|
Chương 15,
viết những kỷ niệm của tác giả với TTT. Cuốn của Tin Văn, bản đặc biệt, tác
giả tặng Nguyễn Đức Bạn, ông bạn Quảng Nôm của GCC.
Cuốn TTT dịch
Nabokov, như vậy là nhờ Đào Hiếu in.
Cuốn Ký Ức Sơ
Sài, bạn Bạn cho GCC mượn, không phải cho, biếu gì hết, vì có lời
đề tặng của tác giả. Cũng không
phải cho
Gấu mượn đọc, mà là để mang về cho “cô bạn” của Gấu đọc. Chồng cô bạn,
là 1 người
được nhắc tới, trong Ký Ức Sơ Sài.
Cô bạn của Gấu,
là cái cái cô phù dâu, ngồi cùng thuyền, lần rước Gấu Cái từ Cai Lậy về
Sài Gòn,
và, cái thuyền quả đúng là cái thuyền Noé trong trận hồng thuỷ, là cuộc
chiến Mít,
và trong thuyền có đủ khổ đau, dùng 1 đời không hết, không chỉ cho…
hai, mà... ba người!
Gấu
Cái, đọc những cuộc tình ‘thánh thiện’ với những ‘thánh nữ’của Gấu, bực
mình [tất
nhiên], tủi thân [làm sao không], có lần hỏi thẳng, ta vừa đau lòng,
vừa không
tin, vừa ngạc nhiên, bởi vì ta nhớ là hồi đó, mi đối xử với ta khác hẳn!
Tất
cả những cuộc tình thánh thiện với những thánh nữ của Gấu, về già, ngẫm
lại, Gấu
hiểu ra được rằng, sở dĩ, thánh thiện, thánh nữ, ấy là vì, chúng đều
chỉ có phần
hồn, không có phần thịt, chúng giống như một thứ thuốc giảm đau.
Với Bông Hồng
Đen là nỗi đau Bắc Kít, nỗi đau Hà Nội.
Cô bạn, nỗi đau mất thằng em, nỗi sợ cuộc
chiến.
Mỗi khi quá đau, quá sợ, Gấu chạy đến cầu cứu họ.
Theo nghĩa đó, Gấu Cái chính là mối dây liên lạc khiến Gấu nhập vào với
cuộc đời
thực.
*
Bông Hồng Đen cực kỳ thông minh. Em nhận ra liền, bỏ đi, và cay đắng
nói, mi
đâu có thương ta, mi thương một đứa con nít, là ta từ đời thuở nào, và
Hà Nội của
mi, ở trong đứa bé đó.
Nhưng phải đến già, và sau khi em đã từ giã cõi đời này, thì Gấu mới
hiểu sự thực,
tại sao em bỏ Gấu. (1)
Kiếp Khác
[Ấn
bản đầu tiên, đăng trên báo Văn, nhờ BVVC mà có lại được. Tks.
Many Tks.
Đọc, cứ như sống lại cái thời gian đó!]
Những
ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám
riết vào
da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp
hối của
thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút
lặng câm
nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh
thành phố,
trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô
bạn một
cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm
thương
như vậy...
Đau
khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây
ngô bên mớ
máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên
ngoài địa
ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến
tranh rồi sẽ
qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ
tưởng mình ở
trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên
cuồng
đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang
cùng
ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không
còn chỗ để
ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người
Nhật,
người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến
tiếc đất
nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế
giới, cả
loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Cõi
khác
Cô bạn, là cái
cô có cái sẹo ở cổ tay, khi ra hải ngoại những ngày đầu, làm công việc
factory nặng nhọc gì đó, gân tay bị dãn, phải giải phẫu, Gấu chỉ nghe
Gấu Cái
kể, thế là cứ tơ tưởng hoài, đêm nằm
mơ, cầm tay vợ, lại tưởng tay cô bạn, lần tìm cái sẹo không thấy, bật
thành tiếng,
ơ cái sẹo đâu rồi, Gấu Cái giật mình, hiểu ra, bật cười, đau xót mà bật
cười.
