|
Away from Dogma
I was prevented by a sort of shame from going into churches
...
Nevertheless, I had three contacts with Catholicism that
really counted.
-SIMONE WElL
1. In Portugal
One night in Portugal, alone in a forlorn
village at twilight, escaping her parents,
she saw a full moon baptized on the water
and the infallible heavens stained with clouds.
Vespers at eventide. A ragged procession
of fishermen's wives moving down to the sea,
carrying candles onto the boats, and singing
hymns of heartrending sadness. She thought:
this world is a smudged blue village
at sundown, the happenstance of stumbling
into the sixth canonical hour, discovering
the tawny sails of evening, the afflicted
religion of slaves. She thought: I am
one of those slaves, but I will not kneel
before Him, at least not now, not with
these tormented limbs that torment me still.
God is not manifest in this dusky light
and humiliated flesh: He is not among us.
But still the faith of the fishermen's wives
lifted her toward them, and she thought:
this life is a grave, mysterious moment
of hearing voices by the water and seeing
olive trees stretching out in the dirt,
of accepting the heavens cracked with rain.
Edward Hirsch: The Living Fire
Tránh xa Tín điều
Tôi bị ngăn trở một cách tủi hổ không được vô
nhà thờ…
Tuy nhiên, tôi có được ba lần tiếp xúc
với Ca Tô Giáo, và điều này thực sự đáng
tính đếm tới
Simone Weil
1. Ở Portugal
Một đêm ở Portugal, một mình tại một ngôi làng
khốn khổ buồn bã vào lúc chập tối, chạy trốn cha
mẹ
Bà nhìn thấy một vừng trăng đầy được nước rửa tội
Và những khoảng trời không thể sa xuống,
Điểm lấm tấm bởi những đám mây
Sao hôm ở với chiều hôm
Một chuyển động tả tơi
Là những bà vợ ngư phủ kéo nhau xuống bãi
biển
Mang những cây đèn cầy, trong những chiếc thuyền
Và hát những bài thánh ca thật là
não lòng. Bà nghĩ:
Thế giới này là một ngôi làng xanh mờ
mờ
Vào lúc mặt trời lặn
Sự chấp nhận xẩy chân vào cái giờ kinh điển
thứ sáu
Khám phá ra những cánh buồm hung hung vào
lúc buổi chiều
Cái tôn giáo đau đớn của những kẻ nô lệ.
Bà nghĩ:
Tôi là một trong những nô lệ
Nhưng tôi không quỳ gối trước Người
Ít ra vào lúc này
Không, với những chân tay bị hành hạ này,
vẫn còn hành hạ tôi
Chúa không hiển hiện trong thứ ánh sáng lầm than như thế này
Trong cái thân thể, thịt xương bị sỉ nhục như thế này
Tuy nhiên niềm tin của những bà vợ ngư phủ vẫn nhấc
bổng Bà lên và,
Bà nghĩ:
Cõi đời này là một nấm mồ
Khoảnh khắc bí ẩn, nghe những giọng nói bên
bờ nước
Nhìn những cành ô liu vươn khỏi bùn bụi
Và chấp nhận những khoảng trời vỡ vụn ra với mưa.
Rose
/ The rose of Paracelsus
ROSE
Rose,
the unfading rose beyond my verse-
rose that's full and fragrant,
rose of the black garden in the deep of night,
rose of any garden and any night,
rose that's born again by the art of alchemy
out of tenuous ash,
rose of the Persians and Ariosto,
rose that's always by itself,
rose that's always the rose of roses,
the young Platonic flower,
the blind and burning rose beyond my verse,
unattainable rose.
[Norman Thomas di Giovanni]
J.L. Borges
BÔNG HỒNG
Bông hồng không tàn phai, vượt quá
thơ của tôi
Bông hồng - nở trọn, thơm ngát –
Bông hồng, từ cánh vườn đen, nơi sâu thẳm
của đêm
Bông hồng của bất cứ vuờn, bất cứ đêm
Bông hồng lại sinh ra nhờ huyền thuật,
từ tro than tinh khiết, giản dị.
Bông hồng của những người Ba Tư, và của Ariosto,
Bông hồng luôn luôn bằng chính nó
Bông hồng luôn luôn là bông hồng
của những bông hồng
Bông hoa trẻ măng, của tình yêu Platonic
- chiêm ngưỡng và kính trọng -
Bông hồng mù, cháy bỏng vượt quá
thơ của tôi
Bông hồng không làm sao nắm bắt được.
Nguyễn Quốc Trụ
dịch
THE ROSE OF PARACELSUS
Tưởng niệm
Nguyễn Nhật Duật
Trong một truyện ngắn
chưa hề in ấn, bản dịch tiếng Anh lần đầu tiên xuất hiện trên
một số báo The New York Review of Books, "Bông Hồng của
Paracelsus", (1) Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại sư về huyền
thuật có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng
Đế của ông", xin Ngài gửi tới cho ông một đệ tử. Và
một đêm kia, có tiếng gõ cửa, một kẻ lạ xuất hiện,
bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có
vẻ hết sức mệt mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng
chủ nhà là người lên tiếng trước:
"Tôi
nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ Đông qua Tây, vậy
mà không nhớ ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong
gì ở tôi?"
"Tên
tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải qua một cuộc hành
trình ba ngày ba đêm để tới nhà của Ngài.
Tôi mong được là đệ tử của Thầy. Tôi mang tới
cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản
nghiệp xuống mặt bàn: những đồng tiền, bằng vàng. Một
đống tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại sư quay
lưng đốt cây đèn. Và khi xoay người lại, ông
thấy tay trái vị khách lạ cầm một bông hồng. Bông
hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ
tôi có thể tạo nên cục đá biến tất cả mọi vật
trở thành vàng, tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến
cho tôi. Nhưng tôi không tìm kiếm vàng,
và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao giờ
có thể là đệ tử của tôi".
"Tôi
không quan tâm đến vàng. Những đồng tiền này
chỉ để nói lên lòng mong ước của tôi được
theo chân Thầy. Tôi muốn Thầy dậy tôi Nghệ Thuật.
Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi tới Cục
Đá."
"Con đường
'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của bạn, là mục tiêu
mà bạn tìm kiếm."
Người đàn
ông nhìn vị đại sư, giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như
vậy là không có mục tiêu?"
Vị đại sư
cười lớn:
"Mấy kẻ cố
tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà sa số như những
tên ngu đần; chúng nói như vậy đó: làm
gì có mục tiêu, và họ gọi tôi là
một kẻ bịp bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết
rằng có Con Đưòng, có Đạo (a Path)."
Yên
lặng một hồi, sau cùng người khách lên tiếng:
"Con sẵn sàng
đi trên con đường đó với Thầy, cho dù chúng
ta có thể sẽ phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm. Hãy
cho phép con vượt sa mạc. Hãy cho phép con nhìn
thoáng thấy, dù từ xa, đất hứa... Tất cả những gì
con đòi hỏi, là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc hành
trình."
"Khi nào?"
Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây
giờ". Người khách quyết định tức thời.
Suốt từ đầu,
họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh. Bây giờ, họ chuyển
qua tiếng Đức.
Người đàn
ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi
tiếng vì có thể đốt bông hồng thành tro than,
và lại làm nó nở ra thành bông hồng, từ
mớ tro than đó... Hãy cho con chứng kiến phép lạ.
Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá
cả tin. Tôi không cần cả tin. Tôi cần niềm tin."
