả hai chẳng hề trăn trở, chuyện Thầy Kuốc phịa ra, rồi quàng vô lũ
Mít, bởi là
vì họ đều quá rành tiếng mẹ đẻ của họ, và giả như có viết bằng tiếng
Anh, là
cũng cho vui thôi!
Brodsky viết
thư cho bố mẹ bằng tiếng Anh, để bố mẹ được hưởng tí xái tự do.
Milosz, chủ yếu
thì vẫn là tiếng Ba Lan, rồi bạn bè của ông, thí dụ Robert Hass, dịch
qua tiếng
Anh.
Riêng với
GCC, Gấu mê Milosz, ở cái phần tiểu luận, tầm hiểu biết, tầm nhìn về
cái thời “Quốc
Cộng” của ông, so với thơ.
Cả hai thì đều được giới thiệu, trên TV, nhưng thực
sự mà nói, độc giả Mít khó nhập thơ của cả hai, vì là thơ trí tuệ, và
chất Ky Tô
quá mạnh.
Họ “sống sót” thời toàn trị là nhờ nó, có thể nói như thế.
Làm sao mà
Thầy Kuốc dám nói là thích hai ông này, khi 1 câu tiếng Anh đếch dịch
được?
Bịp hoài!
Hà, hà!
Với Gấu, Milosz,
không chỉ Ky Tô, mà còn Simone Weil, sư phụ của ông.
PCT đã từng
tự nhận là thiên tài. Đã từng bị người đời coi là khùng điên.
Như thế,
ông đâu
có thua gì Simone Weil, cũng thiên tài, cũng điên.
Nhưng, nếu De Gaulle
phán,
người đàn bà này khùng, thì Steiner gọi, Thánh Simone.
Cuộc đời, và
chung cuộc
của cả hai vị, chúng ta đều biết, SW nhịn đói đến chết, còn PCT mới
mất, bên giường có
tới hai bà vợ cùng chăm sóc những giờ cuối cùng của ông, như nhà thơ
Thi
Vũ cho
biết, trong bài viết trênGió-O.
Tuy nhiên, có
1 cái gì đó, làm bật ra số phận tác phẩm của PCT, “nhìn từ góc” WS, như
trong lời
tựa War and The Iliad, A Tale of Two Iliads:
The critic Kenneth Burke once suggested that literary works could serve
as
"equipment for living," by revealing familiar narrative patterns that
would make sense of new and chaotic situations. If so, it should not
surprise
us that European readers in times of war should look to their first
poem for
guidance. As early as the fall of 1935, Jean Giraudoux's popular play La
guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to
think of
their country as vulnerable Troy
while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the
play's English title). Truth
was the first casualty of war, Giraudoux
warned.
"Everyone, when there's war in the air," his Andromache says,
"learns to live in a new element: falsehood." Soure
"Mọi
người, khi có mùi chiến tranh trong không khí, hãy học sống trong nhân
tố mới:
Cái Dởm"
Gấu tin là mọi người bây
giờ, thì đều nhận ra cái dởm của những tác
phẩm của
PCT.
Adam
Zagajiewski vinh danh Milosz:
Ông
là nhà thơ của thông minh lớn và tuyệt cảm lớn [a
poet of ‘great intelligence and great ecstasy’]; thơ của ông sẽ không
thể sống
sót nếu thiếu hai món này. Thiếu thông minh, là sẽ rớt vào trò cãi tay
đôi với
một trong những đối thủ này nọ, rồi cứ thế mà tủn mủn, tàn tạ đi [bởi
vì, những
con quỉ của thế kỷ 20 này, chúng đâu có thiếu khả năng biện chứng,
chẳng những
thế, chúng còn tự hào về những “biện chứng pháp” duy này duy nọ…].
Thiếu tuyệt
cảm, làm sao vươn tới được những ngọn đỉnh trời? Thiếu nó, là sẽ
chỉ suốt
đời làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi mình là một tay bi quan
tuyệt cảm
[ecstatic pessimist], nhưng chúng ta cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho
nhỏ của
sự tuyệt cảm mà Bergson coi đây là dấu hiệu khi chạm tới được một
sự thực
nội tại.
Vào thời đại của Beckett, một nhà văn lớn lao, dí dỏm, và cũng rất ư là
sầu muộn,
Milosz bảo vệ chiều hướng tông giáo của kinh nghiệm của chúng ta, bảo
vệ quyền
được vuơn tới cõi vô cùng của chúng ta. Bức điện tín của Nietzsche,
thông báo
cho những con người ở Âu Châu, rằng Thượng Đế đã chết, bức điện đã tới
tay
Milosz, nhưng ông không từ chối ký nhận, và cứ thế gửi trả cho người
gửi.
Tôi không tin tưởng, rằng Milosz – như ông thường gọi mình như vậy – là
một tay
Manichaean. Về tất cả những chuyện này, tuy nhiên, tôi nhìn thấy ở
trong thơ
ông, một sự gần gụi rất đặc thù, mà cũng rất hứng khởi, giữa tư tưởng
và hình ảnh,
giữa tranh luận và nhiệt tình, giữa thiên nhiên vùng California và ý
thức hệ của
thế kỷ 20, giữa quan sát và giao giảng sự thực. Milosz cũng còn là một
nhà thơ
chính trị lớn: những gì ông viết ra về sự huỷ diệt những người Do Thái,
sẽ còn
hoài, và không chỉ còn hoài ở trong những tài liệu, những tuyển tập
dành cho
sinh viên. Trong những năm thê thảm nhất của chủ nghĩa Stalin những
sinh viên đọc
Luận về Đạo Đức, Cách Ở Đời của ông [Treatise on Morals, 1948], giống
như một
triết gia La Mã, Boethius, của những ngày này. Ông không im tiếng, khi
xẩy ra
phong trào bài Do Thái vào năm 1968, đây đúng là một nỗi nhục cho báo
chí Ba
Lan, và một số người thuộc tầng lớp trí thức. Sự hiện hữu của những từ
ngữ
trong sạch của Milosz, đã và sẽ luôn luôn vẫn là một ân huệ, một lợi
ích, cho độc
giả Ba Lan, kiệt quệ vì sự tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, tả tơi sau
thời gian
dài sống dưới sự thử thách của chủ nghĩa Cộng Sản, sự lỗ mãng thô bỉ
của [cái gọi
là] nền dân chủ của Nhân Dân. Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái
độ
chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân
của
Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam
mê siêu
hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường. Và
còn điều
này, trong một thế kỷ mà những nhà tư tưởng tông giáo và những nhà văn
thường
được coi thuộc cánh hữu [thí dụ như Eliot], trong khi những nhà hoạt
động xã hội
bị thường bị coi là vô thần, một khuôn mẫu như là Milosz có một ý nghĩa
thật là
lớn lao, và sẽ tiếp tục phục vụ chúng ta rất nhiều trong tương lai.
