Tôi vừa 17 vào năm 1956, đã vào Sài Gòn
sống được hơn một năm, đang đi học, đang làm quen với một thế giới khác
qua giọng nói đầy phương ngữ, qua những món ăn chưa thấy bao giờ, qua
cách sống dung dị với tờ giấy bạc xé đôi khi cần tiêu một nửa…Và, nhất
là qua một bối cảnh lịch sử đang dường như thiếu thời gian cho sự đòi
hỏi một vận động triệt để: cuộc chiến tranh chống Pháp đang loay hoay
một cách lý giải tại đô thị miền Nam. Và với một đứa bé có chút máu mê
văn chương thì đó còn là bắt đầu một quá trình làm quen với những
“luống cày” văn học mà người cày không ai khác hơn là nhóm Tạp chí Sáng Tạo.
Trên nửa thế kỷ đã
đi qua, những biến thiên lịch sử, xã hội mà tôi bị cuốn vào đó đã san
lấp ký ức tôi, có thể nói đã một lần phá hủy tôi khi mà sách báo gom
góp bao nhiêu năm (trong đó có Sáng Tạo) đã phải nộp để đốt
theo lệnh nhà chức trách trong năm 1975. Bây giờ còn gì chăng chỉ là ký
ức có phần mòn mỏi nhưng tôi nhất quyết níu lấy nó khi viết bài này
thay vì có thể tìm vào một thư viện nào đó…
Tháng 10 - 1956,
Tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sài Gòn như một
sự "nổi loạn", một "chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới" mà ngay cả
hình thức trình bày, ấn loát cũng vậy. Trên Sáng Tạo xuất hiện những
tên tuổi chưa một thời xuất hiện như nhà văn tên tuổi, họ từ miền Bắc
vào trong cuộc di cư 1954 :
Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Sỹ
Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại,
Nguyên Sa…
Họ tạo dựng
cái mới như thế nào? Mai Thảo viết:"Những trào lưu cạn dòng phải
nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [...] Cái
vấn đề lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao
đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá
khứ [...]. Công tác chặt đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên
hàng đầu ... và thơ bây giờ là thơ tự do”. Thanh Tâm Tuyền định nghĩa
nổi loạn: "Nổi loạn
là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống
như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo." (Những
chi tiết này tôi lấy được trên Internet)
Trên thực tế, Sáng Tạo đặt vấn đề một cách rốt ráo
hơn so với Tự Lực Văn Ðoàn những năm 39 – 45. Văn chương không phải
công cụ xã hội của âu hóa của một xã hội VN cũ kỹ, mà đã có suy tư là :
Có thể có tác phẩm văn học hay không? Có thể có một cuốn tiểu thuyết,
một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại
vấn đề viết, viết như thế nào? Lối viết kể chuyện, có cốt truyện, và cả
lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng ...
đã lỗi thời vì không đạt tới tận cùng tính cách chính xác và xác thực. Bếp Lửa của Thanh
Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại vấn đề viết.
Tôi cũng tìm được
sụ nhất trí với một tác giả viết tern internet: Thổi nguồn gió mới vào
thời đại của họ, thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật, Sáng Tạo
đã thành công trong việc hiện đại hóa văn học, đem hai dòng mạch lớn
của thế kỷ XX vào văn học Việt: Dòng hiện sinh và dòng siêu thực, với
những tính chất nền tảng: Hoài nghi và Mộng tưởng.
Lớp người đọc
16, 17 chúng tôi đến đó bắt đầu biết đến Sartre, Camus, đến dấn thân,
đến biện chứng của Sartre…Tôi không quên khi Sáng Tạo đang “vỡ đất” thì
Nhất Linh xuống núi và tờ Phong
Hóa Ngày Nay của
ông tại Sài Gòn nhanh chóng thành tạp chí của..ngày xưa mà không một
dòng điếu văn nào cả!
Sáng Tạo đặt lại vấn đề một cách
kinh ngạc cho bọn chúng tôi khi ấy. Tác phẩm văn học có phải chỉ là
công cụ, phương tiện thực hiện những luận đề như cả ngàn năm trước kia?
