|
Viết
Sắp tới ngày
mất của ông anh nhà thơ, 22 Tháng Ba, 2006. Thấy mấy đấng bạn quí của
ông tưởng
niệm ông, thằng em đành đứng né qua 1 bên. Để dịp khác, ngày khác, viết
cũng được.
Và, thay vì vì, thì đi 1 đường tưởng niệm Roland Barthes.
Tụi Tẩy đang ì xèo tưởng
niệm 100 năm năm ông ra đời.
Face à face
sur le plateau d' « Apostrophes », le 30 mars 1979, Anthony Burgess et
Gunter
Grass (au premier plan), Alberto Moravia et Bernard Pivot.
Nhìn cái hình những nhà
văn nhớn xuất hiện trên chương trình văn học “Apostrophes” của
Pivot, trên TV Tẩy, thì lại nhớ, đọc đâu đó, cái vụ "em" TK gọi điện
thoại TTT,
xin nói chuyện, và chắc là cũng có ý phỏng vấn phỏng viếc gì đó, cho
đài phát
thanh Tẩy, ông đếch thèm trả lời. Nghe nói, em quê quá, gần như phát
điên, hà, hà!
GCC cũng bị 1 lần như vậy!
Lần đó, NDN
từ Montreal xuống, bàn chuyện làm nhà xb, GCC xăng xái, để xin ý kiến,
và có thể,
xin bài, xin sách TTT.
Gọi, gặp bà xã, chị Mai Hoa. Chị vui vẻ nói, anh ra ngoài, mua tờ báo,
chú chờ
anh về, gọi lại.
Chờ, gọi, phôn reo, không ai trả lời.
Bữa hôm sau, GCC phôn, xin gặp ông
anh, ông bực
quá, phán, không được cho bất cứ ai, số điện thoại của tao nhe!
Rồi lần bị ông em TTT, bạn
C. ra lệnh, cấm không được viết, ba thứ kỷ niệm về TTT nữa!
GCC có rất nhiều kỷ niệm thú vị về ông anh, và những kỷ niệm này, nếu
gặp tay
giỏi, có thể lần ra sợi dây liên lạc giữa con người và tác phẩm, qua
đó, nhưng lần
đó, do ông anh mới mất, khi viết, GCC không đủ bình tĩnh, để lọt một số
chi tiết
quá riêng tư, đúng ra không được viết ra.
Nhân đây, xin lỗi bạn C.
và
gia đình.
NQT
V/v R.
Barthes. Trên Blog Đồng Nhơn, có post 1 bài về ông.
Barthes có 1
cuốn GCC thú lắm, trong những cuốn thú lắm, viết về sử gia Tẩy: Michelet.
Tuyệt cú mèo. Không biết ông bạn Tạ Chí Đại Trường đã từng đọc? Nghe
nói anh bị
bịnh, và bị 1 ông bạn VC loan báo ngỏm! Xin chia buồn, về đấng bạn quí,
và cầu
mong chóng mạnh, lành. NQT
Art puts
history on show and makes the historian into a writer.
[Nghệ thuật
đưa lịch sử ra trình làng, và biến sử gia thành nhà văn].
Roland
Barthes viết, Michelet, một tay xực lịch sử, Michelet, eater of
history. Ở đoạn
"Michelet as predator", kẻ ăn thịt sống, ông coi sử gia người Pháp
này, giống Pascal, Rimbaud, là những người viết tới đâu ăn văn mình tới
đó,
[Michelet is one of those predatory writers (Pascal, Rimbaud) who
cannot write
without constantly devouring their discourse].
[Bản tiếng
Anh của Richard Howard, nhà xb Hill and Wang, New York]
Michelet nhận
lịch sử như một món dinh dưỡng ông, bù lại, ông từ bỏ đời mình vì nó.
[Michelet
receives History as a nutriment, but in return he abandons his life to
it].
Đọc Barthes,
viết về Michelet, tôi cứ băn khoăn hoài, về những nhà nhà văn Việt Nam
chuyên về
đề tài lịch sử, thí dụ như Hoàng Khởi Phong với cuốn Người Trăm Năm Cũ
chẳng hạn,
với nhân vật lịch sử là Hoàng Hoa Thám và căn cứ địa Yên Thế.
HKP không phải
là người đầu tiên đưa ông hùm này vào trong tiểu thuyết.
Nhưng nhân vật
hay được kéo ra khỏi mồ, ra khỏi lịch sử, và nhét vào trong một cuốn
tiểu thuyết,
với một số nhà văn Việt Nam, là Nguyễn Huệ.
Đã có lần
tôi thử cắt nghĩa tại sao, với một Nguyễn Huệ của Nguyễn Huy Thiệp
chẳng hạn.
Xin nhắc lại sơ qua ở đây....
Nguyễn
Huy Thiệp nổi tiếng, theo như một vài
người [xin xem diễn đàn Talawas], vì đã đưa được "cứt" vào trong văn
chương.
Những lời
nói thô bỉ, hành động tục tĩu, sai nhét
cứt vào đám sĩ phu Bắc Hà, theo như Nguyễn Gia Kiểng, tác giả Tổ Quốc
Ăn Năn,
là do anh em Nhạc Huệ Lữ là những tay cướp biển [thú thực, tôi không
đọc cuốn
này, mà chỉ coi ba chớp ba nháng, những bài viết về nó, và tác giả, ở
trên
net]. Trong bài viết Truyện ngắn, tình yêu và chiến tranh, và ở một vài
chỗ
khác, tôi [NQT] đã giải thích, tại sao nhân vật NH hay bị lôi khỏi mồ
sống dậy,
nhập vào các tác phẩm văn học:
1. Nguyễn Huệ
là người độc nhất, dám Bắc Tiến, và giấc mộng của ông không ngưng ở Hà
Nội, xứ
Bắc, mà còn vượt biên giới, tới luôn xứ Tầu.
Giấc mộng Bắc
Tiến này, truy nguyên ra, là của cả một nửa nhân loại, vì theo như
"lịch sử"
cho thấy, thường ra là miền bắc xâm lăng
miền nam, ít có trường hợp ngược lại. Ngay lịch sử nước Mẽo cũng vậy,
thành thử
cái câu Yankees go home, được lập đi lập lại nhiều lần.
Cioran coi lịch
sử là tác phẩm của quỉ. Theo ông, những dân tộc thuộc vùng Đông Âu, đều
chống lịch
sử, cho dù khuynh hướng chính trị, ý thức hệ như thế nào. Bởi vì họ đều
là nạn
nhân của con quỉ này hết. Lịch sử: Ngày mai có riêng một quỉ của chính
nó: Miền
Bắc, Hà Nội. [NQT: Lần Cuối Sài Gòn]. Tất cả những dân tộc không có
đuợc cái số
mệnh của nó ở vùng phía đông Âu châu [ở miền cực nam của miếng đất hình
chữ S]
đều bị xâm lăng, thống trị. Với họ, lịch sử là ma quái, là tởm lợm.
[Nguyên
văn đoạn Cioran trả lời Léo Gillet mà
người viết "áp dụng một cách 'thiên tài' vào thực tế Việt Nam": Au
fond, tous les gens de l' est de l' Europe sont contre l' histoire. Je
vais
vous dire pourquoi. C'est que les gens de l' Est, quelle que soit leur
orientation idéologique, ont forcément un préjugé contre l' histoire.
Pourquoi?
Parce qu' ils en sont victimes. Tous ces pays sans destin de l' est de
l'
Europe, ce sont des pays qui ont été au fond envahis et assujettis,
pour eux l'
histoire est nécessairement démoniaque. Cioran, Entretiens, nhà xb
Gallimard,
1995].
Đó là một
trong những lý do tại sao những nhà văn Việt Nam hay sử dụng tới Nguyễn
Huệ,
như là một nhân vật tiểu thuyết dám đi ngược lại lịch sử, lật ngược số
mệnh của
những con người không có số mệnh...
[Nhân
nhắc tới Cioran, xin viết thêm một tị về ông này, một chuyên gia về
tản mạn, như ông tự nhận, khi được (Léo Gillet) hỏi, và giải thích: Bởi
vì tôi
lười biếng. Muốn viết cái gì dài dài [quelque chose de suivi], phải là
người hoạt
động. Tôi, tôi sinh ra ở trong mẩu đoạn. (Moi, je suis né dans le
fragment).
Tôi cũng viết được một mớ dài dài, nhưng thôi từ lâu. Bây giờ viết
Dương
Nghiễm Mậu
Viết
Tôi là kẻ may mắn sống
sót,
nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby,
trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước,
Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra
trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì nó
như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù
VC kể như
không có!
Đâu có phải tự nhiên mà
Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả
VC cũng
quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu,
Lò Cải
Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa!
Nhân cái vụ
Hà Nội chặt cây, GCC lại nhớ đến lần Gấu về lại làng cũ.
Khi Gấu bỏ chạy
vô Nam, mỗi lần nhớ làng cũ, thì hình ảnh đầu tiên bò về, là những rặng
tre
xanh.
Về, không còn 1 cây. Ba cái ao nhỏ trong làng cũng mất tiêu. Nhìn 1
phát,
là tới liền khu nhà có nhà thờ tổ họ Nguyễn, mà theo như trí
nhớ,
trí tưởng tượng, và thực tế, những ngày còn nhỏ, nó ở giữa 1 khu
đồng chiêm, mãi tít bờ biên của làng!
Ui chao, bữa đó,
lúc đó, là giữa trưa, nắng chang chang, chói loà con mắt, và khủng
khiếp thay,
G bèn nhớ đến cái lần vô xóm, ở Xề Gòn, gặp 1 em bạch bản.
Đèn đuốc sáng chưng,
em phơi bướm, trắng toát 1 cõi, trên giường, y chang bữa về làng cũ!
Thê thảm thực!
Nhà thờ tổ họ Nguyễn là nơi, mỗi năm cử hành lễ lớn của họ.
Bởi thế, bà nội Gấu mới bảo thằng cháu, ăn no, chóng lớn, đến 15 tuổi
là mày có phần thịt đấy, cháu ạ!
FERRARI. You
always talk of ethics, you've told me that having ethics is even more
crucial-as Kant saw it-than having a religion.
BORGES.
Religion can only be justified on the basis of ethics. On the other
hand,
ethics, as Stevenson said, is an instinct. It's not necessary to define
ethics-ethics is not the Ten Commandments. It's something we feel every
time we
act. At the end of the day, we will, doubtless, have made many ethical
decisions. And we will have had to choose+-I am simplifying the
theme-between
good and evil. And when we have chosen good, we know we have chosen
good; when we
have chosen evil, we know that too. What's crucial is to judge each act
for
itself and not for its consequences. The consequences of any act are
infinite,
they branch into the future and, in the end, become equivalent or
complimentary.
Thus, to judge an act for its consequences seems to me to be immoral.
Borges, Conversations,
Ethics and Culture
Borges, ông
luôn nói đạo hạnh cần hơn tôn giáo...
Tôn giáo chỉ
có thể được chứng thực trên căn bản đạo hạnh. Và về mặt khác, đạo hạnh
có tính
trực giác. Đếch cần phải định nghĩa nó. Đạo hạnh thì đâu có phải là 10
điều
giáo lệnh!
Bài viết này,
cuộc lèm bèm này, giữa bạn quí của Borges, và Borges, liên quan tới vấn
nạn “may
mà có Ngụy”, tức cái gọi là văn hóa, đẳng cấp, chính nó, phân biệt lũ
Ngụy với
lũ VC.
Tin Văn sẽ scan và dịch sau.
Looking on a
Russian Photograph, 1928/1995
It's the
classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the
Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed
out on
the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined
to be
crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein,
Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way.
Mayakovski,
rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at
the age
of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948,
cherished projects
betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely
watched at
home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive
Stalin -
yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in
1958,
he will not be permitted to accept, his book burned, his name
excoriated in his
homeland.
But there
they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last
symbols of
a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky
they
are, these three, able to experience lives of great crisis and choice.
Were
they not gifted with an energy that brought them each full-bore into
what
Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their
times"?
We shall all
lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These
three
men played out their lives across the dark landscape of a cursed
country, each
sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind
tortured them
with the impossibility of reason.
I do not
seek such death. I choose the milder climes of the USA circa
the late twentieth century - although these times, less sinister
certainly than
Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the
largest
sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the
sterile,
timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too
can be
boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of
information can be
far more ruthless than war or disease.
So I say-in
death, rest. There is much time later to sleep.
Until then
party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy
and
sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists
your
shoulders equal to all working and struggling people, neither higher
nor lower
but equal to its spirit in its own time.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver
Stone
The Paris
Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật.
Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng
bảnh, cực
bảnh, như bộ ba trên đây.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các
bạn.
Ở cái xứ Bắc
Kít, toàn Kít!
Một
bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp
chung với
nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ
nát bấy
ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền
nát dưới
gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski,
Pasternak - mỗi
người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự
tuyệt
trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời
36. Trái
tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị
phản bội,
nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh
trừng chặt
chẽ khi ở nhà.
Pasternak,
đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ
Stalin –
tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ
Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị
đốt, tên
bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng,
như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba
trái tim trẻ,
can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1
nền văn
minh trước khi khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi, thì lại nhận
ra 1 điều,
họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những
cuộc khủng
hoảng lớn, và chọn lựa lớn.
Tại sao 1 tên
như anh già NN không đủ can đảm để mà sổ toẹt ba cái dơ dáy, do hắn
viết ra, dám
làm những điều như Lukacs - từ bỏ gốc gác “de”, gốc quí tộc của mình,
như
Walter Benjamin, hay, như Nguyễn Tuân, đã từng muốn dùng ngọn lửa đốt
cháy cái
thân xác cũ – khi chưa biết Cách Mạng?...
Tại sao Nga có những tay,
lỡ tin theo
Cách Mạng, nhưng khi vỡ mộng, vẫn giữ được nhân cách?
Câu trả lời,
là từ Brodsky, qua Milosz, khi vinh danh ông:
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng
là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với
dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống
người, khám
phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê
cung, chúng
ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân
biệt dựa
trên đẳng cấp.
Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống
rác tìm
đồ ăn, [ui
chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng
hoại thoái
hoá bị kết án phải tuyệt diệt.
Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc
thần tiên còn hoài hoài.
Như thế, chính cái gọi là
đẳng cấp, phân biệt Ngụy với VC.
Điều mà DTH gọi là "văn minh thua bạo tàn", chính là vấn đề thuộc về
đẳng cấp, văn hóa.
Văn minh có thể thua bạo tàn, ngu đần.
Nhưng đẳng cấp, văn hóa, không.
Một tên già như NN, không làm được 1 hành động như những Eisenstein, Mayakovski,
Pasternak đã từng làm, chưa nói tới cỡ như Brodsky.
May mà có lũ Ngụy - như Vương đại gia phán - là theo nghĩa này.
Viên y sĩ đồng
quê, khi nghe tiếng kêu kíu của con bịnh Miền Nam, cần cặp ngựa quá,
tìm quanh
quẩn ở trong nhà, sau khi sai cô hầu đi mượn hang xóm ai cũng lắc đầu,
và gặp… cặp ngựa, ở trong chuồng lợn.
Gặp luôn con quỉ,
chủ cặp ngựa. Nó bèn OK, đây ngựa đây, bù lại, cho tớ cô người hầu. Con
quỉ, là
Cái Ác Bắc Kít, mà cũng còn là bạn quí láng giềng, Tẫu. Thành thử cô
người hầu mới chửi ông chủ, trong nhà của
mi, mà mi
cũng không biết có cái gì: Có Cái Ác Bắc Kít. Có con quỉ Tẫu lúc nào
cũng nằm
chờ dịp xuất hiện, ở chuồng lợn.
Cái
hợp đồng giữa con quỉ và viên y sĩ, chính là cái nguyên nhân của cuộc
chiến Mít. Đâu có phải chỉ 1 tên Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đi dự hội
nghị Thành
Đô, mà cả Miền Bắc, cả tầng lớp sĩ phu, tinh anh đi họp, và ký tên vô
tờ hợp đồng
của Quỉ đó. Tên già NN này, giả như hắn còn tí dũng khí, thì bèn sổ
toẹt ba cái
quỉ ma, quái vật Núp Niếc, tuy quá trễ, nhưng trễ còn hơn không, phải
có 1 tên
Bắc Kít dám làm chuyện này, bất cứ 1 tên nào.
NQT
Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng
Quê của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê, và
tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của
một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận
miền
nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên phải
mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh
cô hầu
gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la
lớn: "Ta
bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và
đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần
trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với cỗ
xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một
cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của
một vua
Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê
thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp
của mình ở
trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của
cô con
dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
Cái
chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar
Wilde
đã từng tuyên bố.
Nhưng
Lucien de Rubempré là ai?
Một
nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga
Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên
bố của
Wilde, là
phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi
vì có những nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!
Viên
y sĩ đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế! (1)
Tôi là kẻ may mắn sống
sót,
nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby,
trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước,
Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra
trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì nó
như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù
VC kể như
không có!
Đâu có phải tự nhiên mà
Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả
VC cũng
quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu,
Lò Cải
Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa!
Nhân cái vụ
Hà Nội chặt cây, GCC lại nhớ đến lần Gấu về lại làng cũ.
Khi Gấu bỏ chạy
vô Nam, mỗi lần nhớ làng cũ, thì hình ảnh đầu tiên bò về, là những rặng
tre
xanh.
Về, không còn 1 cây. Ba cái ao nhỏ trong làng cũng mất tiêu. Nhìn 1
phát,
là tới liền khu nhà có nhà thờ tổ họ Nguyễn, mà theo như trí
nhớ,
trí tưởng tượng, và thực tế, những ngày còn nhỏ, nó ở giữa 1 khu
đồng chiêm, mãi tít bờ biên của làng!
