CHÂN DUNG
HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 8)
NGUYỄN HUY
THIỆP
Một thời
trong giới nghệ sĩ , người ta coi Văn Cao là cụ tiên chỉ trong làng
nhạc. Vậy
trong làng văn , cụ tiên chỉ ấy là ai vậy ? Tất nhiên không phải ông
Hữu Thỉnh
tuy đã được Đảng chọn làm Chủ tịch Hội nhà văn suốt đời và thực ra cái
ghế đó
so với phẩm trật triều đình thì cũng chỉ ngang chức Bật Mã Ôn mà Ngọc
Hoàng Thượng
Đế ban cho Tôn Ngộ Không ?
Vậy thì cụ
tiên chỉ trong làng văn một thời là ai ?
Là ai thì chắc
mọi người đều biết - đó là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, người gây “”động
đất” làng
văn vào thời Đảng tuyên bố cởi trói cho nhà văn.
Thời đó,
Nguyễn Huy Thiệp là một “hiện tượng đặc biệt”.
Trước hết,
xưa nay, một nhà văn trở thành nổi tiếng thường do giới phê bình “cung
đình”
tôn vinh theo gợi ý của Ban tuyên huấn vì nó đáp ứng một nhu cầu chính
trị nào
đó đang diễn ra kiểu như “Sống như anh” của Trần Đình Vân, “Người mẹ
cầm súng”
của Nguyễn Thi,”Hòn đất” của Anh Đức…Những nhà văn “trật khỏi đường
rầy” khỏi
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, không những khó được nêu danh
trên báo,
mà còn bị đập tơi bời, bị “cấm bút”.
Nguyễn Huy
Thiệp chẳng những được các nhà phê bình “quốc doanh” tung hô hết lời,
gọi ông
là “cây bút vàng” ( Vương Trí Nhàn) mà ngay cả các nhà nghiên cứu văn
học hải
ngoại cũng đưa ông lên cao chót vót, gọi ông là “nhà thạch học” ( Thụy
Khuê).
Hầu hết các
nhà phê bình”có số má” đều góp phần vào cơn bão ngôn từ ca ngợi Nguyễn
Huy Thiệp
: Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ
Đức Hiểu,
… các nhà văn Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Nguyễn
Khoa Điềm,
Hữu Thỉnh… và cả bạn đọc cũng hân hoan chào đón những sáng tác của
Nguyễn Huy
Thiệp. Danh tiếng của ông lan ra cả nước ngoài khiến ông được nhận giải
thưởng
văn chương Nonino tại Ý và huy chương Chevalier des arts et des lettres
của
Pháp .
Tuy nhiên,
“lộc” văn chương Nguyễn Huy Thiệp được hưởng dường như đã vượt quá cái
phần giá
trị thực của ông.
Vì sao vậy ?
Trước hết
ông không thuộc các nhà văn Việt Nam lớn lên từ nền văn hóa Pháp, ông
chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc thì đúng hơn.
Trong truyện
“Giọt máu”, đoạn tên Phạm Ngọc Chiểu muốn chiếm đoạt nicô Huệ Liên chùa
Thiên
Trù bèn nhờ tên “macô” Hàn Soạn,bày mưu :
"Việc
này có năm bước. Em quen hòa thượng trụ trì ở chùa Thiên Trù là nơi ni
cô Huệ
Liên ở đó. Ðến đấy, quan bác giả đò đau bụng rồi bảo bà chị cứ đi vào
chùa
Trong trước, quan bác đưa biếu hòa thượng một lạng vàng, nếu hòa thượng
không
nhận thì thôi, coi như hỏng việc. Nếu hòa thượng nhận, thế là được một
bước.
Ðêm đó hòa thượng cho quan bác nghỉ ngơi trong trai phòng, quan bác đưa
cho em
một lạng vàng để em lo gác bên ngoài, hòa thượng mời cơm chay, có ni cô
hầu rượu.