Mi đúng là Bắc Kít khốn nạn, cái gì gì "đồng sàng dị mộng". Còn 1 cô
bạn nữa, cũng
dân Cai Lậy, cũng bạn thời tiểu học Đốc Binh Kiều, khi nghe giai thoại
năm năm trời không... dám hôn, đừng nói
chi chuyện khác,
đã bĩu môi, làm sao biết chuyện ma ăn cỗ, nhưng nghe chuyện cái sẹo thì
lại rất
ư là hài lòng, tui mà gặp 1 người thương tui như vậy, thì cũng thấy mát
cả lòng
cả dạ, thấy cũng không uổng một đời má hồng, nhan sắc, đành phải cám ơn
ông Trời 1 tiếng, cám
ơn ông, ông cho tôi ra đời có… bướm thay vì… súng!
Hà, hà!
Mary
is a gripping tale of youth, first love, and nostalgia-Nabokov's first
novel. In a Berlin rooming house filled with an assortment
of
seriocomic Russian émigrés, Lev Ganin, a vigorous young officer poised
between
his past and his future, relives his first love affair. His
memories
of Mary are suffused with the freshness of youth and the idyllic
ambience of
pre-revolutionary Russia. In stark contrast is the decidedly
unappealing
boarder living in the room next to Ganin's, who, he discovers, is
Mary's
husband, temporarily separated from her by the Revolution but expecting
her
imminent arrival from Russia (1)
Gấu chưa đọc
Mary, mà theo như những dòng trên, là cuốn tiểu thuyết đầu tay
của Nabokov. Một
anh Nga, sống lưu vong tại Berlin, nhớ lại mối tình đầu, khi còn trẻ,
thời tiền
cách mạng. Tình cờ tiếu lâm, là cái tay ở phòng kế bên, lại là anh
chồng, do cách
mạng lạc mất vợ, và đang chờ vợ từ Nga tới để xum họp….
Gấu tự hỏi,
tại làm sao TTT lại chọn truyện này để dịch, khi đang chờ đi Mẽo, theo
diện cựu
sĩ quan VNCH.
Cũng vậy, là
cuốn Một Chủ Nhật Khác: Làm
sao mà ông có thể tưởng tượng ra cảnh, 1 anh Mít Miền
Nam, nhờ đi du học, thoát cuộc chiến, lại trở về để chết lãng nhách, do
bị 1 tên sĩ quan "khùng" cùng đơn vị, lầm là… VC?
Tác giả Ký Ức
Sơ Sài viết:
Ngoài những
tác phẩm văn xuôi đã in, Thanh Tâm Tuyền còn cho đăng trên bán nguyệt
san Văn
thời Trần Phong Giao hai truyện dài: Ung
Thư và Đêm Xóm Lách Mịt Mùng.
Ung Thư
được độc giả hâm mộ tới nỗi tác giả đau bệnh nghỉ một kỳ, Trần Phong
Giao phải
chụp lại (hay thời đó phải làm bản kẽm?) thư viết tay xin nghỉ của tác
giả rồi
in lên báo để độc giả tin! Cả hai tác phẩm đều bị anh bỏ dở, tuy Ung Thư được
đăng nhiều kỳ hơn. Theo tôi, Ung Thư thể
hiện xác thực nhất thiên tài Thanh Tâm Tuyền. Đọc Ung Thư, ai rồi cũng phải tin
vào khả năng diễn đạt kỳ diệu của ngôn từ tiếng Việt. Thanh Tâm Tuyền
mới mẻ với Bếp Lửa từ thuở
đôi mươi, cùng với thời gian, anh càng ngày càng mới mẻ. Tôi tiếc
chẳng còn giữ được tờ Văn, chỉ kiếm được một số, xin ghi ra đây một
đoạn bất kỳ
trong truyện Ung Thư:
“Lân đến đón Ngọc đi phố. Người đàn ông gầy
gò, khuôn mặt bội bạc, nước da xanh mái trác táng, cặp mắt nhỏ lanh
lẹn, đôi
môi mỏng, cử chỉ không thành thật, chẳng mảy may nào giống cái hình ảnh
mơ mộng
của Ngọc thường tâm sự, trên toa tàu bẩn thỉu trống gió và nắng triền
miên như
cơn buồn bã hiu quạnh trong tiếng động quen tai nối liền ngày tháng.”