Ui chao, bữa đó,
lúc đó, là giữa trưa, nắng chang chang, chói loà con mắt, và khủng
khiếp thay,
G bèn nhớ đến cái lần vô xóm, ở Xề Gòn, gặp 1 em bạch bản.
Đèn đuốc sáng chưng,
em phơi bướm, trắng toát 1 cõi, trên giường, y chang bữa về làng cũ!
Thê thảm thực!
Nhà thờ tổ họ Nguyễn là nơi, mỗi năm cử hành lễ lớn của họ.
Bởi thế, bà nội Gấu mới bảo thằng cháu, ăn no, chóng lớn, đến 15 tuổi
là mày có phần thịt đấy, cháu ạ!
FERRARI. You
always talk of ethics, you've told me that having ethics is even more
crucial-as Kant saw it-than having a religion.
BORGES.
Religion can only be justified on the basis of ethics. On the other
hand,
ethics, as Stevenson said, is an instinct. It's not necessary to define
ethics-ethics is not the Ten Commandments. It's something we feel every
time we
act. At the end of the day, we will, doubtless, have made many ethical
decisions. And we will have had to choose+-I am simplifying the
theme-between
good and evil. And when we have chosen good, we know we have chosen
good; when we
have chosen evil, we know that too. What's crucial is to judge each act
for
itself and not for its consequences. The consequences of any act are
infinite,
they branch into the future and, in the end, become equivalent or
complimentary.
Thus, to judge an act for its consequences seems to me to be immoral.
Borges, Conversations,
Ethics and Culture
Borges, ông
luôn nói đạo hạnh cần hơn tôn giáo...
Tôn giáo chỉ
có thể được chứng thực trên căn bản đạo hạnh. Và về mặt khác, đạo hạnh
có tính
trực giác. Đếch cần phải định nghĩa nó. Đạo hạnh thì đâu có phải là 10
điều
giáo lệnh!
Bài viết này,
cuộc lèm bèm này, giữa bạn quí của Borges, và Borges, liên quan tới vấn
nạn “may
mà có Ngụy”, tức cái gọi là văn hóa, đẳng cấp, chính nó, phân biệt lũ
Ngụy với
lũ VC.
Tin Văn sẽ scan và dịch sau.
Looking on a
Russian Photograph, 1928/1995
It's the
classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the
Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed
out on
the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined
to be
crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein,
Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way.
Mayakovski,
rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at
the age
of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948,
cherished projects
betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely
watched at
home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive
Stalin -
yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in
1958,
he will not be permitted to accept, his book burned, his name
excoriated in his
homeland.
But there
they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last
symbols of
a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky
they
are, these three, able to experience lives of great crisis and choice.
Were
they not gifted with an energy that brought them each full-bore into
what
Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their
times"?
We shall all
lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These
three
men played out their lives across the dark landscape of a cursed
country, each
sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind
tortured them
with the impossibility of reason.
I do not
seek such death. I choose the milder climes of the USA circa
the late twentieth century - although these times, less sinister
certainly than
Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the
largest
sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the
sterile,
timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too
can be
boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of
information can be
far more ruthless than war or disease.
So I say-in
death, rest. There is much time later to sleep.
Until then
party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy
and
sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists
your
shoulders equal to all working and struggling people, neither higher
nor lower
but equal to its spirit in its own time.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver
Stone
The Paris
Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật.
Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng
bảnh, cực
bảnh, như bộ ba trên đây.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các
bạn.
Ở cái xứ Bắc
Kít, toàn Kít!
Một
bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp
chung với
nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ
nát bấy
ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền
nát dưới
gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski,
Pasternak - mỗi
người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự
tuyệt
trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời
36. Trái
tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị
phản bội,
nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh
trừng chặt
chẽ khi ở nhà.
Pasternak,
đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ
Stalin –
tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ
Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị
đốt, tên
bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng,
như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba
trái tim trẻ,
can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1
nền văn
minh trước khi khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi, thì lại nhận
ra 1 điều,
họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những
cuộc khủng
hoảng lớn, và chọn lựa lớn.
Tại sao 1 tên
như anh già NN không đủ can đảm để mà sổ toẹt ba cái dơ dáy, do hắn
viết ra, dám
làm những điều như Lukacs - từ bỏ gốc gác “de”, gốc quí tộc của mình,
như
Walter Benjamin, hay, như Nguyễn Tuân, đã từng muốn dùng ngọn lửa đốt
cháy cái
thân xác cũ – khi chưa biết Cách Mạng?...
Tại sao Nga có những tay,
lỡ tin theo
Cách Mạng, nhưng khi vỡ mộng, vẫn giữ được nhân cách?
Câu trả lời,
là từ Brodsky, qua Milosz, khi vinh danh ông:
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng
là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với
dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống
người, khám
phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê
cung, chúng
ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân
biệt dựa
trên đẳng cấp.
Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống
rác tìm
đồ ăn, [ui
chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng
hoại thoái
hoá bị kết án phải tuyệt diệt.
Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc
thần tiên còn hoài hoài.
Như thế, chính cái gọi là
đẳng cấp, phân biệt Ngụy với VC.
Điều mà DTH gọi là "văn minh thua bạo tàn", chính là vấn đề thuộc về
đẳng cấp, văn hóa.
Văn minh có thể thua bạo tàn, ngu đần.
Nhưng đẳng cấp, văn hóa, không.
Một tên già như NN, không làm được 1 hành động như những Eisenstein, Mayakovski,
Pasternak đã từng làm, chưa nói tới cỡ như Brodsky.
May mà có lũ Ngụy - như Vương đại gia phán - là theo nghĩa này.
Vùng lên hỡi
lũ sách trầm luân ở trên cõi đời này!
Khổ mới, khổ mới, mại dzô, mại dzô!
Note: “Những
khiá cạnh của tiểu thuyết”. Cuốn này, GCC mua xon, từ đời nảo đời nào,
và chưa
từng mở ra coi. Lạ làm sao, nó được rất nhiều đại gia nhắc tới, trong
có Pamuk,
thí dụ.
Bữa nay, đành đem ra đọc, và đi 1 đường về nó, nhân “đại gia” NN lèm
bèm về tiểu
thuyết, trên Văn Vịt. Theo ông, Kundera đã từng phán 1 câu thần sầu về
thể loại
văn chương độc nhất, tức sử thi cách mạng chống Mẽo kíu nước của VC, và
có nhắc
tới “quái vật” Núp của ổng.
GCC đã lầm về
anh già này, như đã từng lầm về Sến Cô Nương, về đại thi sĩ Kinh
Bắc....
Não
anh già này cũng mất 1 mẩu.
Bởi là vì, nếu
không mất, thì anh ta đã tuyên bố, như Nguyễn Tuân đã từng, là, khử bỏ
mọi cuốn
tiểu thuyết đã từng viết ra, từ trước tới giờ.
Trong 1 lần
về Hà Nội, gặp, và nhân thấy anh già dịch “Nghệ Thuật Tiểu Thuyết” của
Kundera,
Gấu, ngứa miệng, phán, cuốn đó, đồ bỏ, so với “Lý Thuyết Tiểu Thuyết”
của
Lukacs.
Ông này, đã
từng công khai từ bỏ cuốn sách bảnh nhất của ông, và có thể coi là
Thánh Kinh của
chủ nghĩa CS, tức cuốn “Lịch
Sử và Ý Thức Giai Cấp”.
Bây giờ thì
rõ ra, anh già không đọc nổi Lukacs, và không hiểu nổi thiện ý của GCC,
khi gửi
tặng cuốn sách!
Thì cuốn của Lukacs, chứ
cuốn nào!
Chợt nhớ đến
Thầy Kuốc , và bức tranh của TT, mà VP tặng Thầy:
Hay là VP
cũng có 1 thiện ý gì khi tặng bức tranh, 1 tặng phẩm quí giá TT tặng
ông?
Hình như có
1 ông Trạng Mít, khi đi xứ Tẫu, đã lầm con chim sẻ, trong 1 bức mành
mành, là
thực, và bèn chạy tới để vồ, khiến lũ Tẫu bò ra cười, và ông Trạng Mít
bèn xé bỏ
bức mành mành!
Lũ Tẫu ngạc
nhiên quá, và Trạng Mít bèn giải thích, bức mành mành vẽ những hàng
trúc, mà
trúc là thứ cây dành cho những đấng quân tử, trong khi sẻ là thứ chim
tiểu
nhân, thành ra, ta xé bỏ!
Có lý, có
lý!
Hà, hà!
9 tiểu chú
Pamuk viết,
trong Epilogue:
Vào tháng
10, 2009, [sau khi được đề nghị đọc Norton Lectures, tại Harvard
University,
qua lời mời của H.B. (Homi Bhabha), từ Cambridge], trên đường đi gặp
ông HB này,
tại New York, tôi [Pamuk] nghĩ tới hai cuốn sách có thể thưổng, để viết
những bài
đọc văn học [two books that could serve as models for these lectures].
Cuốn thứ
nhất Aspects of Novel, Những
khía cạnh của tiểu thuyết [GCC cũng có
cuốn này, hà,
hà!] của E.M. Forster, mà tôi, Pamuk, nghĩ là đã hết thời [outdated].
Nhưng sau
khi tôi đọc lại cuốn...
Vưỡn chuyện
“tỉu thiết”.
Trên tờ Người
Nữu Ước, số 16 Tháng Ba, 2015, có bài về Vargas Llosa, đúng hơn, về
tiểu thuyết,
thứ của ông, “tự thuật bậc cao, “higher autobiography”, một từ của
Alberto
Moravia, 1 tiểu thuyết gia Ý. Chính là cái đất nước khùng điên Peru của
ông, đẩy
ông vô giả tưởng, trước khi vô chính trị, và với ông, thà rằng có tiểu
thuyết
còn hơn chán chuờng, "a novel is something, while despair is
nothing".
Một bài viết
thật là tuyệt, về tiểu thuyết và về
Varga Llosa. Tin Văn sẽ scan, và có thể, sẽ lai rai về nó.
THƯ
KHỐ TẠP CHÍ VĂN HỌC (Hải Ngoại)
lưu
trữ toàn bộ các tờ Văn Học (hải ngoại)
xuất
bản tại Santa Ana, California
Từ
năm 1978 - 2008
tài
liệu (PDF)
Note: Thấy trên Gió O. Bèn
bệ về. Có bài của GCC, khi giữ mục Tạp Ghi.
Trân trọng giới thiệu.
Tin Văn
Trên số báo
Văn Học 126, 1976, thấy có đăng 1 truyện ngắn của GCC, trong có cái tít
Mắt
Bão, 1969!
Có lẽ đây là bài đầu tiên GCC viết cho Văn Học, và số sau đó, là bài
Tạp Ghi,
chắc là đầu tiên!
Như vậy cho thấy, cái tít Mắt Bão này của GCC, không phải của ông anh
nhà thơ,
như ông viết cho Đảo Xa!
Đọc lại những bài Tạp Ghi,
quả là có tí bồi hồi. Dạng pdf, không biết làm sao
copy, chán thế. Quả có cái vụ, tên khốn kiếp - Gấu đã từng hiệu đính
bài viết,
qua lời yêu cầu của ông anh nhà thơ, khi ông giao lại trang VHNT của tờ
Tiền
Tuyến - trong 1 bài trả lời phỏng vấn của VH, cho biết, hắn đã từng
theo lệnh
của Lữ Phương, làm cái danh sách những tên nhà văn Miền Nam phản động
đồi truỵ,
12 tên, GCC đứng thứ 7, đăng trên tờ Tin Sáng.
Mai Thảo,
trong 1 bài Sổ Tay về Vũ Hoàng Chương, không biết nghe ở đâu, phán,
danh sách này,
do những tên Bắc Kít ở Hà Nội mang vô!
Ông hơi quan trọng hóa lũ nhà văn Ngụy, trong có ông.
Chúng làm gì được Đảng ưu ái đến như thế!
Có bài tạp
chi của GCC, về Sài Gòn lần đầu, tới ba khúc, thêm khúc nữa thì thành
Tứ Tấu Khúc!
Rồi bài về Beckett, cũng tuyệt quá sá quà sa!
Lại tự thổi!
Nhưng tuyệt
thật!
Chân Dung Nhà
Văn
Note: Bài viết
về Vũ Hoàng Chương, trong có nhắc tới cái danh sách đầu tiên, những nhà
văn đồi
trụy, gồm 16 tên…
Tôi đọc những
người có tên trong bản danh sách được gọi là danh sách Hoàng Trinh cho
ông nghe. Hoàng Trinh là thông gia với Trường Chinh. Y vào Nam sớm nhất
và được Bộ
Chính Trị Trung Ương Đảng Ủy cho toàn quyền xử lý vụ "Văn Học Nghệ
Thuật
Miền Nam". Sau này thêm bớt con số người bị bắt, có nhiều danh sách
khác.
Như danh sách 21, danh sách 44. Nhưng danh sách Hoàng Trinh, 16 người
được lập
ra sớm nhất và tôi được biết ngay nhờ sự tiết lộ của một cán bộ đảng
quen biết
ngày trước, hắn đi theo Hoàng Trinh lên Đà Lạt, và được cho xem bản án
tử hình
này
theo GCC, không đúng.
Danh sách này, gồm 12 tên,
có
GCC, thứ
7, trong 12 tên, là do 1 tên đàn em của Lữ Phương làm. Tên này, hiện ở
Pháp.
V/v DNM, cũng
sai, chính DNM cho biết, khi được hỏi, trên blog NL có cái note về vụ
này.
V/v TTT, cũng
sai. Sai như thế nào, thì GCC cũng đã lèm bèm rồi.
V/v NDT. MT
coi NDT thuộc tiểu thuyết mới. Và chỉ có NDT là thành công trong cú
“mới” này,
sai.
Đọc, thì hiểu
ra câu của Todorov, hồi nhớ là 1 cách nhớ quá khứ sao cho hợp với hiện
tại. MT
viết về bạn, sao cho có mình ở trong đó, trong 1 vị trí thích hợp nhất.
Nhưng Brodsky phán, mới thú, đây là những bài ai điếu của MT dành cho
bạn, mà
dưới mắt ông, thì đều đã chết rồi!
Trở lại với
tiểu thuyết mới. Me-xừ Mít Butor, có phán, đâu đó, khi được hỏi, không
có cái gọi
là TTM ở Việt Nam. Sai. Có, mà có chỉ ở
Mít Butor: Cách viết của Hoàng Ngọc Biên, tức Mít Butor, là từ Butor,
mà ra, và
đúng là nằm trong “trường phái của cái nhìn”, như MT viết.
Nhưng TTM
không phải
chỉ có vậy. Cả đám này, mỗi người viết 1 kiểu, được gọi chung là TTM.
Robbe-Grillet
mới cho ra lò 1 cuốn, và đám phê bình phát sốt vì những cái nhìn bịnh
hoạn ở trỏng.
Bà vợ của ông là con gái của ông, một nữ tài tử nổi tiếng.
Văn MT thú
thực Gấu không mặn. Ông cũng chẳng ưa gì Gấu. Có thể, vì cả đám Gấu hồi
đó, chỉ
mê TTT!
Đám GCC được
gọi chung là TTM Mít, theo Gấu, có cái lý của nó. Mỗi thằng viết mỗi
kiểu, chơi
với nhau, hay ngồi nhà hàng La Pagode…
Steiner có 1
từ để gọi MT, 1 tay chơi trong cõi văn chương. Tuyệt.
Một
cách nào đó, đây cũng là dáng dấp của rất nhiều nhà văn Mít, kéo
cái cổ áo
lên 1 chút, khoác cái mưa vô, đi lãng đãng dưới mưa... đại khái thế!
Nhưng câu của
Camus, mới thú, chúng ta luôn có dáng điệu của 1 kẻ sắp sửa ra đi….
Hà, hà!
Nhớ
Em quá.
Yêu… người quá!
V/v danh
sách. Sự thực, tên này không hẳn thú nhận, tôi viết danh sách đó. Trong
1 cuộc
trả lời phỏng vấn trên tờ Văn Học của NMG, tên này cho biết, sau 30
Tháng Tư
1975, anh ta yết kiến đàn anh LP, tên này ra lệnh viết. Về, ghét ai là
đưa vô
danh sách đen. Hắn trả lời trên tờ VH như thế! Gấu bị ghét, vì… trí
thức
quá! Hắn
cũng viết ra điều này, trong 1 bài viết khác, trong 1 cuốn viết theo
kiểu hồi ký
về văn học Miền Nam trước 1975.
Nhưng
tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời
chỉ làm
thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài
người,
như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm
thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy
đưa đời
người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý
ấy
chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ
chẳng bao
giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay
làm thơ
như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng
thì vẫn là
cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi
chi, biết
không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm
trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự
nhiên của
thơ và của việc làm thơ.
Thi
sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời
để ra
làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng”
từ “Phách
ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán”
đến Isabel
Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến
Ngày lớn.
Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực
cũng như
chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu -
nhưng
hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương
đang ăn nằm
với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi.
Như Trang
nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được
“chiêm bao
lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói
chi những
điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh
nhau nói. Để
làm gì?
Thôi
nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần
nghe
thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
TTT
Thơ
là lời và hơn lời
Tuyệt!
FERRARI. You
always talk of ethics, you've told me that having ethics is even more
crucial-as Kant saw it-than having a religion.
BORGES.
Religion can only be justified on the basis of ethics. On the other
hand,
ethics, as Stevenson said, is an instinct. It's not necessary to define
ethics-ethics is not the Ten Commandments. It's something we feel every
time we
act. At the end of the day, we will, doubtless, have made many ethical
decisions. And we will have had to choose+-I am simplifying the
theme-between
good and evil. And when we have chosen good, we know we have chosen
good; when we
have chosen evil, we know that too. What's crucial is to judge each act
for
itself and not for its consequences. The consequences of any act are
infinite,
they branch into the future and, in the end, become equivalent or
complimentary.
Thus, to judge an act for its consequences seems to me to be immoral.