Hay nó chính là cứu cánh? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản,
một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại vấn đề viết .
Viết như thế nào? . Tác phẩm không cần kết luận, mà tác phẩm trình bầy
một biện chứng, một thẩm mỹ của sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ
khác và sẵn sàng chờ đón những nối tiếp về sau.
Tác phẩm không còn nhiệm
vụ khơi gợi cảm xúc và làm mủi lòng theo nghĩa lãng mạn, mà tác phẩm
gây nỗi đau, gây khó chịu bằng nhận thức. Sáng Tạo là một khúc quanh văn
chương lớn lao và cũng là khúc quanh gấp.
Trước nó, văn chương tại chỗ
(tôi nghĩ Hồ Biểu Chánh là đại diện) loay hoay những mối tình éo le,
mùi mẫn, nhân vật phần đông cam chịu dưới một tâm lý hời hợt mà không
có bi kịch. Và dòng văn chương Tự Lực văn đoàn thì đến khi đất nước
chia đôi dọn vào miền Nam cũng
chỉ còn biết tá túc trong những ngày tàn của môt thứ văn chương luận đề
mà vào hoàn cảnh mới đã không còn “chính nghĩa” nữa. Có một nửa nước
với một chế độ chính trị xã hội mới thì cũng đòi hỏi tự do sáng tác và
đổi mới tư duy văn học trổi dậy phù hợp. Có vẻ như đã có khuynh hướng
quên đi văn chương 9 năm chống Pháp, tôi nghĩ động cơ không phải chính
trị mà là do khao khát cái mới mà nhóm Sáng Tạo là thành phần chủ công
tuy có “xa rời quần chúng” nhưng lại được chính quần chúng đón nhận, ít
ra cũng là thành phần “ưu tú” của quần chúng văn học thời đó.
Ngày ấy và đến bây giờ,
với tôi nhân vật đình đám củaSáng Tạo - như một nhân vật tiểu
thuyết – không ai khác hơn Thanh Tâm Tuyền, cái đáng nhớ là ở chỗ ông
vừa đột phá về tiểu thuyết vừa tiên phong khai phá thơ tự do.
Thơ tự do của Thanh Tâm
Tuyền hoàn toàn phá bỏ những cấu trúc như lối thơ cũ và quan niệm nghệ
thuật theo tinh thần Dionysos nổi loạn chống lại sự hài hòa theo tinh
thần Apollon. “Người làm thơ không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn
đã là một hình dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng
thẳng phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn
loạn không che đậy." Đó là những câu ông viết năm 19 tuổi (1955),
mà các nhà phê bình xem như là tuyên ngôn về thơ tự do. Thanh Tâm Tuyền
quan niệm rằng: "Thơ tự do không gieo vần lối đồng âm, đồng thanh, vần
của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác âm, nghịch thanh),
nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn trong một
số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ
khác". Ngoài ra ông còn đề cập đến loại nhịp điệu của hình ảnh và ý
tưởng, nói chung đó là nhịp điệu của ý thức.(Từ Internet)
Trong thơ ông còn
dùng kỹ thuật tạo hình lập thể và siêu thực: coi đời sống là những mảng
đứt đoạn, thực tại là một chuỗi liên tục những mảng đứt đoạn ấy và tiềm
thức là nguồn sáng tạo vô biên.