Người khách
nài nỉ:
"Bởi vì
con không cả tin, nên con muốn chứng kiến tận mắt, sự
huỷ diệt và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư
lúc này đã cầm bông hồng trên tay, và
đang vuốt ve nó.
"Anh thật
cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một
người nào cũng có sức mạnh huỷ diệt nó".
"Anh lầm rồi.
Anh thực sự tin rằng một điều gì đó có thể biến
thành hư vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở Thiên
Đàng có thể huỷ diệt một bông hồng đơn độc, một
cọng cỏ đơn độc?"
"Chúng
ta không ở Thiên Đàng", người đàn ông
trẻ tuổi cứng đầu trả lời. "Tại đây, trong thế giới trần tục
này, mọi vật đều chết."
"Chúng
ta hiện đang ở đâu, nếu không phải là Thiên
Đàng? Bạn tin rằng thần thánh có thể sáng
tạo ra một nơi không phải là Thiên Đàng?
Bạn không tin, rằng Sa Ngã chính là do không
nhận ra một điều: chúng ta đang ở Thiên Đàng?"
"Một bông
hồng có thể bị đốt cháy", người trẻ tuổi nói
bằng một giọng thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay chỉ.
......
Người trẻ
tuổi cầm bông hồng trên bàn, và ném vào
lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi
phép lạ.
Vị đại sư
ngồi bất động. Ông nói, bằng một giọng giản dị:
"Tất cả những
nhà vật lý, dược sĩ tại thành phố Basel này
nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng.
Có tro than vốn xưa là bông hồng, sẽ chẳng còn
là bông hồng nữa."
Người trẻ
tuổi cảm thấy xấu hổ. Anh chỉ là một kẻ lén lút xâm
nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông
thú nhận, huyền thuật của ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì
trước vị đại sư và nói:
"Điều tôi
làm thật không thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm
tin, trong khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ một điều, tin tưởng. Hãy
cho tôi được tiếp tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở
lại, khi nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài,
và ở cuối Con Đường, tôi sẽ nhìn thấy bông
hồng".
Anh ta nói
với một niềm đam mê thực sự, nhưng đam mê này
chỉ là lòng thương hại vị thầy già. Ta là
ai, hỡi Johannes Grisebach này? Ta là kẻ, bằng bàn
tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa,
đã khám phá ra rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có
một người nào.
Để lại đống
vàng có thể là một hành động làm
cho những kẻ nghèo đói "bực mình", anh ta lượm
tất cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và
nói anh luôn luôn là vị khách quí
tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một
điều, chẳng bao giờ còn có lần thứ hai.
Vị đại sư
lại cô đơn một mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông
trút tí tro than từ lòng bàn tay này qua
lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng
xuất hiện trở lại.
"Khao khát chính cuộc đời của mình...",
tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng tôi, những giấc mộng,
"vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng còn là
những giấc mộng nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi,
hay những bạn bè của tôi, bất cứ một kẻ nào, đều
có thể là người khách lạ trẻ tuổi, trong câu
chuyện của Borges.
Chúng
tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.
Vĩnh biệt
bạn Duật!
Nguyễn Quốc Trụ
(và
bằng hữu).
Thơ Mỗi Ngày
Away from Dogma
I was prevented by a sort of shame from going into churches ...
Nevertheless, I had three contacts with Catholicism that really counted.
-SIMONE WElL
1. In Portugal
One night in Portugal, alone in a forlorn
village at twilight, escaping her parents,
she saw a full moon baptized on the water
and the infallible heavens stained with clouds.
Vespers at eventide. A ragged procession
of fishermen's wives moving down to the sea,
carrying candles onto the boats, and singing
hymns of heartrending sadness. She thought:
this world is a smudged blue village
at sundown, the happenstance of stumbling
into the sixth canonical hour, discovering
the tawny sails of evening, the afflicted
religion of slaves. She thought: I am
one of those slaves, but I will not kneel
before Him, at least not now, not with
these tormented limbs that torment me still.
God is not manifest in this dusky light
and humiliated flesh: He is not among us.
But still the faith of the fishermen's wives
lifted her toward them, and she thought:
this life is a grave, mysterious moment
of hearing voices by the water and seeing
olive trees stretching out in the dirt,
of accepting the heavens cracked with rain.
The Poet at Seven
He
could be any seven-year-old on the lawn,
holding a baseball in his hand, ready to throw.
He has the middle-class innocence of an American,
except for his blunt features and dark skin
that mark him as a Palestinian or a Jew,
his forehead furrowed like a question,
his concentration camp eyes, nervous, grim,
and too intense. He has the typical
blood of the exile, the refugee, the victim.
Look at him looking at the catcher for a slgn-
so violent and competitive, so unexceptional,
except for an ancestral lamentation,
a shadowy, grief-stricken need for freedom
laboring to express itself through him.
Thi sĩ lúc lên bảy
Chú
có thể là bất cứ đứa bảy tuổi
Cầm trái banh trên bãi, sẵn sàng ném
Chú có cái vẻ ngây thơ, thuộc tầng lớp
trung lưu, Mẽo/
Ngoại trừ những nét, vẻ , có vẻ ngổ ngáo, và
da đen đen
Cho thấy, có thể chú gốc người Palestine, hay Do Thái
Trán nhăn nhăn như hằn một câu hỏi
Cặp mắt chú, đúng thứ đã từng ở trại tập trung,
cáu kỉnh, bồn chồn, dữ dằn
Rất ư là căng thẳng
Đúng típ máu lưu vong, tị nạn, nạn nhân
Hãy nhìn chú, cái gì gì
bắt trẻ đồng xanh, như là 1 ký hiệu
Ôi chao, sao mà hung dữ đến như thế, như muốn choảng
nhau tới nơi,
Sao mà không thể chê trách được 1 chút
nào như thế
Ngoại trừ cái nét than van, rầu rĩ, có từ tổ
tiên ngàn đời của chú
Một nhu cầu, đòi hỏi, mờ ảo, như bị xâu xé bởi
nỗi đau, ta cần tự do
Một đòi hỏi tự do, tự nó kiếm đường, tự nó lao động
cật lực, để diễn tả
Qua chú bé.
Note: Bài thơ quả là 1 phản bác cuốn Kẻ Phản
Thùng, của VTN, Mít gốc Ngụy, của 1 thi sĩ Mẽo, thứ chính
cống Bà Lang Trọc!
Krakow, Six A.M.
-For Adam Zagajewski
I sit in
a corner of the town square
and let the ancient city move through me.
I sip a cup of coffee, write a little,
and watch an old woman sweeping the stairs.
Poland is waking up now: blackbirds patrol
the cobblestones, nuns rush by in habits,
and the clock tower strikes six times.
Day breaks into the night's reverie.
The morning is as fresh and clean
as a butcher's apron hanging in a shop.
Now it is pressed and white, but soon
it will be spotted with blood.
Europe is waking up, but America
is going to sleep, a gangly teenager
sprawled out on a comfortable bed.
He has large hands and feet
and his dreams are innocent and bloodthirsty.
I want to throw a blanket over his shoulders
and tuck him in again, like a child,
now that his sleep is no longer untroubled.
I'm alone here in the Old World
where poetry matters, old hatreds seethe,
and history wears a crown of thorns.
Fresh bread wafts from the ovens
and daily life follows its own inexorable
course, like a drunk weaving slowly
across a courtyard, or a Dutch maid
throwing open the heavy shutters.
I suppose there's always a shopgirl
stationed in the doorway, a beggar taking up
his corner post, and newspapers fluttering
from store to store with bad news.