Borges, Conversations,
Ethics and Culture
Borges, ông
luôn nói đạo hạnh cần hơn tôn giáo...
Tôn giáo chỉ
có thể được chứng thực trên căn bản đạo hạnh. Và về mặt khác, đạo hạnh
có tính
trực giác. Đếch cần phải định nghĩa nó. Đạo hạnh thì đâu có phải là 10
điều
giáo lệnh!\
Nguyễn Hưng
Quốc
1 hr
· Edited
·
TRANH THÁI TUẤN
Bức "Chiếc mành mành" này
được họa sĩ Thái Tuấn (1918-2007) sáng tác năm 2001, sau đó, tặng nhà
văn Võ
Phiến (sinh năm 1925). Năm 2007, có dịp sang California, tôi và Hoàng
Ngọc-Tuấn
được Võ Phiến mời ở nhà ông bà mấy ngày. Ngày cuối, Võ Phiến gỡ bức
tranh đang
treo trên tường để tặng lại tôi, bảo là "để làm kỷ niệm". Tôi treo
bức tranh ở phòng sách, mỗi lần nhìn, lại nhớ đến hai người: Thái Tuấn
và Võ
Phiến, một người đã khuất, một người đã 90 tuổi và không còn nhớ gì
nhiều. Cái
nhớ nào, do đó, cũng thoáng chút bùi ngùi.
Note:
GCC
đọc, và thú thực, không hiểu nổi tại làm sao VP lại đem tặng 1 bức
tranh TT tặng ông, cho 1 người khác?
Bất giác lại nhớ đến
Ngọc Dũng, có vài bức tranh tặng bà cụ TTT; trong có bức - thường được
gọi là
“mọi đen” giữa đám bạn bè của ông em nhà thơ.
Sau 1975 tranh ND có giá lắm ở
Sài Gòn, Trần Lê Nguyễn đói quá, đến năn nỉ bà cụ Chất, để lại cho ông
bức mọi
đen, và Cụ đành biếu, với 1 cái giá tượng trưng, và TLN có được 1 món
tiền khá
lớn nhờ bức tranh.
GCC không dám tưởng tượng
thầy K, vì một lý do nào đó, lại
đem tặng bức tranh của TT cho 1 người nào khác!
Vì chuyện liên quan
đến bức mọi đen, và vì bà cụ Chất ngày càng già, bạn Chất, nhân 1 lần
về Việt
Nam bèn mang số tranh còn lại qua Mẽo, nhờ vậy, lần ghé thăm anh GCC đi
được 1
đường copy!
Tranh Ngọc Dũng
Chất: Cậu có nhớ, lần cậu ngủ nhà tớ,
vừa ngủ dậy, cậu phán, hôm nay phải về nhà, coi nhà còn hay dọn đi đâu
mất rồi,
lại mất công hỏi thăm hàng xóm?
Gấu: Nhớ chứ! Sao không nhớ?
Chắc chắn, bạn ta quên, những lần Gấu đói quá, mò sang nhà
thật sớm, để được bạn đưa đi ăn phở Đại Đồng. Ăn thành quen, thành
thèm, bạn ta
phải cưa đôi tô phở. Thay vì tô lớn, hai tô nhỏ. Sau cụ biết, bèn ra
lệnh, cho
mỗi thằng một tô lớn!
Tranh Ngọc Dũng
GCC with TT's @ Kiệt
Tấn's
Note:
Giá bữa đó, GCC hỏi xin - thì cũng "để làm kỷ niệm"- chắc bị KT đá cho
1 cú, văng ra khỏi Paris!
Được đứng ké bức tranh, ở
nhà bạn như thế này, thì cũng đủ sướng điên lên rồi, vậy mà - hỏi xin,
để làm kỷ niệm - và cuốn
bức "mành mành" mang về nhà!
Quả là kiệt xuất
đéo thời
nào có được!
NQT
V/v đứng ké.
Bữa đó, thèm đi tới chỗ này quá, bèn nói với bà xã KT. Bả nói, chỗ đó,
mắc lắm,
tôi đưa anh chị tới, nhưng đừng vô trỏng.
Đứng bên ngoài chụp tấm hình đủ khoe
với thiên hạ rùi.
Thế là đành làm
tên nhà quê, trong bức tranh của Kafka, “Đứng trước Pháp Luật”.
Bụng nghĩ, thôi
để…. lần khác!
Trong một bài tưởng
niệm họa sĩ Ngọc Dũng, đăng trên Khởi Hành, Đinh Cường có nhắc tới một
họa phẩm
của Ngọc Dũng, có 'biệt danh' là Mọi Khoả Thân. Đinh Cường 'nghe nói',
bức này
bán được giá lắm.
Số phận bức tranh rất
ư là ly kỳ.
Số là, vào thời điểm
đó, thiên hạ bỗng mê, và thi nhau lùng, tranh Ngọc Dũng. Trần Lê Nguyễn
bỗng
nhớ ra rằng thì là ở nhà cụ Chất có bức Mọi, do Ngọc Dũng tặng cụ.
Đến năn nỉ, cụ lắc
đầu, sau Trần Lê Nguyễn đành thú thực, con đói quá, cụ bèn lấy giá
tượng trưng,
là bẩy trăm đô.
Bức đó, sau bán ra
mười ngàn đô.
Nắm níu sợi mỏng,
lửng lơ ngã.
TTT
Câu thơ này làm nghĩ
tới giai thoại Dos từng kể, chắc là từ kho tàng chuyện kể Phật giáo, về
một anh
chàng nằm duới giếng sâu địa ngục ngó lên miệng giếng, đúng lúc Phật
ngó xuống,
và Ngài bèn thương tình thả một sợi tơ nhện, anh chàng bèn leo lên,
nhưng đám
băng đảng xúm lại, cũng cố leo lên, anh chàng bèn đạp lấy đạp để, vì sợ
sợi tơ
nhện quá mỏng manh không kham nổi, Phật buồn bã lắc đầu bỏ đi...
Mỗi lần đọc lại
chuyện này, Gấu này lại nhớ đến cảnh leo trực thăng di tản trên nóc
dinh Toàn
Quyền Mẽo ngày 30 Tháng Tư năm nào.
Source
V/v Tặng cái
được tặng.
Trên Blog NL có kể câu
chuyện, chủ blog gọi 1 cô chuyên mua bán sách
cũ, chuyên nghề buôn bán đồng nát, như trong Nam thường gọi, và vớ được
cả lô sách,
do tác giả tặng, với thủ bút của chính tác giả, cho nhà phê bình nhớn
NDM.
Ông này, thay
vì tặng 1 đấng như Thầy K, thì bèn đem bán ve chai!
Những con
thú ăn mồi sống
Nhà văn Bắc
Mỹ Paul Theroux, tác giả “The Mosquito Coast”, một cuốn tiểu thuyết thú
vị, và
nhiều cuốn sách du lịch rất ăn khách, một bữa khám phá ra là, một tiệm
sách ở
Anh rao bán một số tác phẩm của ông, cuốn nào cũng có chữ ký, và thủ
bút của
tác giả, là những dòng đề tặng Ngài Sir Vidia S. Naipaul. Tức điên lên,
ông bèn
viết thư cho nhà văn Nobel, và ông này, thay vì phúc đáp, thì để cho vợ
ra đầu
ngõ, vén váy, đi vài đường bồm bộp [nguyên văn, thay vì đích thân trả
lời, Naipaul
trao trách nhiệm này cho bà vợ mới, một ký giả Pakistani, “đần độn như
là nhan
sắc đẹp đẽ” của bà, nhưng cho dù đần độn, mớ chữ ít ỏi của bà cũng đủ
để đi vài
dòng chế nhạo.
Sự trả thù của
ông Theroux mới khủng khiếp làm sao: Chẳng thua gì giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh!
[Ông
này cũng đem sách văn hữu tặng, bán ve chai, lấy tí tiền còm!]
Nhân nhắc tới
Văn Vịt. GCC mới đọc bài viết của BMQ về Xuân Sách.
Phán XS thâm là nhảm. Thâm độc
là phải dành cho những người khác. Có thể, cho cả cõi thơ văn Bắc Kít
cũng được,
trừ Xuân Sách.
Nhận xét về Tố Hữu cũng nhảm. Nên nhớ đám nhà văn Bắc Kít đếch sợ
Đảng mà sợ Tố Hữu. Trên Tin Văn đã giải thích vụ này rồi. Nguyễn Đăng
Mạnh chẳng
tả cái cảnh con ếch, con nhái Nguyễn Đình Thi run như cầy sấy trước con
thú ăn mồi
sống là
con cua, hay con rắn Tố Hữu ư?
Những dòng thơ Tố Hữu khóc
Xì phải nhìn ra, là,
Tố Hữu khóc Tố Hữu, bởi vì rõ ràng là hai tay này thật giống nhau.
Xì luôn luôn
muốn, ông là 1 thứ ngự sử văn đàn, 1 kẻ ban phát mưa móc, ân huệ cho
đám Hội Nhà
Thổ Liên Xô. Tố Hữu cũng thế. Sở dĩ Tố Hữu thù đám Nhân Văn, vì ông ta
biết, ông
ta không bằng họ. Cũng thế, là thái độ của Xì đối với Osip Mandelstam,
thí dụ,
luôn cả với Anna Akhmatova.
Coi XS thâm,
coi Tố Hữu vong bản, là nhìn hiện tượng chỉ thấy hiện tượng. Không nhìn
ra bản
chất.
GCC đã nói rồi,
đám Văn Vịt này bất tài, vô dụng. Chỉ 1 khi chúng dám nhận tội của
chúng,
khi tạo ra những quái vật như quái vật Núp, thí dụ, thì may ra mới có
thay đổi.
Đã bất tài, lại hèn nhát, làm gì được.
NQT
Cái vụ Tố Hữu
khóc Stalin thảm thiết, phải mãi gần đây Gấu mới giải ra được, sau khi
đọc một
số bài viết của những Hoàng Cầm, Trần Dần, những tự thú, tự kiểm, sổ
ghi sổ ghiếc, hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh... Sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà,
không phải là trước Đảng, mà là trước cá
nhân Tố
Hữu. Cả xứ Bắc Kít bao nhiêu đời Tổng Bí Thư không có một tay nào như
xứng với
Xì Ta Lin. Mà, Xì, như chúng ta biết, suốt đời mê văn chương, nhưng
không có
tài, tài văn cũng không, mà tài phê bình như Thầy Cuốc, lại càng không,
nên
đành đóng vai ngự sử văn đàn, ban phán giải thưởng, ra ơn mưa móc đối
với đám
nhà văn, nhà thơ. Ngay cả cái sự thù ghét của ông, đối với những thiên
tài văn
học Nga như Osip Mandelstam, Anna Akhmatova… bây giờ Gấu cũng giải ra
được, chỉ
là vì những người này dám đối đầu với Stalin, không hề chịu khuất phục,
hay "vấp ngã"!
Gấu tin
là,
Tố Hữu tự coi ông như là Xì của xứ Bắc Kít. Ông còn bảnh hơn cả Xì, vì
là một
thi sĩ thứ thực, nếu chúng ta đọc dòng thơ cách mạng hồi ông còn trẻ.
Tất cả
các văn nghệ sĩ Bắc Kít sở dĩ sợ Tố Hữu đến như thế, chính là vì với
họ, Tố Hữu
là…. Xì Ta Lin mũi tẹt, Bắc Kít!
Dante
Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.
Bài thơ trên, kỳ cục thay
- tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong
bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà
trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu Xa: Bài Nhớ Thi Sĩ
Đâu có phải tự nhiên mà
đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca, khi còn ở trong tù
VC.
Mỗi ông
thì đều có 1 bà vợ như vậy. (2)
Viết
Remembering
Boris Nemtsov
Keith Gessen
It would be
hard to imagine a less likely political martyr than Boris Nemtsov. He
was loud,
brash, boastful, vain and a tireless womaniser. My favourite story
about him
came from a Moscow journalist who once shared a cab with Nemtsov and a
photographer whom he’d been wooing to no avail. It was late at night
and he
fell asleep. The photographer was the first to be dropped off, and
Nemtsov
suddenly woke up. ‘So what do you say?’ he asked. Receiving another no,
he went
back to sleep.
/translation/morrison.html
Bài viết này,
đang Top của Top Ten, qua Server.
Liệu có phải
là do 8/3?
Về già, Gấu
càng ngộ ra, tất cả những gì bạn có, là ở trong cái đọc, chứ không phải
ở trong
cái viết.
Morrison trả
lời, đam mê sâu thẳm của tôi, là đọc, là cũng theo nghĩa đó.
Ui chao Gấu
lại nhớ một ông bạn quí. Ông phán, tao ị ra cho thiên hạ đọc, chứ cần
gì phải đọc
ai?
Gấu được ông
anh dậy ba búa. Búa thứ nhất liên quan đến dịch thuật. Đừng sợ sai. Sai
thì sửa.
Búa này liên quan đến văn học Mít. Ông đã từng phán, đại khái, nhà văn
Mít cứ
viết xong thời thanh xuân, là ngỏm củ tỏi. Do thiếu đọc.
Khi ông đọc
truyện ngắn đầu tay, “Những con dã tràng”, về nói với bà cụ, thằng Trụ
sẽ đi xa
hơn DNM, là theo nghĩa đó.
Ông tin rằng
Gấu sẽ đọc được nhiều hơn đám Mít kia.
Đó là lời
khen độc nhất của ông, về Gấu.
Sau này, ông
chê nhiều hơn là khen.
Khi Gấu mê
đám bạn quí, ông cảnh cáo, nhưng Gấu đâu có hiểu được.
Lúc đó cần bạn
quá!
Bạn quí mà
sao không cần!
Bịp
Bịp thì
phong nhã hơn là thuổng
Cheating is
more honorable than stealing
Cách ngôn Đức
Chúng ta bịp
con nít bằng hột xúc xắc, bịp người lớn bằng lời thề dưới ánh sáng của
Đảng
We cheat
boys with dice, and men with oaths
Lysander,
c.407BC
Chính cái
tên Cù Lần mà tôi lừa dối hoài hoài là kẻ tôi yêu thương hoài hoài
It was the
men I deceived the most that I loved the most
Marguerite
Duras, 1987
Đàn ông sinh
ra là để nói dối, vì đó là phần số của họ. Còn đàn bà, để tin họ.
Men were
born to lie, and women to believe them
John Gay,
1728
Bạn có thể
chắp cánh cho 1 con heo, nhưng chớ có biến nó thành con chim ưng
You can put
wings on a pig, but you don’t make it an eagle
Bill
Clinton, 1996
Ravensbrück:
Life and Death in Hitler’s Concentration Camp for Women.
By Sarah Helm. Nan A.
Talese; 743 pages; $37.50. Little, Brown; £25.
Sống và chết trong Trại
Tập Trung dành cho Phụ Nữ, của Hitler
AS SHE
searched for survivors of Ravensbrück, a concentration camp 50 miles
(80km)
north of Berlin, Sarah Helm came home one day to find a French voice on
her
answering machine. The message was from Louise Le Porz, a doctor from
Bordeaux,
who asked her to visit. There was much to talk about, she said to Ms
Helm, a
British journalist. “But you’d better hurry. I’m 93 years old.”
A sense of
urgency infuses this history, which comes just in time to gather the
testimony
of the camp’s survivors. Ravensbrück has had far less attention than
Auschwitz
and other Nazi death camps. What happened there was covered up. The
files were
burned as the Allies drew near in 1945. Later, Soviet tanks bulldozed
the
buildings. The camp’s history soon became divided, like Europe. East
Germany
had its own, selective version, stressing the heroism of the communists
among
the inmates; the West, without ready access to the site and with
evidence from
war-crimes trials on the camp classified as “secret”, largely ignored
it. In
the late 1960s some historians even started to question the existence
of the
gas chambers there.
Yet
Ravensbrück deserves to be remembered. It was Hitler’s only
concentration camp
specifically for women. Towards the end of the war, as other camps
emptied, it
became the engine of the Nazi killing machine on the orders of Heinrich
Himmler, without even the pretence of an ideological reason, however
perverted.
This was killing for the sake of killing.
About
130,000 women passed through the camp. Ms Helm estimates that
40,000-50,000
died. Jews made up only about 10% of the prisoners. The rest were
communists,
Jehovah’s Witnesses, gypsies, prostitutes and women simply swept up by
the
events of the war in Europe. By 1944 the camp held women of 21
nationalities;
besides Germans, the largest groups were Poles, Russians and French.
Many of
the
prisoners were desperate for the world to know about the horrors taking
place
there. “We need to make a film to show everyone that this really
happened,”
said an Austrian prisoner, Käthe Leichter, in early 1942. “And you’ll
see, even
when it is all over no one will believe us.”
Women
taken
away on the first death transports hid notes for their friends in the
camp to
find when their clothes were returned there, telling them where they
were being
taken. Using urine as invisible ink in otherwise censored letters,
Krysia Czyz
and other Polish prisoners told their families about the obscene
medical
experiments being carried out on them; in 2010 Czyz’s daughter
discovered 27 of
these secret letters hidden in her grandmother’s old rolling pin and a
chopping
board. After the war Soviet censors stopped Antonina Nikiforova, a
Russian
doctor brought to Ravensbrück in 1944, from publishing her account, but
she
refused to give up and asked fellow Red Army survivors to write to her
with
their memories; their letters recently reached the camp archive.
Others
were
less keen to trumpet the truth. The Red Cross in Geneva was told in
1943 that
Polish women in Ravensbrück were being injected with gangrene to test
new drugs
and having healthy limbs amputated as part of an experiment about
transplants.
Yet it stayed silent, preferring, it said, to “work behind the scenes”.
Ms Helm
also criticises the evasive and “mealy-mouthed” response to questions
put to
Siemens, which operated a factory at the camp producing electrical
parts for
fighter planes.
