|
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Những đứa trẻ
của Dickens (1)
17.2.1973
Em và anh
thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn,
tuy nói với
em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có.
Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước ngày em
đi. Em đi
lần này không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy
bay nặng
thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ
không?
Ngồi trước mặt
em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy
không.
Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc bấy
giờ. Nhưng
cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không
làm như
với những người khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi
người. Bữa em
hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như
cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không
bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi
người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ
chơi
bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng
ai nghĩ
đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học
lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của
Dickens đều
vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Le Petit Chose là cuốn thầy Roch Cường
dạy Gấu, năm
học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của Thầy Đoàn Viết Lưu, ở đường
Sương
Nguyệt Anh.
Lạ, là Gấu
cũng nghĩ mình là 1 đứa trẻ bất hạnh của Dickens, như những nhân vật
của Kim
Dung, như Thừa Chí, Vô Kỵ, Kiều Phong.
Bà cụ C, bà cụ TTT thì phán, mày với thằng Tâm y hệt nhau, cứ thấy
người nào giầu,
là tởm rồi!
Bởi thế sau Gấu bị cô bạn, tức cô phù dâu, mắng, giầu có đâu phải là 1
cái tội.
Ui chao, cô
này cũng… tội, suốt đời không hề tin có thằng thực tình yêu thương
mình, mà chỉ
muốn đào mỏ.
Sau gặp đúng thằng yêu mình, thì nó lại tởm "mỏ" của em, chủ trại cưa,
trại lúa, trại máy xay gạo….
Về già Gấu vẫn
thường băn khoăn tự hỏi, giả như em nghèo, dám bỏ Gấu Cái lắm!
Nhớ lần viết
“Nước Cờ Hư Trúc” gửi đăng Văn Học [khi đó chưa giữ mục Tạp Ghi], “bị”
đấng nhà
văn PN gửi cho diễn đàn VHNT, của PCL, sau đó, Gấu đọc trong
“Archives”, trong
mấy đấng trong ban chủ trương, 1 đấng mắng, KD mà liên can gì đến…
Dickens, nước
cờ Hư Trúc, mà tâm hư, tâm rỗng cái gì? Chỉ là nước cờ “ăn may”, “buồn
ngủ gặp
chiếu manh”!
Cái tên Hư
Trúc, là cái nghĩa của nước cờ, và còn của bao nhiêu cơ may của những
nhân vật
của KD.
Du Thản Chi may vớ được Dịch Chân Kinh, và may đọc ra
nó.
Đoàn Dự
may lạc vô hang động ở núi Vô Lượng gì gì đó, nhờ vậy mà học được Lăng
Ba Vi
Bộ!
Tâm Hư: TTT
hình như cũng đã từng sử dụng nick này?
Hát Sau Lò
Cải Tạo
Những đứa
trẻ của Dickens
đều
vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
TTT
Hai
cuốn tiểu thuyết của TTT, Bếp Lửa và Một Chủ Nhật Khác,
thần sầu ở
chỗ là, tác giả “làm thơ” chứ không “viết văn”, và thơ thì cũng không
phải là
những từ hoa [hình tượng tu từ, figure rhétorique] mà là ảnh tượng.
Ảnh tượng, image poétique, không cần đến tri thức, cho nên nó khác hẳn
mọi hình
thức tu từ khác, như ẩn dụ, ám dụ…
NQT
Vấn
đề
“tương tự” trong ẩn dụ
THT.
Nietzche cho
rằng mỗi một chữ trực tiếp trở thành ý niệm.
Note:
Nietzsche.
Roland
Barthes quả quyết: nhân loại dường như bị buộc vào sự tương tự.
Cần phải cho
biết, trang mấy, dòng mấy, cuốn gì.
Lévy
Strauss, Tristes tropiques, tr. 61.
Tên ông Tây
này, viết với “y” ngắn: Lévi-Strauss.
Những lỗi như
trên, đúng ra đừng nên có trong 1 bài viết quan trọng.
NQT
Nhưng theo Gấu
cái tít bài viết, có vấn đề.
Bởi vì, có thể,
"tương tự" là 1 từ hoa bắt đầu của mọi từ hoa - như Barthes viết thì
Gấu không biết
– nhưng, như Michel Foucault phán, trong Chữ và Vật, và Gấu chôm, để viết về
Bếp
Lửa của TTT:
Ở cái thuở mở ra giống người,
con người ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật. Nhìn cái cây 1 phát, là
sững sờ
rồi!
Nhưng rồi thời đại hoàng kim của “nhà văn đếch cần văn chương”,
[“écrivains
sans littérature”, chữ của Barthes] qua đi, văn chương, sau này, bắt
đầu
bằng cơn điên cuồng gọi tên
sự vật, "la rage de nommer", với sự tiếp tay của con quỉ tương tự, "le
démon de
l’analogie", chữ của Foucault.
Những cái tên
gọi như “tương tự”, “ẩn dụ”, “so sánh”… đều dùng để "xếp loại" những từ
hoa
[figures de rhétorique], và trong cái này có cái kia, trong “tương tự”
có “ẩn
dụ”, trong ẩn dụ có “so sánh”, “đối xứng”, thí dụ…
Thành thử, 1 bài viết "vấn đề tương tự
trong ẩn dụ", theo GCC, vô ích, và đúng như thế: Đọc thì thấy THT bày
ra đủ thứ trích
dẫn, chỉ để làm loạn người đọc, theo Gấu.
Ngay từ năm
1973, khi đọc Bếp Lửa, là Gấu
đã nhìn ra 1 cái "cực khác lạ" ở trong đó, những "hình
ảnh thi ca", thay vì, những "ẩn dụ", và cũng đặt ra vấn đề của "tương
tự", khi văn
chương bắt đầu với những từ, như là “hình như là”, it seems to me that,
il me semble que....
Ngay từ
1972, đúng hơn.
Gấu viết bài đọc Bếp Lửa
hoàn toàn là vì Joseph Huỳnh Văn, khi quen anh, và khi anh làm tờ Tập San Văn Chương. Vì anh, và vì Nguyễn
Tử Lộc, cũng quen cùng những ngày đó, mà Gấu viết cho TSVC.
Cả cái băng đảng
đó, đều là “bạn quí” của Gấu, và Gấu đều chán ngấy. Thời gian đó, Gấu
ghiền nặng
lắm, cả đám bạn quí đều tởm Gấu, coi như hủi.