Quan bác ép ni cô uống một cốc rượu có pha thuốc mê, nếu ni cô không
uống thì
thôi, coi như hỏng việc. Nếu ni cô uống, thế là được hai bước. Dọn mâm
xong, ni
cô say thuốc, hòa thượng quay đi, quan bác bế ni cô lên giường, thế là
được ba
bước. Quan bác cởi y phục nhà chùa của ni cô ra, muốn làm gì thì làm,
thế là bốn
bước. Sáng hôm sau, ni cô tỉnh lại, hòa thượng với em vào, chửi mắng
quan bác với
ni cô làm nhục cửa thiền, bắt quan bác phải ký văn tự nhận ni cô về,
quan bác nộp
vào hòm công đức một lạng vàng xá tội, thế là năm bước"
Thử so đoạn
văn của Nguyễn Huy Thiệp với đoạn văn của Thi Nại Am trong Thủy Hử
chương Tây
Môn Khánh nhờ Vương bà dụ dỗ Kim Liên , vợ Võ Đại Lang :
“Đến lúc mua
được thức nhắm về, tôi lại nhờ nàng xếp đồ khâu lại, để cùng ngồi uống
rượu cho
vui, thế mà nàng không chịu ngồi là việc hư hỏng. Nếu nàng bằng lòng
ngồi cho,
thì việc ấy có tới tám phần bợm rồi đó. Uống dăm ba chén rượu, tôi giả
vờ là hết
rượu,bảo cậu phải mua thêm. Bấy giờ cậu sẽ nhờ tôi đi mua hộ, đoạn rồi
tôi đi
khép cửa, để mặc hai người ở đó, thế mà nàng hoảng hốt đòi về là hỏng
việc. Bằng
nàng cứ ngồi yên không nói chi, là việc có chín phần bợm rồi đó. Đến đó
chỉ còn
thiếu có một phần nữa là xong…trước hết phải giơ tay áo lên bàn, giả
cách đánh
rơi chiếc đũa, rồi lại vội vàng cúi xuống nhặt, và rờ tay vào chân nàng
mà nắm
một cái, nếu nàng gắt giận cự mắng, thì tôi sẽ chạy vào cứu, song như
thế cũng
là hỏng việc, không còn làm thế nào được nữa! Nhược bằng nàng lẳng lặng
không
nói gì, thì bấy giờ cóđủ mười phần bợm rồi đó.”
Tất nhiên,
không ai kết luận Nguyễn Huy Thiệp “cóp văn” của Thi Nại Am, nhưng
“mượn thủ
pháp diễn nghĩa ” trong văn chương Tàu là khá rõ. Mà văn chương Trung
Quốc phần
lớn xoay quanh “thủ đoạn sống”, “mẹo làm người”, “người ăn thịt người ”
… đó
cũng là những đề tài và những câu triết lý sặc mùi “tàu” thường thấy
trong văn
chương Thiệp , .
Trở lại câu
hỏi vì sao văn chương Thiệp lại “semer à tout vent” , gieo được vào các
ngọn
gió – nôm na là “Đảng khen, dân thích và cả hải ngoại cũng …OK” ?
Trước hết
NHT không đi vào vết xe của các nhà văn bị “cấm bút”, bị “thu hồi
sách”, bị đập
tơi bời trên báo chí. Tác phẩm NHT dẫu có mổ xẻ cái xấu của con người
thì cũng
không phải là con người xã hội chủ nghĩa, mà con người chung chung,
không đòi hỏi
dân chủ, không tố cáo chế độ, không “phản biện” trật tự xã hội xã hội
chủ
nghĩa…Tóm lại văn chương Thiệp không phạm những chuyện “nhạy cảm”, Vậy
yên tâm
nhé, các nhà phê bình “quốc doanh” cứ thả sức ca ngợi mà không bị tuyên
huấn thổi
còi . Tất nhiên ở đâu đó, NHT cũng có đôi lời “phàn nàn”, “động chạm”.