NAK
V/v Ung Thư,
như chúng ta biết, TTT đã viết xong xuôi đàng hoàng, nhưng quyết định
không cho
xb. Nếu nó đúng như Nguyễn Anh Khiêm, tác giả Ký Ức Sơ Sài, nhận xét, thì tại
làm sao tác
giả lại quyết định vờ tác phẩm bảnh như thế?
Hà, hà!
(30)
Vladimir Nabokov, Tình một thuở [Mary],
Từ Trí dịch, Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 1989. Tiếc rằng, chúng tôi không
biết
chính xác được thời điểm Thanh Tâm Tuyền dịch cuốn này, [Từ Trí là bút
danh của
Thanh Tâm Tuyền, chúng tôi xin cảm ơn Cao Việt Dũng về chỉ dẫn này], để
có thể
tìm biết được những dấu vết của Nabokov đã xuất hiện từ lúc nào trong
sự nghiệp
sáng tạo của nhà văn. Dấu vết tiếp nhận Nabokov ở đô thị miền Nam đã
thấy trong
sáng tác của Võ Hồng in trên tạp chí Văn,
xin xem: Võ Hồng, Con suối mùa xuân, S.: tạp chí Văn:
Giai phẩm Xuân Ất Tỵ, [s.26+27, ra ngày 15/1/1965], tr.43-59.
Trên số này, Thanh Tâm Tuyền cũng cho in truyện ngắn đề tặng Trần Ngọc
Chất:
Cuộc gặp gỡ, tr.93-109.
Blog
NL
Theo
Nguyễn [Anh] Khiêm, Ký Ức Sơ Sài, thì Từ Trí, là tên hai ông
con trai
của TTT. Và nhân vật chính trong Cát Lầy
cũng tên Trí. Trí còn là tên của cái tay làm thịt hụt Diệm, [hình như ở
Ban
Mê Thuật,
lần Diệm đi kinh lý, khi mới lên ngôi. Gấu có hỏi TTT, khi đặt tên Trí cho nhân vật trong Cát
Lầy, anh có nghĩ đến tên Trí làm thịt hụt Diệm không, ông gật
đầu].
Người
môi giới dịch & in & xb cuốn Mary, giữa TTT và Đào
Hiếu, là NAK,
Ký Ức Sơ Sài. Cuốn của NAK, cũng do Đào Hiếu xb. Chất lượng in,
giấy
in, tệ, 2012. Cuốn dịch Nabokov, theo NAK, cũng quá tệ.
Cuốn
sách, theo Gấu, còn là 1 họa phẩm. Phải như vậy. Cuốn Istanbul
của
GCC, bìa
bảnh hơn bản tiếng Anh, cũng đã cực đẹp.
15.
Tôi được gặp anh Thanh Tâm Tuyền tại nhà
anh Tô Thùy Yên lần đầu đâu khoảng năm 85,86. Lối dẫn vào nhà Tô thi
hào có ngõ
trúc mát rượi, hàng rào chè tàu quanh co, buổi chiều tối dế gáy rộn
vang. Chắc
là quê nhà ghi dấu trong thơ anh không ít, mỗi lúc qua đây không quên
được những
câu thơ của anh như:
Cây
yên, cỏ lặng, trăng thiu ngủ.
Giường cũ, nằm nghe tiếng dế khuya.
(Lão Trượng)
Đêm tối êm ru lời thủ thỉ,
Bên hè có tiếng dế ca ran.
Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu,
Mọc lại cho ta buổi xế tàn.
(Hề ta trở lại gian nhà cỏ)
Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải,
Hành nhân về bên giếng quê nhà.
Ngõ trúc chiều ngát cơm gạo mới.
Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa.
(Chim kêu bãi quạnh)
Gò vấp hồi
đó còn sót chút nét quê giống hệt xóm làng vùng đất cát pha dọc sông
Thu bồn
ngoài Quảng, chắc vì vậy mà Bùi Giáng hay lang thang ăn đường ngủ chợ
vùng này
hẳn để đỡ nhớ về “cố quận”. Bữa đó có anh Nguyễn Xuân Thiệp, Cung Trầm
Tưởng,
Nguyễn Thanh Châu…Tôi ngồi im dựa cột nghe mấy anh nói về cuốn
Antimémoire của
Malraux, Thanh Tâm Tuyền còn đọc bản dịch của anh bài thơ Aux Arbres
của Yves
Bonnefoy, nghe đã lắm.