Cả 1 bài viết
dài thòng, Gấu không đọc ra, 1 dòng, của riêng THT, dòng mà người đọc
gọi là “sáng
tạo”.
Nói ra thì "tưởng là" phách lối, nhưng Gấu viết, bất cứ cái chó gì, là
để,
bất thình lình [trong 1 bài kiểu của THT] tương ra 1 câu của riêng
mình.
Liệu có gì là
“tương tự”, không, khi, Dũng nhìn sang nhà kế bên, thấy 1 cái áo cánh
trắng, phất
phơ bay trong gió, trong nắng, và ngạc nhiên tự hỏi, áo của ai nhỉ, và
bèn
nhớ ra, hè rồi, Loan
đi học trên tỉnh, về rồi.
Với 1 độc giả lười biếng,
họ chỉ đọc đến có vậy.
Với 1 độc giả
biết 1 tí về “tương tự”, biết tưởng tượng, cái này giống cái kia đúng
hơn, thì đoạn trên có nghĩa tương tự: “anh yêu em”.
Dũng, đúng lúc
đó, khám phá ra, tình yêu của mình.
Sinh Nhật
13.3.1973
Hôm nay sinh
nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái nào trước
cái nào
sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên tâm vì thư
không
thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì
là thất
lạc của thất lạc...
Chỉ biết hôm
nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe những
chuyện lẩm
cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài
Pagode,
hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn đêm nay còn mãi
mãi"
mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài từ hồi nào,
có đăng rồi
mà quên .... [Thư gửi Đảo Xa]
TTT mất 22
Tháng Ba.
Và như thế,
mỗi lần dân Mít tưởng niệm Tháng Tư, là bèn nhớ tới ông.
Và GCC bèn
nghĩ đến Beckett, và những dòng thơ TTT trích, trong Thơ Ở Đâu Xa:
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Và, bèn nhớ
đến bài thơ Anne Atik tưởng niệm Beckett:
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between
two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
Sử dụng thơ:
Một người
đọc
Thánh Kinh, ông ta tới và đi, giữa hai ngày thánh, mà ông chắc cũng
đếch
thèm để
ý nhiều đến:
Thứ Sáu Tốt,
của ngày sinh, và gần Giáng Sinh, của ngày chết.
Những đứa trẻ
của Dickens (1)
17.2.1973
Em và anh
thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn,
tuy nói với
em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có.
Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước ngày em
đi. Em đi
lần này không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy
bay nặng
thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ
không?
Ngồi trước mặt
em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy
không.
Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc bấy
giờ. Nhưng
cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không
làm như
với những người khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi
người. Bữa em
hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như
cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không
bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi
người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ
chơi
bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng
ai nghĩ
đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học
lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của
Dickens đều
vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Le Petit Chose là cuốn thầy Roch Cường
dạy Gấu, năm
học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của Thầy Đoàn Viết Lưu, ở đường
Sương
Nguyệt Anh.
Lạ, là Gấu
cũng nghĩ mình là 1 đứa trẻ bất hạnh của Dickens, như những nhân vật
của Kim
Dung, như Thừa Chí, Vô Kỵ, Kiều Phong.
Bà cụ C, bà cụ TTT thì phán, mày với thằng Tâm y hệt nhau, cứ thấy
người nào giầu,
là tởm rồi!
Bởi thế sau Gấu bị cô bạn, tức cô phù dâu, mắng, giầu có đâu phải là 1
cái tội.
Ui chao, cô
này cũng… tội, suốt đời không hề tin có thằng thực tình yêu thương
mình, mà chỉ
muốn đào mỏ.
Sau gặp đúng thằng yêu mình, thì nó lại tởm "mỏ" của em, chủ trại cưa,
trại lúa, trại máy xay gạo….
Về già Gấu vẫn
thường băn khoăn tự hỏi, giả như em nghèo, dám bỏ Gấu Cái lắm!
Nhớ lần viết
“Nước Cờ Hư Trúc” gửi đăng Văn Học [khi đó chưa giữ mục Tạp Ghi], “bị”
đấng nhà
văn PN gửi cho diễn đàn VHNT, của PCL, sau đó, Gấu đọc trong
“Archives”, trong
mấy đấng trong ban chủ trương, 1 đấng mắng, KD mà liên can gì đến…
Dickens, nước
cờ Hư Trúc, mà tâm hư, tâm rỗng cái gì? Chỉ là nước cờ “ăn may”, “buồn
ngủ gặp
chiếu manh”!
Cái tên Hư
Trúc, là cái nghĩa của nước cờ, và còn của bao nhiêu cơ may của những
nhân vật
của KD.
Du Thản Chi may vớ được Dịch Chân Kinh, và may đọc ra
nó.
Đoàn Dự
may lạc vô hang động ở núi Vô Lượng gì gì đó, nhờ vậy mà học được Lăng
Ba Vi
Bộ!
Tâm Hư: TTT
hình như cũng đã từng sử dụng nick này?
Hát Sau Lò
Cải Tạo
Những đứa
trẻ của Dickens
đều
vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
TTT
Hai
cuốn tiểu thuyết của TTT, Bếp Lửa và Một Chủ Nhật Khác,
thần sầu ở
chỗ là, tác giả “làm thơ” chứ không “viết văn”, và thơ thì cũng không
phải là
những từ hoa [hình tượng tu từ, figure rhétorique] mà là ảnh tượng.
Ảnh tượng, image poétique, không cần đến tri thức, cho nên nó khác hẳn
mọi hình
thức tu từ khác, như ẩn dụ, ám dụ…
NQT
Vấn
đề
“tương tự” trong ẩn dụ
THT.
Nietzche cho
rằng mỗi một chữ trực tiếp trở thành ý niệm.
Note:
Nietzsche.
Roland
Barthes quả quyết: nhân loại dường như bị buộc vào sự tương tự.
Cần phải cho
biết, trang mấy, dòng mấy, cuốn gì.
Lévy
Strauss, Tristes tropiques, tr. 61.
Tên ông Tây
này, viết với “y” ngắn: Lévi-Strauss.
Những lỗi như
trên, đúng ra đừng nên có trong 1 bài viết quan trọng.