Yet the
details are now pouring out, in such abundance that they seem hard to
control
at times. Survivors want to talk, documents from war-crimes trials have
been
released, archives have been opened after the collapse of Soviet rule.
All this
enables Ms Helm to piece together the camp’s “biography” with
meticulous,
unblinking thoroughness. Her book comes not a moment too soon.
A dissident
in China
The power of
one
The story of
Chen Guangcheng illustrates how a single determined dissident in the
Chinese
countryside can take on a repressive government—and win
Mar 12th
2015, 15:48 | From the print edition
The
Barefoot
Lawyer: A Blind Man’s Fight for Justice and Freedom in China. By Chen
Guangcheng. Henry Holt; 352 pages; $30.
Một
tên ly khai, mù, chống lại cả 1 nước Tẫu CS, và... thắng, không chỉ
Tẫu, mà luôn cả 1 anh Mẽo sợ Tẫu!
Note:
Bài này, Người Kinh Tế đếch cho GCC đọc, mi hết credit rồi.
Đành scan, và dịch sau.
Cả hai bài trên đều OK!
Cái mà Trần
Vũ gọi là “lưu vong kép”, của những tên nhà văn nhà thơ Mít bò về, thì số báo này gọi là “căn cước kép”: Về thì
về, nhưng “ưu việt” Mẽo không thể bỏ!
Số
báo này
có bài viết về những dân tộc thiểu số, nhất quyết không chịu VC: Không
1 dữ
kiện,
không 1 con số, những vùng đất riêng rẽ này đếch chịu nhập vô thống kê
nhà nước.
VC cố xóa sổ họ, như lũ Mít bò về, vô ích: Les autorités ont essayé de
fondre ces
clans dans le moule de la nation. En vain.
Dương
Nghiễm Mậu
Trong kho
chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên
không nghe,
nhưng lại ngân lên ở một nơi khác.
Rượu Chưa Đủ,
bản thân nó, cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền đất khác.
Sến có 1
câu, Gấu cực mê, và có thể cả đời, chỉ còn lại câu này, và câu này,
dùng để chỉ
vô đời Sến, quá đúng, nếu muốn lái sang chuyện, VC đếch cho Sến về, cứ
bật PC
lên là thấy quê nhà rồi.
Câu của Sến,
sau này, GCC gặp lại, khi đọc Bolano.
Ông phán,
tay thằng chả là quê nhà của thằng chả.
Tuyệt!
Cái lũ Mít
bò về không hiểu được điều này.
Tay của Gấu
là quê Mít của Gấu!
Sướng thiệt!
Câu phán của
Bolano là ở trong bài viết “Văn Chương và Lưu vong”. Bài này cũng quá
tuyệt.
GCC cứ thèm dịch hoài, mà hết dám hứa lèo. Ông có mấy bài viết về lưu
vong,
không chỉ bài trên. Hình như trên TV cũng có giới thiệu. Để coi lại,
rồi lại
lèm bèm tiếp. Trong bài "Exiles", Những Cuộc Lưu Đày, ông phán, lưu
vong là can đảm.
Quả có thế.
Lũ bò về đều là 1 lũ chết nhát, theo GCC.
Gọi, lũ chó
chết, cũng được.
*********
Đính chính:
Câu của
Bolano, và luôn cả đoạn văn, trong có câu đó, sau đây, cho thấy, GCC do
đọc ba
chớp ba nhoáng, hiểu lộn:
Literature
and exile, I think, are two sides of the same coin, our fate placed in
the
hands of chance. "I don't have to leave my house to see the world,"
says the Tao Te Ching, yet even when one doesn't leave one's
house,
exile and banishment make their presence felt from the start. Kafka's
oeuvre,
the most illuminating and terrible (and also the humblest) of the
twentieth
century, proves this exhaustively. Of course, a refrain is heard
throughout
Europe and it's the refrain of the suffering of exiles, a music
composed of
complaints and lamentations and a baffling nostalgia. Can one feel
nostalgia
for the land where one nearly died? Can one feel nostalgia for poverty,
intolerance, arrogance, injustice? The refrain, intoned by Latin
Americans and
also by writers from other impoverished or traumatized regions, insists
on
nostalgia, on the return to the native land, and to me this refrain has
always
sounded like a lie. Books are the only homeland of the true writer,
books that
may sit on shelves or in the memory. The politician can and should feel
nostalgia. It's hard for a politician to thrive abroad. The working man
neither
can nor should: his hands are his homeland.
Sách là chốn
quê nhà độc nhất của nhà văn thứ thiệt, những cuốn sách có thể ngồi
trên kệ,
hay trong hồi nhớ. Nhà chính trị có thể, và nên cảm thấy hoài hương,
nhớ nhà.
Thật căng, đối với nhà chính trị, khi làm giàu ở hải ngoại.
Một công nhân
không thể mà cũng không nên: Tay của anh ta là quê nhà của anh ta.
Do đọc lẹ, và
lé, quá, Gấu hiểu, tay thằng chả [nhà văn khi viết văn, khi đẻ ra chữ],
là quê
hương của thằng chả.
Sorry abt that.
GCC
Ultime Auberge [Quán Tận?]: Di chúc
văn học của Kertesz, "cuốn tiểu thuyết về cái chết của tôi, được viết
bởi 1 hồn ma".
Cũng một mô phỏng thơ Paul Celan, như 1 cuốn trước đó, tuy có tí khác
(1): Sữa đen của buổi sáng sớm, "le lait noir du petit jour".
Thấy bài điểm sách này, trên 1 số báo Triết của Tẩy, viết về đề tài
"Địa ngục là những kẻ khác", bèn quơ luôn!
(1)
Alexandre
Gefen:
Trở lại với
Kaddish, và cú "rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu", tôi nghĩ,
nguồn của nó, đúng
là “Tẩu Khúc của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt
đầu viết Kaddish, tôi bị ám
ảnh bởi ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe au-dessus
des nuages”], chẳng hề biết là tôi trích dẫn thơ Celan. (2)
Sau này, biết,
tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en exergue]….
Một trong những cuốn
tiểu thuyết của ông có tên là Những
kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces. Liệu bây giờ còn
những
người tìm dấu vết, so, comparable, với những nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn chứ, chắc chắn
[Il y en a, sans doute]
Ông khuyên họ, sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn tiểu thuyết mà
nữ tác giả sống ở Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà chính trị được nhiều
người biết,
connu. Trong bốn chục năm, bà ta không biết gốc mình là Do Thái, tuy
ngửi ra có
1 cái gì đó bị giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose
clochait].
Thế rồi 1 bữa có người bất thình lình hỏi bà,
"Thế nào sống sót có cực
không?"
[Et comment vous avez survécu?: Bà sống sót như thế nào?]
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ lời trách móc, tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói, bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì đó, liên quan tới cái vụ
Bắc Kít rất thèm được là… Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người như vậy, và đã từng viết ra điều này, trong
1
truyện ngắn, để coi lại, trình cho bà con cùng đọc.
Hà, hà!
Cái vụ, đám khốn Mít, ở Mẽo, thí dụ, bò
về, không liên quan gì tới lưu vong, theo GCC.
Chúng đếch phải là nhà văn nhà
thơ mẹ gì ở hải ngoại, nhưng 1 khi bò về, có tí đô la, thế là 1 lũ đói
khát vồ
lấy, “lưu vong kép” đây rồi!
Tởm thực!
GCC
Viết
LMH Case
Người ta,
trong có cả Solzhenitsyn, đã từng chê Kinh Cầu, “Một bài thơ hay, lẽ dĩ
nhiên Đẹp.
Rổn rảng. Nhưng nói cho cùng, cả nước đau khổ, hàng chục triệu con
người, và
bài thơ thì là về một trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa con trai…
Tôi nói với
bà, bổn phận của 1 nhà thơ Nga là viết về những đau khổ của nước Nga,
vượt lên
khỏi nỗi đau cá nhân, và nói về nỗi đau của cả nước…Bà im lặng, suy
nghĩ. Có thể
bà không thích tôi nói như thế. Bà quen được thổi. Nhưng, đúng là 1 nhà
thơ lớn.”
Trong cuốn Anna Akhmatova, Nhà thơ,
nhà tiên tri, 600 trang, “Best Reading of
1994”, theo tờ
London Thời Báo, “Best Book of 1994”, theo Publishers Weekly, chương
"Khủng Bố Lớn,
The Great Terror: 1930-1939", có 1 đoạn viết về cú hồi sinh, lại làm
được thơ,
tiếp liền sau thời gian câm lặng, vì… sắp
hàng chờ gửi thùng quà cho đứa con trai bị bắt. Anatoly Naiman, thư ký
văn học,
thời kỳ chót đời của bà, viết về Kinh Cầu:
The hero of
this poetry is the people. Not a larger or smaller plurality of
individuals
called "the people" for political, nationalist, or other ideological
reasons, but the whole people, every single one of whom participates in
what is
happening on one side or the other. ... What differentiates it from,
and thus
contrasts it to, even ideal Soviet poetry is the fact that it is
personal, thus
as profoundly personal. ... The personal attitude is not the rejection
of
anything; it is an affirmation which is manifest in every word of
Requiem. This
is what makes Requiem not Soviet poetry, but simply poetry: it could be
personal only if it dealt with individuals, their loves, their moods,
and their
selves in accordance with the officially sanctioned formula of "joys
and
sorrows.”
Nhân vật của
bài thơ này là nhân dân. Không phải lớn hay nhỏ, những nhóm cá nhân
được gọi là
“nhân dân” vì những lý do chính trị, quốc gia, hay những lý do ý thức
hệ khác,
mà là trọn nhân dân, mọi cá nhân đơn độc tham dự vô chuyện gì đang xẩy
ra ở bên
này hoặc ở bên kia… Điều làm cho nó khác đi, hoặc tương phản với nó,
ngay cả
với cái thứ thơ lý tưởng của nhà nước Xô Viết, là sự kiện này, nó thì
riêng
tư, rất
đỗi riêng tư, một cách rất đỗi sâu đậm.
Một thái độ riêng tư cá nhân
như thế
không có nghĩa là vứt bỏ bất cứ cái chi chi, nó là xác quyết bật ra từ
mọi con
chữ của Kinh Cầu. Đó là điều làm cho nó là 1 bài thơ, giản dị như thế,
đếch phải
thứ thơ nhà nước Xô Viết. Nó chỉ có thể riêng tư như thế, vì nó “deal”
với những
cá nhân con người, tình yêu, cung cách sống, bản ngã của họ, “niềm vui
và nỗi
buồn” của họ, bị nhà nước cấm đoán.
2. The
classics are those books which
constitute a treasured experience for those who have read and loved
them; but
they remain just as rich an experience for those who reserve the chance
to read
them for when they are in the best condition to enjoy them.
For the fact is that the
reading we do when young can often
be of little value because we are impatient, cannot concentrate, lack
expertise
in how to read, or because we lack experience of life. This youthful
reading
can be (perhaps at the same time) literally formative in that it gives
a form
or shape to our future experiences, providing them with models, ways of
dealing
with them, terms of comparison, schemes for categorizing them, scales
of value,
paradigms of beauty: all things which continue to operate in us even
when we
remember little or nothing about the book we read when young. When we
reread
the book in our maturity, we then rediscover these constants which by
now form
part of our inner mechanisms though we have forgotten where they came
from.
There is a particular potency in the work which can be forgotten in
itself but
which leaves its seed behind in us. The definition which we can now
give is
this:
Italo
Calvino : Why Read The Classics?
Đọc, bèn nhớ
đến cái thú dím thật kỹ một miếng thịt, ở đáy bát cơm, chờ đến chót mới
nhâm
nhi, thưởng thức, khi còn là 1 đứa nhỏ ở xứ Bắc Kít; hay chính bát cơm,
sau khi
chơi một vài bát ngô, những ngày tản cư lên Phú Thọ, được ông Bác nuôi,
trước khi
về Tề, rồi về Hà Nội học…
Ngô, ở đây là
thứ ngô cứng như đá, mỗi lần nấu lên, là phải bỏ vôi vô, rồi đun sôi
thật lâu,
cho nó vỡ ra, rồi bỏ vô nước, lọc đi lọc
lại, cho hết mùi vôi….
Nhưng, chính
quãng đời cuối, khi ra được hải ngoại, khi sống thực – sống lại nó, vào
lúc đẹp
nhất của đời mỉnh - cuộc tình, cuộc đời mình, thời còn trẻ ở Xề Gòn -
mới đúng
cái nghĩa, tại sao đọc cổ điển, của Calvino:
Cổ điển là
những cuốn sách tạo thành kinh nghiệm, tích luỹ được như là 1 kho tàng
với những
người đã đọc, và yêu chúng.
Nhưng chúng đúng là 1 kinh nghiệm, cực giầu có, đối
với những ai chưa từng đọc, nhưng vẫn dành cho chúng 1 cơ hội đẹp nhất
của đời
mình, khi nào thấy mình xứng đáng, thì mới dám lôi chúng ra để mà đọc!
[Dịch thoáng,
theo cái kiểu dịch thế nào lợi nhất, đối với người dịch!]
Thứ ngô đá này,
ở Miền Nam, sau GCC gặp lại, khi đi tù VC.
TTT gọi là “bánh đá”. Ai
đã đi tù VC
thì biết nó.
Sinh nhật
trong tù
Vợ con không
ở gần
Bạn bè xa tất
cả
Cùng đôi bạn
tù thân
Uống trà ăn
“bánh đá”
Trời có mấy
độ xuân
Đất bao
nhiêu miền lạ
Chưa ngấy tiệc
trần gian
Hồn rung
xanh búp lá
TTT: Thơ ở đâu
xa
Cuốn này,
cũng mua “xon” tại Vientiane. mang về Canada cùng cây gậy – không phải
cây gậy
gỗ như trong hình, mà là cây gậy có mấy cẳng, chắc là bằng inox - như
kỷ niệm của
chuyến về Lào, để ăn Tết, để tạ ơn, và để cúng giao thừa giữa mấy đấng
con
trai. GCC có cảm tưởng, như con voi già, tìm về cái nghĩa địa của nó,
hà, hà!
RC là 1 tác giả GCC cực
mê, trong số những nhà văn viết truyện trinh thám của Mẽo. Văn của ông
thần sầu, đám Mít viết văn chưa tới cõi này được, vì chúng không mê văn
chương, mà mê làm nhà văn, hoặc làm cái đéo gì đó, thường là 1 tên cớm,
nhiều hơn.
Bài giới thiệu của Val
McDermid cũng thật là tuyệt, chưa kể những dòng
tóm tắt đời mình, của chính RC, thay vì của, nhân vật chính của ông.
PHILIP
MARLOWE
'I'm a
licensed private investigator and have been for quite a while. I'm a
lone wolf,
unmarried, getting middle-aged, and not rich. I've been in jail more
than once
and I don't do divorce business. I like liquor and women and chess and
a few
other things. The cops don't like me too well, but I know a couple I
get along
with. I'm a native son, born in Santa Rosa, both parents dead, no
brothers or sisters,
and when I get knocked off in a dark alley sometime, if it happens, as
it could
to anyone in my business, nobody will feel that the bottom has dropped
out of
his or her life.'
Thời gian Gấu
Cái gây nợ, làm Gấu liểng xiểng, một đấng bạn quí phán, không phải bà
vợ nhà
quê của nó, mà đây là cú độc của thằng Gấu.
Nó chuyên đọc tiểu thuyết đen nên dựng
nên cú thần sầu này.
Val McDermid
on The Little Sister
Early on in The
Little Sister, narrator Philip
Marlowe says, 'I hung up. It was a step in the right direction, but it
didn't
go far enough. I ought to have locked the door and hid under the desk.'
It's a
fitting piece of hindsight for a case where everything that can go
wrong does
go wrong and where every choice our private eye hero makes turns out to
be
disastrous.
Never is Marlowe more
fallible than here in Raymond Chandler’s
fifth novel. And it is how he negotiates that fallibility that makes
him a
hero. Chandler himself acknowledged in a letter that, 'The private
detective of
fiction is a fantastic creation who acts and speaks like a real man. He
can be
completely realistic in every sense but one, that one sense being that
in life
as we know it such a man would not be a private detective.' But
Chandler makes
us believe that such a man would not just be a private detective but
could
become the archetype of what a gumshoe should be. This rumpled,
battered,
slightly 'tarnished knight with his surface defence of cynicism against
his
desire to fight for the underdog is the irresistible template for
hundreds of subsequent
novels, films and TV series.
In The Little
Sister,
we see right from the start his quixotic nature. Faced with the naive
eponymous
little sister, to his lasting regret he takes the case of tracking down
her
missing brother for a laughable $20. He can't resist a cry from the
heart
especially when it's accompanied by a neatly turned ankle. It's a
decision that
takes him to the underbelly of Hollywood, exposing the dark venality of
the
glitter capital. In spite of himself, he is caught in the devious
machinations
of a rising movie star, her blackmailing brother, double-dealing
agents, louche
prostitutes, and corrupt studio-heads. Marlowe's sardonic take on the
incestuous Hollywood society is a shocking contrast to the glamorous
image
presented by the film-fan magazine which was the only window most'
people got
on the movie-making world.
It's a contrast that is
typical of the uneasy duality that marks
Chandler's work. There is both a balance and a tension between
toughness and
sentimentality; modernism and romanticism; wealth and poverty; reality
and fantasy;
hope and despair, and illusion and disillusion. All of this is firmly
rooted in
a Los Angeles that Chandler caught like no crime writer before and few
since. His
fellow Californian noir writer Ross Macdonald said, 'Chandler wrote
like a
slumming angel and invested the sun-blinded streets of Los Angeles with
a
romantic presence.' Sixty years have not dimmed the excitement and
freshness of
his take on those streets. He looked at the neon wilderness of Los
Angeles and
brought it into focus both for those who thought they knew the city and
those
who did not. He saw the chaos and the speed and the lights and the
dangerous
edge and he stopped the clock so we could all share his vision.
Director Billy
Wilder said, 'By God, a kind of lightning struck on every page.' He was
right.
