Note:
Bài dịch này, còn trong dạng nháp. Đây
là một tác phẩm khó nhai nhất của K. Post
lên, từ từ sửa, biết đâu bạn đọc TV có cao kiến gì đóng góp. Tks. QTN,
dịch giả.
The Trial
Fight for Kafka's Papers
Winds through Israeli Courts
By Christoph Schult
Before his death in 1924,
Franz Kafka left his papers to Max Brod who rushed them out of Czechoslovakia
ahead of the advancing Nazis. Now, the daughter of Brod's late
secretary wants
to sell them to a German institute. But the legal battle in Israel
has
become Kafka-esque.
Fight for Kafka's Papers Winds
through Israeli Courts
By Christoph Schult
Before his death in 1924, Franz Kafka left his papers to Max Brod who
rushed
them out of Czechoslovakia
ahead of the advancing Nazis. Now, the daughter of Brod's late
secretary wants
to sell them to a German institute. But the legal battle in Israel
has
become Kafka-esque.
"I escaped
the Holocaust," the old woman says. She worked for the Israeli airline
El
Al for 30 years, but she never felt like visiting Germany.
"I couldn't
forgive".
Giá mà đốt hết, là xong.
Vụ Án mới, hiện đang xẩy ra, liên quan tới "kho tàng bí ẩn" mà Kafka để
lại, là những trang viết của ông, giữa cô con gái của thư ký của Brod -
người đã không nghe theo di chúc của bạn mình, là Kafka, đốt hết, đốt
hết, và, thay vì vậy, ôm kho tàng ra khỏi Czechoslovakia, trước khi [VC
vô được Sài Gòn] Nazi xâm lăng đất nước này - và nhà nước Israel. Cô
con gái, nay là một bà già, phán:
"Tôi đã từng chạy thoát Lò Thiêu. Tôi không thể tha thứ".
Ôi Chúa thương yêu và nhân từ.
Xin Người đừng tha thứ cho tụi nó. Cái lũ khốn kiếp VC nằm vùng, cái lũ
bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC, cái lũ Cớm chìm cho VC, đã làm mất Miền
Nam,
gây ra Lò Cải Tạo, gây họa tầy trời, là đẩy đất nước vào cơn băng hoại
vô phương thoát ra
khỏi.
-Trong cuộc xung
đột Israel-Palestine, vấn đề không phải là học yêu thương, hòa giải hòa
hợp, mà
là, tách rời. "Hãy giúp chúng tôi ly dị nhau!", ông lập lại câu này
nhiều lần trong những cuốn sách của ông. Như thế nghĩa là thế nào?
Câu trả lời chỉ nằm trong một từ: Chia. Chia căn nhà ra làm hai phòng
nhỏ.
Chẳng có một hy vọng, một cơ may nào, ở cái chuyện, chúng tôi nhảy vào
lòng
nhau, ôm hôn thắm thiết, và la lớn lên:
"Ôi người anh em Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam
của chúng mình ơi, hãy yêu nhau
đi, chiều hôm tối rồi!"
*
Đây là Gấu cương đại: Il n'y a aucune chance pour que nous nous jetions
dans
les bras les uns des autres en criant: O mon frère, qu'importe la
terre,
aimons-nous!: Chẳng có cơ may nào về cái chuyện chúng tôi ôm lấy nhau,
và la
lên: Đất cát mà nhằm nhò gì, chúng ta hãy thương yêu nhau!
Sẽ có người chửi, Ả Rập, Do Thái làm sao so sánh với người Việt được.
Bắc, Trung, Nam,
là do hoàn cảnh địa lý, lỗi là tại cái chữ S, chứ vưỡn là người Việt,
máu đỏ da
vàng!
Nhưng, Gấu đã từng đọc, đâu đó, hình như từ ông Dickens thì phải, ông
này phán,
mấy người cùng máu, thịt lẫn nhau còn 'máu' hơn là thịt, mấy thằng cha
khác
máu.
Đâu cần gì đến ông Dickens!
Hãy nhớ lại cảnh Việt Gian bị Việt Minh làm thịt, cảnh, làm thịt cả một
miền đất,
ngay sau 30 Tháng Tư, cảnh Việt Kiều yêu nước, khi còn ở trại tị nạn,
hình như
là Hồng Kông thì phải, một đám thì hoan hô ngày 30 Tháng Tư thống nhất
đất
nước, đám kia thì không hoan hô, thế là 'máu' lẫn nhau!
Amos Oz
Gấu đọc Oz lần đầu tiên, trên
tờ The
Partisan Review, đúng bài viết vềY
sĩ đồng quê của
Kafka, nhờ vậy ngộ ra liền, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, Cái Ác Bắc Kít, con
quỉ nơi
chuồng heo hoang vắng trong căn nhà của ông y sĩ đồng quê, tiếng gọi
cấp cứu
của con bệnh Miền Nam, và ông y sĩ vội vã lên đường, xẻ dọc Trường Sơn,
và để
đền ơn con quỉ ban cho cặp ngựa, đã hy sinh một cô Phương, cho đám bộ
đội Cụ Hồ,
trong một trận dội bom ga Thanh Hoá, và sau này nhà văn Bảo Ninh đã kể
lại trong
Nỗi Buồn Chiến Tranh....
Đọc bài của Oz, Gấu ngộ ra được nọc độc Kafka. Ngộ ra điều: Kafka viết
dưới
bóng tối Lò Thiêu, [khi đó chưa xẩy ra], Gấu đọc ông, dưới bóng tối Lò
Cải Tạo.
Đừng nghĩ là Gấu này 'cường điệu'. Bạn thử đọc truyện Y Sĩ Đồng Quê,
rồi tưởng
tượng ra, anh nông dân Bắc Kít khù khờ của nhà văn Lê Lựu, anh cu Sài,
thí dụ,
trong ba lô có cái bát quí dành cho Miền Nam, hay nữ văn công kiêm nhà
văn DTH,
mà chẳng thấy y chang ông y sĩ đồng quê của Kafka, nghe báo động hoảng,
có bệnh
nhân thập tử nhất sinh, vượt mưa gió, đêm đen, bão tuyết, tới bên
giường bệnh,
thì mới biết là mình bị bịp.
Đâu có khác gì DTH ngồi bên vệ đường than khóc, mình bị Đảng lừa?
Anh Sài của Lê Lựu làm gì có cái bát dành cho Miền Nam!
Chỉ có vài cái ba lô mang sẵn từ Miền Bắc, để nhét chiến lợi phẩm! Nhật Ký Tin Văn
Bài này, nếu lời chỉ giản dị
như vậy, làm
sao bị cấm hát, và Mùa Xuân đầu tiên chỉ tìm ra được tiếng hát
của nó,
lần đầu tiên trên đài Mút Cu Va?
Qua một ông bạn, cũng quen biết Lý Đợi, bài ca chết, vì tiên tri cái
chết của
Đỉnh Cao Chói Lọi, qua câu hát: Từ đây người biết quên Người.
Như tinh thần bài viết
cho thấy, quả có một thời kỳ huy hoàng thật ngắn
ngủi, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trước khi đất nước bước vào cơn Đại
Suy Thoái,
Cơn Băng Hoại, Trận Đại Hồng Thuỷ, Cả Nước Đua Nhau Chạy Ra Biển, Trận
Đại Dịch
biến đổi gien, khiến VC biến thành ruồi, thành bọ.
Koestler đã từng gọi thời kỳ này, The
Heroic Age, của lịch sử nhân loại, trước
khi bước vào Dark Interlude,
tức thời kỳ hơi bị được chúc dữ bởi cái vòng tròn,
(1) y hệt sau này, nhân loại lại đắm chìm vào chủ nghĩa CS không tưởng.
(1) Huyền thoại
về cái vòng tròn tuyệt hảo có cội nguồn thật xa xưa, và có quyền năng
phù thuỷ.
Vả chăng, nói cho cùng, vòng tròn là một trong những ký hiệu cổ xưa
nhất. Cái
nghi lễ vẽ một cái vòng tròn chung quanh một con người, là để ngăn chặn
mọi quỷ
ma muốn ám hại anh ta, và đánh dấu một thánh địa, mà con người là trung
tâm của
nó.
Người đầu tiên phát triển một
vũ trụ hình e líp, là Apollonius of Perga. Hai
ngàn năm sau, Johannes Kepler, vẫn bị ám ảnh bởi vòng tròn tuyệt hảo,
đã ngần
ngại chấp nhận quỹ đạo bầu dục của của các hành tình, như ông viết,
"bởi
vì nếu mọi chuyện giản dị như thế, thì vấn đề này đã được Archimedes và
Apollinus giải quyết từ khuya rồi."
Arthur Koestler. The Sleepwalkers: A History of Man’s Changing
Vision of the
Universe. Những kẻ mộng du
* Gấu đi tù sau 1975 cũng khá sớm, đúng vào lúc có chính
sách Kinh Tế Mới, và
lần đầu tiên nghe bản nhạc Con Kinh Ta Đào, như một tên tù, trên nông
trường
cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và sững sờ đến nghẹt thở, sao nó đẹp như
thế,
đúng với tình trạng của Gấu như thế, và đúng với cả Miền Nam như thế,
trong khí
thế bừng bừng Thanh Niên Xung Phong như thế, thế, thế, thế! Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng… Ui chao cái lũ Yankee mũi tẹt đã lấy đi của dân Mít
chúng ta giấc mơ đẹp
nhất, kể từ khi có giống dân Mít, khi đầu hàng Cái Ác Bắc Kít, Con Quỉ
Chuồng
Lợn (1), khi gục ngã trước Phồn Vinh Giả Tạo, tức cứt của Mẽo, khi lũ
Yankee
mũi lõ phải bỏ của chạy lấy người, và bây giờ tiếp tục ăn cứt của Mẽo,
và của
Tẫu, khi nhường biển, nhường núi cho chúng.