NQT
Nhưng theo Gấu
cái tít bài viết, có vấn đề.
Bởi vì, có thể,
"tương tự" là 1 từ hoa bắt đầu của mọi từ hoa - như Barthes viết thì
Gấu không biết
– nhưng, như Michel Foucault phán, trong Chữ và Vật, và Gấu chôm, để viết về
Bếp
Lửa của TTT:
Ở cái thuở mở ra giống người,
con người ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật. Nhìn cái cây 1 phát, là
sững sờ
rồi!
Nhưng rồi thời đại hoàng kim của “nhà văn đếch cần văn chương”,
[“écrivains
sans littérature”, chữ của Barthes] qua đi, văn chương, sau này, bắt
đầu
bằng cơn điên cuồng gọi tên
sự vật, "la rage de nommer", với sự tiếp tay của con quỉ tương tự, "le
démon de
l’analogie", chữ của Foucault.
Những cái tên
gọi như “tương tự”, “ẩn dụ”, “so sánh”… đều dùng để "xếp loại" những từ
hoa
[figures de rhétorique], và trong cái này có cái kia, trong “tương tự”
có “ẩn
dụ”, trong ẩn dụ có “so sánh”, “đối xứng”, thí dụ…
Thành thử, 1 bài viết "vấn đề tương tự
trong ẩn dụ", theo GCC, vô ích, và đúng như thế: Đọc thì thấy THT bày
ra đủ thứ trích
dẫn, chỉ để làm loạn người đọc, theo Gấu.
Ngay từ năm
1973, khi đọc Bếp Lửa, là Gấu
đã nhìn ra 1 cái "cực khác lạ" ở trong đó, những "hình
ảnh thi ca", thay vì, những "ẩn dụ", và cũng đặt ra vấn đề của "tương
tự", khi văn
chương bắt đầu với những từ, như là “hình như là”, it seems to me that,
il me semble que....
Ngay từ
1972, đúng hơn.
Gấu viết bài đọc Bếp Lửa
hoàn toàn là vì Joseph Huỳnh Văn, khi quen anh, và khi anh làm tờ Tập San Văn Chương. Vì anh, và vì Nguyễn
Tử Lộc, cũng quen cùng những ngày đó, mà Gấu viết cho TSVC.
Cả cái băng đảng
đó, đều là “bạn quí” của Gấu, và Gấu đều chán ngấy. Thời gian đó, Gấu
ghiền nặng
lắm, cả đám bạn quí đều tởm Gấu, coi như hủi.
Cả 1 bài viết
dài thòng, Gấu không đọc ra, 1 dòng, của riêng THT, dòng mà người đọc
gọi là “sáng
tạo”.
Nói ra thì "tưởng là" phách lối, nhưng Gấu viết, bất cứ cái chó gì, là
để,
bất thình lình [trong 1 bài kiểu của THT] tương ra 1 câu của riêng
mình.
Liệu có gì là
“tương tự”, không, khi, Dũng nhìn sang nhà kế bên, thấy 1 cái áo cánh
trắng, phất
phơ bay trong gió, trong nắng, và ngạc nhiên tự hỏi, áo của ai nhỉ, và
bèn
nhớ ra, hè rồi, Loan
đi học trên tỉnh, về rồi.
Với 1 độc giả lười biếng,
họ chỉ đọc đến có vậy.
Với 1 độc giả
biết 1 tí về “tương tự”, biết tưởng tượng, cái này giống cái kia đúng
hơn, thì đoạn trên có nghĩa tương tự: “anh yêu em”.
Dũng, đúng lúc
đó, khám phá ra, tình yêu của mình.
Sinh Nhật
13.3.1973
Hôm nay sinh
nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái nào trước
cái nào
sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên tâm vì thư
không
thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì
là thất
lạc của thất lạc...
Chỉ biết hôm
nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe những
chuyện lẩm
cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài
Pagode,
hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn đêm nay còn mãi
mãi"
mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài từ hồi nào,
có đăng rồi
mà quên .... [Thư gửi Đảo Xa]
TTT mất 22
Tháng Ba.
Và như thế,
mỗi lần dân Mít tưởng niệm Tháng Tư, là bèn nhớ tới ông.
Và GCC bèn
nghĩ đến Beckett, và những dòng thơ TTT trích, trong Thơ Ở Đâu Xa:
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Và, bèn nhớ
đến bài thơ Anne Atik tưởng niệm Beckett:
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between
two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
Sử dụng thơ:
Một người
đọc
Thánh Kinh, ông ta tới và đi, giữa hai ngày thánh, mà ông chắc cũng
đếch
thèm để
ý nhiều đến:
Thứ Sáu Tốt,
của ngày sinh, và gần Giáng Sinh, của ngày chết.
Hát Sau Lò
Cải Tạo
Trên Da Màu,
trong bài “lại nói chuyện về thơ” của cây viết Phan Xuân Sinh có đoạn:
... Phạm Duy
có gặp một số anh em văn nghệ tại Boston, trong cuộc gặp gỡ nầy có
người hỏi Phạm
Duy là: “Anh phổ nhạc thơ của nhiều thi sĩ, có hai thi sĩ lớn như Thanh
Tâm Tuyền
và Tô Thùy Yên. Sao anh không phổ thơ của họ?” Phạm Duy trả lời: “Hai
ông nầy
thơ hay thật, thế nhưng thơ của hai ông lý trí quá khó phổ thành nhạc
được.”
Nói thế để chúng ta biết rằng thơ hay chưa chắc làm rung cảm được người
đọc...
Source
PD phán như
thế, theo tôi, là đúng, thực, theo suy nghĩ của ông, chứ không nhằm che
đậy
gì hết. Nhạc PD thiên về tình cảm, thứ tình cảm tục lụy, hệ lụy, [hệ
lụy, thí
dụ, giai thoại ăn chè Nhà Bè, nhờ đó mà dân Mít được thưởng thức bản
nhạc phổ
thơ MDHT], không
phải thứ
tình cảm thanh cao như trong thơ TTT, hay TTY. Ðây là do cái tạng của
ông, và có
thể cũng là do yêu cầu của đa số quần chúng thưởng thức nhạc. Những bài
thơ phổ nhạc của
TTT, TTY không có nhiều thính giả, những nhạc sĩ phổ thơ
của TTT, là
bạn thân ngoài đời của ông, họ hiểu ông, thơ của ông, cho nên phổ nhạc
thơ của ông.