Ký giả tuyệt
vời!
Đây có thể
là lý do, từ đó, NL vinh danh Thầy Kuốc & Sến Cô Nương, chăng?
Phạm Thị Hoài và Nguyễn
Hưng Quốc là hai nhân vật đỉnh cao của văn chương hải ngoại, hai bộ óc
kiệt xuất, hai tài năng lừng lững và hai khối kiến thức khổng lồ, cả
hai đều nhanh chóng hiểu ra rằng "chính trị là đỉnh cao của văn
chương" và từ lâu đã hết sức nỗ lực tách khỏi văn chương để
hướng tới chính trị, ở Phạm Thị Hoài là một chủ định rõ ràng, ở Nguyễn
Hưng Quốc thì có vẻ nhiều phần là do hoàn cảnh thúc ép…. (1)
Đệ tử Thầy
Kuốc thổi Thầy, không nói, với 1 tay như NL, quả là kỳ. Bởi là vì, cái
kiểu “bình
luận thời kuộc” của Thầy Kuốc, hay của Sến, chẳng có thể nào mà coi là
chính trị
ở đỉnh cao [tức văn chương], vì thiếu cái vốn hiểu biết [tầm], thiếu
cái đạo hạnh
[tâm].
Thầy Kuốc,
khi ra được hải ngoại viết lách loạn cào cào, thực chất là con số
không. Thầy
phán, không hề bao giờ đưa ra chứng minh.
Thí dụ, Võ Phiến, nhà văn thế
kỷ 20, tại
sao, lý do gì, đếch có, trong khi, như chúng ta biết, 1 lời phán, nhà
văn thế kỷ
20, khiến độc giả bèn nghĩ tới Lò Thiêu, Gulag… vì đây là thế kỷ của
chúng.
Cũng thế,
Ngài phán nhảm, về văn chương lưu vong giẫy chết!
Với dân pro,
họ biết ngay là bịp bợm.
Sến thì cũng
rứa. Sến phán, Kafka và Nabokov là sư phụ. Nabokov, có thể, vì
chất dâm,
như trong “Ám Thị”. Nhưng làm sao lại có Kafka ở đây?
Nhiều khi chẳng cần phán, là đã biết. Linda Lê chẳng hạn. Đọc, là biết
bà đọc
những ai, và ai ảnh hưởng lên văn của bà.
NL thì chưa có gì, lâu lâu có bài viết nhỏ, tới. Nhưng về lâu về dài,
chắc chắn
sẽ có ngày là 1 tác giả đáng tin cậy.
Cả 1 đời viết
lách, Gấu chưa bao giờ lâm tình trạng thổi bậy, trừ một hai bài, khi
mới vào
nghề, thổi bạn quí!
Sến cứ làm
như đọc hết Kafka, khi phán: "Lần duy nhất Kafka nhắc đến âm nhạc, và
không hẳn là tích cực, là trong 'Josephine, nữ ca sĩ hay Dân chuột'”.
Phán liều lĩnh
chẳng thua gì ông em!
TV đã từng
chỉ ra, Kafka lèm bèm khá nhiều về âm nhạc, thí dụ, thứ âm nhạc hát ở
địa
ngục (1)
Chỉ nội
câu phán, cho thấy, chưa từng đọc Kafka, bởi là vì có thứ Kafka
nào phách
lối như thế!
(1)
Trong Errata,
Steiner dành 1 chương cho âm nhạc, theo ông, vượt ra khỏi xấu và tốt,
giả và thực, thiện và ác, chữa lành và làm khùng, la musique peut
rendre fou, et peut aider à guérir l’esprit brisé. Ông nhắc tới im lặng
của người cá, và câu của Kafka, mà GCC chôm, ở trên: Thứ âm nhạc thần
sầu là của những linh hồn trầm luân hát ở Địa Ngục, la plus pénétrante
des musiques, le plus beau des chants est celui des âmes damnés qui
chantent dans la fosse de l’enfer. (1)
Exile is
salvation. Exile is a writer's salvation. The goal is not exile. The
goal is to
write. There have been so many writers who have been forced to flee in
order to
write. Sometimes the oppression isn't even that extreme, but they still
leave.
Like James Joyce. It wasn't political oppression. But Joyce and
Beckett, they
never went back. It was psychological oppression in Ireland; the
Catholic
Church made them exile themselves. No, a writer cannot defeat a
society. But he
can save himself, which has been the case from ancient times until
today.
After Mao
died [1976J, after the Cultural Revolution, Chinese society had a
relative
period of liberalization and I could travel and look at things.
Lingshan was
about seeking a starting point for consciousness, looking for an entry
point on
a spiritual level. It was mostly written in China and finished in
France, but I
had to wait until after Mao died and even then I couldn't think of
having it
published. I began writing Lingshan in 1982.
Về lưu vong
Lưu vong
là
cứu rỗi. Lưu vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không phải là lưu
vong. Mục
đích là viết. Có rất nhiều nhà văn bị ép buộc phải bỏ chạy để viết. Đôi
khi sự
đàn áp không đến nỗi tới chỉ khiến họ phải bỏ đi, nhưng vẫn phải bỏ đi.
Thí dụ
James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả hai chẳng hề quay trở lại. Có
một sự
đàn áp về tâm lý ở Ái nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong.