Gió
Hà Nội trong hồn người xa xứ
Note: LMH có thể nói, là do
GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè
bỉu, “cái
Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như
em Y Bọt
gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học
trò của
tui”, hình như bà này đã từng phát biểu (1)
Tuy nhiên, khi GCC nhận xét
LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất,
cùng với nó
là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của
lũ Ngụy,
sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây
- cũng
như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in
lại một số
tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của
chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại,
với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975,
theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay
tác phẩm, như Phố Vẫn Gió, thất bại?
NQT
Cái sự hồi
nhớ quá khứ của 1 xứ Bắc Kít, như trong văn LMH, có gì đó làm nhớ đến
hoàn cảnh
của Miền Nam, nhớ 1 Miền Nam trước khi bị VC Bắc Kít ăn cướp và sau đó
đô hộ.
“Gió từ thời
khuất mặt”, rồi “Phố Vẫn Gió”, hai cái tít nói cùng 1 điều.
Chưa xong đâu,
với ký ức Lò Thiêu, như 1 bài trên số Lire mới nhất, của 1 nữ sử gia.
GCC cũng
tin như thế, với mảng văn chương về 1 thời “khuất mặt”, “vẫn gió”!
Akhmatova: Kinh Cầu
Chẳng có ai người cười
nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật
rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền
trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.
Không
phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!
Akhmatova, có vẻ như được
sửa soạn để đóng cái vai của bà, hơn hầu hết những nhà thơ cùng thời.
Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà 28 tuổi , không quá trẻ để tin
hay không tin, và cũng không quá già để biện minh cho nó. Sau đó, là 1
người đàn bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì cũng khó mà thổi
Cách Mạng, hay kết án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự xã
hội….
Đọc bài viết của Brodsky
về Akhmatova, nữ thần thơ bi ai Nga, thì Gấu ngộ ra điều, tại sao mà
GCC này chịu không nổi, phải nói, tởm, cái giọng của đám VC ly khai,
thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu què”, thí dụ, cũng như cái giọng gà mái gáy
của Sến, vẫn thí dụ.
Nhà thơ chỉ phán một câu thôi: Bà nhận ra nỗi đau, she recognized grief. (1)
Đám Bắc Kít chưa từng nhận ra nỗi đau Lò Cải Tạo, nỗi nhục lụy lũ Tẫu.
Nhân Ngày
Tám, Tháng Ba, bèn post lại.
THE WOMEN READERS OF WINTER
During the
winter they seem to be the only ones brave enough to venture out into
the icy
cold. I see them at the bars in Blanes or at the station or sitting
along the
Paseo Maritimo by the water, alone or with their children or a silent
friend
and always carrying some book. What do these women read? wondered
Enrique
Vila-Matas a few years ago. Whatever they can. Not always great
literature
(though what is great literature?). Sometimes it's magazines, sometimes
the
worst best sellers. When I see them walking along, bundled up, buffeted
by the
wind, I think about the Russian women who fought the revolution and who
endured
Stalinism, which was worse than winter, and fascism, which was worse
than hell,
and they always had books with them, when suicide would have been the
logical
choice. In fact, many of those winter readers ended up killing
themselves. But
not all of them. A few days ago I read that Nadezhda Yakovlevna
Khazina,
exceptional reader, author of two memoirs, one of them called Hope
Against
Hope, and wife of the assassinated poet Osip Mandelstam, took part,
according
to a recent biography, in a threesome with her husband, news that
inspired
astonishment and disappointment in the ranks of her admirers, who took
her for
a saint. I, however, was happy to hear it. It told me that in the
middle of
winter Nadezhda and Osip didn't freeze and it confirmed for me that at
least
they tried to read all the books. The saintly readers of winter are
women of
flesh and blood, and they couldn't be braver, Some, it's true,
committed
suicide. Others endured the horrors and returned to their books, the
mysterious
books that women read when it's cold and it seems as if winter will
never end.
Roberto
Bolano
Nữ độc giả của
mùa đông
Vào mùa
đông, có vẻ như chỉ có họ, là những người, đủ can đảm, để “ai đi ngoài
băng
giá”: Tôi nhìn thấy họ, ở những ba ở Blanes, hay ở nhà ga, hay ngồi dọc
Paseo
Maritimo, kế bên dòng nước, một mình, hay với nhóc của họ, hay với 1
người bạn,
và luôn luôn, với cuốn sách nào đó.
Đờn bà đọc,
OK, nhưng họ đọc cái giống chi, “nhẩy”?
Cách đây vài
năm, Enrique Vila-Matas đã lầu bầu 1 câu hỏi như thế. Thì bất cứ cái gì
họ có
thể. Không phải luôn luôn, thứ văn chương nhớn (nhưng nè, văn chương
nhớn là
cái đéo gì vậy, hà, hà!] Khi thì tạp chí, khi thì sách bán chạy nhất,
thứ tệ nhất.
Khi tôi nhìn họ dảo bước, co dúm người vì gió, tôi nghĩ tới những phụ
nữ Nga
chiến đấu cuộc cách mạng và chịu đựng chế độ Xì Ta Lin, tệ hại hơn mùa
đông, chế
độ Phát Xít, tệ hại hơn địa ngục và họ vưỡn có sách cùng với họ, khi mà
tự tử
là cách lựa chọn bảnh nhất, hợp lý nhất. Sự thực, rất nhiều độc giả của
mùa
đông đó chấm dứt, cả đọc lẫn họ, bằng tự tử. Nhưng không phải tất cả
họ. Cách
đây vài ngày, tôi đọc mẩu tin, Nadezhda Yakovlevna Khazina, một nữ độc giả đặc biệt, tác giả của hai hồi ký, một
có cái tên là “Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng”, vợ của nhà thơ Osip
Mandelstam, bị
Xì làm thịt, theo một cuốn tiểu sử mới đây cho biết, bà đã tham dự 1
trò chơi ba
người, cùng với ông chồng. Một mẩu tin như thế gây ngỡ ngàng và bất
bình, trong
số những người ái mộ bà, vì họ vốn coi bà là vì thánh. Tôi, khi đọc mẩu
tin đó,
thì lại cảm thấy rất ư là hạnh phúc. Bởi là vì nếu như vậy, thì là kệ
cha mùa
đông, kệ mẹ giá lạnh, cả hai ông bà, súng ống, bãi đáp….
thì đều OK cả, nó xác nhận với tôi, ít ra cả
hai đã cố đọc tất cả những cuốn sách. Những độc giả thánh nữ của mùa
đông là những
phụ nữ bằng xương bằng thịt, bằng máu bằng huyết, và họ can đảm rất
mực, không
ai có thể can đảm hơn. Một vài người tự tử, đúng như thế. Những người
khác chịu
đựng những điều ghê rợn, khủng khiếp, và trở lại với những cuốn sách
của họ, những
cuốn sách bí ẩn mà phụ nữ đọc khi trời lạnh, và có vẻ như mùa đông sẽ
chẳng bào
giờ chấm dứt.
Mother
Teresa
The Moment: Calcutta, India, 1980
During her
short career Rosalind Franklin made significant breakthroughs in such
disparate
subjects as coal chemistry and virus structure. But she is remembered
today
primarily for her largely unacknowledged contribution to the discovery
of the structure
of DNA. Franklin, who grew up in a prominent British family,
brilliantly
employed x-ray diffraction-a technique for analyzing the patterns
created when
x-rays hit crystalline substances-to determine the structure of first
carbon,
then DNA and viruses. Her work confirmed for Francis Crick and James
Watson
that DNA did indeed have a double helix. The men received the Nobel
Prize for
the discovery in 1962, four years after Franklin died of ovarian cancer
at age
37.
INTELLECTUAL
THEFT A colleague showed one of Franklin's photographs to Crick and
Watson
without her knowledge. They gained crucial insight into DNA's structure
(Crick's sketch is above)-and all the credit for the discovery.
Bà Rosalind Franklin này mới
là người khám phá ra cấu trúc DNA, và tờ báo National Geography đã buộc tội hai
nhà bác
học được
Nobel là những tên trộm trí thức.
Thơ
Mỗi Ngày
Dương
Nghiễm Mậu
Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có
câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở
một nơi
khác.
Rượu Chưa Đủ, bản thân nó, cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một
miền đất
khác.
Sến có 1 câu,
Gấu cực mê, và có thể cả đời, chỉ còn lại câu này, và câu này, dùng để
chỉ vô đời
Sến, quá đúng, nếu muốn lái sang chuyện, VC đếch cho Sến về, cứ bật PC
lên
là thấy quê nhà rồi.
Câu của Sến,
sau này, GCC gặp lại, khi đọc Bolano.
Ông phán, tay thằng chả là
quê nhà của thằng
chả.
Tuyệt!
Cái lũ Mít bò
về không hiểu được điều này.
Tay của Gấu là quê Mít của
Gấu!
Sướng thiệt!
Câu phán của
Bolano là ở trong bài viết “Văn Chương và Lưu vong”. Bài này cũng quá
tuyệt.
GCC cứ thèm dịch hoài, mà hết dám hứa lèo. Ông có mấy bài viết về lưu
vong,
không chỉ bài trên. Hình như trên TV cũng có giới thiệu. Để coi lại,
rồi lại
lèm bèm tiếp. Trong bài "Exiles", Những Cuộc Lưu Đày, ông phán, lưu
vong là can đảm.
Quả có thế.
Lũ bò về đều là 1 lũ chết nhát, theo GCC.
Gọi, lũ chó
chết, cũng được.
Roberto Bolaño
Mọi văn
chương, bất cứ thứ chó nào, nếu đúng là văn chương, đều cưu mang trong
nó, cái
gọi là lưu vong, cho dù nhà văn khăn gói lên đường bỏ chạy quê hương
vào lúc hai
mươi, tóc còn xanh mướt, hay là cả đời chưa rời nhà.
Exile is
courage. True exile is the true measure of each writer.
Lưu vong là
can đảm. Lưu vong, thứ thiệt, là cái đo đúng, của mỗi nhà văn.
DNM cũng là
1 nhà văn lưu vong. Tiếng chuông của ông, gõ ở 1 cái chùa nào ở xứ Bắc
Kít,
nhưng lại vang vọng ở xứ Nam Kít, đúng vào lúc xứ này cần tiếng chuông
đó lắm.
Rồi bặt luôn, theo GCC.
Viết
2. The
classics are those books which
constitute a treasured experience for those who have read and loved
them; but
they remain just as rich an experience for those who reserve the chance
to read
them for when they are in the best condition to enjoy them.
For the fact is that the
reading we do when young can often
be of little value because we are impatient, cannot concentrate, lack
expertise
in how to read, or because we lack experience of life. This youthful
reading
can be (perhaps at the same time) literally formative in that it gives
a form
or shape to our future experiences, providing them with models, ways of
dealing
with them, terms of comparison, schemes for categorizing them, scales
of value,
paradigms of beauty: all things which continue to operate in us even
when we
remember little or nothing about the book we read when young. When we
reread
the book in our maturity, we then rediscover these constants which by
now form
part of our inner mechanisms though we have forgotten where they came
from.
There is a particular potency in the work which can be forgotten in
itself but
which leaves its seed behind in us. The definition which we can now
give is
this:
Italo
Calvino : Why Read The Classics?
Đọc, bèn nhớ
đến cái thú dím thật kỹ một miếng thịt, ở đáy bát cơm, chờ đến chót mới
nhâm
nhi, thưởng thức, khi còn là 1 đứa nhỏ ở xứ Bắc Kít; hay chính bát cơm,
sau khi
chơi một vài bát ngô, những ngày tản cư lên Phú Thọ, được ông Bác nuôi,
trước khi
về Tề, rồi về Hà Nội học…
Ngô, ở đây là
thứ ngô cứng như đá, mỗi lần nấu lên, là phải bỏ vôi vô, rồi đun sôi
thật lâu,
cho nó vỡ ra, rồi bỏ vô nước, lọc đi lọc
lại, cho hết mùi vôi….
Nhưng, chính
quãng đời cuối, khi ra được hải ngoại, khi sống thực – sống lại nó, vào
lúc đẹp
nhất của đời mỉnh - cuộc tình, cuộc đời mình, thời còn trẻ ở Xề Gòn -
mới đúng
cái nghĩa, tại sao đọc cổ điển, của Calvino:
Cổ điển là
những cuốn sách tạo thành kinh nghiệm, tích luỹ được như là 1 kho tàng
với những
người đã đọc, và yêu chúng.
Nhưng chúng đúng là 1 kinh nghiệm, cực giầu có, đối
với những ai chưa từng đọc, nhưng vẫn dành cho chúng 1 cơ hội đẹp nhất
của đời
mình, khi nào thấy mình xứng đáng, thì mới dám lôi chúng ra để mà đọc!
[Dịch thoáng,
theo cái kiểu dịch thế nào lợi nhất, đối với người dịch!]
Thứ ngô đá này,
ở Miền Nam, sau GCC gặp lại, khi đi tù VC.
TTT gọi là “bánh đá”. Ai
đã đi tù VC
thì biết nó.
Sinh nhật
trong tù
Vợ con không
ở gần
Bạn bè xa tất
cả
Cùng đôi bạn
tù thân
Uống trà ăn
“bánh đá”
Trời có mấy
độ xuân
Đất bao
nhiêu miền lạ
Chưa ngấy tiệc
trần gian
Hồn rung
xanh búp lá
TTT: Thơ ở đâu
xa
Tết năm ngoái @
Vientiane with Cu An
Thơ
Mỗi Ngày
THE WHITE
LABYRINTH
There is one
waiting for you,
On every
blank sheet of paper.
So, beware
of the monster
Guarding it
who'll be invisible
As he comes
charging at you,
Armed as you
are only with a pen.
And watch
out for that girl
Who'll come
to your aid
With her
quick mind and a ball of thread,
And lead you
by the nose
Out of one
maze into another.
-Charles
Simic
Mê cung trắng
Có một mê cung
như thế đấy
Nó đang chờ
bạn
Trên mọi tờ
giấy trắng
Vậy thì, hãy
coi chừng
Con quỷ vô hình
canh giữ nó
Nó sẽ quạt
cho bạn 1 trận
Yếu ớt như
bạn,
Trang bị bằng,
chỉ cây viết.
Và hãy trông
chừng
Luôn cả cô gái
Tới cứu bạn
Với cái đầu
lanh lẹn, với cuộn chỉ len
[Bằng 1 cuộn
chỉ như thế, 1 cô gái đã từng cứu được dũng sĩ Hercules
Ra khỏi mê
cung có quái thú Minotaur]
Cô gái sẽ xỏ
mũi bạn bằng sợi len
Kíu bạn ra
khỏi mê cung,
Và đẩy bạn vô
1 mê cung khác.
Dương
Nghiễm Mậu
Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có
câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở
một nơi
khác.
Rượu Chưa Đủ, bản thân nó, cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một
miền đất
khác.
Tôi nghe có
người nói đại khái: “Phạm Duy là người của công chúng, nên sự phê phán
hành vi,
đời tư của PD là đương nhiên, vì ông ta phải có trách nhiệm với công
chúng”.
Đúng PD là một
public figure, hình ảnh của công chúng. Vì ông ta là nhạc sĩ nổi tiếng,
a
celebrity. Ông ta không phải là một công bộc, public servant. Ông ta
không có
trách nhiệm trừ gian diệt bạo hay gánh vác chuyện giang san như lãnh tụ
quốc
gia. PD viết nhạc kiếm sống thì cũng không khác ông thợ mộc đóng bàn
ghế đem
bán. Một cái nghề, thế thôi.
black
raccoon (1)
Note:
PD là 1 nhạc
sĩ. Ông thuộc giới văn nghệ sĩ. Một nhà trí thức.
Với họ, cái
gọi là đạo đức quan trọng lắm.
Phán như thế
này - một cái nghề thế thôi - thì đúng là, như vị quan tòa Liên Xô, khi
hỏi
Brodsky, ai cho phép mi là nhà thơ, và Brodsky bèn trả lời, ai cho phép
ta đứng
vào hàng ngũ của nhân loại?
Hay như vị
quan tòa Nuremburg, khi lũ Nazi trả lời, chúng tôi không biết những tội
ác đó,
“Tụi mi là trí thức của chế độ đó, tụi mi phải biết”!
Khi PD sáng
tác bản “Bà Mẹ Gio Linh”, thí dụ, là, 1 cách nào đó, xúi người ta cầm
súng chống
lại Tẩy mũi lõ.
Làm sao giống
1 ông thợ mộc được.
HPNT là giáo
sư của Ngụy, ông dậy học, kiếm tiền nuôi thân, tại làm sao lại bảo ông
ta
là… đao phủ thủ Mậu Thân?
Làm sao
chúng ta có thể tưởng tượng ra được, văn chương Bắc Kít trước 1975, nếu
thiếu tiếng
“ba toong” của Nguyễn Tuân?
Khi Pạt được
Nobel văn chương, dù bị cả 1 khối CS chửi bới, bị Gấu Mẹ Vĩ Đại làm
nhục nhã,
điêu đứng, nhưng trong thâm tâm của tất cả, thì đều hài lòng, ông ta là
của
“chúng ông” đấy.
Một đấng như Nabokov, hách như thế, mà còn ghen, đúng ra ta mới
được Nobel thay vì ông ta, vì ta mới là nhà văn Chống Cộng đầu tiên của
Liên
Xô!
Là nhà văn, thứ thiệt,
khủng lắm, không đơn giản đâu.
Vương Đại Gia mà còn phải công nhận, may mà có cõi văn Ngụy, tức là có
những nhà văn như TTT, TTY....
Nhưng phải là Milosz, khi
vinh danh Brodsky, chúng ta mới hiểu ra được, tiếng cây gậy ba toong
của Nguyễn Tuân, "nghĩa là gì"
Milosz
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng
là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với
dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống
người, khám
phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê
cung, chúng
ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân
biệt dựa
trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm
đồ ăn, [ui
chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng
hoại thoái
hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc
thần tiên còn hoài hoài....