PD đâu có thuộc cái giới
đó.
Ðẩy đến cực điểm, thơ phổ
nhạc của TTT hay của TTY
muốn nhắm tới cái gọi là không còn chủ âm trong nhạc, hay tới thứ âm
nhạc không
cần lời.
Vấn đề này lớn quá, chỉ nêu ra đây, như là 1 đề xuất, đặt viên gạch,
rồi
tính sau.
Nhạc PD, ngay cả phổ thơ, “đừng nhìn em nữa anh ơi, bướm em rách nát
rồi”, thì làm sao so với "Chiều qua phá Tam Giang, nhớ em đang ngồi thư
viện Gia
Long, hay lang thang Passage Eden"?
Uống ly chanh đường thì
phải chơi thêm cái môi
em ngọt nữa cơ, mới đủ 1 cặp!
[Từ "1 cặp" này, chắc PD hiểu, của dân hít tô phe,
trong có GCC!]
Cái giai thoại
nghe nhạc phổ thơ TTT ở Trại Tù VC mà chẳng tuyệt thấu trời sao?
PD làm sao mà
có được những giây phút thần kỳ như thế?
March 2011
(Translated by Nguyen Que
Phuong, NLV's daughter)
Cái hình trên,
là trong máy của Nguyễn Tôn Nhan, download vô cái USB của GCC.
TOMAS
TRANSTROMER (b. 1931)
After
Someone's Death
Once there
was a shock
that left
behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains
us. It blurs TV images.
It deposits
itself as cold drops on the aerials.
You can
still shuffle along on skis in the winter sun
among groves
where last year's leaves still hang.
They are
like pages torn from old telephone directories-
the names
are eaten up by the cold.
It is still
beautiful to feel your heart throbbing.
But often
the shadow feels more real than the body.
The samurai
looks insignificant
beside his
armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết
của Ai Đó
Một lần, có 1
cú sốc
Nó để lại đằng
sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng
ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính
nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt
băng trong mặt trời mùa đông
giữa những
khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống
như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị
cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp
như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường
là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp
của anh ta, và
những cái vảy
rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài
thơ thần sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác thân nào
còn, linh hồn
thì cũng có khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi miền cực lạc.
Nhưng cái
bóng thì lại càng ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ:
VC bi giờ coi bộ trân trọng
cái bóng của ông cùng cái áo giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn
cả đám bạn
quí hải ngoại của ông!
Hai cuốn tiểu
thuyết của TTT, Bếp Lửa và Một Chủ Nhật
Khác, thần sầu ở chỗ là, tác
giả “làm thơ” chứ không “viết văn”, và thơ thì cũng không phải là những
từ hoa [hình
tượng tu từ, figure rhétorique] mà là ảnh tượng.
Ảnh tượng,
image poétique, không cần đến tri thức, cho nên nó khác hẳn mọi hình
thức tu từ
khác, như ẩn dụ, ám dụ…
Volkov: Viết
về Stravinsky, Auden cho rằng chính cái gọi là tiến hoá tách biệt một
nghệ sĩ bậc
thầy với thứ cà mèng. Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng, bạn
không thể
nào nhận ra, bài nào viết trước, bài nào sau. Nói như vậy có nghĩa, khi
tới một
độ chín nào đó, nhà thơ cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế dậm chân tại
chỗ. Còn
thứ nghệ sĩ lớn lao đếch bao giờ hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo
lên đỉnh
trời cao hơn...
Brodsky: Trời
hỡi, bạn nói đúng quá đi mất. Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ trong
tiến trình
sáng tạo. Khi một nghệ sĩ đạt đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn
phong,
thay cả tên của mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng ba chục thời kỳ khác
nhau.
Bạn nhìn ra
một vô cùng cách biệt giữa Thơ Ở Đâu
Xa và những tập thơ trước đó của TTT.
Điều này dễ
hiểu, một trước, một sau, Trại Tù.
Nhưng lạ nhất,
là sự vô cùng cách biệt, giữa Một
Chủ Nhật Khác và những tác phẩm trước đó.
Có lần, một
anh bạn cho biết, anh không thích Một
Chủ Nhật Khác bằng Bếp Lửa.
Và anh giải
thích: không có đám mình trong đó.
Cái anh
chàng Kiệt bỏ chạy, rồi vội vàng bò về, vừa kịp để... chết, làm sao lại
là một
trong đám mình được?
*
Ở đầu truyện
có cảnh Kiệt, đang học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày
phép cuối
tuần, thay vì như mọi người, về hú hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô,
ra bến
xe đi một lèo xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm khách sạn ngủ, đêm
thèm chết
quá, bèn cứa mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi về nhà, bị vợ
tra vấn
quá, phịa chuyện gặp người tình cũ, cả hai đồng ý cùng chết, nhằm trốn
tránh ba
cuộc: Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối
chuyện, cảnh này mới thực sự xẩy ra, như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi:
Khi tác giả viết đoạn đầu, liệu ông đã nhìn ra đoạn sau?
Lạ, cảnh
trên Hai Lúa cũng đã từng trải qua. Ấy là cái chuyện một ngày cuối tuần
về Mỹ
Tho, Cai Lậy, để kiếm một cô gái, chỉ mới nghe được tên.
Những ngày
đó, Sài Gòn chưa hế biết đến chiến tranh.
Tôi biết anh
còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con
lộ dẫn
vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi
nghe chát
chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và
tất cả những
gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ
sự giận
dữ của thiên nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi
đau khổ,
sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn
mặt
khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự Truyện
Joseph
Brodsky lại đưa ra một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu
vắng
cái gọi là "cảm xúc nói ra lời hung bạo" (biểu hiện bạo động của cảm
xúc, violent expression of emotion), trong thơ của những nghệ sĩ phổ
cập, đại
chúng, như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy.
"Không
có biểu hiện hung bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên
cõi
đó."
-Nhưng như vậy
là thi sĩ muốn nhắm tới một thứ thơ "trung tính", vượt lên trên mọi cảm
xúc?"