Không, một
nhà văn không thể đánh bại một xã hội. Nhưng anh ta có thể tự cứu mình,
đây là
một trường hợp từ cổ xưa cho mãi tới ngày này.
Sau khi Mao
chết [1976], sau Cách Mạng Văn Hóa, xã hội TQ có một thời kỳ tương đối
cởi mở,
và tôi có thể đi du lịch, nhìn tới nhìn lui những sự vật, con người.
Lingshan
[Linh Sơn] là về sự tìm kiếm một khởi điểm cho tâm thức, kiếm điểm nhập
tầng
tâm linh. Nó hầu hết được viết ở TQ và xuất bản ở Pháp, nhưng tôi phải
đợi sau
khi Mao chết, vậy mà khi đó vẫn không nghĩ có thể in nó ra. Tôi bắt đầu
viết nó
vào năm 1982.
Số báo này
là về Tuổi Trẻ. Có 1 câu về nó, hồi trẻ, Gấu mê lắm, nhưng số này [chắc
là]
không biết, của Paul Nizan, đọc qua Sartre, tớ năm nay hai mươi tuổi,
và sẽ đập
vỡ mặt thằng nào, nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người, (1),
nhưng lại
trích 1 câu - Gấu cũng thích, và cũng đọc đâu đó, trong thời mới lớn
của mình,
và có trích lại, khi tưởng niệm Mai Thảo - của Rimbaud, ai thì cũng
không tỏ
ranghiêm trọng, khi ở vào cái tuổi 17 của
mình, no one’s serious at seventeen, 1870.
TV giới thiệu
những câu, những giai thoại, thay vì 1 bài viết, có thể, sau.
Tôi chẳng làm
sao hiểu tại sao người ta coi tuổi trẻ là thời của tự do và niềm vui.
Có lẽ bởi
là vì họ quên mẹ mất tuổi trẻ của chính họ.
I’ve never
understand why people consider youth a time of freedom and joy. It’s
probably because
they have forgotten their own
Margaret
Atwood, 1976.
Gertrude
Stein nhớ lại lần trả bài kiểm tra môn học cuối năm, the final exam,
cho… Thầy Kuốc, ấy chết xin lỗi, Thầy
William
James. Bà viết, tôi quá chán Thầy và giờ của Thầy, nên đếch thèm viết
gì hết,
Dear Professor James, I am so sorry but really I do not feel a bit like
an
examination paper in philosophy today; và bỏ phòng học. Bữa sau, bà
nhận được cái
note của Thầy, Cô Stein thân mến, tôi hoàn toàn thông cảm, chính tôi
cũng thường
cảm thấy như vậy. Và bà cho biết, Thầy Kuốc cho bà điểm cao nhất, cho
bài kiểm
tra, môn tiếng Mít do Thầy Kuốc dạy!
Đọc cái giai
thoại này, thì Gấu bèn nhớ đến giai thoại, về Thầy Borges. Ông nạp đơn
xin chức…
Lecturer ở… Đại Học Úc:
Inhis Autobiografia, after
mentioning his appointment as the director of the
National Library in
1955 Borges explains: "The following year I received a new
satisfaction, by being named professor of English and North American
literature at the University of Buenos Aires.' Other candidates had
sent detailed accounts of their translations, articles, conferences,
and other
accomplishments. I limited myself to the following declaration:
'Without realizing
it, I have been preparing for this position my entire life.' That
simple statement
had the desired effect. They hired me, and I spent twelve happy years
at the university.”
Martín Arias:
Thầy Borges
Lạ, là câu của
Borges, khi xin chức.... Lecturer, 1 cách nào đó, áp dụng đúng vô
trường hợp của Thầy
Kuốc:
Tôi [không] nhận ra rằng
thì là,
cả đời tôi, làđể
sửa soạn nhận chức này!
['Without realizing
it, I have been preparing for this position my entire life.']
(1)
Qua Sartre
tôi đọc được câu này, của Paul Nizan:
"Tôi
năm nay hai mươi tuổi, và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó là
tuổi đẹp
nhất trong đời một người."
"J'avais
vingt ans, je ne permettrai à personne de dire que c'est le plus bel
age de la
vie."
Paul Nizan: Aden Arabie.
Và tôi cũng
tưởng tượng, tuổi trẻ của mình sẽ như là của Nizan, qua diễn tả của
Sartre:
Nizan đã sống
cạn tuổi trẻ của mình, không để thừa một giọt nào.
Nhưng
"thảm thay", Nizan là một tay cộng sản. Anh, 20 tuổi vào năm 1929,
"giữa thời hậu chiến, của một cuộc chiến vừa chấm dứt". Anh viết cuốn
"Mưu Phản", La Conspiration, và Sartre không tin anh muốn viết tiểu
thuyết,
và tự hỏi, liệu một tay cộng sản có thể viết tiểu thuyết?
Đó là sự
khác biệt. Trước mắt Gấu, là một cuộc chiến, trong khi Gấu, ở trong một
thành
phố nhớ một thành phố khác, và mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết nối
được cả
hai.
Như được
miêu tả trong Những Ngày Ở Sài Gòn. (2)
Câu của
Atwood làm Gấu nhớ đến trường hợp… Gấu Cái.
Hồ Trường An có 1
nhân vật nữ,
tuổi thơ thê thảm quá, bèn mượn, thứ thật là đẹp của… bạn mình. Gấu đọc
trên tờ Làng Văn hồi mới ra hải ngoại. Đúng
hơn, Gấu Cái đọc, rồi chỉ cho Gấu, và nói, cái con nhỏ này giống... ta!
Gấu
bị lầm giữa cô bạn và Gấu Cái, là do cái tuổi thơ Nam Kít của cả hai,
chẳng biết
cái nào thực cái nào giả, cái nào của Gấu Cái, cái nào của Cô Bạn, hà,
hà!
Câu sau đây
diễn trả đúng tình trạng đó, và do Cô Bạn nói:
Tôi nhớ lần
đứng trước viện mồ côi, và cảm thấy thèm ơi là thèm! I can remember staring at
the
orphanage and feeling envy George
Carlin, 1997
Câu này thì
của Bác Hồ, dạy Tuổi Trẻ Bắc Kít, Bác thuổng…. Nazi:
Youth, youth,
springtime of beauty.