Poetry, too, seeks a place in the world-
feasting on darkness but needing light,
taking confession, listening for bells,
for the first strains of music in a town square.
Europe is going to work now-
look at those two businessmen hurrying
past the statue of the national bard-
as her younger brother sleeps
on the other side of the ocean,
innocent and violent, dreaming of glory.
Krakow, 6 A.M.
For Adam Zagajewski
Tôi
ngồi ở một góc quảng trường
Và mặc kệ thành phố cổ chuyển động qua tôi
Tôi chơi 1 ngụm cà phê, viết tí tí
Và theo dõi 1 bà xụt xùi nơi cầu thang
Ba Lan lúc này thức giấc:
chim hét tuần tra sỏi đường, nữ tu vội vã trong những
bộ đồ tu hành
Và đồng hồ thành phố điểm sáu tiếng
Ngày giẫm vào cơn mơ màng của đêm
Buổi sáng tươi mát sạch, như chiếc tạp dề của anh
hàng thịt treo trong tiệm
Vào lúc này, nó phẳng phiu, trắng tinh
Nhưng chẳng mấy chốc lấm tấm máu
Âu Châu thức giấc nhưng Mỹ Châu đi ngủ
Một cậu choai choai cao gầy
Xoải người trên cái giuờng thoải mái
Tay chân cu cậu to lớn làm sao
Và những giấc mơ của cậu ngây thơ, thèm máu
thế nào
Tôi muốn tung 1 chiếc mền lên vai cậu
Và ấp ủ cậu, như 1 đứa bé
Lúc này giấc ngủ của cậu bèn êm ru bà
rù
Tôi, ở đây, một mình, nơi Cựu Thế Giới
Nơi thơ “gây chuyện”, hận thù cũ sôi sục
Và lịch sử đeo vào đầu chiếc vương miện gai
Thoáng mùi bánh mì mới từ lò
nướng
Và cuộc đời ngày lại ngày cứ thế trôi
trong cái dửng dưng, vô cảm, đếch thèm động lòng
của riêng nó
Như 1 tên say lừ khừ đi qua cái sân
Hay người tớ gái Hà Lan mở những cánh cửa nặng
nề
Tôi cứ giả dụ luôn có 1 cô gái bán
hàng đứng ở lối
ra vô
Một người ăn xin tới giờ lên gác
Nghĩa là ngồi vô chỗ ngồi hàng ngày của
anh ta
Ở 1 góc đường
Hay tờ nhựt trình lượn lờ từ sạp báo này tới
sạp báo tới
Với những tin xấu
Thơ, thì cũng thế
Nó kiếm 1 chỗ trong thế giới
Thỏa thuê thèm thuồng trong bóng tối, nhưng
cần ánh sáng
Đi 1 đường sám hối, thú tội; lắng nghe chuông
gọi hồn ai
Hoặc đơn giản, lắng nghe những chuỗi nhạc đầu tiên ở 1 quảng
trường thành phố
Âu Châu lúc này có công chuyện
để làm nhe,
Nhìn hai đấng thương gia hối hả vượt quá cái
bức tượng của nhà thơ nhà nước
Trong khi thằng em trai của nàng ngủ
Ở phiá bên kia bờ đại dương
Ngủ giấc ngủ ngây thơ, dữ dằn, hung bạo, mơ màng vinh
quang, chiến thắng.
SN_GCC_2016
CARREFOUR ROSE
Ngã Sáu BHD
Le carrefour
est familier comme un souvenir
Ngã
Sáu thân quen như 1 kỷ niệm hồng
như
những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã
sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông
đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng,
nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía
bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua
thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy
nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn
ra bên ngoài, làm sao nàng có thể
nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo,
bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía
bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau
tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về
thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau
nhà nàng, ngó nhìn lên, có
thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ
trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát,
thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không
bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó,
và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng
đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn,
có gió bấc, có rét mướt, băng giá,
và nàng mang theo cùng với nàng chút
giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng
đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu
của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ
mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo
muốn đạp đổ tất cả....
Tứ tấu khúc
Déjà la nuit
ne retient plus ses yeux; ils plongent à cha-
que carrefour,
sécheresse flairant une prochaine pluie.
Déjà tous les chemins approchent,
même le chemin du miracle.
Le vent apporte l'aube engourdie.
L'aube est notre peur de faire des choses différentes
et elle
s'abat sur nous.
J'ai marché toute la sainte nuit
et l'inquiétude me laisse
dans cette rue comme les autres.
Voici encore au vague horizon
a certitude de la pampa,
le terrain vague se défaisant en touffes d'herbe et en fils
de
fer,
et l’almacén (1) clair comme la lune nouvelle
d'hier soir.
Le carrefour est familier comme un souvenir
avec ses longs soubassements et la promesse d'un patio.
Qu'il fait bon t'attester, rue de toujours, puisque ma
vie a
regardé si peu de choses !
Déjà l'air est rayé de lumière,
Mes années ont parcouru les chemins de la terre
et de
l'eau
Et mon coeur ne sent que toi, rue dure et rose.
Je doute si tes murs n'ont pas concu l'aurore,
almacén bnilant clair vers le
bout de la nuit.
Je pense, et devant ces maisons
ma pauvreté trouve une voix pour s'avouer :
montagnes, fleuves, mers, je n'ai rien regardé,
mais la lumière de ma ville est mon amie,
et ma vie et ma mort en ont forge leurs verso
O grande rue, et rude sous l'épreuve,
voilà bien le seul chant que connaisse ma vie.
1. L'almacén (mot que nous retrouverons
fréquemrnent dans ce recueil) tient du bazar et de l'épicerie-buvene
: c'est un établissement des plus modestes. Sa facade est,
ou était, souvent peinte en rouge ou en rose.
Jorges Luis Borges: Oeuvre poétique
1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra
Street with a Pink Corner Store
Gone into night are all the eyes from every intersection
and it's like a drought anticipating rain.
Now all roads are near,
even the road of miracles.
The wind brings with it a slow, befuddled dawn.
Dawn is our fear of doing different things and it comes
over us.
All the blessed night I have been walking
and its restlessness has left me
on this street, which could be any street.
Here again the certainty of the plains
on the horizon
and the barren terrain that fades into weeds and wire
and the store as bright as last night's new moon.
The corner is familiar like a memory
with those spacious squares and the promise of a courtyard.
How lovely to attest to you, street of forever, since
my own days have
witnessed so few things!
Light draws streaks in the air.
My years have run down roads of earth and water
and you are all I feel, strong rosy street.
I think it is your walls that conceived sunrise,
store so bright in the depth of night.
I think, and the confession of my poverty
is given voice before these houses:
I have seen nothing of mountain ranges, rivers, or the
sea,
but the light of Buenos Aires made itself my friend
and I shape the lines of my life and my death with that
light of the street.
Big long-suffering street,
you are the only music my life has understood.
-S.K.
J.L. Borges: Selected Poems [ed Penguin]
Đêm không còn giữ được mắt mi
Chúng chìm vào Ngã Sáu Xề Gòn:
Như cơn hạn, nó ngửi ra mùi cơn mưa sắp tới
Những con đường đã xáp lại
Ngay cả con đường của phép lạ
Gió đem tới cùng với nó, một rạng đông
ù lì, đần độn
Rạng đông thì luôn luôn như thế
Nó là nỗi sợ của chúng ta
Sợ làm những điều nhố nhăng,
Và nó giáng xuống chúng ta
Gấu đi suốt một đêm thánh
Nỗi lo âu bỏ Gấu
Nơi con phố này
Cũng có thể là bất cứ một con phố nào khác
Ở đây, lại, nữa, sự chính xác của những cánh
đồng nơi chân trời
Miếng đất nhạt nhoà dần vào trong một miền cỏ và
những sợi dây kẽm
Và cửa tiệm sáng rỡ như vừng trăng non của đêm
vừa qua
Góc phố thân quen như một kỷ niệm
Với những khu phố hình vuông rộng rãi, hứa hẹn
1 sân chơi
Ôi thương nhớ làm sao con phố của muôn đời của
mi
Bởi là vì đời của mi chật hẹp, được chiêm ngưỡng
chỉ có thế, Ngã Sáu Hồng Sài Gòn!