Nhà thơ trả
lời, đây là vấn đề thời gian. "Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời
gian. Bạn chắc còn nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời
gian được
sắp xếp lại?… "Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những giọng
điệu
thay đổi. Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"
Thời gian có
giọng trầm bổng của riêng nó.
Điều này giải
thích những dòng thơ "thiền" trong Thơ
Ở Đâu Xa với những dòng thơ
trước đó của Thanh Tâm Tuyền
\
DAY 2
TOMAS
TRANSTROMER (b. 1931)
After
Someone's Death
Once there
was a shock
that left
behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains
us. It blurs TV images.
It deposits
itself as cold drops on the aerials.
You can
still shuffle along on skis in the winter sun
among groves
where last year's leaves still hang.
They are
like pages torn from old telephone directories-
the names
are eaten up by the cold.
It is still
beautiful to feel your heart throbbing.
But often
the shadow feels more real than the body.
The samurai
looks insignificant
beside his
armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết
của Ai Đó
Một lần, có 1
cú sốc
Nó để lại đằng
sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng
ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính
nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt
băng trong mặt trời mùa đông
giữa những
khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống
như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị
cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp
như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường
là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp
của anh ta, và
những cái vảy
rồng đen thui, kế bên.
Nghệ Thuật Đen
"The
easy possibility of writing letters," wrote Franz Kafka to Milena
Jesenska, " ... must have brought wrack and ruin to the souls of the
world. Writing letters is actually an intercourse with ghosts and by no
means
just with the ghost of the addressee but also with one's own ghost,
which
secretly evolves inside the letter one is writing or even in a whole
series of
letters, where one letter corroborates another and can refer to it as
witness."
Kafka's own ghost, or ghosts, still haunt his Letters to Milena.
Nowhere else
does he reveal himself more completely, for to no one did he bare his
soul so
utterly as to Milena Jesenska. "One can tell you the truth like no one
else," he wrote to her, "and one can tell you the truth both for
one's own sake and for yours; in fact, one can even discover one's own
truth directly
through you."
Franz and
Milena's relationship reflected the contradictions of Kafka's
Prague-Jew /
Gentile, German / Czech-although between them these differences
accounted for
more concord than conflict, perhaps because both enjoyed "foreignness
for
its own sake." As the letters prove, however, their bond ran much
deeper
than mere affinity-so deep, in fact, that Kafka gave Milena all his
diaries but
the one he was still writing. And in that last notebook he wrote:
"Always
M.or not M.-but a principle, a light in the darkness!"
Thư gửi Milena: Intro
“Cái việc viết
thư dễ ợt,” Kafka viết cho Milena, “rõ
ràng đem đổ nát điêu tàn đến với thế gian. Viết thư thực sự là giao
tiếp với
những hồn ma, và không chỉ những hồn ma của người nhận, mà còn là hồn
ma của riêng
một người, tức người gửi, và hồn ma này lặng lẽ, bí ẩn nhập vào bên
trong lá
thư kẻ đó đang viết, và ngay cả vào trọn những chuỗi thư, một khi thư
này cộng
tác với thư kia, và có thể quy chiếu về nó, như một chứng từ.”
Hồn ma của
riêng Kafka, hay những hồn ma, vẫn ám ảnh những “Thư gửi Milena”. Không
nơi nào
khác, mà ở chính nơi đây, ông tự phơi mình ra, bởi là vì chẳng có ai
ngoài
Milena làm cho ông phơi linh hồn ra như thế được. “Kẻ có thể nói với em
sự thực,
như chẳng ai khác, ngoài kẻ đó ra”, ông viết cho Milena, “kẻ có thể nói
sự thực
nhân danh linh hồn của riêng kẻ đó, và của em; sự thực, kẻ có thể, ngay
cả khám
phá ra sự thực của riêng kẻ đó trực tiếp qua em.”
Mối giao tình
giữa Franz và Milena phản chiếu những mâu thuẫn Prague-Jew / Gentile,
German /
Czech, của Kafka- mặc dù giữa chúng những khác biệt này tỏ ra đồng
thuận hơn là
xung đột, có lẽ bởi là vì cả hai đều thích “hồn ai người nấy giữ”. Như
những lá
thư chứng tỏ, giao tình của họ thì sâu đậm, thật sâu đậm, Kafka giao
hết nhật ký
của ông cho Milena, trừ cuốn ông đang viết, và trong cuốn sổ ghi chót,
ông viết:
“Luôn luôn M. hay không M – nhưng một nguyên tắc, một tia sáng trong
đêm tối”.
Thư gửi
Milena: Lời giới thiệu.
Với thế
nhân,
người phàm, trong cái trò ma mãnh viết thư, trao đổi giữa anh/em cùng
trong giới
giang hồ gió tanh mưa máu, thì cả hai đều được rất nhiều, khi nghĩ
rằng, thư từ
trao đổi như thế, là sự chiến thắng của dối trá, On gagne beaucoup à
penser la
correspondance comme le triomphe du
mensonge.
Trả lại
người
gửi
Sau khi xuất
hiện những bức thư gửi “đảo xa”, Gấu băn khoăn tự hỏi, liệu ông anh
biết, sau này,
chúng sẽ bị tung hê lên… net?
Biết, chắc
chắn biết!
Cái em người
yêu của TCS, đi lấy chồng mà còn giữ khư khư cái gia tài của TCS để
lại, nữa là.
Những bức thư đó chứa đựng
phần bóng tối, phần dối trá của chúng, như trong thư
gửi độc giả của tờ ML, và trong cái trò thư từ trao đổi này, nhà văn là
bậc thầy.
Những thư của họ thì thuộc 1 vùng nhiễu nhương, giữa đời và tác phẩm,
giữa thực
tại và tưởng tượng.
Trong số
báo, có bài sau đây, cực thú. TV sẽ dịch hầu độc giả.
Giây phút
nguy hiểm nhất: Thức 1 phát, thấy mình đếch là mình!
"Tớ chết
mỗi ngày".
Borges giải
thích rõ thêm: Chúng ta chết và sinh mỗi ngày.
Hồi rước Gấu
Cái từ Cai Lậy về Sài Gòn, trên chiếc thuyền Noé, tối hôm trước, Gấu
đem mấy bức
hình của BHD bỏ vô… lửa hết thẩy, vì nghĩ, lỡ vô tình nhìn thấy, Bả đau
lòng.