Tuổi trẻ, tuổi
trẻ, mùa xuân của cái đẹp
-Anthem of
the National Fascist Party, c. 1924
Chỉ có người
Việt là mọi rợ, cả anh thắng anh thua đều xử sự tiểu nhân. DMT
Note: Viết
như thế này, thì quá nhảm, và có thể là do được qua Mẽo, nhận tiền Mẽo,
viết/vẽ
bộ mặt lưu vong Mít, bị đám Chống Cộng điên cuồng hăm he làm thịt [có
thể], nên
cay cú, hơi giống trường hợp bạn NTK, hà, hà!
Giả như có mọi
rợ - có thực đó, của đám Chống Công điên cuồng - thì là do cái mọi rợ,
sau 30
Tháng Tư của đám thắng trận mà ra.
Sự thực hiển
nhiên như thế, mà đâu có chịu nhìn?
Sau 30 Tháng
Tư, giả như không bày ra đủ thứ thảm trạng cho dân Miền Nam thì đâu có…
mọi rợ?
Chưa kể cái
mọi rợ mời thằng Tẫu vô tận giường, dâng vợ con cho nó, để thắng cho
được cuộc
chiến, và bây giờ, không 1 tên Bắc Kít còn nhớ, thế mới lạ!
NQT
Bạn NTK,
30
Tháng Tư đưa vợ con ra bến tàu, bèn quay lại nhìn Xề Gòn lần chót, thế
là kẹt lại,
giống trường hợp Thảo Trường. Khác, là TT đi tù, còn NTK đành chơi với
VC. Chàng
đóng phim VC, nghe nói, nổi lắm, Gấu chẳng hề biết những chuyện này, vì
đi tù
VC. Thành ra khi NTK qua Mẽo, bị đám Chống Cộng điên cuồng làm khổ, bạn
bèn đánh
bạn với đám NVVC! 20 năm VH Miền Nam
Since
then, at an uncertain hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale is told
This heart within me burns. (1)
Coleridge, The Rime of the Ancient
Mariner.
(1) Cynthia
Ozick trích dẫn, trong bài viết về Primo Levi. Tạm dịch:
Kể từ đó,
đâu biết giờ nào,
Cơn hấp hối
đó trở lại,
Và cho tới
khi câu chuyện thê lương của tôi được kể
Trái tim này
trong tôi bỏng rát.
Coleridge: Bài hát của người thủy
thủ già.
Khi viết “VP
nhà văn Bình Định”, cho số Văn Học đặc biệt dành cho ông, theo lời đề
nghị của
NMG, lần gặp ông đầu tiên tại Tiểu Sài Gòn, 1998, cũng là lần đầu tiên
vợ chồng
Gấu ghé thăm thủ đô tị nạn của dân Mít, Gấu chưa từng biết đến “đại tác
phẩm”,
"Hai mươi năm văn học hải ngoại", của KT và bạn bè của anh xb.
Đúng ra phải
nói là, Gấu chẳng biết gì tới cái gọi là văn học hải ngoại, và chỉ biết
đến nó,
sau khi được bẩy bó.
Trước 70, Gấu có nhiều việc quá để mà làm, vì cứ
đinh
ninh, Ông Giời chỉ cho mi sống tới năm đó đó.
Sau 70,
không có việc gì để làm, Gấu bèn lai rai đọc văn học Mít hải ngoại. Đọc
Thầy
Phúc, Thầy Kuốc, Thầy Đạo, Thầy Thục…. toàn đọc những Thầy và đều nhận
ra, toàn
đồ dởm cả.
Rõ ràng là mấy
Thầy này, có cái bằng làm Thầy, là để làm 1 công việc gì đó, đòi hỏi 1
cái bằng
nào đó, cử nhân, tiến sĩ gì gì đó, để kiếm miếng cơm đổ vào mồm, để
khỏi chết
đói nơi xứ người, chứ không phải để làm cái gọi là sáng tác, trong có
cả cái gọi
là phê bình.
Đó là sự thực.
Nhân đọc 1 bài trên net,
về cái bằng tiến sĩ của Thầy Kuốc, thì mới vỡ
ra, Thầy
quả là quá may, có được mảnh bằng này, nhưng khốn khổ thay, chính vì
may quá mà
thành ra dốt quá.
Thầy đậu Tú
tài Mít đúng khi VC lấy được Miền Nam. Thứ bằng cấp đó, vào đúng thời
kỳ đó,
khó mà có tí kiến thức thực sự. Bởi thế mà Thầy không biết "lệch pha"
nghĩa là gì, và coi, đây là tiếng lóng, để chỉ dân pê đê.
Quả là tiếng
lóng để chỉ dân pê đê, nhưng đó là dạng biến thái, không phải nghĩa
gốc, dính
tới điện xoay chiều.
Và, như thế, Thầy Kuốc hẳn nhiên là bị thiến mẹ
mất, cái gọi
là kiến thức phổ thông!
Cái bằng Tú
Tài của Mít, trước khi cuộc chiến bùng nổ, vào cái thời ông Diệm, khó
cực khó.
Ông Truởng Đài Phát Tín Phú Thọ, của Bưu Điện, 1 trong những Sếp của
Gấu, mất bảy
năm, vì cái bằng Tú Tài 2, ban Toán!
Rồi chiến tranh leo thang, bằng
ngày một mất
giá.
Thằng em Gấu,
không làm sao có được cái Tú Tài 1, để đi học lớp sĩ quan Thủ Đức, sau
phải nhờ
mấy đứa bạn, đã sĩ quan, tới kỳ thi, ném bài vô phòng thi, đám giám thị
lúc đó
sợ lính tráng đành vờ, và cũng nghĩ, nó cần cái bằng để…. chết.