Lướt
Tin Văn Cũ
Bản đồ dịch đói trùng với bản đồ những ý thức hệ dởm.
La carte de la famine coincide avec celle
des idéologies fausses.
Phương thuốc thần hiệu chữa dịch đói, là tư hữu. (1)
Thế giới thứ ba là nạn nhân của những khẩu hiệu và của lòng từ thiện
thiếu tổ
chức.
Dịch đói không phải tự nhiên, mà là chính trị.
La famine n’est pas naturelle mais elle est politique
[Đón đọc phỏng vấn kỹ sư nông học Ấn, Dr.
Swaminathan] Tin
Văn ngày 3.8.2003
*
Peter D. Smith dự
triển lãm
Albert Einstein, Người Của Thế Kỷ, Viện Bảo Tàng Do Thái, CamdenTown
[TLS 11 Tháng Một 2005].
Tuyệt vời nhất, là bức hình,
nhỏ hơn tấm postcard, rõ ràng để dùng cho một album gia đình. Chụp khi
ông đi
thăm Thượng Hải vào năm 1922-3.
Một Einstein không giống như những
Einstein mà
mọi người từng nhìn thấy, hay tưởng tượng ra: nhỏ thó, lanh lẹn, trong
bộ đồ
thể tháo, với một cái mũ đen kiểu cọ. Vào những năm đầu của tuổi bốn
mươi, nhà
khoa học trông thật tự hào, giữa bức hình, chung quanh ông là cộng đồng
Do Thái
địa phương. Ông vừa được Nobel, và đang băng băng đi trên con đường trở
thành
"một người Do Thái vĩ đại nhất trên quả đất", nhưDavid
Ben-Gourion gọi ông sau đó. Hay như ông
khôi hài về mình, một "ông thánh Do Thái". Tài liệu trưng bầy
trong cuộc
triển lãm là từ Thư Khố Albert Einstein tại Đại Học Hebrew ở Jerusalem. Mặc
dù thiếu những vật dụng hoàn
toàn cá nhân, cuộc triển lãm quả là đã cho người coi một cái nhìn tuyệt
vời vào
cuộc đời của một thánh tượng khoa học. Có một cái thư của
một anh
chàng Ăng lê, xin ông trấn an anh ta, về tác động, và ảnh hưởng của
trọng lực
lên con người trong lúc trái đất quay. Anh ta viết, 'trong khi một cá
nhân
chổng đầu xuống đất, tức là lộn tùng phèo, liệu có phải, chính vào lúc
đó, anh
ta mê gái, và có thể còn làm nhiều trò khùng điên khác?", Einstein lịch
sự
trả lời, "Mê gái mê trai, nói cho cùng, không phải là điều ngu xuẩn
nhất
con người làm, nhưng trọng lực [sức hút của trái đất] không có trách
nhiệm gì
về chuyện này". Nhìn thấy hình của
ông trên
nhật báo, một em bé sáu tuổi, Ann G. Kocin, đã viết thư, "Ông nên đi
cắt
tóc, như vậy trông ông sẽ còn đẹp hơn". Những bức thư của trẻ
em như
thế chứng tỏ ông ngày càng nổi tiếng, trở thành một bậc hiền giả, nửa
tiên tri,
nửa phù thuỷ.
Theo huyền thoại thời hậu
chiến, ông là một Prometheus, ăn cắp lửa của Thần Mặt Trời cho nhân
loại, nhưng
nhân loại ngu quá, hay ác quá, thay vì dùng để nấu nướng, lại dùng vào
việc chế
tạo bom nguyên tử!
Có trưng bầy thư ông viết cho
tổng thống Mỹ, đưa đến thành lập dự án Manhattan Project và sau đó, bom
nguyên
tử ra đời, và hai trái bom được thả xuống đất Nhật. Ông nhìn nhận, ký
tên vào
thư là "sai lầm lớn nhất trong đời tôi". Sự thực, do ông quá sợ trước
viễn tượng Nazi sẽ có bom nguyên tử. Thư ông từ chối tranh
cử tổng
thống nước Israel,
khi được mời, mới thú vị, tuyệt vời làm sao. Đúng là một cái thư khó
viết! Khi
nhận được thư, me-xừ Thủ Tướng Do Thái Ben-Gourion mừng quá, nói với đệ
tử
ruột: "Mày biểu tao, tao phải làm gì, nếu ông ta nói, ừ, tớ sẽ ra tranh
cử
tổng thống?" Tuần báo Time đã chọn
nhà bác
học Einstein là Người của Thế kỷ. Bên cạnh ông, là thánh Cam
Địa (Gandhi). Thật ra, bất cứ một lựa chọn nào cũng không hoàn toàn. Có
người
cho rằng, Einstein chỉ có thể coi là "Người của nửa đầu thế kỷ", do
ông đã không hiểu một số lý thuyết khoa học sau ông. Câu nói nổi tiếng
của
Einstein: Thượng Đế không chơi xí ngầu (I am convinced that He [God]
does not
play dice), là do Einstein tin vào định mệnh thuyết, trong khi một số
khoa học
gia tin rằng thuyết xác xuất, hay nói nôm na, chính là do cơ may, mà có
loài
người, và những chủng loại. Chúng ta tin tưởng có một Thượng Đế, nhưng
trong
khoa học, một định mệnh thuyết như vậy, đã tỏ ra không đúng. Trong cuốn
"Những tư tưởng gia đích thực của thời đại chúng ta" (Les vrais
penseurs de notre temps), tác giả Guy Sorman đã phỏng vấn Mooto Kimura,
một
khoa học gia người Nhật. Ông này tin rằng Darwin (cha đẻ của thuyết
tiến hoá
đưa tới chủ nghĩa Cộng Sản) đã sai lầm. Chính cơ may mới là chìa khóa
của tiến
hóa. Cũng theo ông, Einstein là nhà bác học cuối cùng còn tin rằng
Thượng Đế
không chơi xí ngầu và Thiên Nhiên tuân theo những định luật mang tính
định
mệnh. (Tiến hoá không có tận cùng mang tính đạo đức: L'évolution n'a
pas de
finalité morale, Stephen Jay Gould). Theo Kimura, cũng như theo Ilya
Prigorine
(nhà tư tưởng này cho rằng trật tự phát sinh từ hỗn mang: L'ordre est
né du
chaos): Thượng Đế chơi xí ngầu, mà chơi rất hay!
Nhìn lại những ngày cuối thế
kỷ, và cơn hoang mang, nỗi sợ hãi về một tận thế vào năm 2000, về con
bọ Y2K,
mọi người đều thở phào, khi ngồi trước máy truyền hình, chứng kiến từng
nơi
trên mặt địa cầu đón thiên niên kỷ, theo vòng quay của trái đất. Có
thể, trước
đó, hầu hết mọi người đều lo lắng, hoang mang, nhưng thâm tâm, họ vẫn
tin rằng
sẽ chẳng có chuyện gì xẩy ra hết. Đây không phải là lần đầu, lẽ dĩnhiên. Nhược điểm, biết đâu, đây chính là
hạnh phúc của con người, đó là trí nhớ của nó ngắn ngủi lắm! Vào những
ngày
nhân loại sắp tiến đến điểm zero (countdown), có mấy ai nhớ gì, về cuối
thế kỷ
trước đó? Đa số đều nghĩ, "rồi cũng rứa", cho dù cũng sửa soạn rối
rít, cũng ra nhà băng rút mớ tiền mua thức ăn dự trữ, hy vọng sống dôi
ra vài
ngày, sau... tận thế! Nhưng sự thực, thế kỷ
chấm
dứt không như nhau. Nhà khoa học Stephen Jay Gould, trong cuốn Tra Hỏi
Thiên
Niên Kỷ (Questioning the Millennium: A Rationalist's Guide to a
Precisely
Arbitrary Countdown, nhà xb Harmony Books, 1998), ghi nhận rằng, vào
những ngày
tháng cuối năm 1799, người Mỹ đã cùng nhau than khóc cái chết của
George
Washington. Nhưng thay vì âu lo về "chấm dứt chế độ cũ" (the fading
of an ancien regime), ngược lại, cái chết của một con người đã mở ra
một điều
gì thật sự mới mẻ: đây là một xứ sở trẻ trung tưởng niệm một người hùng
của đất
nước. Thời kỳ Cách mạng Pháp, Robespierre và những bạn bè của ông đã
coi những
năm 1790 không phải là thập niên cuối cùng của một thế kỷ, nhưng mà là
đầu
tiên. Ngày cả từ "chấm dứt thế kỷ" (fin du siècle), trước năm 1890
chưa có trong tự điển tiếng Anh. Nó cũng chẳng già nua gì lắm, ngay cả
đối với
chính tiếng Pháp. Điều mà Gould thích thú nhất, khi tra hỏi thiên niên
kỷ, đó
là văn hóa đại chúng (pop culture) đang thắng thế văn hóa cao (high
culture). Về đề tài văn hóa đại
chúng
thắng thế văn hóa cao, chữ điện tử (như các bạn đọc trên máy điện toán,
trong
"trang nhà" trên lưới internet) thắng thế chữ in ra giấy, có mùi thơm
của mực, người viết xin hẹn một dịp khác. Ở đây, chỉ xin đưa ra câu
hỏi: ai là
nhà văn của thế kỷ vừa qua? Đa số đều cho rằng,
ba nhà
văn đại diện cho thế kỷ 20 là James Joyce, Marcel Proust, và Franz
Kafka. Trong
ba nhà văn này, người viết xin được chọn Kafka là nhà văn của thế kỷ 20.