Mấy bữa sau, anh kêu tôi xuống nhà anh uống
café sáng, ăn mỗi người nửa mẩu bánh mì Kinh đô mềm, hơi ngọt. Anh chép
cho tôi
bản dịch bài thơ Aux Arbres, mấy bài dịch thơ Emily Dickinson, bài lục
bát Trú
Mưa Trên Phố Hòa Hưng mênh mang một niềm u uẩn.Thời gian dài về sau, cứ
bốn năm
bữa tôi tới anh uống café sáng một lần, coi bộ anh thích thứ bánh mì đó
dùng với
café nóng. Hạng tôi chẳng phải bạn anh trước kia nhưng chắc vì đi tù
về, bằng hữu
tan lạc, trong quạnh vắng anh cũng cần người chuyện trò văn thơ chữ
nghĩa tàm tạm
cho qua tháng ngày tẻ nhạt. Đề cập tới Phan Khôi, tôi thấy anh chỉ chú
ý tới
con người học giả, con người phản kháng thời cuộc mà ít quan tâm tới
con người
văn nghệ của cụ, tôi đưa anh mượn cuốn
Chương Dân Thi Thoại có lời đề tặng cùng chữ ký của cụ Phan tặng ông
dượng tôi.
Vài bữa sau, anh đạp xe lên nhà tôi ở Phú nhuận, nói chuyện nhiều về
quyển sách
mỏng nọ. Anh bảo đọc cuốn đó thú vị không ngờ. Anh có vẻ đồng ý rằng
tài thơ của
Phan Khôi chưa chắc kém gì Tản Đà nhưng hồi đó cái bóng Tản Đà quá lớn
nên Phan
Khôi né.(Chính cụ có lần nói thẳng hãy dang ra cho Tản Đà tiên sinh đi
mà!).
Anh phục lối diễn đạt bằng một thứ tiếng Việt mới mẻ vượt thời đại khi
Phan
Khôi dịch thơ Tàu, cười thích thú khi biết cụ còn dịch cả thơ Tây nữa.
Tôi nói
với anh chính cụ Phan dịch mấy chương thi ca cổ Do Thái không chỗ chê
như Châm
Ngôn, Thi Thiên, Nhã Ca… trong Kinh Thánh của Hội Tin Lành. Anh đặc
biệt thích
hai bài bát cú Phan Khôi dịch từ cuốn Tùy Viên Thi Thoại. Tôi xin chép
luôn ra
đây, độc giả nào chưa có dịp, xin đọc cho vui.
Cùng Vợ Nhà Ngắm Hoa Mẫu Đơn
Dưới hoa người về, con cái reo,
Vợ già đem rượu thách thơ nghèo.
Nói rằng hôm trước hoa vừa nở,
So với năm kia nhánh lại nhiều.
Hương sắc ban đêm nhìn vẫn đẹp,
Gió mưa cơn sáng chịu làm sao!
Phải chi về sớm ba ngày trước,
Hàm tiếu coi còn thích biết bao!
Chúc Thọ Vợ Nhà
Vất vả vườn quê hai chục thu,
Ra tay rau cháo đỡ đần nhau.
Ngày không giờ rảnh hòng soi kiếng,
Năm mất mùa luôn đến bạc đầu.
Én liệng cửa ngoài hơi biển lạnh,
Nhà như xuồng nhỏ bóng khe chao.
Chúc mình mà tớ không mua rượu,
Vẫn cứ chìa tay: mẹ nó nào!
Theo lời cụ, hai bài này cụ phải dịch năm
đêm trường và làm xong thì phát ngán vì thấy vô ích nhưng anh có cảm
tưởng cụ dịch
dễ dàng, mạch thơ trôi tuồn tuột, lời tự nhiên mà mượt mà nữa. Anh chú
ý lối
tính thời gian chính xác: Ông chồng về muộn một ngày sau khi hoa mãn
khai nên
bà vợ mới nói phải chi về sớm ba ngày trước thì được chiêm ngưỡng hoa
hàm tiếu!