Nguyễn Văn
Trung, thí dụ, đâu có bằng Tú Tài. Ông được bên Công Giáo cho đi du
học, khi
chưa có bằng Tú Tài. Qua Tây, chúng đâu cần phải có bằng Tú Tài mới cho
vô Đại
Học.... tư. Gấu nghe 1 người quen kể - ông này nổi tiếng lắm, giáo sư
đại học
văn
khoa, không tiện nói tên - kể giai thoại, về làm lương cho ông Khoa
Trưởng Văn
Khoa, nhân viên văn phòng than, làm sao làm lương bây giờ, ông ta không
có bằng
Tú Tài!
Nói mấy Thầy
như Thầy Phúc, Thầy Đạo… dởm, là nói, từ “góc độ viết” – chôm Thầy
Kuốc, ‘góc độ
thơ’ – hay nói toạc ra, mấy Thầy không viết được cái gọi là sáng tác.
Borges có câu,
thơ là để trao cho thi sĩ, câu này có thể áp dụng cho nhà văn. Bạn đọc
1 bản văn,
thứ thiệt, là thể nào cũng tìm thấy 1 cái gì đó - một chi tiết, 1 hình
ảnh, một
sự sắp xếp, trình bày…. - trước đó, chưa từng ai làm/viết như thế.
Bạn đọc mấy
Thầy trên, không kiếm thấy sáng tác, mà chỉ là lập lại, những gì người
khác đã
nói, đã viết.
Trong đoạn văn
dưới đây, có mấy câu, Gấu lọc ra, chưa ai từng viết như thế.
Tôi nhìn
thấy Pleiku lần đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy nhà gỗ
trải dài trên
đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió lùa vì hai
mặt trước
sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba hay bốn dãy, lâu quá
tôi
không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng trước nhà tôi nhìn
thấy rừng
cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một chút, bên phải, tôi nhìn thấy
biển mênh
mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục
ngôi mộ của
người tị nạn. Đứng phía sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn
thấy dãy
nhà phía dưới.
Phố núi cao
phố núi mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . .Tiếng nhạc vọng từ dãy nhà bên dưới, có một
người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói củi
ướt nhóm
trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như
sương.
Bất giác lại
nhớ đến lần gặp 1 nữ văn sĩ ra đi từ Miền Bắc.
Bà nói,
trong bài viết của cháu, được ông nhắc tới, có 1 câu, cháu rất thích,
và cháu
không hề nghĩ, có người tìm thấy nó, vậy mà ông tìm đúng câu đó, để mà
lọc ra.
Gấu mua cuốn
này, ở Vancouver, Oct/97. Về đi 1 đường Tạp Ghi gỡ lại vốn.
Cái câu trong bài
viết Kẻ Bán Xới, nguyên văn
như vầy:
Au lendemain
de l'effondrement du totalitarisme, il faut régler ses propres comptes
avec le
passé. Tant qu'on pensait avoir en face de soi une force
incontournable, les
souffrancesavaient un sens. Du jour où,
selon un mot d'esprit plus tragique qu'il n'y parait, on déclare que le
communisme
est une voie tortueuse conduisant du capitalisme au capitalisme, les
habitants
des pays ex-totalitaires ne voient plus le sens de cette vie.
Cùng với sự
sụp đổ của chủ nghĩa CS, đây là lúc "thanh toán quá khứ". Khi mà người
ta còn thấy trước mặt, một sức mạnh không làm sao tránh né, khi đó, sự
đau khổ
vẫn còn có ý nghĩa. Ngày mà chúng ta chấp nhận ý nghĩ bi thảm, khi
tuyên bố, chủ
nghĩa CS là con đường nhức nhối (tortueuse) dẫn từ "chủ nghĩa tư bản"
đến "chủ nghĩa tư bản", khi đó, những người dân tại những nước cựu-toàn
trị chẳng thể nào nhìn ra, ý nghĩa cuộc đời này (Todorov, p.69, sđd).
Và được nhà
phê bình "mô phỏng", thành ra như vầy:
CON
ĐƯỜNG
DÀI VÀ ĐẪM
MÁU NHẤT
Chế
độ cộng sản
tại Việt
Nam hiện
nay là một chế độ
phong kiến nhưng
không có áo mão. Vậy
thôi. Nếu ở
Tây phương,
sau khi chủ
nghĩa cộng sản
cáo chung ở
Đông Âu, người
ta nhận
định:
“Chủ
nghĩa cộng
sản
là con đường
dài nhất
và đẫm
máu nhất từ
chủ
nghĩa tư bản
đến chủ
nghĩa tư
bản”
thì ở Việt
Nam, nơi người
ta, nhân danh cách mạng,
kết liễu một
triều đại
có thật
nhiều
lăng để
xây dựng
một
triều đại
mới trên
nền tảng
một
cái lăng thật
đồ sộ và
thật
uy nghi, như một
thánh đường,
ngay giữa
trung tâm thủ
đô, chúng ta cũng có thể
nói: Chủ
nghĩa cộng
sản
là con đường
dài nhất
và đẫm
máu nhất từ
chế độ
phong kiến
đến…
chế độ
phong kiến.
I believe
that art is the highest expression of the human spirit.
I believe that
we yearn
to transcend the merely finite and ephemeral; to participate in
something
mysterious and communal called "culture"-and that this yearning is as
strong in our species as the yearning to reproduce the species.
Through
the
local or regional, through our individual voices, we work to create art
that
will speak to others who know nothing of us. In our very obliqueness to
one
another, an unexpected intimacy is born.
The individual voice is the
communal
voice.
The regional voice is the universal voice.
Bức hình độc
nhất & Di sản độc nhất ông cụ Gấu
Đọc Hà Sĩ
Phu trả lời Lý Kiến Trúc, báo Văn Hóa,
Cali, trên blog Sến Cô Nương, Gấu bỗng dưng nhớ tới ông cụ
Gấu, chán thế!
Ông bố của Gấu
không hề theo Việt Minh, vào cái giai đoạn cả nước theo Vẹm. Mấy đứa
con ở lại
Miền Bắc - ông em trai út & bà chị gái, nữ anh hùng thồ hàng chiến
dịch DBP
của GCC - không hề được VC công nhận là
con liệt sĩ.