Thế kỷ 20 như chúng ta biết,
là thế kỷ của hung bạo. Những biểu tượng của nó, là Hitler với Lò Thiêu
Người,
và Stalin với trại tập trung cải tạo. Điều lạ lùng ở đây là: Kafka mất
năm
1924, Hitler nắm quyền vào năm 1933; với Stalin,ngôi
sao của ông Thần Đỏ này chỉ sáng rực lên
sau Cuộc Chiến Lớn II (1945), và thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bằng cách
nào Kafka
nhìn thấy trước hai bóng đen khủng khiếp, là chủ nghĩa Nazi, và chủ
nghĩa toàn
trị? Gần hai chục năm sau
khi ông
mất, nhà thơ người Anh Auden có thể viết, không cố tình nói ngược ngạo,
hay tạo
sốc: "Nếu phải nêu một tác giả của thời đại chúng ta, sánh được với
Dante,
Shakespeare, Goethe, và thời đại của họ, Kafka sẽ là người đầu tiên mà
người ta
nghĩ tới." G. Steiner cho rằng:"(ngoài
Kafka ra) không có thể có tiếng nói chứng
nhân nào thật
hơn, về bóng đen của thời đại chúng ta." Khi Kafka mất, chỉ có vài
truyện
ngắn, mẩu văn được xuất bản. Những tác phẩm quan trọng của ông đều được
xuất
bản sau khi ông mất, do người bạn thân đã không theo di chúc yêu cầu
huỷ bỏ.
Tại sao thế giới-ác mộng riêng tư của một nhà văn lại trở thành biểu
tượng của
cả một thế kỷ? Theo Steiner, sự
kiện-chìa
khoá về Kafka là như thế này: ông bị chế ngự (possessed), bởi một linh
cảm đáng
sợ, rằng ông nhìn thấy, từng li từng tí, cơn kinh hoàng đang tích tụ
lại... Kể
từ khi Kafka viết, tiếng đập cửa ban đêm cứ thế tới muôn nhà, những con
người
bị lôi ra, chết "như một con chó", cứ thế nhân lên mãi. Huyễn tưởng
biến thành sự kiện cụ thể: Thân quyến gần gụi nhất của Kafka chết trong
phòng
hơi ngạt. (Người yêu) Milena, và Miss Grete B (người có thể đã có với
Kafka một
cháu nhỏ), chết trong trại tập trung. Chúng ta tự hỏi: Làm sao ông có
thể tiên
tri như vậy? Tóm ngay lấy một câu
nói bóng
gió trong "Ghi Chú Dưới Hầm" của nhà văn Nga Dostoevsky, Kafka mô tả
con người bị giản trừ thành một con bọ quằn quại. Cuộc hóa thân của
nhân vật
Gregor Samsa này, thoạt đầu được một số người hiểu như là câu chuyện về
một
giấc mơ ghê rợn, là số phận "theo nghĩa đen", của hàng triệu con
người. Từ "con bọ", Ungeziefer, tiếng Đức, chính nó là một tiên tri
bi đát, bởi vì đám Nazi đã dùng để chỉ những con người chúng đẩy vô
phòng hơi
ngạt. Tác phẩm "Xứ Trừng Giới" của Kafka thông báo, không chỉ một kỹ
thuật học về lò sản xuất cái chết (Lò Thiêu), mà luôn cả nghịch lý lạ
lùng của
chế độ toàn trị hiện đại: sự hợp tác thật chi ly, thật tục tằn giữa nạn
nhân và
kẻ tra tấn. Như Vaclav Havel chỉ ra, chế độ toàn trị đặc biệt ở chỗ:
khác hẳn
chế độ phong kiến, hay bạo chúa truyền thống, ở đây không có chuyện một
thiểu
số áp bức đa số, mà là, mỗi cá nhân đều bị cuốn hút vào guồng máy, đều
trở
thành một bộ "nạn nhân-đao phủ", "tù nhân-cai ngục". Ngay
cả mấy ông Trung Ương Đảng cũng không thoát khỏi "qui luật" này: một
phần thân thể, tôi chịu đựng hệ thống, phần kia tôi điều khiển nó. Nhà phê bình Mác-xít
G.
Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions) của Kafka, có những
dấu
vếtđặc thù, của phê bình xã hội. Viễn
ảnh của ông về một hy vọng triệt để, thật u tối: đằng sau bước quân
hành của
cuộc cách mạng vô sản, ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo
chúa, hay
kẻ mị dân. Cuốn tiểu thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ
nạn hành chánh mà "Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là
người thừa kế nhà văn người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu
tượng
định chế (bộ máy kỹ nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ
diệt), ông
còn thừa hưởng luôn cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc
lột người. Chọn Kafka là tiếng
nói chứng
nhân đích thực, nhà văn của thế kỷ hung bạo, là chỉ có "một nửa vấn
đề". Kafka, theo tôi, còn là người mở ra thiên niên kỷ mới, qua ẩn dụ
"người đàn bà ngoại tình". Thế nào là "người đàn
bà
ngoại tình"? Người viết xin đưa ra một vài thí dụ: một người ở nước
ngoài,
nói tiếng nước ngoài, nhưng không thể nào quên được tiếng mẹ đẻ. Một
người di
dân phải viết văn bằng tiếng Anh, nhưng đề tài hoàn toàn là "quốc tịch
gốc, quê hương gốc" của mình. Một người đàn bà lấy chồng ngoại quốc,
nhưng
vẫn không thể quên tiếng Việt, quê hương Việt. Một người Ả Rập muốn
"giao
lưu văn hóa" với người Do Thái... Văn chương Việt hải
ngoại,
hiện cũng đang ở trong cái nhìn "tiên tri" của Kafka: đâu là quê nhà,
đâu là lưu đầy? Đi /Về: cùng một nghĩa như nhau? Tin Văn Vắn
mercredi
10 décembre 2008 Le Clézio au Viêtnam
Après un aperçu sur les réactions coréennes,
puis chinoises, à l'obtention par Jean-Marie
Gustave Le Clézio du Prix Nobel de littérature
2008, Nguyen P. Ngoc nous fournit
ci-dessous des échos en provenance du Viêtnam.
Note: Nhờ Server cho biết, website này có link một trang Tin
Văn, rồi lần ra trang trên, có nhắc tới ông bạn
quí HPA, và NL!
Ui chao, cái website này link rất nhiều trang Tin Văn, tếu quá! Chắc
là của Mít ta.
Ông Diệm đổ vì đụng
vô Phật giáo, và vì những bức hình như trên đây.
Liệu kỳ tích trên lại xuất hiện?
Thiền sư Nhất Hạnh lần đầu
tiên lên tiếng về vụ Bát Nhã Nhưng lại lên
tiếng với tư
cách Nguyễn Lang, tác giả "Việt Nam Phật giáo sử luận". Một đệ
tử của
Thiền Sư Nhất Hạnh, yêu cầu không nêu tên, nhận định rằng bút hiệu
Nguyễn Lang
rất nổi tiếng đối với người Việt Nam, đặc biệt giới trí thức và Phật
tử. Và
hành động dùng bút hiệu này thay vì danh xưng “Thiền Sư Nhất Hạnh” nổi
tiếng
quốc tế là cách mà vị thiền sư hơn 80 tuổi “muốn giới hạn hoàn cảnh
giải quyết
vấn đề Bát Nhã.” “Thiền Sư Nhất Hạnh muốn nói với chính quyền Việt Nam, là hãy giải quyết vụ Bát Nhã giữa
những
người Việt Nam
với nhau.” Khi Thiền Sư Nhất Hạnh lên tiếng chính thức bằng danh xưng
Nhất
Hạnh, “vấn đề sẽ trở thành quốc tế, không thể che giấu.” Ít nhất ông đồ đệ này
đã hiểu rõ thầy mình tự đánh giá cao đến mức nào. Nhưng thôi, bỏ qua
chuyện trẻ
con. Điều quan trọng, là không thể chấp nhận thái độ của chính
quyền, và đòi
chính quyền phải tôn trọng quyền tự do tu hành của 400 nam nữ tu sinh. Nguồn
Bình thường ra, dân làm báo
sẽ viết, thí dụ, như thế này: Dưới bút hiệu Nguyễn Lang, tác
giả "Việt Nam Phật giáo sử luận", thiền sư Nhất Hạnh lần đầu tiên
chính
thức lên tiếng về vụ Bát Nhã.
Từ “nhưng” quá khốn nạn.
