*




LMH Case

Brodsky by Tolstaya

Trong bài viết này, Tolstaya có kể về 1 lần trở lại Nga, tới 1 diễn đàn của đám Trẻ, chắc cũng giống như … LMH tham dự buổi nói chuyện với Hà Nội, về Phố vẫn Gió, và bà [Tolstaya] quá sợ hãi, vì cái sự tiếp đón bà, nhưng sau đó, bà hiểu, Moscow dành cho bà sự đón tiếp…  Brodsky, vì bà là... Brodsky với họ, và bởi là vì, bà đã từng gặp Brodsky.
Thú nhất là Tolstaya kể lại lần “tản mạn bên ly cà phê với nhà thơ”, cà phê không có đường, và cả Moscow bực quá, la lên, tại sao lũ Mẽo lại đối xừ tàn tệ với nhà thơ của chúng ta như thế, cả nước Mẽo tư bản mà không có cục đường cho Brodsky của "chúng ông" ư?

Hà, hà!

Người ta, trong có cả Solzhenitsyn, đã từng chê Kinh Cầu, “Một bài thơ hay, lẽ dĩ nhiên Đẹp. Rổn rảng. Nhưng nói cho cùng, cả nước đau khổ, hàng chục triệu con người, và bài thơ thì là về một trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa con trai… Tôi nói với bà, bổn phận của 1 nhà thơ Nga là viết về những đau khổ của nước Nga, vượt lên khỏi nỗi đau cá nhân, và nói về nỗi đau của cả nước…Bà im lặng, suy nghĩ. Có thể bà không thích tôi nói như thế. Bà quen được thổi. Nhưng, đúng là 1 nhà thơ lớn.”
Trong cuốn Anna Akhmatova, Nhà thơ, nhà tiên tri, 600 trang, “Best Reading of 1994”, theo tờ London Thời Báo, “Best Book of 1994”, theo Publishers Weekly, chương "Khủng Bố Lớn, The Great Terror: 1930-1939", có 1 đoạn viết về cú hồi sinh, lại làm được thơ, tiếp liền sau thời gian câm lặng, vì…  sắp hàng chờ gửi thùng quà cho đứa con trai bị bắt. Anatoly Naiman, thư ký văn học, thời kỳ chót đời của bà, viết về Kinh Cầu:       

The hero of this poetry is the people. Not a larger or smaller plurality of individuals called "the people" for political, nationalist, or other ideological reasons, but the whole people, every single one of whom participates in what is happening on one side or the other. ... What differentiates it from, and thus contrasts it to, even ideal Soviet poetry is the fact that it is personal, thus as profoundly personal. ... The personal attitude is not the rejection of anything; it is an affirmation which is manifest in every word of Requiem. This is what makes Requiem not Soviet poetry, but simply poetry: it could be personal only if it dealt with individuals, their loves, their moods, and their selves in accordance with the officially sanctioned formula of "joys and sorrows.”

Nhân vật của bài thơ này là nhân dân. Không phải lớn hay nhỏ, những nhóm cá nhân được gọi là “nhân dân” vì những lý do chính trị, quốc gia, hay những lý do ý thức hệ khác, mà là trọn nhân dân, mọi cá nhân đơn độc tham dự vô chuyện gì đang xẩy ra ở bên này hoặc ở bên kia… Điều làm cho nó khác đi, hoặc tương phản với nó, ngay cả với cái thứ thơ lý tưởng của nhà nước Xô Viết, là sự kiện này, nó thì riêng tư, rất đỗi riêng tư, một cách rất đỗi sâu đậm.
Một thái độ riêng tư cá nhân như thế không có nghĩa là vứt bỏ bất cứ cái chi chi, nó là xác quyết bật ra từ mọi con chữ của Kinh Cầu. Đó là điều làm cho nó là 1 bài thơ, giản dị như thế, đếch phải thứ thơ nhà nước Xô Viết. Nó chỉ có thể riêng tư như thế, vì nó “deal” với những cá nhân con người, tình yêu, cung cách sống, bản ngã của họ, “niềm vui và nỗi buồn” của họ, bị nhà nước cấm đoán.



Gió Hà Nội trong hồn người xa xứ

Note: LMH có thể nói, là do GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè bỉu, “cái Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như em Y Bọt gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học trò của tui”, hình như bà này đã từng phát biểu (1)
Tuy nhiên, khi GCC nhận xét LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất, cùng với nó là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của lũ Ngụy, sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây - cũng như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in lại một số tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại, với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975, theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay tác phẩm, như Phố Vẫn Gió, thất bại?

NQT

Cái sự hồi nhớ quá khứ của 1 xứ Bắc Kít, như trong văn LMH, có gì đó làm nhớ đến hoàn cảnh của Miền Nam, nhớ 1 Miền Nam trước khi bị VC Bắc Kít ăn cướp và sau đó đô hộ.
“Gió từ thời khuất mặt”, rồi “Phố Vẫn Gió”, hai cái tít nói cùng 1 điều.

*

*

Chưa xong đâu, với ký ức Lò Thiêu, như 1 bài trên số Lire mới nhất, của 1 nữ sử gia.
GCC cũng tin như thế, với mảng văn chương về 1 thời “khuất mặt”, “vẫn gió”!

*

Akhmatova: Kinh Cầu

Chẳng có ai người cười nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn

Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
 Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
 Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
 Quằn quại dưới gót giầy máu
 Dưới bánh xe chở tù.

Không phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!

Akhmatova, có vẻ như được sửa soạn để đóng cái vai của bà, hơn hầu hết những nhà thơ cùng thời. Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà 28 tuổi , không quá trẻ để tin hay không tin, và cũng không quá già để biện minh cho nó. Sau đó, là 1 người đàn bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì cũng khó mà thổi Cách Mạng, hay kết án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự xã hội….

Đọc bài viết của Brodsky về Akhmatova, nữ thần thơ bi ai Nga, thì Gấu ngộ ra điều, tại sao mà GCC này chịu không nổi, phải nói, tởm, cái giọng của đám VC ly khai, thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu què”, thí dụ, cũng như cái giọng gà mái gáy của Sến, vẫn thí dụ.
Nhà thơ chỉ phán một câu thôi: Bà nhận ra nỗi đau, she recognized grief. (1)

Đám Bắc Kít chưa từng nhận ra nỗi đau Lò Cải Tạo, nỗi nhục lụy lũ Tẫu.