Gấu về lại đất
Bắc, một phần là cố tìm cho ra câu trả lời. Gặp cô con gái của ông chú,
Chú Cầm,
vào thời kỳ đó, là huyện uỷ Hạc Trì[Bạch
Hạc và Việt Trì] sau nghe nói, leo lên đến 1 chức vị gì cao lắm, cũng
bị VNQDD bắt,
nhưng trốn
thoát. Bà cho biết, ông bố của bà, cho bà biết, ông giáo Dương, tức
Nguyễn Tái
Dương, bố của Gấu, chỉ được “tổ chức” coi là cảm tình viên của Việt
Minh.
Gấu cũng được
biết, qua cô con gái của Chú Cầm, ông bố của Gấu, bị tên học trò giết,
là do
không chịu đại diện cho VNQDD, ra tranh cử Quốc Hội Vẹm.
Ông qua sông
đúng 30 Tết, dự tất niên với băng VNQDD chiếm giữ Việt Trì, là vì vấn
đề Quốc Hội
Vẹm, hẳn thế, và khi ông lắc đầu, đấng học trò bèn làm thịt Thầy, trước
khi bỏ
chạy VC qua Tẫu.
Như thế, ông
cũng là cảm tình viên của VNQDD ?
Gấu tin là
ông cụ Gấu, khi phải chọn giữa Nguyễn Thái Học vàBác
Hồ, đã chọn Nguyễn Thái Học!
Trong bài viết
về Koestler [điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell, The
Literary and political Odyssey of a 20
Century Skeptic, trong mục Di sản của
chủ nghĩa toàn trị, Athur Koestler:
The Zealot [“cuồng tín” – thay vì “bi quan”, skeptic], trong cuốn
tiểu luận
của ông,Arguably,
Christopher Hitchens cho biết, Koestler bỏ đảng CS, liền
sau khi thoát ra khỏi Tây Ban Nha, vì quá tởm những vụ án thanh trừng
“mần
tuồng”,
the hysterical faking of the Moscow purge trials, 1938 [ông, sau dùng
làm đề
tài cho cuốn Đêm Giữa Ban Ngày].
Koestler diễn
tả cái tởm của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher Hitchens,
đến nỗi
ông phải bệ nguyên văn, vô bài viết của mình:
It is a
logical contradiction when with uncanny regularity the leadership sees
itself
obliged to undertake more and more bloody operations within the
movement, and
in the same breath insists that the movement is healthy. Such an
accumulation
of grave surgical interventions points with much greater likelihood to
the
existence of a much more serious illness.
[Thật khốn
kiếp khi, một mặt, cứ tiếp tục thanh trừng nội bộ, cùng lúc phán, Đảng
ta đả biến thiên hạ vô địch thủ, mạnh khoẻ lắm]
Trong cuốn
tiểu luận, có bài Hội Chứng Việt
Nam, The Vietnam Syndrome, viết về vấn đề chất
độc màu da cam, thú.
Thú hơn nữa,
nó làm Gấu nhận ra, trong cái gọi là “hội chứng Mít”, có... “hội chứng
Tẫu”!
Christopher Hitchens giải
thích, bằng tiếng La Tinh: Mutato
nomine de te fabula
narratur: with the name changed, the story applies to you.
Cứ thay cái
tên đi, là nó áp dụng vô ngay tim, ngay hồn lũ Mít. Đâu có phải là
chúng không biết
thằng Tẫu khốn kiếp đâu. Suốt chiều dài lịch sử, một mặt chống Tẫu, một
mặt mở
nước về phía Nam, làm cỏ mọi giống dân yếu hơn, ít người hơn, vậy mà
đùng 1 phát,
rước chúng vô nhà, vô giường, để ăn cướp cho bằng được Miền Nam. Gấu thêm
vô, còn "hội
chứng nhân quả" nữa, ở đây.
Hôm qua tôi
đưa con gái út ra phi trường. Cô xin được công việc làm mùa hè ở tiểu
bang
Wisconsin. Làm research. Cô nhắm công việc này từ mùa hè năm trước
nhưng khi ấy
cô còn đang học năm thứ hai, mà người ta đòi điều kiện phải ít nhất là
năm thứ
ba. Năm nay cô lại nộp đơn và người ta nhận. Ông Tám, chị Ách Cơ của
cô, và tôi
tiễn cô ra phi trường. Ông Tám và Ách Cơ xách hành lý đưa cô vào bên
trong. Tôi
ngồi chờ ngoài xe. Chia tay, tôi ôm cô. Chúng tôi hôn nhau và cô nói.
“Thế thôi
à?” Dường như cô ngỡ ngàng, nhận ra đến lúc mình phải xa tất cả những
thứ quen
thuộc an toàn, bố mẹ, chị, và con mèo. Hay là cô ngỡ ngàng tôi không
đưa cô vào
tận bên trong.
Còn tôi, mãi
đến khi người ta bảo, thuyền ra đến hải phận quốc tế rồi, tôi mới chợt
nhận ra
tôi đã mất hết. Không còn đường về. Tôi mất má tôi rồi.
Khi tôi ngồi
chờ trên xe, tôi thấy có một chiếc xe BMW mui trần đậu vào trước xe
tôi. Người
lái xe là một phụ nữ độ ngoài năm mươi. Bà chở cô con gái và đứa bé,
chắc là
cháu ngoại. Bà bế cháu cho cô con gái sửa soạn khuân hành lý từ trên xe
xuống.
Cô con gái trạc ba mươi. Cô mang chiếc ghế dành riêng cho em bé xuống,
bỏ vào
bao, bọc lại. Đeo nịt mang đứa bé trên ngực. Một cái túi đeo trên lưng.
Tay kéo
va li hành lý, và chiếc ghế em bé đi. Trước khi đi bà mẹ hôn con gái và
cháu
ngoại.
Tôi thấy
khóe môi người đàn bà run rẩy. Bà cắn môi nhưng những giọt nước mắt vẫn
tràn ra
trên má long lanh. Tôi đoán có lẽ lâu lắm bà mới có thể gặp lại con gái
và cháu
ngoại.
Tôi chợt nhận
ra tôi không khóc khi tiễn cô út. Vì cô đi chỉ hơn hai tháng là về.