Ánh nắng xiên xéo không gian
Những năm tháng của Gấu thì cứ thế tuồn vào
những con đường của đất và của nước
Và em, đúng như mi cảm nhận, thì tươi mát,
mạnh khoẻ, như một bông hồng đen
Và Gấu nghĩ, những bức tường của em đã
cảm nhận buổi mặt trời đang lên
Cửa tiệm mới rực rỡ làm sao trong sâu lắng của đêm
Anh nghĩ, trước những căn nhà này
Sự nghèo nàn của anh tìm ra được giọng nói
của nó
Để mà thú nhận:
Núi non ư, sông ngòi ư, biển cả ư, cần gì
mấy thứ đó
Chỉ một Ngã Sáu Hồng Sài Gòn
Là đủ chiêm ngưỡng rồi!
Ánh sáng của nó, của Sài Gòn làm
nên những câu thơ
được gọi là Tứ Tấu Khúc
Và anh ghép đời mình, cái chết của mình
với ánh sáng của con phố
Ôi phố lớn, Sài gòn lớn, lớn làm sao là
thử nghiệm,
Đây là bài ca độc nhất mà Gấu hiểu được.
CARREFOUR ROSE
Ngã
Sáu Hồng
Le carrefour est familier comme un souvenir
Ngã
Sáu thân quen như 1 kỷ niệm hồng
như những lần lang thang nơi khu phố
nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành
phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách
vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc
bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra
vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có
thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ
đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng
có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua
tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán
Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh
giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc,
khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía
sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có
thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên
lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng
bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ
kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và
nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ
phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có
gió bấc, có rét mướt, băng giá, và
nàng mang theo cùng với nàng chút giá
băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên
ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi,
ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một
thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất
cả....
Déjà
la nuit ne retient plus ses yeux; ils plongent à cha-
que carrefour,
sécheresse flairant une prochaine pluie.
Déjà tous les chemins approchent,
même le chemin du miracle.
Le vent apporte l'aube engourdie.
L'aube est notre peur de faire des choses différentes
et elle
s'abat sur nous.
J'ai marché toute la sainte nuit
et l'inquiétude me laisse
dans cette rue comme les autres.
Voici encore au vague horizon
a certitude de la pampa,
le terrain vague se défaisant en touffes d'herbe et en fils
de
fer,
et l’almacén (1) clair comme la lune nouvelle
d'hier soir.
Le carrefour est familier comme un souvenir
avec ses longs soubassements et la promesse d'un patio.
Qu'il fait bon t'attester, rue de toujours, puisque ma vie
a
regardé si peu de choses !
Déjà l'air est rayé de lumière,
Mes années ont parcouru les chemins de la terre et de
l'eau
Et mon coeur ne sent que toi, rue dure et rose.
Je doute si tes murs n'ont pas concu l'aurore,
almacén bnilant clair vers le bout
de la nuit.
Je pense, et devant ces maisons
ma pauvreté trouve une voix pour s'avouer :
montagnes, fleuves, mers, je n'ai rien regardé,
mais la lumière de ma ville est mon amie,
et ma vie et ma mort en ont forge leurs verso
O grande rue, et rude sous l'épreuve,
voilà bien le seul chant que connaisse ma vie.
1. L'almacén (mot que nous retrouverons
fréquemrnent dans ce recueil) tient du bazar et de l'épicerie-buvene
: c'est un établissement des plus modestes. Sa facade est, ou
était, souvent peinte en rouge ou en rose.
Jorges Luis Borges: Oeuvre
poétique 1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra
Street with a Pink Corner Store
Gone into night are all the eyes from every intersection
and it's like a drought anticipating rain.
Now all roads are near,
even the road of miracles.
The wind brings with it a slow, befuddled dawn.
Dawn is our fear of doing different things and it comes over
us.
All the blessed night I have been walking
and its restlessness has left me
on this street, which could be any street.
Here again the certainty of the plains
on the horizon
and the barren terrain that fades into weeds and wire
and the store as bright as last night's new moon.
The corner is familiar like a memory
with those spacious squares and the promise of a courtyard.
How lovely to attest to you, street of forever, since my own
days have
witnessed
so few things!
Light draws streaks in the air.
My years have run down roads of earth and water
and you are all I feel, strong rosy street.
I think it is your walls that conceived sunrise,
store so bright in the depth of night.
I think, and the confession of my poverty
is given voice before these houses:
I have seen nothing of mountain ranges, rivers, or the sea,
but the light of Buenos Aires made itself my friend
and I shape the lines of my life and my death with that light
of the street.
Big long-suffering street,
you are the only music my life has understood.
-S.K.
J.L. Borges: Selected Poems [ed Penguin]
Thơ Mỗi Ngày
Thi sĩ và
thế giới - Wislawa Szymborska ( Nguyễn Quốc Trụ)
Nhưng “ngạc nhiên”
là một từ giấu trong nó một cái bẫy luận
lý. Nói cho cùng, chúng ta ngạc nhiên,
bởi những điều đi lệch ra khỏi mẫu mực được nhiều người biết,
mang tính phổ cập; lệch ra khỏi, điều mà chúng
ta coi là hiển nhiên, do đã quá quen
thuộc với nó trong cuộc sống. Và bây giờ,
vấn đề là như thế này: Chẳng làm gì có
một thế giới hiển nhiên như thế. Sự ngạc nhiên của
chúng ta, tự nó [per se] hiện hữu, không
dựa vào sự so sánh, với bất cứ một điều nào
khác.
Phải như vậy thôi. Vì nó là như vậy.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đâu
có uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói ra một điều gì.
Chúng ta quen miệng nói, thí dụ, “thế
thường” [ordinary world], đời thường [ordinary life], “chuyện
thường”… Nhưng trong ngôn ngữ thơ, nơi mỗi từ là
mỗi cân đo đong đếm, đắn đo chọn lựa, làm gì
có chuyện thường thuờng bậc trung ở trong đó.
Làm gì có, chỉ một cụm mây, chỉ một
hòn đá, ở trên nó. Làm gì
có, chỉ một ngày, chỉ một đêm, sau nó. Và
trên hết, chẳng hề có, chỉ một hiện hữu, chỉ một
hiện diện của bất cứ con người nào, trong thế giới này.
Có vẻ như, những nhà
thơ sẽ luôn luôn có việc để làm, cắt
ra từ đó.
Tưởng
Niệm Szymborska
Wislawa Szymborska:
The Happiness of Wisdom Felt
In a way, Szymborska supplied
her own best epitaph, and obituary, in the text of her Nobel
Prize acceptance speech, in which she took on the “astonishment”
of normal life:
“Astonishing” is an epithet
concealing a logical trap. We’re astonished, after all, by things
that deviate from some well known and universally acknowledged norm,
from an obviousness we’ve grown accustomed to. Granted, in daily
speech, where we don’t stop to consider every word, we all use phrases
like “the ordinary world,” “ordinary life,” “the ordinary course of
events.” …But in the language of poetry, where every word is weighed,
nothing is usual or normal. Not a single stone and not a single cloud above
it. Not a single day and not a single night after it. And above all, not
a single existence, not anyone’s existence in this world.