Anh còn nói câu phá đề, thơ thật là thơ, chữ người hết sức tôn kính mà
vẫn đầy
thân ái. Bài thứ hai mới kỳ thú. Toàn bài giọng điệu bình dị, tình cảm
thiết
tha, chữ nghĩa thuần Nôm đơn giản. Hai câu thực thì tận cùng…hiện thực,
cặp luận
tân kỳ và đầy ảnh tượng…Đọc mà cảm phục Phan Khôi mới mẻ và tinh tế,
cũng như
thấy người xưa sao thanh cao quá đỗi!
Quả thật Thanh Tâm Tuyền cuối thập niên
80 khác nhiều thời trai trẻ. Anh tỏ ý tiếc nhóm Sáng Tạo đã làm cụ Nhất
Linh buồn,
cảm thông Nhất Linh ngán ngẩm chính trị nên trốn vào vẻ đẹp văn chương
vĩnh cửu
cũng có lý của cụ. Khi anh xuất cảnh qua Mỹ, tôi tặng anh luôn cuốn thi
thoại
đó. Chẳng là lúc còn ở nhà tôi hay biếu anh bơ đậu phộng tôi học được
cách làm
từ mấy ông bà giáo sĩ Hội Ngữ Học nên trong mấy bức thư gửi cho tôi lúc
anh mới
qua, anh nói có hai điều khiến nhớ đến tôi, ấy là mỗi lúc đi siêu thị
Mỹ thấy
bán đầy bơ đậu phộng và mỗi lần mở ngăn
kéo nhìn thấy cuốn Chương Dân Thi Thoại.
Trước vụ Thiên An Môn hơn năm, Thanh Tâm
Tuyền kể với tôi vừa đọc cuốn truyện tình đầu tay tuyệt vời của
Nabokov, tên tiếng
Anh là Mary. Tôi nói:
- Hay là anh dịch đi, tôi nhờ ông bạn Đào
Hiếu đang làm nhà xuất bản in cho anh, kiếm tí tiền còm cho vui!
Chỉ mấy tuần sau anh đem bản dịch viết
tay tới tôi, tựa sách là Tình Một Thuở, anh nói đó là một đoản ngữ
trong thơ Hồ
Dzếnh, tên dịch giả ghi Từ Trí, theo tôi biết đó là tên hai con trai
của anh. Tôi
giao liền cho Đào Hiếu nhưng gần Tết năm 89 sách mới phát hành. Giấy
đen thui,
tối om như mọi cuốn sách lúc đó, hình bìa cũng in màu nhưng ai đó chép
lại một
bức tranh của Chagall cứng ngắt, vụng về, xấu tệ. Thanh Tâm Tuyền nhìn
bìa
sách, lật qua đọc lời nói đầu thấy sai mấy lỗi chính tả, anh cười méo
xẹo! Sau
it hôm, người ta nhờ tôi chuyển cho anh tiền thù lao, nhớ đâu vài ba
trăm ngàn
gì đó, nay tôi không thể hình dung giá trị số tiền trong thời điểm đó
thế nào,
nhưng hình như anh thấy thế cũng đuợc rồi! Tết năm đó anh chạy xe đạp
lên nhà,
mang cho tôi hai chiếc bánh chưng. Ra giêng gặp lại, anh bảo:
- Này, ăn có được không đó? Mấy đứa nhỏ
quên bỏ muối mất!