Thật ra tôi
còn thấy nhẹ nhõm khi biết là mình không phải bận rộn nấu ăn cho cô
trong hai
tháng cô vắng nhà. Tôi thuộc loại bà mẹ lười biếng. Mặc dù tôi chưa bao
giờ bỏ
con ở nhà để đi nghỉ hè, nhưng mỗi khi tôi tránh được chuyện nấu cơm,
rảnh rỗi
để lười biếng thì tôi hoan hỉ lắm.
Tôi nhớ, khi
tôi nhận ra là tôi sẽ vĩnh viễn xa rời má tôi, trong cơn say sóng dữ
dội, tôi
quì gối gục đầu xuống khoang thuyền, lặng lẽ ứa nước mắt.
Những cuộc chia lìa khởi
từ đây…
*
Bài này quá
tuyệt, đúng là cao thủ, do mù mờ mà thành, cũng nên. Lấy cái nọ bù cho
cái kia.
Tks. NQT
V/v “Cao thủ”
Roland
Barthes ưa xài đòn này. Ông nối kết hai vật, chẳng mắc mớ, liên hệ, rồi
ra đòn,
chúng là một, hoặc chúng có cái thật đỗi chung.
Rõ rệt nhất, trong Mythologies,
bài Thiên Văn, Astrology, ông đưa ra nhận
xét thật bất ngờ: Thiên văn và Văn chương có cùng một nhiệm vụ, task,
trì chậm
xác nhận cái thực, the “delayed” confirmation of the real.
Khủng hơn nữa, ông biểu là, trong cái vũ trụ tiểu tư sản, Thiên văn là
Văn
chương, In the petit-bourgois universe, Astrology is Literature.
Thảo
nào mấy Thầy sáng tác đếch được bèn quay qua sờ mu rùa, bói toán việc
nước Mít:
Tẫu nó đếch dám đụng vô Mít đâu, tối hôm qua tao coi sao trời thấy có
nói rồi!
Hay bài, “Kẻ Nghèo và Tên
Vô Sản” [tưởng 1 mà đếch phải 1].
Michel
Foucault, khi viết Chữ và Vật,
cho biết, được gợi ý từ 1 bản xếp hạng của Tẫu,
trong đó, có những vật lạ hoắc, vậy mà cũng được xếp chung với nhau, là
bạn quí của nhau!
"Les
Mots et les Choses", nhan đề bản tiếng Anh có lẽ sáng sủa và thích hợp
với
chúng ta: "The Order of Things (Trật tự của những sự vật)." Trong Lời
Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng từ một bài viết của
Borges. Và
cùng với bài viết, là tiếng cười làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta
(Tây
phương).
Borges nhắc
tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài vật
được
chia ra như sau: a/ thuộc về
Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân
ngư, f/
huyền hoặc, g/ chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động
như người
điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà
thật mịn,
l/v…v… và v… v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.
Theo
Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của
Tây
phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không có gì giống nhau,
lại ở
cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài cái trật tự abcd như trên?
Trong khi tìm hiểu
một trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ
là lịch
sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta
(Le
Même). Và đối với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải
lịch sử
trật tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra
khỏi lịch
sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng
bức lao
động. (1)
Trở lại với
bài viết của Ai Trần. Với những độc giả thường ghé thăm blog “bâng
quơ”, tác giả
thường có tí mừng, khi người thân đi vắng vài ngày, vì vào thời gian
đó, bà
cho phép bà lười biếng, hoặc có tí thì giờ rôi ra để viết.
Tuy nhiên, ở đây,
so với cái lớn là vượt biển, nỗi đau của cả nước, thì cái buồn nhớ con
chẳng nên
kể ra!
Lấy cái nọ bù cái kia, là thế.
Ở đây, như thế, cũng có
cái cười “rung rinh”, bên cạnh nỗi buồn nhất định không nhỏ lệ!
Hôm qua tôi đưa con gái út ra phi trường. Cô xin được
công việc làm mùa hè ở tiểu bang Wisconsin. Làm research. Cô nhắm công
việc này từ mùa hè năm trước nhưng khi ấy cô còn đang học năm thứ hai,
mà người ta đòi điều kiện phải ít nhất là năm thứ ba. Năm nay cô lại
nộp đơn và người ta nhận. Ông Tám, chị Ách Cơ của cô, và tôi tiễn
cô ra phi trường. Ông Tám và Ách Cơ xách hành lý đưa cô vào bên trong.
Tôi ngồi chờ ngoài xe. Chia tay, tôi ôm cô. Chúng tôi hôn nhau và cô
nói. “Thế thôi à?” Dường như cô ngỡ ngàng, nhận ra đến lúc mình phải xa
tất cả những thứ quen thuộc an toàn, bố mẹ, chị, và con mèo. Hay là cô
ngỡ ngàng tôi không đưa cô vào tận bên trong.
Còn tôi, mãi đến khi người ta bảo, thuyền ra đến hải
phận quốc tế rồi, tôi mới chợt nhận ra tôi đã mất hết. Không còn đường
về. Tôi mất má tôi rồi.
Khi tôi ngồi chờ trên xe, tôi thấy có một chiếc xe BMW
mui trần đậu vào trước xe tôi. Người lái xe là một phụ nữ độ ngoài năm
mươi. Bà chở cô con gái và đứa bé, chắc là cháu ngoại. Bà bế cháu cho
cô con gái sửa soạn khuân hành lý từ trên xe xuống. Cô con gái trạc ba
mươi. Cô mang chiếc ghế dành riêng cho em bé xuống, bỏ vào
bao, bọc lại. Đeo nịt mang đứa bé trên ngực. Một cái túi đeo trên lưng.
Tay kéo va li hành lý, và chiếc ghế em bé đi. Trước khi đi bà mẹ hôn
con gái và cháu ngoại.
Tôi thấy khóe môi người đàn bà run rẩy. Bà cắn môi nhưng
những giọt nước mắt vẫn tràn ra trên má long lanh. Tôi đoán có lẽ lâu
lắm bà mới có thể gặp lại con gái và cháu ngoại.