Đừng nghĩ người viết vạch lá
tìm sâu, bởi vì dưới đó, tụi khốn viết: Ít nhất ông đồ đệ
này đã hiểu rõ thầy
mình tự đánh giá cao đến mức nào.Nhưng thôi, bỏ qua chuyện trẻ con.
Nguyễn Lang, tác giả một cuốn lịch
sử Phật giáo Việt Nam: Dùng một cái bút hiệu như thế, thật quá đúng,
đối với vấn đề
hiện đang xẩy ra.
Còn xứng đáng hơn cả cái tên Nhất Hạnh, nếu nhìn suốt chiều dài lịch
sử Phật giáo song song với lịch sử dân tộc.
Thượng Tọa Nhất Hạnh đâu có tự đánh giá cao,
khi, thay vì dùng tên Nhất Hạnh, mà lại dùng bút hiệu Nguyễn Lang (1):
Ông lên tiếng, trước
nhà nước VC, về một chuyện liên quan đến Phật giáo Việt Nam và nhà nước
VC, đâu phải với quốc tế?
Đã coi là chuyện trẻ con thì đừng
có “nhưng” nhéo!
Đúng là chuyên nghề làm cớm chìm
cho VC, viết một câu văn cũng không nên thân!
Vả chăng tâm cớm thì viết cái gì cũng có mùi cớm!
Thôi bỏ qua chuyện trẻ con!
Đúng.
Nói với lũ khốn nạn này làm gì!
(1)
Đoạn này làm nhớ đến Kim
Dung. Trong Lục Mạch Thần Kiếm, sau
trận đánh long trời lở đất trên núi Thiếu Thất, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn
sau thời gian bị nhốt dưới hầm, ngày ngày nghe đọc kinh, sám hối, ngộ
đạo, quỳ trước Phương Trượng Thiếu Lâm, xin
qui y, mấy ông chữ Độ, thầy của Phương Trượng, bèn vẫy
vẫy, qua đây, tụi ta cạo đầu cho. Tạ Tốn thưa, con đâu có phúc phần như
thế.
Ấy là vì, nếu như thế, thì ông ngang hàng với Phương Trượng.
Mấy
ông chữ Độ cáu,
phán, sao ngu thế, chữ gì thì cũng là Kít hết, hiểu chưa!
*
V/v Bút hiệu Nguyễn Lang. Trên talawas, có một tay giải thích khá rõ
ràng.
Hoà
Nguyễn nói:
04/10/2009 lúc 11:40 chiều
Ông Lê
Quốc Trinh viết: “Tôi
vẫn chưa hiểu vì lý do gì Thầy Nhất Hạnh phải dùng bút danh Nguyễn Lang
để viết
thư cho ông chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Có thể Nguyễn Lang là tên
thật của
Thầy?”
Ông Thiện Giao của NV giải
thích chuyện tại sao dùng bút hiệu GS Nguyễn Lang, tác giả bộ VNPGSL mà
không
dùng đúng danh xưng Thiền sư Nhất Hạnh được nhiều người biết hơn, và
trong góp
ý trước tôi đã chép lại theo nguyên văn đoạn đó.
Thật ra bộ VNPGSL tuy giá trị,
nhưng có bao nhiêu người quan tâm đến Phật giáo biết đến?
Chính ký giả Thiện
Giao cũng viết không đúng khi cho “tác phẩm đồ sộ “Việt Nam Phật Giáo
Sử Luận,”
xuất bản trong nước hồi đầu thập niên 1960s, trước khi ông ra đi, sống
lưu vong
tại nước ngoài”.
Thật ra, tác phẩm này do nhà xuất bản Lá Bối in lần đầu tại
Sài Gòn năm 1973, và phải dùng tên Nguyễn Lang làm bút hiệu, vì lúc đó
Thượng
Tọa Nhất Hạnh ở nước ngoài và bị cấm về nước (cấm từ thời chính phủ
Nguyễn Cao
Kỳ). Cũng có một tác phẩm của TT Nhất Hạnh in trong nước phải lấy bút
hiệu
khác, mà là tên người Thượng, tôi không nhớ chắc là “Nẻo về của Ý”,
“Nói với
tuổi 20″, hay cuốn nào khác. Chuyện phải đổi tên này, chắc chắn gây bất
lợi cho
việc phổ biến các sách của Nhất Hạnh mà danh tiếng tác giả đã được
nhiều người
biết và chờ đợi đọc tác phẩm mới. Thí dụ tôi không hề biết bộ VNPGSL
của Nguyễn
Lang in năm 1973 là của Nhất Hạnh, nên đã không mua lúc còn ở Sài Gòn.
Mãi vào
khoảng năm 1987, tình cờ tôi thấy bộ sử luận đó ở một tiệm sách tại
Bolsa
(Cali, Mỹ), giở đọc vài đoạn thấy hay nên mua, mà không hề biết tác giả
thực sự
là TT Nhất Hạnh. Tôi nghĩ nhiều người cũng giống như vậy, và thắc mắc
sao tới
bây giờ tác giả cuốn sách lại không sửa lại bằng tên thật.
Nguyễn Lang chắc chắn không
phải là tên thế tục của TT Nhất Hạnh. Vì tôi còn nhớ có lần Tú Gàn của
báo
Saigon Nhỏ đưa tên ghi trong căn cước của TT NH ra để “bôi xấu”, và đó
là việc
làm rất bất nhã, vì người VN thường kiêng nói đến tên thế tục của các
vị xuất
gia, huống chi là dùng để nói xấu. Nguồn
*
Nếu như thế, thì cái việc sử
dụng lại cái tên Nguyễn Lang, là cũng liên quan tới Phật giáo và Pháp
nạn của nó,
hồi còn ông Diệm.
Và, nếu như thế, thì đây là một lời cảnh báo đối với VC:
Này, có nhớ ông Diệm không ? Có nhớ những ngày VC nằm vùng được Cửa
Phật
cho tá túc không?
*
Sư cô Chân Không: Không phải
thầy muốn giấu tên. Sở dĩ Thầy ký tên là Nguyễn Lang chứ không phải
Thích Nhất
Hạnh là vì tên Nguyễn Lang đã được các học giả trong nước từ thời chính
phủ
Việt Nam Cộng hòa cho tới chính phủ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều rất
quý vì
cuốn ‘Việt Nam phật giáo sử luận’ (do Thiền Sư Thích Nhất Hạnh biên
soạn) đã
giải thích rất thâm sâu những bài dạy của các thiền sư trong 20 thế kỷ
qua
Việc ký tên với tư cách sử
gia, và học giả để muốn nhắc Chủ tịch nước nhớ rằng nước Việt Nam ở
giai đoạn
này đang nằm trên mốc của lịch sử. Mình có hai nghìn năm trước rất rõ
chi tiết.
Và thế hệ về sau sẽ noi gương và ghi dấu chính phủ ông Nguyễn Minh
Triết đã đối
xử với nhà chùa như thế nào.
VOA
Đúng y chang Gấu ngu này phán,
về cái việc Thầy Nhất Hạnh sử dụng bút hiệu Nguyễn Lang để nói chuyện
phải quấy
với nhà nước VC: Nguyễn Lang, tác
giả một cuốn lịch
sử Phật giáo Việt Nam: Dùng một cái bút hiệu như thế, thật quá đúng,
đối với vấn đề
hiện đang xẩy ra. Còn xứng đáng hơn
cả cái tên Nhất Hạnh, nếu nhìn suốt chiều dài lịch
sử Phật giáo song song với lịch sử dân tộc.
Đám Cớm chìm
làm chó săn cho VC có thấy nhục không, khi viết:
Ít nhất ông đồ đệ
này đã hiểu rõ thầy
mình tự đánh giá cao đến mức nào. Nhưng thôi, bỏ qua chuyện trẻ con.
Vào những thập niên cuối thế kỷ
20, văn
chương thế giới, đúng ra là văn chương Tây Phương, giầu có hẳn lên, do
đóng góp
của những nhà văn, trí thức đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản, như
Czeslaw
Milosz, Milan Kundera, Joseph Brodsky.
Trường hợp văn học hải ngoại Việt Nam có hơi
khác. Trước tiên nó bắt đầu bằng một biến cố không thể ngờ: cuộc bỏ
nước ra đi
sau khi đất nước được thống nhất. Và đây là một dòng văn chương có khá
nhiều
bắt đầu, như thể nó cứ phải bắt buộc tiến về phía trước.
Bắt đầu đầu tiên: Khi
biến cố 30 tháng Tư 1975 xẩy ra, có một số người Miền Nam không phải
chứng kiến
nó. Họ đã ở hải ngoại từ trước, hoặc may mắn thoát ra được ngay giờ
phút chót.
Trong đó có nhà văn. Thoạt đầu, họ có thể đã nghĩ rằng, dòng văn chương
Miền Nam chấm dứt,
như một Miền Nam đã
mất để chỉ còn một Việt Nam.
Theo tôi,
cuốn Văn Học Tổng Quan và Văn Học Miền Nam của Võ Phiến đã được
viết ra
theo ý nghĩa đó: cố gắng bảo tồn một nền văn chương đã bị bức tử. Thành
công,
và thất bại của nó ở do thời điểm quyết định này, và quan điểm của
người viết
(về thời điểm đó).