Gần đây tôi đọc được nhận định
của một người rằng Thơ Thanh Tâm Tuyền thường không phải là tiếng nói
hay lối suy tưởng thông dụng và những hình ảnh quá khác biệt đặt cạnh
nhau trong thơ ông theo kỹ thuật tạo hình siêu thực khiến người đọc khó
thấy hết ý nghĩa ẩn dụ chứa trong đó:
Đêm giao thừa thế kỷ mưa rơi sao
mái sáng đường nằm chiêm bao biển giận dỗi
bàn tay mây mắt trăng môi nhiệt đới
Đó là những hình ảnh khác lạ chưa bao giờ
thấy trong thi ca Việt Nam: Đêm giao thừa thế kỷ, mưa rơi sao,
..., bàn tay mây, mắt trăng, môi nhiệt đới. Và những hình ảnh thật đẹp,
ta đã quá quen thuộc cũng xuất phát từ thơ ông: đêm màu hồng, lệ đá
xanh, nắng thủy tinh ... : "Hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền là người dẫn
đường, người tiên phong đem siêu thực vào Việt Nam một cách có hệ thống
và đã tạo ra những câu thơ mới nhất, giàu hình ảnh nhất trong thơ
Việt". Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã phẫn nộ, đau đớn, mong được khóc la,
được run giận, ... bằng chính thể xác của những cặp uyên ương trong
thành phố Budapest để thông cảm đến tận cùng những nỗi thống khổ vô
biên của họ:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
. . . .
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch
ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương
lai
. . . .
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở
em
Hỡi những người kế tiếp
lời thơ giản dị nhưng cách diễn tả mới lạ,
vần điệu biến mất chỉ còn là hình ảnh, những câu thơ dài ngắn khác nhau
hầu như được sắp xếp theo những ảnh tượng và cảm xúc trào dâng trong
tâm hồn tác giả mà tác giả cho đó là loại nhịp điệu của ý tưởng, của
hình ảnh. Đây là bài thơ tự do thật hay, gây xúc động mạnh và được
nhiều người yêu thơ thời đó truyền tụng, đọc thuộc.
Thơ Thanh Tâm Tuyền đầy tình
nhân ái. Giọt lệ sầu thảm của những kẻ cô đơn cứ chảy mãi, chảy mãi
trong đớn đau đến hóa thành những viên đá xanh và tim của những viên đá
ấy cũng phải rũ rượi! Đó là những hình tượng đẹp trong thơ văn:
Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
Tổ quốc, trời xanh nín lặng; cuộc sống không
lối thoát bủa vây và bóp chết mọi hy vọng, tuổi trẻ thì quá buồn; những
kẻ yêu nhau đôi lúc phải tìm cách trốn thoát thực tại, trốn thoát những
dày vò khổ đau sẽ đến trong những ngày sắp tới:
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu em đi xa
Đi đi chúng ta đến công
viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm
đuối
Ôi môi em như mật
đắng
Như móng sắc thương đau
Đi đi anh đưa em vào quán
rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà
Nội
Anh là thằng điên khùng
ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới.
Chiếc kèn hát mãi than
van
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Tuổi trẻ sao quá
buồn
Như con mắt giận dữ
Tuổi trẻ sao quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng
dậy
Người bán hàng đã ngủ sau
quầy
Anh đưa em đi
trốn
Những dày vò ngày mai.
Đọc thơ Thanh Tâm
Tuyền là đi vào những thiên đường của dĩ vãng, của hoài niệm và ký
ức. Ông quả thật là mang tâm hồn thi sĩ đa tình, mẫn cảm. Dòng
thơ của ông đem đến cho ta muôn vàn cảm xúc giản dị và gần gũi. Xét cho
cùng nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam
những dòng thơ tràn ắp thi vị thi ảnh, được viết lên từ những khát vọng
của tự do, từ những cái nhìn linh cảm về những chặng đường của cuộc đời
mà ông đã đi qua ( Internet)
Về nội dung chính yếu, chất liệu trong
thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người
trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức
tiểu tư sản Việt Nam trước
thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt
qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật.
*
Bếp Lửa là một truyện vừa đầu tay
của Thanh Tâm Tuyền. Truyện được viết từ ngôi thứ nhất “tôi” tên Tâm,
dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Không phải là tự truyện,
nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa
vào thời điểm trước hiệp định Genève 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận
dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng,
nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân
vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự
phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa
mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư
vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội,
như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng…
Còn Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như
Meursault, nhân vật Người xa lạ : không biết rõ mình muốn gì, nhưng
biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi
việc, “ngạc nhiên một chút rồi tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ
việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn
quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say” Trong thế giới
ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm
và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. «Đôi khi tôi nghĩ tôi có
thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không
đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả”.