THE LUNATIC
The same snowflake
kept falling out of the gray sky
all afternoon,
falling and falling
and picking itself up
off the ground,
to fall again,
but now more surreptitiously,
more carefully
as night strolled over
to see what's up.
-Charles Simic
The New Yorker, 10 Dec, 2012
Tuyết khùng
Cũng vẫn bông tuyết
Suốt buổi chiều từ bầu trời xám
Rớt xuống, rớt xuống
Và tự nó vịn nó [cái từ
“vịn”, thuổng]
Bật lên khỏi mặt đất
Để lại rớt xuống
Nhưng bây giờ thì rất ư là tái
đi tái lại
Rất ư là cẩn thận
Khi đêm mò tới
Thăm thú tình hình.
The Lover
When
I lived on a farm I wrote love letters
To chickens pecking in the
yard,
Or I’d sit in the outhouse
writing one to a spider
Mending his web over my head.
That’s when my wife took off
with the mailman.
The neighbors were leaving,
too,
Their sow and piglets squealing
As they ran after the moving
truck,
And even that scarecrow I once
tied to a tree
So it would have to listen to
me.
Charles Simic is a Pulitzer
Prize-winning poet and the author, most recently, of “The Lunatic.”
Người Tìn
Khi
sống ở một trang trại
Tớ bèn viết thư tìn
Cho mấy chú gà con, đang mổ lóc chóc
ở ngoài sân
Hay là ngồi ở nhà xí
Viết thư tìn
Cho con nhện
Đang vá lưới trên đầu
Khi vợ tớ bỏ tớ, theo tên bưu tá
Hàng xóm cũng bỏ tớ
Con heo nái và lũ heo con kêu eng éc
Khi chạy theo chiếc xe tải
Ngay cả thằng người rơm!
Có lần tớ trói nó vô 1 cái
cây,
Thì chỉ có mỗi cách đó
Để bắt nó nghe tớ đọc thư tìn.
In Wonder
I cursed someone or something
Tossing and turning all night—
Or so I was told, though I
had no memory
Who it could be, so I stared
At the world out there in
wonder.
The frost on the bushes lay pretty
Like tinsel over a Christmas tree
When a limo as black as a hearse
Crept into view, stopping at each
Mailbox as if in search of
a name,
And not finding it sped away,
Its tires squealing like a piglet
Lifted into the air by a butcher.
Tớ trù ẻo, một tên
nào đó, hay một điều gì đó
Trằn trọc suốt đêm –
Tớ nghe kể lại.
Tuy nhiên tớ không
nhớ
Tên đó là
tên nào
Thế là tớ bèn
nhìn ra bên ngoài
Ngạc nhiên
Băng giá phủ lên
bụi cây mới đẹp làm sao
Như kim tuyến trên cây
Giáng Sinh
Một chiếc xế hộp, đen như cái
xe tang
Bò vô tầm nhìn
Chiếc xế ngưng
Ở từng hộp thư
Như kiếm 1 cái tên
Chẳng thấy
Bèn tếch
Bánh xe ré
Như con heo con
Bị tên đồ tể nhấc bổng
lên trời
http://www.newyorker.com/contributors/charles-simic
Things Seem Strong
By Jane Hirshfield
Things seem strong.
Houses, trees, trucks—a chair, even.
A table.
You don’t expect one to break.
No, it takes a hammer to break one,
a war, a saw, an earthquake.
Troy after Troy after Troy seemed strong
to those living around and in them.
Nine Troys were strong,
each trembling under the other.
When the ground floods
and the fire ants leave their strong city,
they link legs and form a raft, and float, and live,
and begin again elsewhere.
Strong, your life’s wish
to continue linking arms with life’s eye blink, life’s
tear well,
life’s hammering of copper sheets and planing of Port
Orford
cedar,
life’s joke of the knock-knock.
Knock, knock. Who’s there?
I am.
I am who?
That first and last question.
Who once dressed in footed pajamas,
who once was smothered in kisses.
Who seemed so strong
I could not imagine your mouth would ever come to stop
asking.
Jane Hirshfield
Sự tình xem ra vững vàng
Sự tình
xem ra vững vàng
Nhà cửa, cây cối, xe xiếc, người nghiệc
Coi kìa, cái ghế, cái bàn
Bạn đừng mong gẫy, đổ
Phải cái búa
Cuộc chiến
Cái cưa
Hay tệ lắm 1 trận động đất
Hay 1 cuộc tận thế
Mới mong cái ghế gẫy
Cái bàn sụm!
Troy sau Troy, sau Troy xem ra cực vững chãi
Đối với những người sống lòng vòng, hay bên
trong nó
Chín thành Troy thì đều vững,
Cái nọ run rẩy dưới cái kia
Khi đất lũ
Lửa và kiến rời thành phố vững vàng của
chúng
Chúng nối chân nhau,
Làm thành cái bè, hay con thuyền
Noé
Và nhấp nha nhấp nhô, và sống
Và bắt đầu, ở đâu đó
is a chancellor of the Academy of American Poets
and the author of two new books, “The Beauty” and “Ten Windows: How
Great Poems Transform the World.”
Cá voi trắng có
gì giông giống bộ xương cá trong Ngư Ông và
Biển Cả, con K của Buzzati. Chúng là những versions của
nhau, theo GCC.
Cá
Voi Trắng là cuốn sách đầu đời đọc của GCC, những ngày
mới vô học Đệ Nhất CVA, quen gia đình TTT, qua ông
em cùng học. Đọc chung với bà cụ thân sinh của hai anh
em nhà thơ, qua ấn bản tiếng Việt của nhà xb Ziên Hồng.
Rất khó đọc, theo GCC, có thể vì, ngoài cái
chuyện nó là 1 cuốn tiểu thuyết, tác giả còn
muốn độc giả rành rẽ về cái nghề săn cá voi nữa, đúng
như sau này giới phê bình nhận ra.
Thoạt đầu, không ai đọc, bị chê là chán
ngấy và văn phong, khùng. Chỉ đến khi tác giả chết
đi, thì mới được coi là 1 tuyệt tác của văn chương
Mẽo.
Cá Coi Trắng: Sử Thi Mẽo
Cuốn tiểu thuyết của Melville,
hơn cả 1 câu chuyện săn cá voi, là viễn ảnh nước Mẽo
hiện đại, giữa "volonté de puissance" và "quête du
divin"
Chính “cuộc tìm
kiếm chất thánh", "quête du divin", làm nó
giống “Ngư Ông và Biển Cả”, mà cội nguồn của nó
là Thánh Kinh. Tuyệt tác thế giới
Herman Melville
He was always surrounded by the sea of his elders,
The Saxons, who named the ocean
The Whale-Road, thereby uniting
The two immense things, the whale
And the seas it endlessly ploughs.
The sea was always his. By the time his eyes
First took in the great waters of the high seas
He had already longed for and possessed it
On that other ocean, which is Writing,
And in the outline of the archetypes.
A man, he gave himself to the earth's oceans
And to the exhausting days at sea
And he came to know the harpoon reddened
By Leviathan and the rippled sand
And the smells of nights and mornings
And chance on the horizon waiting in ambush
And the happiness of being brave
And the pleasure, at last, of spying Ithaca.