Nhưng cùng với sự bỏ nước ra đi, một nền văn chương hải
ngoại có một khởi đầu thứ nhì. Khởi đầu thứ nhì này là một khẳng định:
văn
chương Miền Nam
không thể bị bức tử, hay nói theo nhà văn và triết gia Pháp, Jean-Paul
Sartre:
nó bắt đầu cùng với 'cuộc nhân sinh bắt đầu từ phía bên kia của tuyệt
vọng' (La
vie humaine commence de l'autre côté du désespoir). Nó bắt đầu từ phút
xuống cá
bé, ra cá lớn, đối đầu với biển cả, bão tố, hải tặc, và nếu may mắn,
tới được
trại tị nạn, và sau cùng tại một đệ tam quốc gia, tức quê hương thứ nhì
của
người Việt hải ngoại.
Khởi đầu thứ ba, và đây chính là khởi đầu thứ nhất, của
một nền văn chương thực sự của hai miền đất nước, tại hải ngoại, có thể
nói đây
mới thực sự được gọi là Văn Học Việt Nam Hải Ngoại: sự gia nhập của
những người
viết ra đi từ Miền Bắc.
Khởi đầu thứ tư: sự gia nhập của một nền văn học hải
ngoại trên không gian ảo, đa số là những người viết còn trẻ, cố gắng
vượt thoát
để không còn bị vướng mắc vào những 'lỗi lầm', hoặc những 'băn khoăn'
không
liên quan gì tới văn chương, hoặc Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, Miền Nam
Cộng Hòa,
Cuộc Chiến Không Kẻ Thắng Người Bại.
Nghệ sĩ nào cũng muốn tóm bắt chuyển động,
nghĩa là
cuộc sống, bằng những thủ thuật, và nắm cứng nó, sao cho hàng trăm năm
sau, khi
một người lạ nhìn vô, nó lại chuyển động, lại là cuộc sống.
Faulkner
Trả lời
phỏng vấn do Jean Stein thực hiện, in trong 'Sư tử ở trong vườn', trang
253.)
Hiểu
theo cách đó, 'sống lùi thời đại', ở đây, có nghĩa là: làm cho một Miền
Nam
đã bị nắm
cứng bởi biến cố 1975, lại chuyển động.
Between grief and nothing I
will take
grief. Giữa khổ đau và vô
thường, tôi sẽ chọn khổ đau.
Faulkner, Những cây sồi
dại
Trên báo Partisan
Review số Mùa Hạ 2000, Adam Michnik, khi viết về Jan
Kott, một nhà văn Ba lan đào thoát qua Tây phương, đã nhắc tới bài 'Về
Nọc Độc'
(On Venom, 1982), qua đó, Kott ghi nhận:
'Rắn cắn làm hư cái đầu. Bên trong cái
vòng tròn huyền hoặc, cái đầu luẩn quẩn trong một thế giới ảo. Cái đầu
tin vào
những lời dối trá, và không thể phân biệt thực với ảo.'
(A snake bite disables
the mind. Inside a magic circle, the mind moves in a fictitious world,
believes
in lies, and cannot distinguish reality from illusion).
Ông cho rằng, những mắc
míu của tầng lớp trí thức với chủ nghĩa cộng sản, gia nhập rồi rời bỏ
trong
chán chường và vỡ mộng: 'thời điểm vỡ mộng có lẽ là quan trọng nhất'
('the
moment of disullusion is perhaps the most important').
Adam Michnik, tác giả
bài viết đôi lúc nghĩ rằng, những người 'đòi cái đầu' của Jan Kott có
lý của
họ: Jan Kott là Không nghi ngờ chi, ông là một người Cộng Sản. Và là
một tay
Cộng Sản thông minh. Và cái nọc độc làm hư cái đầu của những người như
ông, là
từ Hegel mà ra (Hegelian venom).
Bài viết của Kott, là để tưởng niệm Adam
Wazyk, nhưng Wazyk không hề nhắc tới Hegel. Ông dùng từ 'bệnh viện tâm
thần' (a
lunatic asylum).
Trong Cầm Tưởng (hay Cái Đầu Bị Tù, Bị Đeo Vòng Kim Cô, The
Captive Mind ), nhà thơ Ba lan, Nobel văn chương, Czelaw Milosz đã từng
tự hỏi: Liệu có thể kiếm thấy sự thực, trong những tư tưởng về 'nọc độc
Hegelian'?
Người
viết tự hỏi, trong cuộc trốn chạy đất bắc vào năm 1954 của gần một
triệu đồng
bào, trong số đó, có những nhà văn nhà thơ: Liệu gần triệu con người,
trong đó
có một dúm nhà văn, là do bị 'dị ứng' với chủ nghĩa Cộng sản?
Dúm nhà
văn sau
quây quần thành từng nhóm xoay quanh một tờ báo như là chủ trương,
tiếng nói
của họ, như nhật báo Tự Do, tạp chí Sáng Tạo, tạp chí Bách Khoa, nhóm
Quan
Điểm, 'lò' Nguyễn Đức Quỳnh, họ đều dị ứng với chủ nghĩa Cộng Sản, hay
là đã
nhận ra hiểm họa, về một nọc độc Hegelian, hay bóng ma của một bệnh
viện tâm
thần?
Sở dĩ đặt vấn đề dị ứng, là nhân một bài viết của Đặng Tiến, [đăng trên
Việt Mercury] về bộ sách Tổng Quan Văn Học của Võ Phiến, tác giả đã cho
rằng
một số nhà văn như Doãn Quốc Sĩ, thuộc nhóm Sáng Tạo, chống Cộng là do
"dị ứng".
Cũng trong bài viết, ông cho rằng Võ Phiến mới là nhà văn chống Cộng,
bởi vì
chính Cộng Sản cũng đã coi Võ Phiến như vậy.
Đặt vấn đề chống Cộng hay không chống Cộng, khi phải nhận định một nhà
văn, theo tôi, một cách nào đó, là 'miệt thị'
văn chương của chính người đó, và văn chương nói chung....
Thơ của ông thực
sự cũng khó mà gọi là thơ. Như nhà phê bình Andrea Kohler chỉ ra, đó
không phải
là ngụ ngôn, mà cũng chẳng phải thơ. Chỉ là những cú xổng chuồng,
thoáng chốc,
của tư tưởng, của hồi nhớ, những khoảnh khắc loé sáng, ở mép bờ của cảm
nhận.
Nguyên tác cái tít tiếng Đức là
mộttừ bất bình thường,
the unusual word ‘unerzahlt,
cả hai Sebald và
Tripp cùng chọn.
Khi
dịch sang tiếng Anh, Michael Hamburger không chọn từ bình thường, là
‘untold’,
mà lại dùng từ ‘unrecounted, bởi vì theo dịch giả, ‘untold’ [chưa nói,
chưa kể],
không chỉ hàm hồ, ambiguous, mà còn có nghĩa đầu tiên là ‘không thể đếm
được’,
hay ‘không thể đo được’, countless or measureless. Dịch giả cũng cho
biết, nguồn của những bài thơ mini này là thơ haiku của Nhật. [“Trong
một lá
thư viết cho tôi, Tess Jaray nhắc tới chuyện Max có mang theo cùng với
ông một cuốn thơ haiku Nhật, khi đem những bản văn đầu tiên này tới”.]
Hình như Barthes
thì phải, trong cuốn viết về thơ haiku, [L'EMPIRE DES SIGNES (1970), cái này để check lại, vì mớ
sách của Gấu đang gặp đại họa chuyển nhà liên tục] có nhắc tới ‘tiếng
vỗ của một
bàn tay’.
Bài thơ haiku nào cũng làm chúng ta liên tưởng tới điều này,
hay, một điều gì đó, vượt ra khỏi bài thơ.
Một bài haiku là một "viễn ảnh không cần còm". "Tiếng vỗ của một bàn tay",
"rút lui ra khỏi từ" [chữ của Steiner], thì làm sao mà... lèm bèm?
L'EMPIRE DES
SIGNES (1970)
was written after Barthes's visit to Japan, and dealt with the
country's
myths. In this great introduction to the art of definitions, Japanese
cooking
was for him "the twilight of the raw", a haiku a "vision without
commentary", and sex "is everywhere, except in sexuality."
"Đế quốc ký hiệu" được viết sau khi Barthes thăm viếng Nhật Bản, và đề
cập
tới những huyền thoại của xứ sở này. Đây là một lời dẫn lớn lao,
về nghệ thuật của những định nghĩa, việc nấu nướng của Nhật đối
với ông, là "chạng vạng của cái sống, cái còn nguyên", một bài hai ku
là một "viễn ảnh không cần lèm bèm về nó", và sex thì "ở khắp nơi, trừ
ở dục tính". Wikipedia Bài thơ
con cóc, dở, chứ không thể hay được, là vậy. Nó trần trụi, trơ ra, con
cóc
trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó… Khó mà tưởng tượng ra
được tiếng
vỗ của hai bàn tay, chứ đừng nói một!
Đừng có nghĩ Gấu nhắm 'gâu gâu' nhà đại phê
bình, mà đây là chuyện đàng hoàng, nghiêm túc!