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng
thôi. Tâm gặp lại Hạnh, “chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy
tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn” . «Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh –
hay chỉ cần sự đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh
thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…).”.
Vào năm 1965 khi
truyện ngắn Dọc
Đường của nhà
văn Thanh Tâm Tuyền ra đời thì thời điểm này cũng là khi các thành thị
lớn nhỏ của Sài Gòn bị lọt thỏm trong chiến cuộc mà ngày và đêm trở
thành ranh giới cho không ít những phận người. Lúc ấy tôi 26 tuổi, và
đọc “Dọc Đường” với một cảm giác rùng mình nổi da gà, 49 năm qua đi
nhưng đến nay cảm giác ấy vẫn còn rất sắc sảo.
Không gian và
cảnh tượng chỉ là một buổi chiều chạng vạng ở một dãy phố chợ tạm bợ
nằm dọc quốc lộ chạy qua một khu rừng cao su. Và cũng như cái không
gian không tên riêng, những nhân vật của “Dọc Đường” cũng chỉ được gọi
theo giới tính, độ tuổi... hoặc một nét nhận dạng bất kỳ nào đó. “Người
đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá quần xà lỏn, một
chân co lên ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền
bên vận quần áo kaki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không
vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một
phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lnh đen bám bụi đỏ, áo túi
trắng ngả màu.”
Sống ở
cái nơi như thế, trong bối cảnh cuộc chiến tranh đã tới hồi gay cấn,
điều quan tâm của nhóm người này là một... con đường có những chuyến xe
đủ loại chạy qua biểu hiện của sự thông suốt liền lạc mà bất cứ lúc nào
cũng có thể không còn như thế. Vào thời buổi ấy, trời càng về chiều xe
càng chạy bán sống bán chết cho kịp tránh bóng đêm khi đường , rừng
được “bàn giao”. Không khí chiến tranh được dẫn vào truyện đơn giản như
một thói quen chờ đợi như vậy. Nghệ thuật hiển thị sự việc của Thanh
Tâm Tuyền là rất điêu luyện, chúng cứ lộ diện từ từ từng chút một, từ
câu nói vu vơ “Tối nay thế nào cũng có hành quân” đến “Đậu cái này rồi
về tía” ,“Tụi bay tuột dù hết rồi. Máy bay trực thăng đó.” Toàn là
những lời vô tư ngắn gọn phục vụ đánh bài như thế. Vài phút sau, tiếng
động cơ nổi rõ hơn, tới gần... Chiếc trực thăng bay sà thấp ngang qua
quán. Hai người dân vệ từ trong lối xóm trở ra, chân mang giầy bó túm
ống quần bám sình vì bụi đất: một người đeo súng hai tay bưng trên
miệng húyt vào chiếc lá tre non kêu chít chít từng hồi như tiếng chim,
một người quàng hai tay trên hai đầu súng đặt nằm ngang cần cổ ngó phía
trước, cả hai mặc đồ đen đội những chiếc nón vải đen có lưỡi. Lính
chuẩn bị co rút vào đồn vì đã tới giờ bóng đêm không là của họ, còn một
số người dân thì sửa soạn về ngủ tạm tại một thành phố gần đó, như loài
chim di trú trốn tuyết. Người đàn bà không có cái ưu tiên...được sợ
chết này, nói với chồng:
- Mấy cha chỉ bầy chuyện đi chơi không à!
- Tao là đàn ông mầy nghe chưa? Ở nhà để lỡ
như lần trước... Tao ở nhà… Đ. m. thứ đàn bà ngu!
Ngay lúc ấy một chiếc xe có thể là cuối cùng
từ từ đi qua hết đoạn đường rào kẽm gai đậu trước quán hớt tóc. Người
lơ xe nhảy xuống đất kêu vô trong:
- Xuống lẹ lên cha nội. Một người đàn ông
tay ôm bọc giấy dầu, lom khom bước xuống. Tới đất, người đàn ông lại
muốn trở lên, nói
- Không phải đây…
Và chuyện bắt đầu.