****
If a poet
has any obligation toward society, it is to write well. Being in
minority, he
has no other choice.
[Hỡi thi sĩ,
hãy làm thơ cho thật hay, nếu như mi có một bổn phận nào đó đối với đám
người
đông đảo kia.
Trong thiểu
số đếm trên đầu ngón tay, mi đâu có một chọn lựa nào khác?].
J. Brodsky: To Please a Shadow: Hãy
làm Hài Lòng một Cái Bóng
Cúi Xuống Là Đất
Thảm họa Mít (1)
Kẻ nào,
trong số hậu duệ của chúng ta sẽ giải ra được nghi án thê lương sau đây:
Sau khi con
người biết ánh sáng, nó lại quay lại sờ soạng trong bóng tối?
Note: Báo
nhà [Canada] số mới, Mùa Đông 2015. Có mấy bài thật là tuyệt. Dạo Mả
với Nhà
Văn, "Cemetery Strolls with Writers".
Nhà văn thì có Ko Un, Đại Hàn, Tin Văn đã từng
giới thiệu, và với ông này, là chuyến viếng thăm nghĩa địa quốc gia
Seoul.
Ông
kể, lần đầu tiên ông khám phá ra nỗi cô đơn của sinh vật gọi là con
người, là
khi 10 tuổi, đất nước là 1 tỉnh lỵ của Nhựt Bổn.
Và khi bạn học hỏi ông, khi lớn
lên mày muốn làm gì, thằng bé bèn phán, tao muốn làm hoàng đế Nhựt Bổn!.
When he was
ten years old, Ko Un grasped, in a drastic sense, what loneliness
meant. At
that time, Korea was still a province of Japan. The Japanese attempted
to
impose their culture and way of thinking in their colony, sometimes by
force.
When a teacher asked him and his fellow students what they wanted to
become, Ko
Un responded, "I want to be the emperor of Japan!" Ko Un gives a
short laugh, tilts his head and squints upwards, which he does often
when recalling
a distant event. "Because of this sentence 1 was chased out of the
school.
My father implored the teacher to take me back, insisting 1 was a good
boy." The teacher agreed, but only with the compromise that the ten-
year-old
must endure a harsh punishment first. For three months, from morning to
evening, Ko Un had to stand completely alone on a remote field and
separate the
fresh wheat from the ruined crop. "So that you learn how one separates
the
good from the bad," said the teacher. "The unusable wheat stank of
rot," remembers Ko Un. "Because 1 was utterly alone in the field back
then, loneliness, to this day, still has a rotten aftertaste to it."
Tuyệt vời
hơn
nữa, là với nhà văn Đức, Cees Nooteboom. Với ông này, là cái nghĩa địa
nổi tiếng,
được Bức Tường dựng lên, và chia nó ra làm hai. Ông còn là tác giả cuốn
Nhà
văn trong nghĩa địa lòng vòng trên thế giới, “Writers in cemeteries
around the
world”.
Bài về nhà văn tiểu thuyết
mới Nathalie Sarraute, cũng thật tuyệt.
The sun has disappeared.
To warm up, Nooteboom takes a short walk among the graves and then
returns to
the snow-covered headstone, which cemetery volunteers returned to its
original
place after the fall of the wall. The Dutch author gazes again at the
pilot's
engraved name. Behind him, the Berlin Wall shimmers. "It is the irony
of
history that she is looking at the wall. She could not have known that
one day
a wall would split her country, her city, and, right under her nose,
her
cemetery. It is strange, indeed. A German fate, in the truest sense." +
GCC khám phá ra tờ báo nhà này, là nhân
lần nó “đi 1 đường” về Brodsky!
Joseph
Brodsky @ Toronto Oct 1995 (1)
Mọi
tự thuật thì đều là đồ dởm.
Speaking to
the Paris Review about her memoir, Childhood
(Enfance), published in 1983,
Sarraute admits that although she doesn't "at all like Freud and
detest[s]
psychoanalysis," she agrees with Freud's statement that "all
autobiographies are false." The reason her own autobiography ends when
she
is twelve years old is "precisely because it's still an innocent period
in
which things are not clear and in which I tried to recover certain
moments,
certain impressions and sensations."
Un
Exil Fondateur
Một Lưu vong, Trùm.
Dans toute l'œuvre de Nathalie
Sarraute résonne sa jeunesse russe qui
lui fut
volée.
Trong tất cả
tác phẩm của Nathalie Sarraute vang vọng lên tuổi trẻ Nga
của bà,
bị chôm mất!
Ui chao, không lẽ đây là BHD?
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa
mémoire. On
lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est
fini
pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Và nàng có một phản ứng thật lạ: nàng làm thịt hồi ức của nàng. Người
ta chôm
mất của nàng một xứ sở, vậy thì nàng làm thịt tất cả những kỷ niệm về
miền đất
đó!
Già mà vẫn còn nói dóc quá
xá
Thursday,
March 8, 2012 1:57 AM
FROM:
TO:
Tình cờ lang
thang trên Google tìm tài liệu về Lolita, đọc được 1 câu từ trang Tin
Văn:
"Bởi
vì
cho đến bây giờ, chưa ai nhìn ra, Lolita, như 1 tuổi thơ Nga đã
mất
của Nabokov, như 1 BHD và xứ Bắc Kít của Gấu già!"
Ông nói
thế thì nói dóc quá xá. Cái ý đó có từ khuya rồi. Ông ít đọc mà
ông lại
coi trời bằng vung.
Ông thử
gõ hàng chữ "lost childhood" nabokov lolita lên Google thì sẽ
thấy ngay 12,100 kết quả.
Trên mạng
bán sách Amazon ở Canada người ta cũng đã viết công khai:
"Humbert
does not actually love Lolita herself, but he loves her for
the
fact that she resembles his lost childhood love"
http://www.amazon.ca/Lolita-Vladimir-Nabokov/dp/0679723161
Ở một
trang mạng khác người ta cũng viết:
"Nabokov
is at pains to point out that his sorrow is not for loss of
his
estate and fortune, but for the loss of his childhood"
http://www.ardis.co.uk/fiction/nabokov.htm
Hôm nay
tôi đọc cuốn "Figurations of Exile in Hitchcock and Nabokov"
của Barbara Straumann, ở trang 52 cũng có viết:
The
nostalgia for a "perfect childhood" also underpins the
refrigeration of exile as a loss of childhood in Speak, Memory (and in The Real
Life of Sebastian Knight and Lolita).
Thôi
đi ông. Già rồi, hết chuyện gì làm hay sao mà nói dóc quá xá vậy?
A.L
[Canada]
Note: Vị độc giả này, theo GCC, thường đọc net, trong khi GCC không đọc
net, ấy là nói về những sự kiện liên quan tới Lolita, được nêu ra ở đây.
Những gì GCC biết, về Lolita, là đều do đọc sách, báo giấy.
Chính vì thế mà GCC không hề biết đến những tài liệu, trên net, do vị
độc giả này trưng ra.
Và nếu như thế, thì GCC có quyền nghĩ ra rằng thì là, "Bởi vì
cho đến bây giờ, chưa ai nhìn ra, Lolita, như 1 tuổi thơ Nga đã
mất
của Nabokov, như 1 BHD và xứ Bắc Kít của Gấu già!"
Khi GCC phán, não những tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, đều bị thiến một
mẩu, và sau đó, đọc [báo giấy], Đức Phật Sống cũng phán như thế, về lũ
Tẫu ở Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, thì không thể nói là Gấu nói dóc quá xá được!
Bạn có thể chê GCC ít đọc, coi Trời bằng vung, nhưng không thể chê Gấu
nói dóc!
Đã xẩy ra
trường hợp, Newton và Leibnitz, đấng nào cũng nghĩ, chính ta là kẻ phát
minh ra
toán vi tích phân, và đây là 1 nghi án thú vị nhất, theo GCC, trong
lịch sử toán
học thế giới!
Trân trọng.
NQT
Lưu Vong và
Mít
Nhân đọc bài
viết của Nguyễn Hải Hà (1)
Bài viết, đa
phần dựa vào cuốn của Ha Jin, "Nhà văn như tên di dân", và đúng như cái
tít của nó, ông nhà văn Tầu này thực sự cũng không tin vô, thứ nhà văn
lưu vong.
Ông ta
cũng nói về giống nhà văn Tẫu của mình y chang, khi cho rằng, nhà văn
Tẫu mà đếch
có bạn, đếch có ly cà phê kế bên, là không sống được chứ đừng nói, là
nhà văn
nhà thơ.
Nhận xét của
ông này áp dụng cho nhà văn Mít quá đúng. Chính đám Mít cũng không hề
tin, trong
số họ, có 1 tên là nhà văn lưu vong. Ông nào cũng bò về hết cả rồi, làm
gì có đơn,
mà đòi kép!
Vô tình Ha
Jin, qua cái tít của mình, nói lên điều mà tay thư ký Nobel đã từng
nói, khi đám
Mẽo đòi Nobel, làm gì có lưu vong, mà đòi Nobel.
Với Mẽo, chỉ có văn chương di
dân mà thôi.
Cao Hành Kiện, với ông
này, quả có thứ văn chương lưu vong, vì
theo ông, đây
là cốt tử của văn chương:
Nếu gọi là văn chương, thì phải là lưu vong.
Người ngửi
ra số phận lưu vong của chỉ 1 nhà văn nhà thơ Mít, là ông anh nhà thơ
của GCC,
khi, không hiểu bằng cách nào, ông tưởng tượng 1 tên như vậy, và tên
này, đành
bỏ lưu vong, trở về lại xứ Mít - mà anh ta phịa ra là, vì người yêu và
đứa con
trong bụng của mình kêu réo, anh ơi, bố ơi, về đi, vợ con cần anh - nên
anh bò về
- để chết lãng nhách như 1 tên VC!
Có 1 cái gì đó,
trong cái chết này, làm nhớ đến cái bào thai chết của đứa trẻ Mít,
trong nhà văn
Linda Lê.
Và bà này, cũng tin rằng, nhà văn phải lưu vong, và lưu vong, thì giống
như cái bào thai chết trong bụng ta!
Về lưu vong
Lưu vong là
cứu rỗi. Lưu vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không phải là lưu
vong. Mục
đích là viết. Có rất nhiều nhà văn bị ép buộc phải bỏ chạy để viết. Đôi
khi sự
đàn áp không đến nỗi tới chỉ khiến họ phải bỏ đi, nhưng vẫn phải bỏ đi.
Thí dụ
James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả hai chẳng hề quay trở lại. Có
một sự
đàn áp về tâm lý ở Ái nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong.
Không, một
nhà văn không thể đánh bại một xã hội. Nhưng anh ta có thể tự cứu mình,
đây là
một trường hợp từ cổ xưa cho mãi tới ngày này.
Sau khi Mao
chết [1976], sau Cách Mạng Văn Hóa, xã hội TQ có một thời kỳ tương đối
cởi mở,
và tôi có thể đi du lịch, nhìn tới nhìn lui những sự vật, con người. Lingshan
[Linh Sơn] là về sự tìm kiếm một khởi điểm cho tâm thức, kiếm
điểm nhập tầng tâm linh. Nó
hầu hết được viết ở TQ và xuất bản ở Pháp, nhưng tôi phải đợi sau khi
Mao chết,
vậy mà khi đó vẫn không nghĩ có thể in nó ra. Tôi bắt đầu viết nó vào
năm 1982.
Cao Hành Kiện
I am a
Chinese writer, only one person, and I cannot represent others. China
for me is
not that huge race or abstract nation; it is simply the cultural
background
that manifests· itself in my writings, the culture's impact on me since
my
birth, and the modes of thought, nurtured by the Chinese language, that
I use
in my writings. I also acknowledge the influence of Western cultures,
and I am
interested in the other cultures of Asia and the cultures of African
races and
others. The idea of a pure racial culture in this era of cultural
fusion is a
slogan to cheat people, and nothing more than a myth.
It is the
fate of the individual not to be able to attain ultimate truth, whether
he
calls it God, the other shore or the other side of death. The awareness
that an
individual is able to attain is what I call rationality, but it is not
an ism.
I AM HIGHLY
SUSPICIOUS WHENEVER the name of a collective is invoked; I actually
become
afraid that this collective name will strangle me before I have the
chance to
say anything. "Chinese intellectuals" is a collective noun that I
cannot, of course, represent, and I am terrified that if it represents
me I
will be annihilated. However, it happens to be one of the issues for
discussion
today, and it may be said to be a very important issue.
Tôi rất hơi
bị nghi ngờ cứ mỗi khi tập thể lên tiếng. Tôi sợ nó bóp cổ tôi lè lưỡi
ra, trước
khi tôi thốt ra, dù chỉ một lời. "Tầng lớp trí thức Tầu" là một danh
từ tập thể mà tôi không thể đại diện, lẽ dĩ nhiên, và tôi sợ đến khiếp
vía, nếu
nó đại diện tôi, thì tôi sẽ tan biến vào hư vô!
Tuy nhiên,
đây là một đề tài rất quan trọng.
Kể từ thất bại
của Những cuộc cải cách 100 ngày, năm 1898, tới Cách Mạng 1911, trí
thức, như
là chúng ta biết đến nó, qua quan niệm của Tây phương, bắt đầu xuất
hiện ở TQ.
Trước đó, theo tôi, giai cấp trí thức TQ chỉ gồm có những bậc văn nhân
tài tử,
những nhà học giả; họ, ngoài chuyện rất quan tâm tới cách ứng xử cá
nhân, và
văn chương, còn chú tâm tới yếu tố tinh thần. Họ mong sự toàn thiện,
toàn mĩ,
theo những tiêu chuẩn đạo đức của đạo Khổng. Triết học hướng về thiên
nhiên,
thuận theo thiên nhiên của đạo Lão đưa đến không hành động, đạo Phật
không coi
trọng cái thân. Cách ứng xử kỳ cục của những học giả của những triều
đại Wei và
Jin, sự ló dạng của văn hóa đô thị ở cuối triều Ming, tất cả đều chẳng
thể nào
cung cấp cho giới trí thức TQ một mảnh đất, để từ đó mọc lên chủ nghĩa
cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân thực ra là sản phẩm mới mẻ của những truyền thống duy
lý của
văn hóa Tín lành Tây phương và sự nở rộ
tiếp theo của chủ nghĩa tư bản.
Trí thức TQ
không tạo ra được một giai cấp xã hội độc lập, so với giai cấp cầm
quyền, cho đến
thời kỳ văn hoá mới 4 Tháng Năm, tiếp theo sự sụp đổ chế độ phong kiến
và cơn
lũ tư tưởng Tây phương vào TQ. Một ưu tư
về chủ nghĩa cá nhân hiện đại manh nha xuất hiện cùng với sự khơi mào
của tư tưởng
chính trị Tây phương, nó đáp ứng nhu cầu chính trị, trước tiên và sự
thừa nhận
giá trị của những hoạt động tinh thần của một cá nhân chỉ là thứ yếu.
Kết quả
là, những trí thức TQ, như là những con người suy tư, bắt đầu nói với
xã hội,
như là từng cá nhân.
Than ôi,
tình trạng lý tưởng này không kéo dài. Tới thập niên 1930, tức là muời
năm sau
đó, những hỗn loạn ở trong nước, sự hăm dọa của nước ngoài, cách mạng,
và chiến
tranh, tất cả lại xô đẩy trí thức TQ vào những cuộc xung đột chính trị
để cứu
quốc gia và dân tộc. Liệu họ có ý thức được, hay không, và có lẽ, những
duyên
do tại sao, thì vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ, bởi vì họ, chính họ,
tự biến
thành những món đồ để cho những đảng phái chính trị lợi dụng để giết
hại lẫn
nhau. Mặc dù có một dúm nhỏ trong số họ, cố gắng giữ sự độc lập của
mình, nhưng
thật khó khăn vô cùng đối với họ, trong cái việc suy nghĩ và viết lách.
Đây là
cái kinh nghiệm bi thảm của giai cấp trí thức hiện đại TQ, ngay từ khi
trứng nước
của nó.
*
Ui chao, sao
giống Mít thế, những ngày trước Cách Mạng Mùa Thu 1945!
*****
V/v Đứa bé
chết trong bụng:
Trường hợp của
Linda Lê không thể
nói là “về” mà phải nói là “đi đến” bởi vì cô không tự nhận là người
Việt Nam.
Bản sắc Việt dính vào cô như một thây ma chết mà cô phải cưu mang
Đinh Linh, phần giới thiệu Tiếng Nói của
Linda Lê. Văn, 2003, trang 8.
“Nguồn”
của cái xác chết này, là từ bài trả lời phỏng vấn tờ Lire, của Linda
Lê. (2)
GCC do
đọc báo Tẩy, tờ báo vừa xuất hiện ở Toronto, là bèn dịch
và giới
thiệu liền.
Và như thế, cả ĐL, lẫn TV, và rất nhiều người khác nữa,
khi nhắc tới đứa bé chết này, là đều lấy từ Tin Văn.
Đây là hiện tượng phi-lương
thiện, và nó ảnh hưởng đến cõi văn, đúng như Brodsky phán, trong bài
diễn văn
Nobel văn chương, được Coetzee trích dẫn:
Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Đạo
Hạnh có
tí ti vấn đề, là văn như… kít liền tù tì!
Brodsky
phán: Một khi bạn
bắt đầu biên tập
đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này
nên, cái này không nên, bạn đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is
or
isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov.
Rõ
ràng là có tên nào viết ra hồn đâu? NQT
Khi GCC mới
ra hải ngoại, thì TV nổi tiếng như cồn với Ngôi Nhà Sau Văn Miếu (?).
Thì cũng
thử tìm đọc, nhưng không mặn, vì cường điệu quá, không phải thứ văn
chương rất
mực bình thường như Gấu thường đọc.