Tôi ngạc nhiên là cho tới giờ này, những
nhà phê bình văn học vẫn chỉ nói về thơ của tác giả này mà chưa một ai
đề cập tới
văn xuôi của anh cho tới nơi tới chốn. Cụ Nguyễn Hiến Lê thì chỉ đề cập
tới ý
nghĩa các tác phẩm của anh chứ không nhắc tới văn chương trong hồi ký
của cụ.Tôi
vốn không đủ sở học để có thể phân tích rốt ráo cái hay, nhất là cái
mới trong
văn xuôi của anh. Chỉ là độc giả bình thường, đọc thì cảm nhận được vẻ
đẹp, lối
văn tân kỳ, ngôn từ mới mẻ cùng nhạc điệu và nhịp điệu tinh tế, nghĩ
văn xuôi
đó chính là thơ trá hình. (Nhiều trang tùy bút của Nguyễn Tuân tiền
chiến cũng
có đặc điểm này nhưng theo một cách khác). Biên giới giữa thơ và văn
xuôi của
Thanh Tâm Tuyền thật mờ nhạt. so sánh với bút pháp các nhà khác thì
thấy rõ
nhưng chỉ ra cho minh bạch thì quả gian nan. Không những anh mới lạ
trong sáng
tác, ngay như trong dịch thuật, đặc điểm tân kỳ cũng vô cùng nổi trội.
Xin độc
giả đọc đoạn anh dịch Nabokov tả chàng người Nga lưu vong kiếm sống
trên một đô
thị Tây phương:
“Không có việc gì bị coi là hèn kém đối với
anh; hơn một lần anh đã mang bán luôn cả hình bóng riêng của mình, như
nhiều kẻ
trên đời này cũng thường làm. Nói cách khác, anh từng lặn lội ra vùng
ngoại
thành làm chân tài tử chầu rìa của một cuốn phim xi-nê trong một phân
cảnh, dàn
dựng tại một nhà kho chứa thóc, ở đấy ánh sáng réo sôi phát tiếng kêu
rít bí hiểm
từ những mặt đèn khổng lồ rọi nhắm, giống như họng đại bác, chỉa vào
đám đông
chầu rìa, thiêu đốt như hỏa ngục. Một thác lửa bắn vãi thứ ánh sáng sát
sinh,
soi hiện lớp sáp môi trát trên những gương mặt chết trân, rồi phụt tắt
ngấm sau
tiếng khóa cách – nhưng một hồi sau trong những bầu đèn pha lê chế tạo
công phu
vẫn còn lóe vầng hoàng hôn đỏ ngầu hấp hối – lấp đi mối hổ ngươi của
đời người.
Việc thu hình hoàn tất và hình bóng của đám nhân quần lúc nhúc được
tung hê khắp
thế giới.”(Tình Một Thuở,trang 18,nhà xuất bản Đồng nai,1989)
Những câu văn dài, khó phân tích theo cấu
trúc chủ – vị. (Có lẽ theo đề – thuyết cua Cao Xuân Hạo thì dễ hơn).
Hầu như tất
cả giá trị miêu tả chỉ nằm ở phần phụ bổ ngữ và định ngữ. Câu dài nhưng
đọc vẫn
thấy gọn, cô đọng và hàm súc. Nghe như mâu thuẫn nhưng quả đúng như vậy.
Và đây là vài đoạn khác trích trong
chương III của cuốn Tình Một Thuở:
“Đêm ấy, giống như mọi đêm, một ông lão gầy
gò, đội mũ dạ lưỡi trai nặng nhọc lê bước bên lề vỉa hè đại lộ hun hút
vắng vẻ,
khua đầu gậy quăn queo trên mặt nhựa như mò kiếm đầu mẩu thuốc lá,
tiền, nút
chai hay giấy lộn và xì gà liệng bỏ. Chốc chốc, rú rống như hóa dại,
một chiếc
xe hơi lao vút qua, hay có sự tình nào đó diễn xảy mà thường chẳng
khách bộ
hành nào của đêm phố thị để mắt thấy: một đóm sao, nhanh hơn ý nghĩ,
lặng thinh
hơn cả một ngấn lệ, băng rớt. Rạng rỡ, nô nức hơn những đóm sao dòng
chữ bật
cháy sáng từng chữ một liên tiếp nhau trên nóc nhà cao tối, diễu một
hàng dài rồi
vụt biến bay cùng lúc trong bóng đêm.”…
“ Và rồi trên những
đường phố ấy, bấy giờ hoang vắng như biển
im mướt, vào giấc khuya về sáng lúc những quán bia sau cùng đã đóng
cửa, một kẻ
sinh trưởng ở đất Nga, bỏ ngủ, đầu trần, trên mình chỉ khoác chiếc áo
mưa cũ dạo
bước trong cơn ngây tỉnh táo; vào giấc khuya về sáng, trên những đường
phố
hoang vu ấy chập chờn qua những thế giới lạ lẫm với nhau đến kỳ cùng;
bấy giờ
không còn phải là một dân chơi trác táng nữa, không còn phải là một
người đàn
bà nữa hay không còn đơn thuần chỉ là một khách qua đường nữa, mà mỗi
con người
là một cõi sống biệt lập, mỗi con người là một tổng thể những kỳ diệu
cùng quỷ
quái. Năm cỗ xe ngựa đậu trên đại lộ dài bên nhà vệ sinh công cọng hình
trông
giống cỗ trống cái khổng lồ; năm cõi thiêm thiếp, trùm ấm, xám xịt
trong đồng
phục mã phu; và năm cõi khác đứng trên vó chồn mỏi lim dim mơ màng chỉ
nghe
quanh quẩn tiếng dòng thóc tuôn chảy rào rào êm ru từ bao đựng xuống
máng ăn.