The ocean's conqueror, he strode the solid
Earth out of which mountains grow
And on which he charts an imprecise course
As with a sleeping compass, motionless in time.
In the inherited shadows of the gardens
Melville moves through the New England evenings,
But the sea possesses him. It is the shame
Of the Pequod's mutilated captain,
The unreadable ocean with its furious squalls
And the abomination of the whiteness.
It is the great book. It is blue Proteus.
-S.K.
J.L. Borges
Ông ta luôn được vây quanh bởi biển của
những bậc trưởng thượng
Những người Saxons, họ đặt tên biển là Đường
Đi Của Cá Voi, và như thế, kết hợp hai sự vật lớn lao
Cá voi,
Và biển, mà nó miệt mài ở trong
đó
Biển luôn luôn là ông
Vào cái thời mà đôi mắt của ông
Lần đầu tiên nhập vào những con nước lớn của
những biển cao
Thì ông đã hằng mong, và sở hữu
nó
Trên một biển khác, có tên là
Viết
Và ở đường viền của những nguyên mẫu.
Đàn ông, ông ta trao thân gửi phận mình
cho những biển của đất
Và cho những ngày mệt nhoài đến kiệt quệ ở
biển
Và ông tới hồi hiểu được cây lao đỏ rực bởi lửa bởi Leviathan
Và cát rợn sóng
Và những mùi của đêm và của những buổi
sáng
Và cơ may ở nơi chân trời đợi chờ một cuộc phục kích
Và cái hạnh phúc vì can đảm
Và cái lạc thú, sau cùng: Do thám
Ithaca.
Kẻ chinh phục biển cả, ông ta bước dài trên mặt
đất cứng cỏi, từ đó, núi non mọc lên, và trên
đó, ông vẽ hải đồ về chuyến đi không chính xác
Như với chiếc la bàn ngái ngủ, bất động trong thời
gian
Trong những cái bóng được thừa hưởng của những khu
vườn
Melville chuyển động qua những buổi chiều Tân Anh Cát
Lợi
Nhưng biển chiếm đoạt ông. Đó là nỗi tủi hổ
của viên thuyền trưởng cụt giò của con thuyền Pequod
Biển không làm sao đọc được với những trận gió
giận dữ của nó
Cái khủng ơi là khủng của Cái Trắng. (1)
Đó là 1 cuốn sách lớn lao. Nó là
Proteus xanh
(1)
Conrad, Melville and the Sea
Khi nhớ quê hương,
kẻ thì "thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn,
còn tôi, tôi nhớ biển...
H/A
Lèm
bèm về biển là phải lôi hai ông này ra.
Ông thứ nhất là..
Borges: Joseph Conrad?
Và ông thứ nhì là tác
giả Cá Voi Trắng.
Borges: Đúng như thế. Nhưng hai ông này chẳng
có gì giống nhau. Conrad trau giồi thứ văn nói.
Lẽ tất nhiên chúng là những câu chuyện của
vì phong nhã Marlow, người kể của hầu hết những câu
chuyện. Về ông kia, thì là Herman Melville, trong Cá
Voi Trắng… một cuốn sách gốc, tuy nhiên nó có
hai nguồn, Shakespeare và Thomas Carlyle.
Trong Cá Voi Trắng, đề tài của nó: cái
trắng khủng, the dread of the whiteness. Thoạt đầu ông ta có
thể nghĩ là, con cá voi trắng, con vật đã xẻ thịt vì
thuyền trưởng, được lọc riêng ra, từ những con cá voi. Rồi
ông ta phải nghĩ là, tốt nhất nên làm khác
đi, bằng cách làm cho nó thành trắng, tức cái
tư tưởng, trắng là một màu cực khủng. Thường thì chúng
ra gán cho màu đen, với sự ghê rợn. Đen, rồi đỏ, như
máu, thí dụ. Nhưng Mleville bèn phán, trắng
mới khủng, mà khủng thực. Có lẽ ông ngửi ra điều này,
từ 1 cuốn sách ông đang đọc.
Tôi nghi, ông ta kiếm ra điều này, là
do đọc Poe, cuốn Chuyện Kể của Arthur Gordon Pym. Bởi là vì
đề tài của những trang chót, bắt đầu bằng nước ở những hòn
đảo, thứ nước thần kỳ, sau cùng bật ra cái trắng khủng. Điều
này còn giải thích Miền Bắc Cực đã từng bị
xâm lăng bởi những con vật khổng lồ màu trắng. Pym phán,
bất cứ cái gì trắng gây khiếp sợ. Và Meilville
bèn chôm liền. Thú vị là, có 1 chương
mang tên “Cái Trắng Của Cá Voi”, trong đó, ông
lèm bèm về trắng thì rất ư là khủng khiếp.
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/09/roberto-bolano-mot-lan-nua.html#more
…. thơ Szymborska quá thường,
chẳng hạn nếu đặt cạnh Czesław Miłosz
Blog NL
Một trong những người phán, về thơ Szymborska, thật chính
xác, là Charles Simic, trong bài viết đã
được Tin Văn giới thiệu.
Với riêng Gấu, bảnh nhất trong “Ba Lan Tam Kiệt” là
Zbigniew Herbert, nhưng không được Nobel.
Gấu mê nhất, là Adam Zagajewski, cũng không
được Nobel.
Szymborska được Nobel quá xứng đáng. Chỉ cần hai
bài thơ của Bà, là Mít thấy quá xứng
đáng.
Bài thơ "Việt Nam" sỉ nhục toàn xứ Mít,
nhất là Bắc Kít, đúng như thế.
Và "Bài thơ chống lại Tận Thế".
Note: Charles Simic điểm mấy cuốn mới ra
lò của ba nhà thơ Ba Lan, trên NYRB, Dec
22, 2011.
Đọc câu sau đây, mà chẳng sướng
& tủi sao?
It is truly remarkable how many fine poets
Poland has given to the world in the last century. This is an
extraordinary accomplishment for a country used as
a short cut in two world wars by both German and Russian invading
and retreating armies, who, in addition to redrawing its borders
repeatedly and occupying it for years, slaughtered millions
of its citizens and deported others. Perhaps, as Czeslaw
Milosz speculated back in 1965, in the preface to his much-admired
anthology Post-war Polish Poetry, a poet crawling out from under
the historical steamroller is better prepared to assume
the tasks assigned to him than his colleagues in happier countries.
For us, he said, "history is extremely real. It may not be to
American poets, but for us it is very, very much a part of reality."
This sounds plausible, although as Milosz himself
noted elsewhere, only a small percentage of human suffering
ever gets into literature, while most of it disappears without
a trace. Many nations that had undergone similar horrors have
remained comparably mute afterward, so the vitality of Polish
poetry must be due to many other factors besides its history.
Nevertheless, even a cursory look at the lives of the three
poets under review here leads one to the inescapable
conclusion that the despair and moral outrage provoked by what
happened to their nation were decisive for each of them.