Chỉ đến khi anh viết cái lưng trần (?) Gấu
mới thấy OK, và nghĩ thầm, tay này bây giờ mới biết viết.
Còn DL, thì chỉ đến khi đọc anh ta đi 1
đường tiếng
Anh trên Guardian, chê "Tận
Thế Là Đây", của Coppola, thì GCC bèn lắc đầu, cũng 1 thứ chơi
trội, và có thể còn mù tịt về cuộc chiến Mít.
Trên Tin Văn có tường
trình mấy
vụ nhảm nhí này.
Lưng trần là khoảng thân đẹp
nhất của phụ nữ. Còn lưng đàn ông? Lưng đàn ông thường mang vết chém
của người
khác. Đôi khi do tự mình chém lấy. Lưng đàn ông Huế mang đầy thương
tích của
nội chiến. Còn lưng tôi? Viết ký, là trục xuất linh hồn. Nhưng tôi chỉ
dám trục
xuất dè sẻn. Giống vén áo, phơi một khoảng lưng và viết trên da lưng
này. Lưng
trần là vậy.
Trần Vũ, Hợp Lưu
Tuyệt!
Đây có lẽ là bài viết
tuyệt
tuyệt của Trần Vũ, về Huế.
Và về Võ Đình. Ui
chao, giá mà Gấu đi được một
đường như thế này, để tặng ‘hai bà ngoại’ của Tin Văn!
Thôi đành muợn hoa hiến Phật
[Bà] vậy!
NQT
Note: Đầu
tháng, xuất hiện bài này, trong Top Ten, qua server.
Bài
viết này, [Khải
Huyền Dối Trá],
theo tôi, cũng
là một thí dụ, về ‘bad style’.
Do
mặc cảm tự ti, lại ôm tham
vọng lớn, phạng một tay làm phim nổi tiếng như Coppola, thành thử
mỗi câu
viết là một lần lên gân.
Trong
khi đây là một vấn đề cần hết sức điềm
tĩnh.
Chúng
ta tự hỏi, tại sao Coppola lại đặt tên cho cuốn phim
của ông là Tận
thế là đây?
Phim của
ông, như nội dung cho thấy, là một chuyển thể Trái tim của
Bóng đen
của Conrad, nhưng khi được hỏi, ông lại trả
lời, đây là Việt Nam.
Như
thế, liệu có thể suy ra, cuộc chiến VN, là, tận thế là
đây?
Đó
đúng là hàm ý của câu trả lời của Coppola, theo tôi.
"Ðây
là một cuốn phim mà
Coppola tuyên bố một cách ngạo nghễ “không phải là về Việt Nam — nó là
Việt
Nam.”
*
Phim
này, như
vậy, thực ra là về một bầy những tên da trắng, kể cả
Coppola, lội sâu vào quả tim đen tối của chính bọn họ. Chắc
chắn nó
không phải
là về Việt Nam. Tôi cũng không dám chắc nó là một phim chiến tranh Việt
Nam.
"Trước hết, chiến
tranh
Việt Nam chủ yếu là một cuộc nội
chiến. Hai phe chính lâm chiến là Bắc Việt và Nam Việt, như những con
số tử
vong sau đây cho biết: 1.1 triệu cho Miền Bắc, 223,746 cho Miền Nam, và
58,200
cho người Mỹ. Trong ba trận tấn công lớn của cuộc chiến — Tết (1968),
Lễ Phục
Sinh (1972), và Mùa Xuân (1975) — lục quân Mỹ chỉ dự một. Thế nhưng bạn
không
bao giờ biết được điều đó, nếu chỉ nhờ xem bất kỳ cuốn phim chiến tranh
Việt
Nam nào do người Mỹ làm, dù là Người Săn Nai (The Deer Hunter), Trung
Ðội
(Platoon), Những Chàng Trai Trong Ðại Ðội C (The Boys in Company C) hay
Khải
Huyền Ðến Rồi (Apocalypse Now).
Ðối
với nhiều người Mỹ, chiến tranh Việt Nam là một màn
trình diễn của người Mỹ, dàn dựng ở Việt Nam. Thừa nhận nó là một cuộc
nội
chiến tức là hạ nước Mỹ xuống vai phụ trong một bi kịch của kẻ khác.
Nhưng đó
mới đúng là sự thật: một bi kịch của kẻ khác. Dù cho nước Mỹ tiêu tốn
bạc tỉ,
chiến tranh Việt Nam vẫn chủ yếu là chuyện của dân Việt Nam. Ðơn
giản
là vì họ
chịu nhiều thiệt hại hơn nhiều.
Đinh
Linh: Khải
Huyền Dối Trá
[những đoạn nhấn
mạnh, là do Tin Văn]
*
Cái
vụ đem chuông đi đánh xứ người, là phải rất ư là cẩn
trọng.
Không
ai cấm chúng ta, lên tiếng tố cáo, đây là một phim [Tận
thế là đây]
bôi nhọ người Việt, bôi nhọ cuộc chiến thần thánh
chống Mỹ cứu
nước. Nhưng nói, viết làm sao cho hợp lý, cứ gân cổ lên mãi thì… chán
lắm!
Ông
cụ bà cụ chúng ta chẳng nói, đồ dơ thì đem phơi ở phía
sau nhà?
Dịch
toàn đồ dơ, thì đúng là mang ra đằng trước nhà để khoe…
của!
Chiến
tranh ngay vào lúc kết thúc, thì làm sao lại đưa đến
chuyện ‘nhanh chóng’ giảm thiểu… ? Lò Thiêu, kết thúc từ nửa thế kỷ, mà
đâu có
nhanh chóng giảm thiểu cái mầu xám của tro người đâu? Chất độc mầu da
cam đến
nay vẫn còn gây họa và làm đau đớn cả nhân loại, "nhanh chóng giảm
thiểu", là
thế nào?
Có
thể, máu lập tức, “nhanh chóng” ngưng đổ, biển máu 'nhanh
chóng' không xẩy ra, nhưng nỗi buồn chiến tranh thì lại càng dài mãi
ra. Và nó
là của bao nhiêu con người làm sao lại không… chia sẻ được?
Viết
như ‘sấm’, [chữ của PTH] thì bố ai hiểu nổi?
*
Ý
nghĩa của phim hoàn toàn nằm trong tên của phim. Đây là một cuộc nội
chiến được đẩy vào trong nội dung thế giới, ở phần hậu bán thế kỷ 20.
Bảo
là nội chiến, như Đinh Linh nhận định, đúng, nhưng không hoàn
toàn như
vậy. Trịnh Nguyễn phân tranh được ‘remake', làm lại, lập lại, với hàng
rào điện tử McNamara thay cho Lũy Thầy, súng AK của Tiệp Khắc, M.16 của
Mẽo, thay cho cung tên.
Súng
ống ngoại như thế, không giản dị là nội chiến được.
Đây
là một ‘phim trong phim’. Phần nổi của nó, là ‘remake’Trái tim
của Bóng đen,
với những Kurtz, Marlow và cùng với nó, là chủ nghĩa
soi sáng, khai hóa của
nửa phần đầu thế kỷ 20. Phần chìm của nó, cũng vẫnTrái tim của
bóng đen,
nhưng cùng với nó, là lý tưởng Cộng Sản lồng trong giấc
mơ thống nhất.
Bảo
rằng một cuộc nội chiến với sự xúi giục của ngoại bang, là sai,
chính vì thế, Coppola chỉ sử dụng xúi giục, tham dự như mặt nổi của
phim, ra ý: Trái tim của bóng đen là của chúng mày, không liên can gì
tới chúng tao, tức Mẽo trong có Coppola, Đồng Minh, những người anh em
XHCN Trung Quốc, Liên Xô.
Bảo
rằng, đây là một cuộc chiến ngu xuẩn, như DTH, thì sai.
Nhục
nhã, có lẽ đúng hơn!
Dọn
2
Coppola
Apocalypse
Now
Tận
thế là đây
Khiem
Do
7 mins ·
Tang lễ tướng
Lý Tòng Bá
Thời gian tướng Lý Tòng Bá cầm sư đoàn
25 bộ binh miền Nam rất ngắn. Thời gian tôi trong quân số SĐ còn ngắn
hơn. Tôi
không gặp ông vào lúc đó cũng như không gặp ông lần nào sau này. Nhưng
trong
quân, tôi chỉ được nghe những lời đồn tốt đẹp về “Đường Sơn đại huynh”,
ngược
lại với 1 vị tư lịnh tiền nhiệm là “anh Tư mỏ lét”, cái gì mà anh gỡ ra
được tại
căn cứ Đồng Dù là anh đem bán tất.
Năm 1999, tôi được nghe 1 bạn trước
thuộc sư 320B miền Bắc, 4/1975 là tiền sát pháo binh kể lại là các anh
rất ngại
khi biết tiến vào Sài gòn sẽ phải đụng “Sư Lý Tòng Bá” tại Củ Chi. Khi
anh đến
nơi thì đã thôi đụng độ nhưng anh còn thấy mồ mả mới tinh nằm ngoài căn
cứ của
các đồng đội đi trước.
Ông Bá từ trần 22/2/2015 tại Las Vegas.
Khi tôi biết tang lễ ông là ngày 2/3 tại Orange County thì tôi đang ở
ngoài nhà
và đã 12 giờ, chỉ kịp vội đến dự lúc hỏa thiêu. Có lẽ phần lớn đã ra về
trước
đó, chỉ còn có mặt 1 số niên trưởng thuộc thiết giáp (tướng Bá xuất
thân
từ binh
chủng này) và 1 cựu Thiếu tá mang phù hiệu SĐ 23. Danh của ông Bá là
chiến thắng
Kontum năm 1972 khi ông chỉ huy SĐ 23.
Tướng Bá bị bắt ngày 29/4 trên đường về
Sài gòn. Sự việc này có 3 bản khác nhau, do ông kể lại, và 1 bản của nữ
du kích
Củ Chi, 1 bản của bộ đội chính quy miền Bắc đều nhận là bắt sống được
ông. Sau
13 năm cải tạo, ông Bá sang Mỹ diện HO và đoàn tụ với gia đình tại Las
Vegas,
bang Nevada.
Chúc ông an nghỉ.
General Ly Tong Ba led the ARVN 25tn
Infantry for a veryshort time. My own time serving under his command
there was
even shorter. I never met him then and never met him later. In the
ranks
however, I heard only but praise for “The Tang Shan Big Boss” (the
nickname came
from the title of Bruce Lee first feature, I have no idea why). In the
opposite,
one of his predecessor, nicknamed “Brother Four Key wrench”, sold for
his own
profit whatever he could lay his hands on in Dong Du, the Divisional
base.
In 1999, I was told by an Artillery
Forward Observer from the PAVN 320B Division that in April 1975, they
were
worried to have “The LyTong Ba Division” in their way during their
progress
toward Saigon. He did not encounterany action when they arrived at Cu
Chi,
however the surrounding were dotted with fresh graves of their advance
party.
Gen Ba passed away on Feb 22, 2015 in
Las Vegas. I learnt that the funeral ceremony is to be held March 2 in
Orange
County only at noon the same day and rushed to the place, in time only
for the
cremation. I assume that most of the people attending had left except
for a
group of my seniors from the ARVN Armor and Cavalry (Gen Ba was an
Armor
officer
most of his career). One former Major served with the 23rd
Infantry.
Gen Ba’s fame came from the 23rd when he led that
Division to
success at Kontum in 1972.
Gen Ba was taken prisoner on April 29,
1975 on his way to Saigon. Of this event, there is at least 3 versions,
Gen Ba’s
own, one by a female NLF Cu Chi guerilla unit and a PAVN regular unit
which both
claim to have taken him prisoner. Gen Ba spent 13 years in Reeducation
before he
wasallowed to join his family in Las Vegas, Nevada through the HO
program.
May he rest in peace.
NYRB March
5, 2015.
Bài thơ thần sầu! Đúng vô
tâm trạng GCC. Nhất là khúc sau.
Nhà thơ như
biết, GCC rất ư đang cần, hà, hà!
Em nắm mũi GCC,
Dẫn ra khỏi mê cung [trắng, tức tờ giấy]
Tới một mê cung khác [đen thui ?]
Chắc hẳn!
Tiếng còi
trên sông Hồng
Tờ "Người Nữu
Ước", 9, Tháng Ba, 2015 tưởng niệm Mai Thảo!
Chắc là nhân
đọc 1 tên cha căng chú kiết nào đó, thay vì đọc Gió O của Bà Huệ!
Hà, hà!
Viết
Mark Strand
Tưởng niệm
Joseph Brodsky
Có thể nói
ngay cả ở đây, cái còn lại của cái ngã
Tuồn vô 1 thứ
ánh sáng cũng đang sắp sửa chuồn, biến mất,
Mong manh,
mỏng dính như bụi
Hướng về một
nơi
Cái biết và cái
hư vô trộn vô nhau;
Rằng, nó
chuyển động, vưỡn theo kiểu trải ra, tuồn vô, như thế, quá cả vòm sáng,
tận.
Tiếp tục tới
một nơi chẳng bao giờ kiếm thấy, không thể nói ra được,
Và sau cùng,
một lần nữa nó - cái còn lại của bản ngã - được thốt lên.
Nhẹ, lẹ làm
sao,
Như cơn mưa bất chợt, tình cờ
Chìm vào giấc
ngủ,
Một người nào
đó tưởng tượng, và chìm vào giấc ngủ
Cái còn lại
của cái ngã
Trải ra, trải ra, bởi là vì chẳng hề có 1 thứ biên cương bờ cõi nào
cầm giữ nổi –
Cái không hình dạng giữa chúng ta, không, mà luôn cả cái té xuống
giữa thân thể và giọng nói của bạn, cũng không, Joseph
Joseph thân
thương,
Những nhắc
nhở bất thần ở những ai đó, về bạn - những nơi chốn, thời gian có bạn ở
đó, cái
cuộc đời vĩ đại nhất mà bạn ban cho họ - bây giờ xuất hiện
Như những hồn
ma trong cú thức giấc của bạn.
Cái còn lại của cái ngã trải ra, trải ra, quá chúng
ta
Bởi là vì thời
gian chỉ là cân đo đong đếm của cái “vào lúc này”
Và tương lai
thì là cái đếch gì, vân vân và vân vân, nhanh ơi là nhanh, và vô cùng,
miên viễn.
Mark Strand
Cổ Điển vs
Man Rợ vs Lãng Mạn
Nhà văn Nam
Phi [Coetzee] nhắc tới một bài diễn thuyết
- cùng tên với bài viết của ông -Tại sao
cổ điển - của T.S. Elliot - vào tháng Mười 1944, tại London, khi Đồng
Minh đang
quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu).
Về cuộc chiến,
Eliot chỉ nhắc tới nó, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng chỉ là tai nạn
của hiện
tại (accidents of the present time), một cái hắt hơi, xỉ mũi, đối với
cuộc sống
của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo cho bài nói
chuyện.
"Nhà là
nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts from], "Trong cái bắt
đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning is my end], nhà thơ
[Eliot]
cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải trở lại với nhà thơ
lớn lao
nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng ta" (the great poet of
the classic of our own times), tức nhà thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert.
Với Herbert,
đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ. Với nhà thơ Ba
Lan, viết
từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo với những láng
giềng man rợ,
không phải cứ có được một vài tính cách quí báu nào đó, là làm cho cổ
điển sống
sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa
tồi tệ nhất
của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi
những con
người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với
bất cứ mọi
tổn thất, (at all costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ
Điển.
Như vậy, với
chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng chỉ là một cái hắt hơi của lịch sử.
Không phải
viết từ những đối nghịch chính trị, như một hậu quả của cuộc chiến đó,
mà trở
nên bền. Muốn bền, là phải lần tìm cho được, cái gọi là nhà, liệu có
đúng như
Eliot nói đó không: Nhà là nơi một người bắt đầu.
Hay nhà là
nơi cứ thế sống sót những xấu xa của chủ nghĩa Man Rợ, đời này qua đời
khác, bởi
những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt
lấy, với
bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên,
Nhà là nơi một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà văn Việt
nam ở hải
ngoại.
Câu dưới, có
vẻ như dành cho nhà văn trong nước. (1)
Trong cuộc
chiến Mít, 1 viên tướng không quân Mẽo, đã huênh hoang phán, ta sẽ
biến xứ Bắc
Kít trở về thời đại đồ đá của nó, nhớ đại khái.
Tất nhiên hắn
không làm được, nhưng trớ trêu thay, chính Bắc Kít làm được điều này,
khi diễn
lại những cổ tục dã man của Bắc Kít.
Bởi thế mà
Coetzee trong bài viết về thế nào là cổ điển, đã viết, cổ điển không
chống lại
hiện đại mà là chống lại man rợ, và cái định nghiã của Milosz về xứ sở
quê
hương của ông, trong bài diễn văn Nobel, áp dụng thật là tuyệt vào xứ
Bắc Kít,
cho tới khi lũ Bắc Kít chiếm trọn được cả xứ Mít, và đưa nó trở lại
thời kỳ con
người là 1 con thú ăn mồi sống:
It is good
to be born in a small country where nature is on a human scale, where
various
languages and religions have coexisted for centuries. I am thinking
here of
Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt
lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với con
người, nơi
ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi đang
nghĩ về
Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn
văn Nobel văn chương. (2)
Có hai hình ảnh,
đúng hơn, hai sự kiện của xứ Bắc Kít, mà thằng bé con của nó ngày nào,
khi trở
về thì là 1 ông già, muốn tìm lại được.
Một, là bài ca của những
người còn sống,
khi đưa 1 người chết xuống cái huyệt của nó. Bài ca diễn cuộc hành
trình của
hồn người chết, phải làm những gì, để mà còn có thể tái
sinh; hồn đi qua “bến đò gió” thì phải làm gì, nhớ ăn bát cháo lú, để
quên hết
cuộc đời cũ, vv...
Bài ca đó,
GCC không làm sao tìm lại được, và hình như cả xứ Bắc Kít cũng đã quên
rồi.