Chính trong những lúc như bấy giờ mọi sự
vật trở nên huyền hoặc, sâu kín khôn dò, lúc đời sống hiện dạng kinh dị
nhưng
cái chết lại còn kinh dị gấp bội. Và bây giờ khi người ta lang thang vơ
vẩn
phơi phới xuyên qua những quãng đêm của phố phường; ngửng trông ánh đèn
sáng
qua màn lệ mỏng, kiếm tìm ở đó kỷ niệm lộng lẫy chói chang của hạnh
phúc ngày
qua – một dung mạo mỹ miều đột hiện về sau bao năm quên lãng hờ hững –
thình
lình trên bước mê mải mù quáng người ta bị cầm chân đứng lại bởi một kẻ
qua đường
lịch sự hỏi thăm lối về phố này phố nọ, hỏi bằng giọng thường tình
nhưng là một
giọng nói người ta sẽ chẳng bao giờ nghe thấy lần nữa.”
Những câu văn dài thích hợp với kiểu độc
thoại nội tâm, khó xác định chủ ngữ, nối nhau dìu dặt, một thứ poésie
en prose
không thể chối cãi. Thanh Tâm Tuyền đã chuyển ý của Nabokov sang văn
xuôi Việt
ngữ bằng ngôn từ đầy hình ảnh và nhạc điệu đẹp đẽ của thi ca.
Tất nhiên muốn nói gì về văn xuôi Thanh
Tâm Tuyền thì phải nhận xét phần sáng tác chứ không phải dịch thuật.
Chẳng qua
nhắc tới một kỷ niệm với anh liên quan tới dịch thuật nên tôi dài dòng
một
chút, hơn nữa cuốn sách này cũng đang hiếm vì in đã lâu và chắc it
người giữ,
dù không ký tên thật nhưng dẫu sao cũng là công lao của thủ lãnh thơ tự
do của
miền Nam và tiên phong làm mới câu văn xuôi tiếng Việt nên tôi mạnh dạn
nhắc tới.
Ngoài những tác phẩm văn xuôi đã in,
Thanh Tâm Tuyền còn cho đăng trên bán nguyệt san Văn thời Trần Phong
Giao hai
truyện dài: Ung Thư và Đêm Xóm Lách Mịt Mùng. Ung Thư được độc giả hâm
mộ tới nỗi
tác giả đau bệnh nghỉ một kỳ, Trần Phong Giao phải chụp lại (hay thời
đó phải
làm bản kẽm?) thư viết tay xin nghỉ của tác giả rồi in lên báo để độc
giả tin!
Cả hai tác phẩm đều bị anh bỏ dở, tuy Ung Thư được đăng nhiều kỳ hơn.