Toàn đồ hiếm quí, lần đi Đà Lạt chụp em đứng trên đồi thông, giá mà
còn, biết đâu
chẳng có Một Chủ Nhật Khác, như ông
anh, hà, hà!
Cái tính của
Gấu nó khỉ như thế, chán thế. Thời gian BHD bịnh, sắp đi xa, Gấu biết
tới… hai người có số điện thoại của em,
một là NKL,
bạn từ hồi còn học trung học, đã từng gặp em lần em lái xe hơi xuống
Quận Cam; hỏi
1 phát, là đưa, vậy mà Gấu chỉ nhờ nhắn giùm, thằng cha Gấu Cà Chớn nó
xin số
phôn, để hỏi thăm đấy, em gật đầu, nói, để tui gọi cho anh ấy tiện hơn.
Thế rồi vờ.
OK, vờ thì vờ,
Gấu đâu phải thứ năn nỉ, còn “mệt và giận tính bợp cho em vài phát”
(1), lần
cuối cùng
gặp bên ngoài trường Đại Học Khoa Học Sài
Gòn, nữa là!
(1)
Khi nàng đi
được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật
nhanh.
Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu.
Tôi bảo
nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi
mệt và giận,
muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe
hơi đậu kế
bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước
mưa rỏ
trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của
tình yêu,
tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình.
Tôi bảo
nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với
nàng đã hết.
Khu Rừng Trong Đêm
DP, ký giả,
nổi tiếng lắm, bạn thằng em trai đã tử trận, đọc đoạn này, lắc đầu,
phải tay
em, là bợp rồi.
Anh thua TTT. Không nhớ ông anh của anh chẳng đã từng "làm", và
"phán", "Em biết tay anh chưa"?
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên
Budapest
Hãy cho anh
khóc bằng mắt em
Những cuộc
tình duyên Budapest
Anh một trái
tim em một trái tim
Chúng kéo
đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh
giận bằng ngực em
Như chúng
bắn lửa thép vào
Môi son họng
súng
Mỗi ngã tư
mặt anh là hàng rào
Hãy cho anh
la bằng cổ em
Trời mai bay
rực rỡ
Chúng nó say
giết người như gạch ngói
Như lòng
chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh
run bằng má em
Khi chúng
đóng mọi đường biên giới
Lùa những
ngón tay vào nhau
Thân thể anh
chờ đợi
Hãy cho anh
ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn
Ðêm không
bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn
công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh
chết bằng da em
Trong dây
xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống
bằng hơi thở em
Hỡi những
người kế tiếp
Hãy cho anh
khóc bằng mắt em
Những cuộc
tình duyên Budapest
12-56
Thanh Tâm Tuyền
Tập thơ
"Thời Để Tưởng Nhớ", Time of
Grief, vừa mới ra lò, 2013, thành ra có nhiều bài còn mới tinh mùi
thời cuộc
[mùi máu].
Thí dụ bài
sau đây
BEI DAO (b.
1949)
Requiem
FOR THE
VICTIMS OF JUNE FOURTH
Not the
living but the dead
under the
doomsday-purple sky
go in groups
suffering
guides forward suffering
at the end
of hatred is hatred
the spring
has run dry, the conflagration stretches unbroken
the road
back is even further away
Not gods but
the children
amid the
clashing of helmets
say their
prayers
mothers
breed light
darkness
breeds mothers
the stone
rolls, the clock runs backward
the eclipse
of the sun has already taken place
Not your
bodies but your souls
shall share
a common birthday every year
you are all
the same age
love has
founded for the dead
an
everlasting alliance
you embrace
each other closely
in the
massive register of deaths.
Translated
from the Chinese by Bonnie S.
McDougall and Chen Maiping
Kinh Cầu
cho
những nạn nhân ngày 4 Tháng 6
Không phải
người sống mà là người chết
Dưới bầu trời
tím mầu tận thế
Đi thành nhóm
Đau khổ hướng-dẫn-dắt
khổ đau
Tới tận cùng
thù-hận-là-thù-hận
Mùa Xuân chạy
khô quánh,
Tai ương nối
vòng tay nhớn, không bị bẻ gẫy
Con đường trở
về [Thời Ngụy] xem ra xa vời [Xưa rồi Diễm ơi] làm sao!
Không phải
thánh thần mà là những đứa con nít
Giữa tiếng va chạm mũ sắt của lũ Ngụy
Đọc lời cầu
nguyện
Má huyền thoại
nuôi ánh sáng
Bóng tối nuôi
má
Đá lăn trầm,
đồng hồ [sau 30 Tháng Tư] chạy ngược [tới Thời Đồ Đá]
Mặt trời đứng
sững, đúng vào lúc Thiên Cẩu Xực Mặt Trời.
Không phải cơ
thể, mà là linh hồn của anh
Sẽ chia sẻ
ngày sinh cùng nhau mỗi năm
Các anh thì
đều cùng một tuổi
Tình yêu kiếm cho những người chết
Một đồng
minh đời đời
Các anh, người
nào người nấy ôm chặt lấy nhau
Trong danh sách
khổng lồ, tập thể, của
Những người đã chết đều có thực.
Riêng với
Thanh Tâm Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc được, đã trụ lại trong tôi
suốt từ
bấy đến nay. Biến cố bi thảm ở Budapest năm 1956 mà truyền thông khắp
thế giới
đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất mạnh mẽ, thì nhà thơ của
chúng ta đã
chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc đàn áp dã man tàn nhẫn đó.
Mấy câu
thơ giản dị đã gây xúc động và còn lại mãi trong lòng người thưởng
ngoạn. Xin đừng
hỏi tôi bài thơ ấy hay ở chỗ nào. Chịu. Xin chịu. Tôi không có may mắn
được đào
tạo về những lý sự thế nào là hay thế nào là không hay và điều đó cũng
đã thành
thói quen trong tôi. Cho nên tôi chỉ cần thấy được cái nào hay là đủ.
Rồi về
sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở nhà tù) tôi đã gặp nhiều người cũng
rất
thích bài thơ đó. Có ai đó đọc lên một câu liền có người khác phụ họa
theo, chứng
tỏ bài thơ rất phổ biến.