Tôi chợt nhận ra tôi không khóc khi tiễn cô út. Vì cô đi
chỉ hơn hai tháng là về. Thật ra tôi còn thấy nhẹ nhõm khi biết là mình
không phải bận rộn nấu ăn cho cô trong hai tháng cô vắng nhà. Tôi thuộc
loại bà mẹ lười biếng. Mặc dù tôi chưa bao giờ bỏ con ở nhà để đi nghỉ
hè, nhưng mỗi khi tôi tránh được chuyện nấu cơm, rảnh rỗi để lười biếng
thì tôi hoan hỉ lắm.
Tôi nhớ, khi tôi nhận ra là tôi sẽ vĩnh viễn xa rời má
tôi, trong cơn say sóng dữ dội, tôi quì gối gục đầu xuống khoang
thuyền, lặng lẽ ứa nước mắt.
Ôi, Hà viết thật hay. Tôi chưa nhớ lại được bao giờ
mình là người lớn. Tuổi trẻ của chúng mình người ta lấy đi nhiều quá.
Bây giờ Hà gợi lại thấy rưng rưng.
Cảm ơn nhiều.
Em thích bài này quá chị ơi, cảm động quá. Cái hình
ảnh chị ngồi trên tàu ra khỏi hải phận và nhận thấy mình mất hết, cái
thế hệ sau này nó không bao giờ hiểu về những cuộc chia tay như vậy.
Hai thằng con em nhỏ mà em đã lo xa cái chuyện buông
tay cho nó tự vào đời rồi. Cái bài này chị viết em cũng tâm tư.
Nhiều khi nước mắt không rơi ngoài khóe mắt mà rơi
ướt cả cõi lòng mới ……thấm lâu á chị !
Chèng ui, sao chị tả cảnh bà mẹ tiễn con & cháu
vô phi trường mà giống cảnh mẹ em tiễn em & tụi trẻ con quá vậy?
Lần nào, mẹ tiễn đám con cháu vô trong chỗ checkpoint xong cũng lẳng
lặng quay lưng đi, mắt ráo hoảnh thôi à. Nhưng khi em quay lại thì thấy
mẹ đang đưa tay lau nước mắt á. Mẹ nào cũng thế thôi, trước mặt con
cháu thì giả bộ cứng cỏi thế, chứ quay lưng lại là nước mắt ngắn dài mà!
Tự dưng tưởng tượng ra cảnh Bà Tám ra đến hải phận
quốc tế mà tim em đau nhói luôn. Cứ như lúc em leo lên máy bay, khi họ
thông báo vừa ra khỏi không phận VN là tự dưng bật khóc tỉnh queo hà.
Đó là khi đó em đã có bố mẹ, em út ngay bên cạnh rồi đó. Nhưng nhớ Nội,
nhớ Ngoại, nhớ bạn bè đủ thứ hết mà.
PS: Thiệt tình, em chưa dám nghĩ đến cảnh tiễn tụi
nhỏ đi xa bao giờ luôn, tại em biết chắc là em sẽ mít ướt (mặc dù đôi
khi không muốn thế) …;)
“Tôi nhớ, khi tôi nhận ra là tôi sẽ vĩnh viễn xa rời má tôi, trong cơn say sóng dữ dội, tôi quì gối gục đầu xuống khoang thuyền, lặng lẽ ứa nước mắt.
Những cuộc chia lìa khởi từ đây…”
Cái thời ra đi không hẹn ngày trở lại đó , dù có là bao lâu đi chăng nữa thì khi nghĩ đến vẫn thấy đau đúng không chị Tám
Like this
Ôi, Hà viết thật hay. Tôi chưa nhớ lại được bao giờ mình là người lớn. Tuổi trẻ của chúng mình người ta lấy đi nhiều quá. Bây giờ Hà gợi lại thấy rưng rưng.
Cảm ơn nhiều.
Like this
Bắt đền bà Tám, làm cháu nhớ mommy quá, không tập trung được.
Like this
Những cuộc chia ly… Người ở lại vẫn mang nặng nỗi niềm. Đọc bài này sao thấy nặng lòng quá cô Tám…
Like this
Em thích bài này quá chị ơi, cảm động quá. Cái hình ảnh chị ngồi trên tàu ra khỏi hải phận và nhận thấy mình mất hết, cái thế hệ sau này nó không bao giờ hiểu về những cuộc chia tay như vậy.
Hai thằng con em nhỏ mà em đã lo xa cái chuyện buông tay cho nó tự vào đời rồi. Cái bài này chị viết em cũng tâm tư.
Like this
Bài này quá tuyệt, đúng là cao thủ, do mù mờ mà thành, cũng nên. Lấy cái nọ bù cho cái kia. Tks. NQT
Like this
Nhiều khi nước mắt không rơi ngoài khóe mắt mà rơi ướt cả cõi lòng mới ……thấm lâu á chị !
Chèng ui, sao chị tả cảnh bà mẹ tiễn con & cháu vô phi trường mà giống cảnh mẹ em tiễn em & tụi trẻ con quá vậy? Lần nào, mẹ tiễn đám con cháu vô trong chỗ checkpoint xong cũng lẳng lặng quay lưng đi, mắt ráo hoảnh thôi à. Nhưng khi em quay lại thì thấy mẹ đang đưa tay lau nước mắt á. Mẹ nào cũng thế thôi, trước mặt con cháu thì giả bộ cứng cỏi thế, chứ quay lưng lại là nước mắt ngắn dài mà!
Tự dưng tưởng tượng ra cảnh Bà Tám ra đến hải phận quốc tế mà tim em đau nhói luôn. Cứ như lúc em leo lên máy bay, khi họ thông báo vừa ra khỏi không phận VN là tự dưng bật khóc tỉnh queo hà. Đó là khi đó em đã có bố mẹ, em út ngay bên cạnh rồi đó. Nhưng nhớ Nội, nhớ Ngoại, nhớ bạn bè đủ thứ hết mà.
PS: Thiệt tình, em chưa dám nghĩ đến cảnh tiễn tụi nhỏ đi xa bao giờ luôn, tại em biết chắc là em sẽ mít ướt (mặc dù đôi khi không muốn thế) …;)
Like this