Theo tôi,
Ung Thư thể hiện xác thực nhất thiên tài
Thanh Tâm Tuyền. Đọc Ung Thư, ai rồi cũng phải tin vào khả năng diễn
đạt kỳ diệu
của ngôn từ tiếng Việt. Thanh Tâm Tuyền mới mẻ với Bếp Lửa từ thuở đôi
mươi,
cùng với thời gian, anh càng ngày càng mới mẻ. Tôi tiếc chẳng còn giữ
được tờ
Văn, chỉ kiếm được một số, xin ghi ra đây một đoạn bất kỳ trong truyện
Ung Thư:
“Lân đến đón Ngọc đi phố. Người đàn ông gầy
gò, khuôn mặt bội bạc, nước da xanh mái trác táng, cặp mắt nhỏ lanh
lẹn, đôi
môi mỏng, cử chỉ không thành thật, chẳng mảy may nào giống cái hình ảnh
mơ mộng
của Ngọc thường tâm sự, trên toa tàu bẩn thỉu trống gió và nắng triền
miên như
cơn buồn bã hiu quạnh trong tiếng động quen tai nối liền ngày tháng.”
Thử đặt đoạn văn này cạnh một đoạn tả
người nào đó của các tác giả Tự Lực Văn Đoàn, ta có thể thấy được
khoảng cách
cũ mới. Có lần đọc câu này, tới nay tôi chưa quên: “Trời mùa thu lao
đao với những
cơn heo may tẩm lạnh”. Không biết có phải không quên chỉ tại chữ lao
đao và chữ
tẩm lạnh không nữa. (Cũng xin ghi chú,
đoạn văn trên là nhận xét của người bạn gái của Ngọc cùng đi buôn
chuyến hằng
ngày trên xe lửa, phần phụ cuối đoạn văn là cảm tưởng của người bạn
này?)
Thanh Tâm Tuyền còn có những đoản văn xuất
sắc in rải rác trên báo Vấn Đề của Vũ Khắc Khoan, báo Thời Tập của Viên
Linh…nay, đau xót thay, hẳn đà tuyệt tích.*
Thế hệ thanh niên, sinh viên VN bây giờ
không biết Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên là ai. Một bà giảng viên nào đó còn bảo Tự Lực Văn Đoàn là tên một
đoàn cải lương. Thế thì thôi!
Biết bao giờ đất nước có tự do, con quái
vật chính trị ngừng nhai xương văn học. Các nhà phê bình, nhà biên khảo
hiểu được
lẽ công bình, còn chút lương thiện cùng trách nhiệm, thôi cố tình chôn
vùi danh
tính những con người hiếm hoi vốn xứng đáng là tinh hoa, ưu tú nhất của
văn học
nghệ thuật nước nhà!
* Một đoạn văn ngắn của TTT trong cuốn Tạp
Ghi:
Không biết ai đã bày trò cho bọn trẻ nhỏ
lấy cái dọc đu đủ nhúng một đầu vô nước xà-bông để thổi thành những
chiếc bong
bóng.
Những quả tròn đủ sắc cầu vồng rung rinh
trên đầu ống rồi bay bổng lên không trung trong một vài giây trước khi
vỡ tan
không còn một dấu tích nào. Em bé chơi trò ấy thích thú vì cái vẻ rực
rỡ giản dị
của những chiếc bóng nối nhau bay lên, tan vỡ êm đềm trong bóng nắng
ngoài sân.
Đó là trò chơi mùa hè. Trời thường cao và nhẹ gió nhưng những chiếc
bong bóng mỏng
manh chẳng bao giờ bay cao. Em nhỏ ngây thơ cố công thổi cho thật khéo,
giữ
bóng trên đầu ống cho nó phồng to bao nhiêu hay bấy nhiêu. Trái cầu lớn
có thể
vỡ trước khi bay nhưng nếu nó bay được lên thì chính đó là niềm vui
sướng của
trò chơi. Trẻ nhỏ đùa với những chiếc bóng. Chúng không chơi một mình,
chúng
reo hò cùng nhau và đuổi theo những chiếc bóng bay, quơ tay đập vỡ nếu
chiếc
nào dai dẳng hoài – của đứa khác va của chính mình.
Trẻ con chơi đùa hồn nhiên nhưng bọn người
lớn nhìn để thấy trong trò chơi cái ý nghĩa ngậm ngùi: bong bóng xà
bong, niềm
vui của đứa trẻ – hạnh phúc của đời người -
mong manh, dễ vỡ biết bao! Sự rực rỡ, sự huyền ảo
của bảy sắc cầu vồng
chỉ la những sự thật thoáng chốc.
NAK
|
|