Ngay cả khi ông đại phê bình gọi
Gấu bằng chó, thì chắc là ông không bao giờ tưởng tượng ra được, Milosz
đã vinh danh chó như thế nào trong cuốn Chó Bên Đường của ông, (1) và
Sebald, ở
đây, với những dòng haiku 'phụ đề' cho đôi mắt Rembrandt: 'Like
a dog / Cezanne says /
that's how a painter / must see, the eye / fixed
& almost / averted.' Jan
Peter Tripp has juxtaposed these lines
with the
shaded eyes of Rembrandt. The lines allude to a little text by Tripp
about
Things, but the dog runs into this book straight out of
earlier pictures by Jan Peter Tripp. As a 'bearer of the secret' who,
as Sebald
writes in his essay on the painter, 'runs with ease over the abysses of
time',
a dog, he writes, knows 'many things more accurately than we do. His
left
(domesticated) eye is attentively fixed on us; the right (wild) one has
a
little less light, strikes us as averted and alien. And yet we sense
that it is
the overshadowed eye that sees through us.' Mấy dòng haiku “Like
a dog…“,
nếu không dẫn giải, thật khó mà hiểu được, nhưng khi dẫn giải ra được,
thì hình
như là nói cạnh nói khoé Gấu, thằng mắt lác, "mắt nọ chửi bố mắt kia",
hay, "một mắt nhìn
cô dâu, một mắt nhìn cô phù dâu", như Gấu Cái sau này vẫn thường nhớ
lại bữa rước dâu từ Cai Lậy về Sài Gòn. “Như một con
chó/ Czéanne nói/một họa sĩ phải nhìn như thế,
một mắt/chăm chú & hầu như/lảng tránh”. Tripp trộn những
dòng thơ
với đôi mắt
u tối của Rembrandt. Những dòng thơ này muốn nhắc tới một bài viết nho
nhỏ của
Tripp về Những Sự Vật, nhưng con chó thì chạy thẳng vào trong cuốn
sách, từ những
bức vẽ trước đó của Tripp. Như là ‘một người mang niềm bí ẩn’, Sebald
đã từng,
trong một tiểu luận, viết về họa sĩ, người ‘chạy dễ dàng bên trên vực
thẳm’, một
con chó, ông viết, ‘biết rất nhiều điều chính xác hơn chúng ta’.
Mắt trái
[thuần hoá] của nó thì chăm chú nhìn chúng ta, mắt phải [hoang dại] thì
không sáng
bằng mắt trái, hầm hè nhìn chúng ta, như muốn lảng tránh, và xa lạ. Tuy
nhiên,
chúng ta cảm nhận ra, đây là con mắt u tối nhìn thấu suốt chúng ta”
(1)
Chó Bên Đường
Tôi làm một
chuyến đi, để tự mình làm quen với xứ sở của tôi, trên một chiếc xe hai
ngựa,
với rất nhiều cỏ khô, và một xô nước uống cho ngựa, ở phiá sau xe. Tôi
đi qua
một vùng đồi, hai bên đường là những nhóm cây thông, con đường dẫn tới
một vùng
rừng, với những mái rạ lấp ló, ẩn hiện sau lùm cây, và từ mái rạ, những
tụm
khói bốc lên khiến có cảm tưởng đó là những căn nhà đang cháy. Tôi đi
qua những
vùng đồng, vùng ao hồ. Thật là thú vị khi cứ đi như thế, mặc tình cho
ngựa rong
ruổi, và chờ đợi, khi, vượt thung lũng tới, và lại nhìn một làng quê từ
từ xuất
hiện, hay một công viên, với một điểm trắng của một trang viện ở trong
nó. Và
đi tới đâu, bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng nghe tiếng chó sủa. Con vật
tỏ ra hết
sức trung thành, hết sức mẫn cán, với nhiệm vụ của nó. Đó là khởi đầu
của thế
kỷ. Đó là chấm dứt của thế kỷ.
Tôi không chỉ nghĩ đến những con người sống ở đó, bao nhiêu thế hệ con
người,
mà còn nghĩ tới bao nhiêu thế hệ chó, đời đời kiếp kiếp chó, cùng rong
ruổi với
con người, trong cái cuộc đời một ngày như mọi ngày. Và thế là một cái
tên bật
ra, vào lúc tảng sáng, trước khi lại ngủ trở lại, tự nó gói ghém hết ý
nghĩa
của nó: Chó Bên Đường.
* Trong Empire of Signs,
Barthes có vài bài về thơ haiku. Tin Văn sẽ post và lèm bèm về haiku,
và về bài
thơ dởm Con Cóc mà nhà đại phê bình khen hay thật là hay!
"If
Japan did not exist,
Barthes would have had to invent it - not that Japan does exist in
Empire of
Signs, for Barthes is careful to point out that he is not analyzing the
real Japan
but rather one of his own devising. In this fictive Japan, there is no
terrible
innerness as in the West, no soul, no God, no fate, no ego, no
grandeur, no
metaphysics, no 'promotional fever' and finally no meaning ... For
Barthes Japan
is a test, a challenge to think the unthinkable, a place where meaning
is
finally banished. Paradise, indeed,
for the
great student of signs."
-Edmund White The New York Times Book
Review Nếu không có
Nhật Bản, thì Barthes sẽ phịa ra nó. Nhưng nước Nhật ở trong Đế Quốc Ký
Hiệu cũng
không thực, như Barthes cẩn trọng nói với chúng ta là, ông không nghiên
cứu nước
Nhật thực, mà là một nước Nhựt của riêng ông, do ông ‘chế’ ra. Trong
cái
nước Nhựt
giả tưởng này, thì không hề có cái "bên trong" khủng khiếp như là ở Tây
phương.
Không linh hồn, tâm hồn, không Thượng Đế, không số mệnh, không cái tôi,
không vinh quang, không đỉnh cao, không siêu hình,
không “cơn sốt lên lương, lên chức, vô Đảng, vô BCT” và sau cùng, không
có cái gọi
là ý nghĩa.
Với Barthes, Nhật
Bản là một thí nghiệm, một thách đố để suy nghĩ về cái không thể suy
nghĩ, một
nơi chốn mà ý nghĩa thì sau cùng bị loại trừ. Thiên đường, thực sự là
vậy, cho
một tay sinh viên lớn, về ký hiệu.
Cải chính: Có tới
hai ông Phong.
Cái ông Phạm Phú Phong, viết về Thái Ngọc San, là một ông trong
nước, khác ông Đặng Phú Phong trên đây.
Xin lỗi bạn ta, về những dòng sau đây. NQT
*
Tôi thuộc thế hệ đàn em, đã quen thân Thái
Ngọc San hơn ba mươi năm nay. Nhưng đến khi anh đột ngột ra đi, qua
bạn bè
anh, tôi mới biết thêm rằng, trước khi anh có một tuổi trẻ không
yên ổn dễ
dàng với ba lần bị bắt đi lính, ba lần đào ngũ vẫn kiên trì chọn
con đường
dấn thân đến với phong trào đấu tranh chống Mỹ của lực lượng trí thức ở
miền
Nam, anh đã có một tuổi thơ đầy gian truân bất trắc. Điều đó phần
nào giải
thích vì sao sinh ra ở Lệ Thủy, Quảng Bình, chưa đầy mười tuổi anh đã
vào Huế
để rồi suốt đời gắn bó với Huế, trở thành dân Huế rin; giải thích vì
sao anh đã
từng lang thang trên hầu khắp các đô thị lớn ở miền Nam và đã từng trốn
khỏi
dòng tu… Tất cả những khó khăn cay cực đó không thể ngăn cản mà góp
phần tạo
nên những cảm xúc cường tráng, đầy nhiệt huyết của hồn thơ tranh đấu:
Làng em
đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ
lại hiên
ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê
em kết
nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
Phạm Phú Phong Nguồn
Nhà thơ Maia sau cùng đã tự sát bằng súng lục vì những dòng thơ xúi
tuổi trẻ
lao vào chỗ chết. Không hiểu thi sĩ Thái Ngọc San, sau 30 Tháng Tư, số
phận ra
sao, có biến thành ruồi, như những bạn bè của Đào Hiếu, hay có tự sát
bằng súng
lục như Maia?
Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây
Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ
Đường Trường Sơn là đường chân lý
Thật
khó hiểu quá. Bao
nhiêu con người đã chết vì những dòng thơ như vậy, để có được một đất
nước khốn
khổ như bây giờ. Bản thân tác giả bài viết này, thì bây giờ cũng lưu
vong xứ
người.
Vậy mà vẫn viết những dòng đầy cảm khái như trên, ca ngợi bạn mình, một
tên VC
nằm vùng ngày nào ư?
Bỏi vì Gấu sợ, chính TNS cũng không muốn ai nhắc tới những dòng thơ
trên, nếu
còn chút lương tri.
*
Nguyên Mẫu
Nguyên
mẫu là một mục của tờ văn học Pháp, Le Magazine Littéraire. Số Tháng
Giêng 2009, có một bài viết về cặp Don Quichotte & Pancho Panca,
thật tuyệt, của Benoit Duteurtre. Tin Văn scan để hy vọng lèm bèm về
nó, khi nào hưỡn hưỡn, rảnh rảnh.
Thú nhất, là tác giả tìm ra sự liên hệ giữa cặp Don & Pancho với
những cặp, thí dụ, hai nhân vật trong Của Chuột và Người, và, từ Của
Chuột và Người, móc vào cơn suy thoái kinh tế hiện đại, rồi móc vào cơn
suy thoái tâm linh qua hai nhân vật trong Trong khi chờ Godot của
Beckett. Tuyệt!