Chiếc xe đò rồ ga
chạy thẳng vào. Người đàn ông đứng lại bên đường ngơ ngác. Hắn vận bộ
bà ba đen, chân đi săng-đan, tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao. Hắn
ngửa mặt nhìn lên trời trông chiếc trực thăng từ phía rừng cao-su bay
tới, đứng im rồi hạ thấp trên bãi trống bên kia đường. Một vài người
nhìn thấy người đàn ông bận bà ba đen ôm bọc giấy dầu đứng trước quán
hớt tóc.
Anh ta đi dần và
dừng lại trước nhiều căn nhà mong tìm một chốn nương thân qua đêm.
Nhưng nào có ai chứa anh ta? Hai chiếc xe be kềnh càng rần rần từ trong
rừng cao-su, xe chạy chậm. Người đàn ông đưa tay lên cao vẫy kêu: Cho
quá giang… Hai người tài xế đưa tay vẫy chào và xe vẫn chạy.
Người đàn ông thất vọng lẩm lũi trở vô quán.
Người đàn bà chủ quán hỏi
- Chú ở đâu tới?
- Tôi đi kiếm thằng em của tôi làm đồn điền
cao-su. Nhưng cái khổ là anh ta không nhớ tên nơi mình muốn đến.
- Chú nói chuyện trời đất không à. Bộ khi
không chú ngồi đó không cho tôi đóng cửa tiệm đi ăn cơm hả? Chú tính
chuyện gì?
Người đàn ông sửng sốt, giật hai tay ôm gói
đồ vào bụng ngó trân người đàn bà:
- Thím cho tôi ngủ đậu. Thím làm phước.
Người đàn bà kêu lên:
- Đâu có được chú... Biết chú là người thế
nào mà cho ngủ đậu. Lỡ đêm chú cắt cổ tôi sao? Người khách lạ, nhìn mọi
thứ, là một người lương thiện bị đánh đồng với những kẻ bất lương bởi
người ta sợ hãi hơn là dành chỗ cho lòng nhân ái
- Tôi đi đâu? Thím nghĩ coi…
- Tôi không biết. Mấy người rắc rối lắm.
Người đàn ông ngập ngừng bước ra khỏi quán
tiến tới bên cửa một tiệm sửa xe. Và điệp khúc lặp lại, lộ rõ hơn anh
ta là kẻ lỡ độ đường
- Anh Hai cho tôi ngủ đậu. Dưới đất cũng
được. Mơi tôi đón xe về sớm.
- Bộ anh cho là tôi khùng hả. Cha này kỳ quá…
Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Người
đàn ông đi tới bên lề đường. Một vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa. Hắn gõ
nhẹ lên cánh cửa rồi nghe ngóng... Trời cứ tối dần. Người đàn ông cúi
nghiêng xuống ngang mặt với lỗ hổng:
- Tôi lỡ độ đường. (CTC nhấn mạnh)
Một tiếng nổ ầm rung
chuyển đất. Lỗ hổng đóng xập lại và tiếng chân chạy trong các nhà, Mọi
cửa đều đóng vội. Những tiếng nổ tiếp theo còn cách xa. Người đàn ông
dáo dác ngó ra đường. Trên trời phía rừng cao su trái hỏa pháo bắn vọt
lên lơ lửng vài phút rồi tắt. Tiếp theo một trái hoả pháo khác.
Người đàn ông đứng ôm bọc giấy bên lu nước
.
Tôi còn
trong ký ức mấy câu thơ Thanh Tâm Tuyền :
Vứt mẩu thuốc cuối
cùng xuồng dòng sông
Mà lòng mình phơi
trên kè đá
Chiều không xanh
không tím không hồng
Những ống khói tàu
mệt lả
Ngày ấy, tôi cứ
lẩm nhẩm những câu thơ có hình ảnh tuyệt vời này và không làm sao quên câu nói của nhân vật trong truyện ngắn Dọc Đường : “Tôi lỡ độ đường”. Bây giờ đây tôi có thể nói
được câu nào khác hơn những câu ấy?
CTC 6-2014