Và một, là
cái hình ảnh sau cùng, ám ảnh GCC suốt đời: Trong lúc những hòn đất thi
nhau đổ
xuống huyệt, thì mấy người đàn bà trong làng, cứ thế, liên tục, hết
người này đến
người khác tốc váy lên, nhảy qua miệng huyệt, trong lúc cái quan tài từ
từ chạm
đất.
Chỉ đến mãi
sau này, khi đọc 1 nhà văn Nhựt, Mishima, tả 1 người lính hấp hối,
không làm
sao “đi” được, cứ nhìn người đàn bà đang nhìn xuống anh ta, như cầu
khẩn, và
người đàn bà hiểu ra được ước mong cuối cùng của người lính, bèn vạch
vú vắt 1
giọt sữa xuống miệng anh lính, thì GCC mới hiểu được ý nghĩa cuộc luân
vũ: Hình ảnh cuối cùng của xứ Bắc Kít,
mà người chết muốn mang theo, là cái "nơi chốn âm u và ẩm ướt, cái cửa
mở ra
mọi siêu hình học và tôn giáo" mà Miller nói tới.... (3)
(3)
Cái tay nhà văn Nhật, Mishima, sau tự sát theo kiểu kiếm sĩ, cũng
có một xen, tả một anh lính bị thương
nặng,
muốn đi mà không làm sao đi được, mắt cứ ngước nhìn mấy bà, khẩn khoản
cầu xin
một điều gì đó, và một bà hiểu ra, bèn vạch vú, cố nặn ra một giọt sữa
nhỏ
vô miệng liệt sĩ, và thế là liệt sĩ mỉm cười thanh thản ra đi!
Sến cô nương kể huyền sử Chống
Mỹ Cứu Nước, về những chàng trai Bắc Kít, sau
khi nhỏ máu viết huyết thư tình
nguyện vô Nam, thì, đúng vào buổi tối, sáng hôm sau xuất
quân, được Đảng cho gặp một 'thánh nữ', chuyên giữ nhang khói ngôi đền
thờ của Đảng, và được “khai sáng”!
Thành thử một
đấng đàn ông, khi ra đi, là chỉ muốn nhớ lại, hoặc là cái vú của bà mẹ,
hoặc là
cái bướm của một em!
Bạn
chọn thứ nào?
Có thể
nói, nằm bên dưới những lễ hội của Bắc Kít, là cái man rợ mà người dân
của nó, đời đời, bằng mọi cách, đè nó xuống, không cho nó xuất hiện,
cho
đến khi ngọn gió Mạc Xịt thổi tới, và chúng bèn sống dậy, đúng như
Tolstaya đã từng phán, Cái Man Rợ, Cái Ác Á Châu, Cái Ác Bắc Kít bèn
được coi là "vàng
ròng", là "nồng cốt", để xây dựng chủ nghĩa CS!
Đây
không phải là vấn đề liên quan đến kỳ thị, địa phương cái con mẹ gì
hết.
Chỉ Bắc Kít mới có, hà, hà!
WRITERS LOST
IN THE DISTANCE
Những nhà văn mất vào quãng xa
A few days
ago, Juan Villoro and I were remembering the writers who were important
to us
in our youth and who today have fallen into a kind of oblivion, the
writers who
at the peak of their fame had many readers and who today suffer the
ingratitude
of those same readers and who-to make matters worse-haven't managed to
spark
the interest of a new generation of readers.
We thought, of course, of
Henry
Miller, who in his day was read all over Spain, and whose name was on
everyone's lips, but whose fame was perhaps due to a misunderstanding:
probably
more than half the people who bought his books did so expecting to find
a
pornographer, which in some sense was justified, and also
understandable in the
Spain that emerged after almost forty years of censure under Franco and
the church.
At the other extreme we remembered Artaud, the very
spirit of
asceticism, who
in his day also sold well and had not a few Spanish and Mexican
admirers, and
if today one makes the mistake of mentioning his name to someone under
the age of
thirty, the response will surely be devastating. These days, even film
buffs
have never heard of Antonin Artaud.
The same is true of Macedonio
Fernandez:
his books-except in Argentina, I imagine-are impossible to find in
book- stores.
And it's true of Felisberto Hernandez, who had a small resurgence in
the 1970s,
but whose stories today can only be found after much searching in
second-hand
bookstores. Felisberto's fate, I presume, is different in Uruguay and
Argentina, which brings us to a problem even worse than being
forgotten: the
provincialism of the book market, which corrals and locks away
Spanish-language
literature, which, simply put, means that Chilean authors are only of
interest
in Chile, Mexican authors in Mexico, and Colombians in Colombia, as if
each Latin American country spoke a
different
language or as if t aesthetic taste of each Latin American reader were
determined
first and foremost by national-that is, provincial-imperatives, which
wasn't
the case in the 1960s, for example, when the Boom exploded, or in the
1950S or
1940s, despite poo distribution.
But anyway, that's not what Villoro
and I
talked about. We talked about other writers, like Henry Miller or
Artaud or B.
Traven or Tristan Tzara, writers who contributed to our sentimental
education
and who are now impossible to find in the depths of bookstores for the
simple
reason that they have hardly any new readers. And also about the
youngest ones,
writers of our generation, like Sophie Podolski or Mathieu Messagier,
who were
simply incredible and highly talented and who not only can no longer be
found
in bookstores but can't even be found on the Internet, which is saying
a lot,
as if they'd never existed or as if we'd imagined them. The explanation
for
this ebb of writers, however, is very simple. Just as love moves
according to a
mechanism like the sea's, as the Nicaraguan poet Martinez Rivas puts
it, so too
do writers move, and one day they appear and then they disappear and
then maybe
they appear again. And if they don't, it doesn't really matter so much,
because
in some secret way, they're us now.
Roberto Bolano: Between Parentheses
Đọc bài viết
của nhà phê bình Nguyễn Lệ Uyên về Dương Nghiễm Mậu, (1) GCC bèn nhớ ra bài viết này.
DNM, nếu nói
về khí phách, về nhân cách, về cá nhân anh, thì thật là tuyệt vời, và
đúng là “tự
do hay là chết”.
Nhưng… văn
chuơng, nó không phải như vậy, chán thế!
Văn của DNM
có 1 thời gây chấn động Sài Gòn, nhưng thời đó qua rồi.
Đúng ra, anh
phải biết điều này, và không để cho VC in lại sách của anh.
GCC đã từng nhận xét
về anh và Nguyễn Đình Toàn, như là hai “bản sao” của một TTT, và 1 bạn
văn, nhận
xét, quá đúng.
Nay post lại ở đây, và sau đó, sẽ lèm bèm về Miller, “Thầy của Thầy”,
tức triết gia PCT.
Nhân vật của
Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến chua
xót về sự
cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan rã, cuối
cùng lao
vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ đạo đức
bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông thường. Thế
giới,
khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối",
trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân
vật hầu hết
là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam,
trong khi
chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả. (2)
Dương Nghiễm
Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động...
Nói một cách khác, không
có vụ di cư,
không có tờ
Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu
Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự
khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh
của một
miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh
Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh
Tâm Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị
Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba
Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện
ngắn được Võ Phiến
tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai
từ một
truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già
gác
dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai
nện cho sặc
máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái
xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả...
làm ông
lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục
(Chiến
Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên,
về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong
thơ Thanh
Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết
hơi, của
những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của
chính họ:
Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của
Chiến
Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ
chối quyết
liệt, bởi những con người đứng bên lề...
“Có người đến
hỏi tôi: Có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống
và chết
tại nơi này. Người ấy hỏi: Anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản?
Tôi
nói: Tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống
với chủ
khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi.
Có một
nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng
và đen
không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không
ân hận.
Lịch sử đã chứng minh rằng: Nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là
sống. Chết
đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần
thiết.
Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó”. (1)
Note:
Đâu có phải
chỉ 1 DNM chọn ở lại. Gần như chẳng 1 ai chọn “đi”, trừ những người
không thể ở
lại.
Đọc những dòng
trên, như không phải của DNM. Lớn lối quá!
NQT
Cách viết của
DNM, thái độ của anh với cuộc chiến, một cách nào đó, hợp với những
dòng của tờ
Người Kinh Tế, khi tưởng niệm Boris Nemtsov, người hùng Nga Xô vừa bị
giết hại:
Ông ta sinh
ra không phải để hận thù, hay làm người hùng. Ông ta có những giấc mơ,
nhưng không
hề có ý trở thành 1 chiến sĩ chống lại chính quyền, nhà nước phát xít.
Ông ta
giản dị là 1 người tốt.
Đúng là thái
độ của DNM trong cuộc chiến.
Nên nhớ, chỉ đến những ngày tháng cuối cùng của cuộc
chiến, anh mới thực sự nhập cuộc, qua vai trò 1 ký sự gia, hay ký giả,
hay ký
giả chiến trường.
He was not
born for hatred or heroics. He had dreams, but had never intended to
become a
fighter against state-sponsored fascism. He was simply a good man: too
good, in
the end, for the country and the times he lived in. +
Obituary:
Boris Nemtsov
Cuon sach
nay tap hop mot so truyen ngan duoc dang tren Van Viet tieng noi cua
Ban Van
dong Van doan Doc lap nhan mot nam to chuc nay ra doi Du Van Viet da va
dang
tiep tuc trien khai nhieu loi tiep can khac nhau doi voi van hoc ke ca
van hoa
va tu nhieu goc do ly luan nghien cuu phe binh dich thuat … co gang
ngay cang
phong phu va da dang hon thi truoc mat va lau dai sang tac van la phan
quan
trong nhat Boi nhu nha tieu thuyet lon Milan Kundera luon khang dinh
Nhiem vu
cua nha tieu thuyet la noi nhung gi va bang cach chi duy nhat co tieu
thuyet
moi noi duoc Khi nhac den tieu thuyet Kundera khong chi noi ve mot the
loai ong
noi ve nghe thuat ngon tu Muc tieu cao nhat cua “mot nen van hoc dich
thuc” la
co sang tac hay cuoi cung phai co sang tac hay Cho nen nhu mot so ket
nho sau
mot nam o day la mot tap hop truyen ngan mot phan cua chuyen muc sang
tac
[Văn Vịt giới
thiệu tập truyện ngắn] (a)
Thú thực,
GCC không làm sao mà hiểu nổi, đây là 1 tập truyện ngắn, mắc mớ gì đến
1 định
nghĩa của Kundera về… tiểu thuyết?
Vả chăng, những
định nghĩa “tiểu thuyết là gì”, thì đâu chỉ có 1 Kundera trả lời?
Còn Fuentes,
còn Lukacs, còn Broch…
Cái
gì, chỉ tiểu thuyết có thể
nói, trong khi không thể nói, bằng/trong,
bất cứ một cách nào khác?
Đây
là câu hỏi, cực cơ bản, được Hermann Broch đưa
ra.
Một câu “cà
chớn” của TCS, vậy mà đem ra để nói về 1 tập truyện ngắn của cả 1 đám
nhà văn
trẻ?
Vả chăng,
truyện ngắn là thứ đụng thẳng vào đời sống, khác hẳn tiểu thuyết, làm
sao mà
“chẳng hề đả động” tới?
Soi đường
hay xoi đường?
“Anh già” NN
này là tác giả của quái vật Núp, chưa từng sám hối về thành quả đóng
góp trong
việc xây dựng lên địa ngục Mít, vậy mà còn chửi chúng bây giờ ơ hờ, vô
cảm, rồi
lại khen chúng không hề đả động tới xã hội nóng bỏng?
Đúng là Văn Vịt!
NQT
Dưới ánh sáng
đó, nhìn lại quá khứ có vẻ như tiên tri dòng tự sự của tương lai. Tiểu
thuyết
gia, không cứng ngắc, punctual, như sử gia, luôn nói với chúng ta, quá
khứ chưa
kết thúc
đâu, rằng, quá khứ phải được tái phịa, phát minh ra, reinvented, tại/ở
mọi giờ
giấc của ngày nếu chúng ta không muốn hiện tại tuồn khỏi kẽ tay của
chúng ta mỗi
lần chúng ta tính nắm bắt nó. Tiểu thuyết diễn tả mọi sự vật mà sử vờ
đi, đếch thèm
nhắc tới, hay, bất thình lình ngưng tưởng tượng. Một thí dụ về chuyện
này có
thể kiếm thấy ở Argentia - một xứ sở Mỹ Châu La Tinh với lịch sử thực
là ngắn
ngủi nhưng có những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất. Theo câu chuyện khôi
hài xa xưa,
người Mexico xuống từ Aztecs, người Argentia, từ thuyền bè. Hẳn nhiên
là
vì đây
là một xứ sở trẻ, với những làn sóng di dân mới có, Argentia phải phịa
ra một lịch
sử cho chính nó, vượt chính nó, một lịch sử lời, a verbal history, đáp
ứng cái
tiếng la khóc đơn côi, tuyệt vọng của tất cả những những nền văn hóa
trên thế
giới: làm ơn làm cho tôi cất tiếng
nói, please, verbalize me.
Borges, lẽ dĩ
nhiên, là 1 thí dụ được triển khai trọn vẹn nhất, về sử tính “kia”, nó
bồi hoàn
cho sự mất mát những điêu tàn Mayan, những tháp cổ Incan. Trước hai
chân trời –
Pampa và Atlantic – Borges đáp ứng bằng không gian toàn thể, của “The
Aleph”,
thời gian toàn thể, của “The Garden of the Forking Paths”, và cuốn sách
toàn thể
“Thư viện Babel”, chưa nói đến thuật nhớ không chút thoải mái của
“Funes, the
Memorious”.
Lịch sử như
vắng mặt. Không có gì gây sợ hãi “khủng” bằng nó. Nhưng, chẳng có gì
gây đáp ứng
dữ dằn hơn, so với tưởng tượng. Nhà văn Argentine, Héctor Libertella
đưa ra một
câu đáp thực là tiếu lâm cho cái thế luỡng nan này. Ném 1 cái chai
xuống biển.
Trong chai là chứng cớ độc nhất, Magellan đã đi thuyền vòng quanh trái
đất: Nhật
ký của Pigafetta. Lịch sử là cái chai được ném xuống biển. Tiểu thuyết
là bản
thảo tìm thấy được ở trong cái chai. Cái quá khứ mới rồi gặp cái cực
tức thời hiện
tại, khi, bị kìm kẹp, đàn áp bởi chế độ độc tài, cả một quốc gia, chỉ
được gìn
giữ trong những cuốn tiểu thuyết, như những cuốn của Luisa Valenzuela
của Argentina,
hay Ariel Dorfinan của Chile. Ở đâu, vậy thì, những bịa đặt lịch sử
tuyệt vời của
Tomás Eloy Martínez (The Perón Novel
and Santa Evia) xẩy ra? Trong quá khứ chính trị mê làm
tình với xác chết
của Argentina? Hay trong tương lai tức thời, trong đó sự hóm hỉnh, của
tác giả
có thể làm cho quá khứ biến thành hiện tại – nghĩa là, có thể trình ra
được, bày
ra đó – và, hơn bất cứ gì khác, dễ đọc?
Carlos Fuentes
Đoạn trên, 1
cách nào đó, là để trả lời cho Sến Cô Nương và Bọ Lập, về phát biểu,
giả tưởng
không đáng xách dép cho hiện thực, ở xứ Mít hiện nay. Khi GCC nhẹ nhàng
nhắc bài,
chỉ có giả tưởng, của 1 bậc thầy, của thứ có tài, mới viết ra được sự
thực của
xứ Mít, là đúng theo như Fuentes. Chứng cớ: Những Ba Người
Khác, Thời Gian Của Người, Nỗi Buồn Chiến Tranh… Chúng đều
là giả tưởng, và trong chúng, mỗi cuốn 1 tí, nói lên sự thực xứ Mít,
đâu phải hồi
ký Đêm Giữa Ban Ngày, hay Bên Thắng Nhục?
John Fowles,
khi được hỏi, tiểu thuyết chỉ là dối trá, hà cớ làm sao cứ đòi sự thực
[tuy nhiên,
một vài tiểu thuyết gia nghiêm trọng cố tìm ra tí sự thực qua viết
lách], với ông,
là thứ sự thực nào, đã trả lời:
Mọi nhà
văn
đều biết thế luỡng nan này, this dilemma - rằng, đối với tiểu thuyết
gia, chính
cái mác đó, đòi hỏi 1 khả năng nói dối, that for a novelist, his or her
trade
demands the ability to lie. Tuy nhiên, một điều gì đó, trong anh ta/chị
ả mong
nói ra sự thực, trọn sự thực, về phận người, something in him or in her
yearning to express a whole truth about the human condition.
Cái mà tôi tìm là
the Socratic: có phần bi quan, thường là xì níc, đểu giả, [dễ ghét, như
1 độc
giả TV nhận xét về Gấu Cà Chớn!], nhưng luôn luôn tìm kiếm 1 sự thực
đạo hạnh
[an ethical truth].
Tôi nhận ra sự thực đó thì ở quá xa đối với chủ nghĩa xã hội,
hay Mác Xít.
Ông này, 1
phần nào đó, cũng trả lời cho câu phán của SCN, và BL.
GCC sợ rằng,
cả xứ Mít sẽ chẳng bao giờ biết sự thực về chính nó!
V/v Giả tưởng
xách dép cho hiện thực.
Hai cuốn - không chỉ hiện thực, mà là sự thực, viết về cuộc
chiến Mít, dưới dạng hồi ký - thì cả hai đều có mùi ăn cắp. Bóng Đêm Giữa Ban Ngày,
ăn cắp cái tít của Koestler. Bên
Thắng Nhục. Cái ý tưởng, kẻ được giải phóng đúng
ra lại là Miền Bắc, ăn cắp của… Gấu Cà
Chớn, trong 1 bài viết, từ những ngày còn ở Trại Tị Nạn Thái Lan, về
cuốn Hình
Bóng Cũ của Sơn Nam.
|
|