Trong
bài “viết cho Hội nghị lý luận phê bình văn học tháng 11/1989, ông nói
trắng phớ
:
“Chúng ta cần
phải tỉnh táo nhận ra rằng tình trạng hiện nay của dân tộc ta là thê
thảm. Tôi
không muốn nói đến tình trạng thiếu thốn vật chất mà muốn nói đến thế
giới tinh
thần của họ. Những ràng buộc nặng nề của các tư tưởng lạc hậu cũ kỹ
khiến cho
hàng triệu số phận con người đau khổ. Họ mê man trong các công sở và
trong các
tổ quỷ gia đình, trong các luỹ tre xanh và các khu tập thể đông hộ.”
‘Trên văn
đàn, số nghiệp dư và tỉnh lẻ thời nào cũng có và đông như kiến(!). Thói
to mồm,
tính chất bảo hoàng hơn cả nhà vua và đủ kiểu văn hay khác có thể giết
phăng,
giết tươi những người có ý định tử tế muốn làm việc này. Việc tranh đấu
với những
con ngợm văn chương (chữ của người Pháp dùng để chỉ đám quần cộc trong
văn học)
là bất khả. “
Trong ““Trò
chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” , Nguyễn Huy
Thiệp gọi
Hội nhà văn là “đám giặc già” và gây nên một làn sóng la ó và phản đối.
Tuy
nhiên tất cả những ý kiến kiểu đó chỉ là trên bài phát biểu, chứ không
bộc lộ
thành cảm hứng, thành chủ đề trong sáng tác. Và cũng chỉ ít lâu sau,
Nguyễn Huy
Thiếp lại viết theo kiểu “bé ngoan” để chuộc lỗi :
“Tôi cứ nghĩ
rằng thời của tiểu thuyết sẽ là thời của dân chủ, thời của những tư
tưởng tự
do, thời của sự ổn định chính trị và kinh tế: đấy cũng là thời mà chúng
ta đang
sống bây giờ. “
Dẫu sao,
Nguyễn Huy Thiệp vẫn xuất sắc trong một số truyện ngắn khiến một thời
ông đáng
mặt là “tiên chỉ trong làng văn” . Nhưng lộc trời chỉ có vậy, sang lĩnh
vực tiểu
thuyết, cái phần chính yếu làm nên cốt cách một nhà văn lớn thì ông
lại…không
có. Tuổi hai mươi yêu dấu, Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm …tiếc thay
lại là những
truyện dài tồi, bộc lộ một lỗ hổng chết người trong văn chương Nguyễn
Huy Thiệp
: câu chữ dễ dãi, sơ sài và nhất là …không có tư tưởng. Và như lời kịch
tác gia
Shakekspeares :” lời mà không có tư tưởng sao bay được lên thiên đàng
?”. Mai
sau, trải qua sàng lọc sinh tử của thời gian, văn chương Nguyễn Huy
Thiệp liệu
bay cao tới đâu ?
Khi được nhà
báo hỏi nhắn nhủ gì cho lớp trẻ, Nguyễn Huy Thiệp trả lời
” Trước hết
các bạn phải nổi tiếng”
Đó là khác
biệt rất lớn của Nguyễn Huy Thiệp với những nhà văn lớp trước , khác
nào Thiệp
xúi các nhà văn trẻ chăm chăm vào PR hơn là khổ luyện văn chương chữ
nghĩa. Thế
còn “trách nhiệm thời đại”, “lương tâm thời đại”, “lương tri dân
tộc”…xưa nay
xã hội thường trông cậy các nhà văn ? Không dám động chạm tới “cường
quyền”,
Nguyễn Huy Thiệp khôn ngoan né xa những “nhạy cảm” chết người đó.
Xuân Sách hiểu
khá rõ Nguyễn HuyThiệp , bởi vậy đã hạ bút :
“Không có
vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn
phải chết tại chiến trường
Kiếm sắc
chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi
trong lửa chịu đau thương.”
Nhật Tuấn FB