Nói gần nói xa, chẳng qua nói thẳng: Đây cũng chính là cách viết Tạp
Ghi của Gấu!
Cái nọ xọ cái kia, chẳng biết đường nào mà lần! [Gấu Cái ghét thậm tệ,
chửi, chẳng khi nào đọc được trọn bài viết của mi!]. Một ông phê
bình
gia hải ngoại cho rằng, cách viết của Gấu là từ tuyệt chiêu Lăng Ba Vi
Bộ mà ra!
Nhưng, Lăng Ba Vi Bộ là một “diệu pháp” để tránh đòn. Đoàn Dự chẳng
muốn đánh nhau với ai, học được phép này, thú quá, vậy là khỏi lo thằng
nào đánh mình!
Còn mi?
Thì cũng nói thẳng: Để đánh người! NQT
* Bác gái
nói đúng đó – bác
chịu khó viết bài có nhập đề-thân bài-kết luận cho bà con dễ đọc với.
Phúc
đáp: Tks. Nhưng Tin Văn bây giờ hết còn có thể viết một bài riêng rẽ ra
như vậy được nữa rồi. Tự nó cuốn lấy nó, chằng chịt như mạng nhện, Gấu
này cũng chịu thua. Chỉ có cách là từ bỏ nó. Terminate nó! Nhưng làm
sao terminate? Bài viết nào thì cũng như một phần tử trong một bản đại
hoà tấu diệt trừ Cái Ác Bắc Kít, trong khi chưa có một Newton xuất
hiện.
Nhưng nhờ Gấu Cái không đọc mà Gấu tha hồ viết!
Tks again. NQT
Tuổi
thơ bất hạnh của Dickens
khủng khiếp đến độ ông không dám xì ra, ngay với cả với vợ con. Vào năm
1824, vừa ăn
mừng sinh nhật lần thứ 12 được hai ngày, chú được ông bố bà mẹ, trường
kỳ bất lực
không làm sao nuôi nổi con cái, gửi tới một nhà máy chuyên làm
công
chuyện đánh bóng giầy bốt, một dẫy nhà đầy chuột bọ nhìn xuống sông
Thames, mỗi
ngày cầy 10 tiếng. Cùng thời gian, ông bố bị chủ nợ tống vô tù. Người
ta thường
vẫn nghĩ, thời gian chú trải qua tại nhà máy chỉ chừng vài tuần, nhưng
Slater
người viết cuốn tiểu sử mới nhất của Dickens cho biết, chú ở đó từ 13
tới 14 tháng,
một vĩnh cửu, a eternity, đối với một đứa bé. Trước đó, một đứa bé
thông
minh, sáng sủa, lanh lợi, “cháu ngoan Bác Hồ”, thầy cô ai cũng mến. Từ
đó, [tim tôi bừng nắng hạ], chú
bị bỏ quên bởi tất cả mọi người với số phận của chú, là kéo dài chuỗi
ngày của
mình, như là một “thằng cu thợ”.
Cơn ác mộng nhà máy
đánh giầy chỉ ra không phải thứ giả tưởng nào ông sẽ viết, mà lý do ông
viết.Ông
muốn được yêu mến bởi những độc giả của mình, muốn làm cho họ cười,
khóc, và đi
vô trái tim của họ, ấy là vì, ông cảm thấy, những người nào yêu ông như
là một đứa
trẻ, thì họ sẽ làm bật nó ra, sẽ khu trục nó. Nỗi đau không được yêu
càng buốt
nhói ở thuở mới lớn, bởi một em nhà giầu, bố làm chủ nhà băng, lương
anh cu thợ
với sao tới. Cô gái vờ vĩnh với cậu trai, rồi đá cho một cú, nhưng cậu
trai không
một chút tủi hờn, bởi vì ‘mọi điều gì gọi là yêu đương, đam mê, mong
ước, quyết
tâm… tất cả đều thuộc về anh”, chàng sau đó nói với nàng, “Anh sẽ chẳng
bao giờ
bị tách rời, hoặc [tự mình] tách rời ra khỏi người đàn bà nho nhỏ có
trái tim cứng
rắn, là em”. Ông lấy vợ, “thế là xong”[Nếu biết rằng em đã có
chồng anh đành
lấy vợ, thế là xong], và những lá thư của ông cho thấy, ông không hề
thực sự yêu
vợ.
* Câu vinh danh
Dickens, tuyệt vời nhất, theo Gấu, là câu này, của phê bình gia tổ sư
Mác Xít:
Nhà phê bình
Mác-xít G. Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions) của
Kafka, có
những dấu vết đặc thù, của phê bình xã hội. Viễn ảnh của ông về
một hy
vọng triệt để, thật u tối: đằng
sau bước quân hành của cuộc cách mạng
vô sản,
ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo chúa, hay kẻ mị dân. Cuốn
tiểu
thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ nạn hành chánh mà
"Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là người thừa kế nhà
văn người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu tượng định chế
(bộ máy kỹ
nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ diệt), ông còn thừa
hưởng luôn
cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc lột người.
Tuyệt!
Chính Kafka cũng thừa nhận, ông
là đệ tử của Dickens, theo như Kundera viết:
Đọc ở đâu ?
Trên tờ TLS, Robert Irwin
điểm cuốn “Đọc ‘Lolita’ ở Teheran”, của Azar Nafisi, một câu chuyện về
tình
yêu, về những cuốn sách và về cách mạng, đã đưa ra một nhận xét thú vị.
Theo
ông, những nhà phê bình văn học chú ý ai đọc sách, đọc sách gì, nhưng
lại ít
chú ý đến nơi chốn mà những cuốn sách được đọc.
Nhìn lại một đời đọc, nơi
đọc, hoặc chỉ thấy mà chưa có hân hạnh đọc, lần đầu tiên trong đời, quả
là ghê
gớm thật. Mà có khi còn liên quan đến cái gọi là cơ may, vận mệnh của
một đời
văn, đời người. Một cách nào đó, có
thể nói,
Mai Thảo đọc truyện ngắn đầu tay của Dương Nghiễm Mậu, Cũng Đành, từ
sọt rác
tòa soạn báo Văn, tại đường Phạm Ngũ Lão Sài Gòn, khi Trần Phong Giao
làm tổng
thư ký, như ông kể lại trong một bài viết về họ Dương. Bởi vì ông đã
lôi nó từ
đó ra và đem lên Sáng Tạo. (1) Nguyên Ngọc đọc
Nguyễn Huy
Thiệp từ trong đống bụi của tờ Văn Nghệ, như ông kể lại với Nguyễn Xuân
Hoàng
trên tờ Văn số tháng 6 & 7, 2003.
Như thể, trong khi chờ đợi
người đọc, chúng - những cuốn sách – có khi phải rúc sâu vào lớp bụi,
nơm nớp
sợ, một thằng cha cà chớn, một con mắt phàm phu tục tử nhìn thấy!
Giả sử như chẳng gặp được một
Nguyên Ngọc, thì đành biến thành bụi... Tôi, đọc Bếp
Lửa của Thanh
Tâm Tuyền ngay trên hè đường Sài Gòn, khi cuốn sách được đem bán xôn.
Sau này,
tôi vẫn cám ơn ông Nguyễn Đình Vượng, người xuất bản, đã làm một hành
động vô
cùng ngoạn mục, là cho Bếp Lửa biến thành bụi đường, để rồi tái sinh,
như
truyền thuyết về một loài phượng hoàng. Giả sử như ông không
làm như
vậy, một thằng học sinh nghèo như tôi, sức mấy mà có tiền, hoặc dám bỏ
tiền ra
mua, một cuốn Bếp Lửa, nằm trên giá sách?
Tay nghệ sĩ chơi nhạc, và soạn
nhạc nổi tiếng Yanni, kể
lại, vào năm 9 tuổi, ông bố đem cầm cố căn nhà của gia đình, lấy tiền
mua cây
đàn dương cầm cho thằng con con nít. Sau này ông con kể lại, ông không
phục ai
trên đời bằng phục chính ông bố của mình! Bởi vì, theo ông, mua cây đàn
chậm
hơn một tí là... hỏng! Ông bố biết, phải có cây đàn, và phải có ngay
lập tức,
không là cái thiên tài ẩn náu ở trong thằng con nít, sẽ bỏ đi ngao du,
bởi vì
nó không thể đợi đuợc! Tôi cứ tuởng tượng ra
một ông
Nguyễn Đình Vượng, một buổi sáng đẹp trời tại Sài Gòn, bê chồng sách
cũ, bán
không được, là những cuốn Bếp Lửa, cho xuống lề đường, để nó gặp được
những độc
giả... đích thực của nó, thí dụ như... tui, chẳng hạn! Bởi vì hành động bệ
những
cuốn Bếp Lửa mà tôi còn nhớ rõ, bìa vàng vàng đó, ra lề đường, đối
thằng con
nít nhà nghèo là tôi đó, nó giống như hành động cầm cố nhà mua cây đàn.
Có chút
khác, là ông Vượng làm sao biết có một thằng con nít, đúng vào thời
điểm đó,
cần đọc... cọp, cuốn Bếp Lửa?