Thực sự đáng kể, là con số khá
nhiều nhà thơ tuyệt vời Ba Lan đã đến với thế
giới trong thế kỷ vừa qua. Quả là 1 thành tựu
lạ kỳ của một xứ sở được coi như là một “short cut” [đường
cắt ngắn, lối đi tắt…] giữa hai cuộc thế chiến, bởi cả
hai quân đội Đức và Nga, xâm lăng, rồi rút
lui, và, không chỉ vẽ lại bản đồ biên giới,
và chiếm giữ đất nước trong nhiều năm, mà còn
làm thịt hàng triệu người Ba Lan, tống xuất, lưu đầy
hàng triệu người Ba Lan khác. Có lẽ, như Czeslaw
Milosz phán, vào năm 1965, trong lời tựa cho 1
tuyển tập thơ của ông, rất được ái mộ, Thơ Ca Hậu
Chiến Ba Lan, một nhà thơ bò lồm ngồm ra khỏi đáy
của con tầu lịch sử, thì đúng là đã được
sửa soạn đầy đủ, thông tri đầy đủ… để đóng cái
vai nhà thơ, và thi hành OK những trách nhiệm
được trao cho anh ta, hơn là ba thứ cà chớn khác,
tức những đồng nghiệp văn hữu, thi hữu của anh ta, ở trong những
xứ sở hạnh phúc hơn. Đối với chúng ta, ông
[Milosz] nói, “lịch sử thì thực cực kỳ thực. Điều
này chưa chắc đã đúng, đối với những nhà
thơ Mẽo, thí dụ, nhưng đối với chúng ta [những nhà
thơ Ba Lan], nó quá đúng, quá đúng,
là 1 phần của thực tại”.
Nghe thì có vẻ thật là bùi
tai, nhưng cũng lại chính Milosz, ở 1 chỗ khác,
phán, chỉ một phần trăm rất nhỏ của nhân loại
đau khổ cực kỳ may mắn được bò vô văn chương,
thơ ca, trong khi đa số, hoặc hầu hết nhân loại, biến
mất, chẳng để lại 1 tí dấu vết. Rất nhiều quốc gia trải
qua rất nhiều đau thương tang tóc, kinh hoàng,
man rợ… tương tự như Ba Lan, nhưng mà sau đó trở
thành câm, hoặc cả nước bị Sáu Dân,
Tấn Dũng… bịt miệng, thành thử cái chuyện thơ ca
bảnh tỏng như Ba Lan hậu chiến có thể còn phụ thuộc
nhiều yếu tố khác, ngoài yếu tố lịch sử của nó.
Mặc dù vậy, chỉ một cái nhìn thoáng
qua cuộc đời ba nhà thơ Ba Lan được đề cập tới ở đây,
là ngộ ra liền tù tì, là có
ngay 1 kết luận không thể chệch đi đâu được: Sự
chán chường, và sự vi phạm đạo đức, về những gì
xẩy ra cho đất nước của họ, là yếu tố quyết định đối với
mỗi một người trong cả ba.
*
Wislawa Szymborska, sinh năm 1923, sống gần
một nhà ga xe lửa tại Krakow trong thời kỳ Đệ Nhị Thế
Chiến và làm nhân viên cho sở hoả xa, trong
1 xứ sở chồng chéo qua lại những đoàn tầu chở
binh sĩ ra mặt trận, chở thương binh trở về từ bất cứ nơi nào
có đánh nhau, chiến trận và thường dân
tìm nơi trú ẩn xa mặt trận, hay bị chuyên
chở dưới lính gác tới một trong những trại tập
trung nổi tiếng của đất nước.
Bà nhìn thấy và nghe thấy muôn
điều:
Hãy viết ra. Viết nó. Bằng mực thường
Trên giấy thường: Họ chẳng được cung cấp thực
phẩm
Họ tất cả đều chết vì đói. Tất cả. Bao
nhiêu?
Đó là 1 cánh đồng rộng. Bao nhiêu
cỏ cho một đầu người? Hãy viết ra: Tôi không
biết
Lịch sử đong đếm những bộ xương thành con số
không.
Một ngàn và một thì vẫn chỉ là
một ngàn
Như thể chẳng có ai đã từng sống
Một bào thai dởm
Một cái nôi trống,
Một kíp nổ chẳng nhắm một ai
Không khí cười, khóc, lớn lên,
mò cầu thang tìm lối hư không ra khu vườn
Không một vết người trong hàng ngũ.
Nó trở thành thịt ngay tại đây,
trên cánh đồng này.
Nhưng cánh đồng thì câm lặng, như
người chứng đã được mua
Trong xứ sở này [Ba Lan], W. Szymborska là
nhà thơ được biết và được đọc nhiều nhất; một
tập thơ của bà thì được bán ra trên
80 ngàn ấn bản. Không phải chỉ là do bà
được Nobel văn chương. Đồng bào của bà, nhà
thơ Milosz cũng Nobel vậy. Thơ của bà cũng một thứ phơi
mở ra với độc giả, như Różewicz, nhưng ở bà, thoả
mãn hơn, uyên nguyên hơn. Thêm nữa,
bà chuyển dịch thật tới. Hay, có lẽ phải nói
chính xác hơn, những dịch giả của bà cho
độc giả cảm tưởng đó, qua năm tập thơ đã được dịch
qua tiếng Anh. Cực kỳ thông minh, láu lỉnh, tế nhị,
rất tự tin, bản lĩnh, ung dung, tự tại, bà dẫn dụ chúng
ta bằng cái tầm rộng lớn của những quan tâm của bà,
cái sự không có 1 tí vị kỷ của 1 nhà
thơ, [Tao & thơ tao là số 1, cái này
thì thi sĩ Mít bị nặng lắm, đọc mấy ông nhà
thơ ra cái điều trịnh trọng, hay, viết 1 cái mail
không nên thân, do tưởng ai cũng biết mình
là thi sĩ, hay, giả đò suy tư, thơ từ đâu
tới… là Gấu chỉ muốn văng tục], và cái sự
bi quan yếm thế nhưng vui vui của bà.
Vietnam
(Wistawa Szymborska)
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
Vermeer
So long as that woman
from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.
Một khi mà người
đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng
Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và
chú tâm
rót sữa mỗi
ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới
vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế
giới.
Bài thơ này, GCC
đọc trên NYRB, 11.11.2010,
bèn chôm liền.
Tình cờ sao, tay Prospero, cũng
đọc, nhưng trên lưới, và cũng chôm liền,
và đi một đường vinh danh thực là tuyệt vời: Bài thơ chống lại Tận Thế
Bạn phải đau nỗi
đau Việt Nam tới cỡ nào thì mới làm
nổi bài thơ “Vietnam”, và chính vì
đau nỗi đau VN như thế, thì mới lại làm nổi bài thơ chống lại Tận Thế như thế!
"God reveals in
utter clarity that which we can't understand; that which
we can understand He lays out in riddles."
Tạm dịch: Ông
Giời bày ra cái thật rõ ràng để chúng ta đếch hiểu
nổi. Còn cái chúng ta hiểu được,
thì ông bày ra qua thai đố.
Liệu hai bài thơ trên,
minh họa, câu trên?
I love the shape of the poem—it
thins like a stream of milk, pouring itself out. I also
love the tension she sets up between the "W" and the "w", which
appears hierarchical but is also slippery.
Prospero
Tôi mê cái
dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó
đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê
sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó
làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra
sự trơn trượt.
Ui chao, phán như thế
mới là phán chứ, nhỉ?
Wisława Szymborska, nữ sĩ Ba Lan,
là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu
luận là để đáp lại cảm xúc và mối
ám ảnh thường trực: “tôi không biết”.
Lý Đợi
Bậc thầy về thơ nghị luận.
Theo GCC, không hẳn như thế.
Charles Simic, nhận xét, rõ
hơn, và đúng hơn:
Wislawa Szymborska, nhà thơ Ba
Lan, Nobel văn chương - thường sử dụng hình ảnh của những
sự vật đời thường, mọi ngày, và 1 giọng thơ móc
họng người đọc, để diễn tả, khám phá, thám
hiểm kinh nghiệm nhân sinh, bao gồm tình yêu,
chiến tranh, và chết chóc - mất ngày 1 Tháng
Hai, tại nhà riêng tại Krakow, Ba Lan, 88 tuổi,
do ung thư phổi, theo người thư ký cho biết.