“Hãy cho tôi
khóc bằng mắt em,
Những cuộc
tình duyên Budapest
Hãy cho tôi
chết bằng da em,
Dưới dây xích chiến xa tội nghiệp…”
Thảo Trường:
Tôi gọi tên
tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm
Tuyền,
Thanh Tâm
Tuyền,
Thanh Tâm
Tuyền.
Il fait bon.
Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar
Vladislas de Lubicz Milosz
Trời thì đẹp.
Trong Bếp Lửa,
Nhè nhẹ kéo
dài,
Tiếng thở
dài dài,
Buồn xiết
bao,
Những
ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
Đặng Tiến hình
như đã từng đặt câu hỏi, tại sao TTT không có đệ tử.
Gấu không nhớ
ông trả
lời ra sao.
Đám đệ tử của Thầy Cuốc, do Gấu hay nhắc đến TTT, bèn đổ
diệt cho Gấu
là đệ tử của ông.
Và của Camus.
Nếu là đệ tử TTT, thì không thể là đệ tử của Camus.
TTT không chịu nổi Camus.
Khi
Camus mất,
ông phán, cái chết, vì tai nạn xe hơi, đã nhốt chặt Camus vào dĩ vãng!
Sai, như mọi
người đều thấy, Camus ngày một sáng rỡ.
Gấu rõ ràng không
phải đệ tử của TTT.
Văn TTT là thơ, ông viết cực lắm.
Gấu viết như đùa. Gấu Cà
Chớn mà, như mọi người đều thấy.
Gấu đã thử cắt
nghĩa, do thơ TTT là thơ trí tuệ, và thứ này hiếm, quá hiếm trong cõi
thơ
Mít, thành
ra TTT đếch có đệ tử.
Tuy nhiên, bữa
nay, đọc bài viết về Ionesco trong số
Books, thì lại nhìn ra 1 cắt
nghĩa khác về
thơ TTT.
Tại làm sao
Ionesco đếch được Nobel văn chương?
Chinua
Achebe, 1930-2013
Chinua
Achebe
HTN, trên nhật
báo Tự Do, khi Bếp Lửa xb lần thứ nhất, đã chê câu
văn [tả Thịnh, cô con gái riêng
của ông Chính,"lăn lộn như 1 con chó điên", bữa hạ huyệt bố]: Tả như
thế là sỉ nhục con người.
Chinua
Achebe chỉ ra những miêu tả người Phi Châu, như là những con vật, trong
Trái
Tim của Bóng Đen của Conrad, và phán, đây là 1 nhà văn phân biệt
chủng tộc.
Nhưng Simon Willis, trên tờ Intel, trong
bài viết “Ghi
chú về 1
giọng văn”, đã coi đây là 1 trong những điểm mạnh của Coetzee.
STRONG POINTS
(1)
Pronouns. "I" or "he" are simple words, unless Coetzee
writes them. "Boyhood" (1997), "Youth" (2002) and
"Summertime" (2009) are all autobiographical works. The first two are
written in the third person present tense. In the third, Coetzee is
dead. The
game poses serious questions. How much can we know about ourselves?
What does it mean to tell the truth? (2) Form. As well as oblique
memoirs,
Coetzee has written allegories and epistles. In "Diary of a Bad Year"
(2007) he divided each page into three, one for each strand of the
narrative.
The result is a beautiful counterpoint, a fugue for three voices. (3)
Animals.
They give Coetzee many of his most piercing images of human
degradation.
Michael K drinks "like a guilty dog". The magistrate in "Waiting
for the Barbarians" (1980) hangs from a tree "like a great old moth
with its wings pinched together, roaring, shouting".
Điểm mạnh
1.
Đại từ.
“Tôi”, hay “anh ấy” thì là những từ đơn giản, ngoại trừ dưới tay
Coetzee, khi ông sử dụng tới chúng. Tuổi thơ, "Boyhood" (1997),
Tuổi Trẻ, "Youth" (2002), Hạ Thì, "Summertime"
(2009), thì đều là những tác phẩm tự thuật. Hai cuốn đầu, viết bằng
ngôi thứ
ba, thời hiện tại. Trong cuốn thứ ba, Coetzee ngỏm. Trò chơi đặt ra
những câu hỏi nghiêm trọng: Chúng ta biết, nhiều như thế nào, về chúng
ta? Nghĩa là gì, nói... sự thực?
2. Hình thức. Thể dạng.
Xiêu vẹo tới đâu hay tới đó, đó là hồi ký, đó là Coetzee khi viết những
ẩn
dụ, và
thư từ. Trong Nhật Ký Năm Xấu, "Diary of a Bad Year" (2007),
ông chia 1 trang ra thành 3, mỗi trang nhỏ như thế treo 1 dòng kể. Kết
quả, 1
tẩu khúc cho ba giọng.
3. Loài vật.
Chúng đem đến cho Coetzee rất nhiều, trong số những
hình ảnh thê thảm
nhất của sự thoái hóa của con người. Michael K uống “như 1 con chó phạm
tội”. Viên
quan tòa
trong "Đợi bọn Rợ”, treo trên cành cây, “như 1 con bướm già, cánh dúm
vào nhau, rống
lên, la lên”.
Notes
on a Voice
FAVOURITE
TRICK
Using
doubles. Animals were the subject of Coetzee’s Tanner Lectures at
Princeton in
1997. Except he didn’t give his opinions. He told stories about a
writer giving
hers. The most provocative of them compared industrial meat production
with the
Holocaust. Some critics thought he was being evasive; others that he
was
thinking about how ideas are embodied and lived.
Mánh viết
Sử dụng những
kẻ thế thân,“tớ đấy, nhưng không phải tớ”. Loài vật là đề tài của
Coetzee
trong những lần diễn thuyết "Tanner
Lectures", ở Princeton, vào năm 1997. Nhưng ông đếch coi đó là quan
điểm, vị thế
của mình, và “bật mí”, của một nhà văn, một nữ văn sỡi.
Căng nhất,
gây tranh cãi nhất, là chúng được so sánh với kỹ nghệ sản xuất thịt
[người] ở Lò
Thiêu.
Một vài nhà phê bình thì nghĩ rằng thì là Coetzee chơi trò ẩn
hiện,
evasive: lẩn tránh, thoái thác; một số khác, ông ta đang suy nghĩ về,
như thế nào,
làm sao, những tư tưởng đó được cưu mang, và sống, với nhau.