Ôi chao, khi đã kiếm ra đồng
tiền, cày hai jobs, một cho nhà nước, một cho báo Mẽo, thằng con nít
ngày xưa
‘đăng ký’ muabáo Tây dài hạn [hồi đó
gọi là ‘abonner’, thay vì ‘subscribe’], nhưng làm sao quên được cái thú
đọc báo
cọp, đọc sách cọp, ngay ở vỉa hè? Thanh Tâm Tuyền đọc
Đêm Giã
Từ Hà Nội, cho cả băng bằng hữu Sáng Tạo nghe, và sau khi đăng, mời Mai
Thảo
đến tòa soạn, cả hai kéo nhau đi uống "cà phe". Mai Thảo tâm sự, nếu
anh mà không lôi nó ra đọc, rồi đăng, tôi đã kiếm nghề buôn, thay vì
viết, giữa
những chuyến ngồi ngất ngưởng trên xe xích lô, từ tòa soạn báo này tới
báo
khác, tại Sài Gòn. Theo tôi, Thanh Tâm
Tuyềnphải đợi tới khi Mai Thảo mất mới
cho đăng những chi tiết trên, không phải là để đính chính một vài điều
về nhóm
Sáng Tạo, thí dụ như “Ai là người cầm đầu nhóm, ai là người khám phá ra
Mai
Thảo”... nhưng là để cho thấy, cái gọi là nghiệp văn của Mai Thảo, sẽ
biến
thành nghiệp buôn, nếu không có một độc giả là Thanh Tâm Tuyền. Và khi Thanh Tâm
Tuyền cho
rằng Mai Thảo “đã trốn thơ cho tới khi không thể trốn được nữa”, thì
chúng ta,
những độc giả của cả hai, sẽ tự hỏi, phải chăng, thi sĩ cho rằng, giả
sử như
Sáng Tạo không đăng truyện ngắn_tùy bút_ thơ Đêm Giã Từ Hà Nội,biết đâu đấy, Mai Thảo sẽ “bằng lòng” làm nhà
thơ, thay vì... “bằng lòng làm nhà văn” [chữ của Thanh Tâm Tuyền, trong
bài viết
về Mai Thảo khi ông mất, trên tạp chí Thơ], tác giả của những cuốn tiểu
thuyết
đăng báo, viết giữa những chuyến xe xích lô ngất ngưởng trên đường phố
Sài
Gòn.... còn tiếp (1): Mai Thảo, trong
Chân
Dung Nhà Văn, không nói rõ tên tờ báo, nơi ông nhặt được bản thảo
truyện ngắn
của DNM. Không phải truyện Cũng Đành, mà là Rượu Chưa Đủ.
Chắc chắn không phải báo Văn,
vì khi ST còn sống, chưa có Văn. Báo Văn số 1, số ra mắt, là số Tết,
Xuân 1964,
theo NCK. Cám ơn bạn đã nhắc nhở về sai sót trên. NQT
Milozs ở đây là
ai nhỉ? Ông được giải Nobel hay ông anh em bà con Oskar?
Blog NL
Milosz hay được nhắc tới trên Tin Văn, là ông được Nobel văn chương,
Czeslaw
Milosz, tác giả cuốn Cầm Tưởng, The Captive Mind, nổi tiếng, nhưng bản
thân
ông, thì lại quá chán cuốn này, như có lần than thở, khi viết nó, giống
như ở
trong thế đụng chân tường, ‘cùng tắc thông’, viết cho xong, để còn làm
việc
khác. Ông rất bực, vì đa số chỉ biết ông, qua cuốn đó, như trong bài
viết về
Koestler, thằng cha tưởng mình bảnh, chỉ biết tôi qua tác phẩm Cầm
Tưởng! (1)
V/v Oskar Milosz, trên Tin Văn có bài viết về ông, của Kundera, trong
cuốn hiện
đang lèm bèm, “Une rencontre”.
Czeslaw cũng có một bài về Oskar thi sĩ, On Oscar Milosz, cũng
tới lắm,
in trong To Begin Where I Am, Selected Essays [“Bắt đầu nơi
tôi là”,
tuyển tập tiểu luận]. Tin Văn sẽ post bài này, trong những kỳ tới.
(1)
Với ông, tôi chỉ là tác giả của một cuốn sách, đó là cuốn Cái Đầu Bị
Cùm, hay
Cầm Tưởng, The Captive Mind, mà ông đã đọc và nghĩ là "được". Tuy
nhiên, với riêng tôi, thành thực mà nói, tôi bảnh hơn thế, hoặc khiêm
nhường
hơn, tôi khác thế, không hẳn chỉ có thế: Tôi là tác giả của những bài
thơ mà
ông ta chẳng biết một tí gì về chúng. Koestler
Tớ cũng hay đọc TV
của chiến sĩ Trụ. Nói chung vui là chính, vì chửi nhau đấm đá nhau là
mình thú.
Trụ đọc nhiều, chửi cũng hay, cũng ác. Nhưng với tư cách nhà văn thì
các tác
phẩm của Trụ đều phò, đọc chả có mẹ gì hay ho.
Lời phán của
Bạn, ngược hẳn lại của một ông "bạn cũ" của Gấu, vẫn còn ở Sài Gòn.
Nhà thơ Vương Tân, còn viết dưới cái tên Hồ Nam.
*
Còn đây là tài liệu về ông Káp, dành riêng cho Thái Linh: Famed Polish writer
outed as 'spy' in
anti-communist purge
Dọn
Trường hợp Võ Phiến và cuốn Văn Học Tổng Quan.
Trước 1975, bài viết, có thể độc nhất của tôi, về Võ Phiến, là bài đăng
trên
trang VHNT của nhật báo Tiền Tuyến, do tôi phụ trách. Vì là một trang
báo VHNT
cuối tuần, của một tờ nhật báo, cho nên sau đó, tôi quên luôn, và không
hề
biết, bài sau được tờ Văn moi ra đăng lại. (1)
(1) Có mấy NQT
VP là một trong nhà văn của thời mới lớn của tôi. Cho đến khi tôi tập
tễnh làm
nhà văn nhà điểm sách, nhà phê bình... thì ông đã ở đằng sau lưng tôi,
cùng với
thời mới lớn đó rồi.
Ra tới hải ngoại, ông lại trở thành một vấn đề lớn, đối với tôi, khi
phải nhìn
lại những ngày tháng cũ, người cũ, cuộc chiến chẳng bao giờ cũ.
Trong bài viết Nhà
văn Bình Định, tôi đã nêu ra một phần của vấn đề.
Nay xin viết rõ ràng hơn.
Bài viết này sẽ cùng nằm trong mạch viết về Mai Thảo.. Hồng 3
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một phần là nhờ ông anh rể, Nguyễn Hoạt.
*
Trước 1975, tôi chưa viết về Mai Thảo, điều này chắc chắn, và tôi tin
rằng MT
cũng biết như vậy. Có thời gian tôi thường xuyên phải gặp ông, ít ra
mỗi tháng
một lần, khi phụ trách mục Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề. Nhưng, như có một mật
ước
giữa ông và tôi, đừng nói chuyện văn chương khi gặp và, nhất là, đừng
bao giờ
viết về Mai Thảo!
Bài viết đầu tiên về Mai Thảo ở hải ngoại, trên mục Tạp Ghi của NMG,
được viết,
khi tôi nghe tin ông nằm nhà thương, chờ chuyến đi xa, và tôi nghĩ, bây
giờ viết
về MT được rồi.
NMG đã đem bài viết vô nhà thương, cho ông đọc, và ông gửi lời cám ơn
tôi, qua
NMG, kèm nhận xét, bây giờ NQT viết khác hẳn ngày trước. Khác, theo
nghĩa đọc
được. Trước 1975, tôi nghe qua người khác, ông không chịu nổi thứ văn
làm mới
văn chương của tôi.
Sau khi ông mất, tôi viết thêm một bài tưởng niệm về ông, nhân biết
được, ông
còn làm thơ, và ký bút hiệu Nhị.
Chắc là từ Nhị Hà. Nhị
*
Hận thù gì cũng có thể xóa bỏ, trừ hận thù đám chống cộng điên cuồng
hải ngoại,
chân lý 'sông có thể cạn' của đám Miền Nam bỏ chạy làm Gấu nhớ tới lời
cầu
nguyện của Wiesel, sống
sót Lò Thiêu, Nobel hòa bình, khi ông trở lại nơi chốn cũ, lần tưởng
niệm thứ
50: Thượng Đế đầy yêu thương và nhân từ, xin Ngài đừng tha thứ cho
những kẻ đã
gây tội ác ở đây. (1)
(1) Chi tiết này Gấu đọc trên tờ Time, tưởng niệm 50 năm Lò Thiêu.
Hai trường hợp chẳng mắc mớ gì đến nhau, không hiểu sao lại quàng lấy
nhau, Gấu
cứ tự hỏi mãi, và sau cùng ngộ ra rằng thì là, có vẻ như Gấu này cũng
muốn cầu
xin Thượng Đế một điều, xin Ngài đừng bao giờ mở lòng nhân từ, và
'cho phép'
cái đám bỏ chạy khốn kiếp đó, xóa đi lòng hận thù của chúng, đối với
đám Ngụy,
và chế độ VNCH!