ROLE MODELS
Not hard to
spot: Coetzee writes novels about them. "Foe" (1986) is a reworking
of "Robinson Crusoe", "The Master of Petersburg" (1994) is
about the life of Dostoyevsky. The influence of Kafka is felt in
Michael K’s
name, which evokes "The Trial", as do his run-ins with obscure and
violent authority.
Hàng Mẫu
Dễ ợt,
nhận
ra liền tù tì: Coetzee “đi” những cuốn tiểu thuyết về họ. “Foe” (1986),
là nhái lại, làm lại "Lỗ Bình Sơn
phiêu lưu ký" [Thảo nào, TTT “viết lại” Một
Chủ Nhật Khác, dành riêng cho Đảo Xa!] “Sư Phụ ở Petersburg”
(1994), là về
cuộc đời của Dos. Ảnh hưởng của Kafka thì ngửi ra liền, qua cái tên
Michael
K, làm bật ra “Vụ Án”, cùng với chúng, là những cuộc uýnh lộn của ông
với quyền
uy tối tăm và hung bạo.
\
DAY 2
TOMAS
TRANSTROMER (b. 1931)
After
Someone's Death
Once there
was a shock
that left
behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains
us. It blurs TV images.
It deposits
itself as cold drops on the aerials.
You can
still shuffle along on skis in the winter sun
among groves
where last year's leaves still hang.
They are
like pages torn from old telephone directories-
the names
are eaten up by the cold.
It is still
beautiful to feel your heart throbbing.
But often
the shadow feels more real than the body.
The samurai
looks insignificant
beside his
armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
DAY 49
GUILLAME
APOLLINAIRE (1880-1918)
L'adieu
J'ai cueilli ce brin de
bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
The Farewell
I picked
this fragile sprig of heather
Autumn has
died long since remember
Never again
shall we see one another
Odor of time
sprig of heather
Remember I
await our time together
Translated
from the French by Roger Shattuck
Note: Mùa Thu
Chết đã có bản tiếng Anh, tuyệt lắm, của BBT The Paris Review.
Chưa kiếm ra.
Nay có thêm
bản này.
Câu
"Hãy nhớ anh đợi thời gian của chúng ta cùng nhau", tuyệt.
Gấu Cà Chớn ngộ ra là, dịch là phải làm sao cho khác nguyên bản!
Và cái chỗ khác đó, là sáng tạo!
Một vị độc giả TV rất mê những bài "lộng dịch" của GCC.
Thí dụ, bài dưới đây:
My grandmother prophesied the
end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving a
speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were
all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure I understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán ngày tàn của
đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng, Sáu
Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
Ui
chao, hóa
ra là W. Benjamin cũng phán như thế, bạn chỉ cần thay “để cảm nhận”,
bằng, “để
dịch”! (1)
"To
perceive the aura of an object we look at," wrote Walter Benjamin,
referring more to the work of art than to landscapes, "means to invest
it
with the ability to look at us in return":
"Để cảm
nhận hào quang của vật mà chúng ta nhìn vô", W. Benjamin viết - ông
muốn
qui nhiều về nghệ phẩm hơn là về phong cảnh - "có nghĩa là đầu tư nó,
tiêm
chích nó, cái khả năng nhìn trở lại chúng ta".
Phải làm cho
bài thơ dịch “nhìn trở lại” chúng ta!
Chinua
Achebe, 1930-2013
Chinua
Achebe
HTN, trên nhật
báo Tự Do, khi Bếp Lửa xb lần thứ nhất, đã chê câu
văn [tả Thịnh, cô con gái riêng
của ông Chính,"lăn lộn như 1 con chó điên", bữa hạ huyệt bố]: Tả như
thế là sỉ nhục con người.
Chinua
Achebe chỉ ra những miêu tả người Phi Châu, như là những con vật, trong
Trái
Tim của Bóng Đen của Conrad, và phán, đây là 1 nhà văn phân biệt
chủng tộc.
Nhưng Simon Willis, trên tờ Intel, trong bài viết “Ghi
chú về 1
giọng văn”, đã coi đây là 1 trong những điểm mạnh của Coetzee.
STRONG POINTS
(1) Pronouns. "I" or "he" are simple words, unless Coetzee
writes them. "Boyhood" (1997), "Youth" (2002) and
"Summertime" (2009) are all autobiographical works. The first two are
written in the third person present tense. In the third, Coetzee is
dead. The
game poses serious questions. How much can we know about ourselves?
What does it mean to tell the truth? (2) Form. As well as oblique
memoirs,
Coetzee has written allegories and epistles. In "Diary of a Bad Year"
(2007) he divided each page into three, one for each strand of the
narrative.
The result is a beautiful counterpoint, a fugue for three voices. (3)
Animals.
They give Coetzee many of his most piercing images of human
degradation.
Michael K drinks "like a guilty dog". The magistrate in "Waiting
for the Barbarians" (1980) hangs from a tree "like a great old moth
with its wings pinched together, roaring, shouting".
Điểm mạnh
1. Đại từ.
“Tôi”, hay “anh ấy” thì là những từ đơn giản, ngoại trừ dưới tay
Coetzee, khi ông sử dụng tới chúng. Tuổi thơ, "Boyhood" (1997),
Tuổi Trẻ, "Youth" (2002), Hạ Thì, "Summertime"
(2009), thì đều là những tác phẩm tự thuật. Hai cuốn đầu, viết bằng
ngôi thứ
ba, thời hiện tại. Trong cuốn thứ ba, Coetzee ngỏm.
Trò chơi đặt ra những câu hỏi nghiêm trọng:
Chúng ta biết, nhiều như thế nào, về chúng ta?
Nghĩa là gì, nói... sự thực?
2. Hình thức. Thể dạng.
Xiêu vẹo tới đây hay tới đó, đó là hồi ký, đó là Coetzee viết những ẩn
dụ, và
thư từ. Trong Nhật Ký Năm Xấu, "Diary of a Bad Year" (2007),
ông chia 1 trang ra thành 3, mỗi trang nhỏ như thế treo 1 dòng kể. Kết
quả, 1
tẩu khúc cho ba giọng.
3. Loài vật.
Chúng đem đến cho Coetzee rất nhiều, trong số những
hình thê thảm
nhất của sự thoái hóa của con
|
|