Szymborska thường viết, như thể, về 1
đề tài được chỉ định - một hạt cát, hay là
bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì
có tính suy đoán hơn, thí dụ, sự
hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng
của cây cối quanh chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà
nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần
gụi hơn. Trước tiên, bà miêu tả cái bà
nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà
và những người khác biết về nó, và, yên
chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với bà
đi tới mọi khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà,
khi bà lần theo tư tưởng của mình, trên đường đi tới
một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm,
hoặc tàn nhẫn, dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là
1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế, thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà
tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không chỉ sáng
tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state]
thơ, ở nơi những độc giả của bà, nhưng còn nói
cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và
chẳng bao giờ nghĩ về những điều đó.
Charles Simic
Nếu như thế, gọi là phân
tích, hoặc quá lắm, giải tích - chôm
từ này, của nhà thơ Ngu Yên - chứ làm
sao lại, "bậc thầy về thơ nghị luận"?
Bài thơ "Thí dụ", sau
đây, mà chẳng móc họng VC, sao:
GREEK STATUE
With the help of people and
the other elements
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the
genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the
other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen
to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.
When someone living dies that
way
blood flows at every blow.
But marble statues die white
and not always completely.
From the one under discussion
only the torso lingers
and it's like a breath held with great
effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.
And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.
Wislawa Szymborska: Here
Tượng Hy Lạp
Với sự giúp đỡ của con
người và những yếu tố khác
Thời gian đã làm được
một việc không tệ ở đây.
Trước tiên, nó liếm cái
mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái một, ngón
chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh
tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái, phải
Vai, hông, đầu, mông đít,
Và bất cứ cái gì
rời ra,
là kể từ đó, trở thành
miểng,
thành sỏi, đá, thành
cát.
Khi một người nào đó
đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra từ mọi cú
liếm.
Nhưng tượng đá chết trắng
Và không phải luôn
luôn trọn vẹn
Từ cái chết đang được
bàn tới ở đây,
Còn một nửa,
Còn bức tượng bán thân
Cứ như thể, mọi hơi thở, cố níu
kéo
Bởi vì kể từ bây giờ
Nó phải níu vào
chính nó
tất cả ân sủng và trọng
lực (1)
cái phần đã bị liếm mất
Và nó làm
được
Kể từ giờ này nó làm
được
Và nó chói lòa,
Nó chói loà, và
nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian, như thế, thì cũng
đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà nó ngưng
cái việc liếm, để mai tính, mốt tính,
cái phần còn lại.
(1)
Chắc là thuổng hai từ này
của Simone Weil.
Bà này, “bạn quí”
của Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử”
của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng
bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm sao mà
nói lên được cái ý ân sủng
và trọng lực!
NQT
EXAMPLE
A gale
stripped all the leaves from the trees
last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.
With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to
time.
Wislawa Symborska: Here
Thí dụ
Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm
qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây
trần trụi
Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày
1945
Bèn chứng tỏ rằng thì
là,
Thì tất nhiên, đúng
như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta
cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta!
[Note: Bản tiếng Việt có tí
lệch pha với nguyên tác, ở cái từ "violence",
bạo lực, lệch, lé ra thành, "lịch sử Mít"]
Ui chao, tiếu lâm thật:
VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa
ông con, để sau này làm nhạc chào
mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:
Như có Bác Hồ trong
ngày vui đại thắng!
Bạn có thể áp dụng
bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp, với những kẻ, lịch
sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên!
Nào họ Trịnh hầu
đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông,
hầu đờn Bắc Bộ Phủ.
V/v Tam Kiệt
http://tanvien.net/Tribute_1/Adieu_NQS_1.html
Zbigniew
Herbert, “Ba Lan Tam Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là, Milosz,
Szymborska đều đợp Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt" của xứ Mít
Nam: Bùi Giáng, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm
Tuyền, như NTV [Nguyễn Tiến Văn] đã từng gọi.
Thơ Mỗi Ngày
Tin Văn đã từng giới thiệu nhà thơ Mẽo này, ngay
lần đọc thơ ông, trên NYRB.
Đọc loáng thoáng, có vẻ rất mê Simone
Weil, bạn với Adam Zagajewski, bèn chộp luôn, cả hai cuốn!
On
the Anniversary of Joseph Brodsky’s Death
(January
2001)
Archangelsk,
the briny cold, the frigid Baltics,
Children throwing snowballs at Soviet statues.
The Arctic
chill of the moon at midday,
The trees wrapped, the pedestrians bundled.
How
the sun shivered behind the smokestacks
Like a soldier frozen in place.
At the
dimly lit Museum of the Far North
The subject was the poet’s internal exile,
Metaphysics
versus History, and the fateful
Struggle between Poetry and Time,
A Cold
War that will never end.
Also, his love for watery ports
And stubborn
cats, especially the Russian
Blue that hailed from the White Sea.
Afterwards,
a slushy walk, salty air,
Sleep in an overcoat in a converted barracks.
All night
I heard the muffled boots
Of an army marching through the streets
Under
the thick cover of darkness.
But in the morning, anniversary mourning,
I woke
to a magisterial silence.
Snow occupied the city.
-Edward
Hirsch.
NYRB, Feb 11, 2010
Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất
của ông
January 2001
Archangelsk, cái lạnh
mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những
bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc Cực của
mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt trời rùng mình
sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng Viễn
Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà
thơ
Siêu hình đấu với
Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề
chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ
với những bến cảng sũng nước
Và những con mèo
bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau đó, là một
cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi
muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã
được cải tạo
Suốt đêm tôi nghe
có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ thật là
dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng
tưởng niệm,
Tôi thức giấc, bổ choàng
vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách
xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.
In Memoriam Paul Celan
Lay these words into the dead man's
grave
next to the almonds and black cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops, eyes,
and Thou, O bitterness that pillows his head.
Lay these words on the dead man's eyelids
like eyebrights, like medieval trumpet flowers
that will flourish, this time, in the shade.
Let the beheaded tulips glisten with rain.
Lay these words on his drowned eyelids
like coins or stars, ancillary eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.
Syllable by syllable, clawed and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour oflamentation,
the void's turn, mournful and absolute.
Lay these words on the dead man's lips
like burning tongs, a tongue of flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.
Simone Weil:
The Year of Factory Work (1934-1935)
A glass of red wine trembles on the
table,
Untouched, and lamplight falls across
her shoulders.
She looks down at the cabbage on her plate,
She stares at the broken bread. Proposition:
The irreducible slavery of workers. "To work
In order to eat, to eat in order to work."
She thinks of the punchclock in her chest,
Of night deepening in the bindweed and crabgrass,
In the vapors and atoms, in the factory
Where a steel vise presses against her temples
Ten hours per day. She doesn't eat.
She doesn't sleep. She almost doesn't think
N ow that she has brushed against the bruised
Arm of oblivion and tasted the blood, now
That the furnace has labelled her skin
And branded her forehead like a Roman slave's.
Surely God comes to the clumsy and inefficient,
To welders in dark spectacles, and unskilled
Workers who spend their allotment of
days
Pulling red-hot metal bobbins from the flames.
Surely God appears to the shattered and anonymous,
To the humiliated and afflicted
Whose legs are married to perpetual motion
And whose hands are too small for their bodies.
Proposition: "Through work man turns himself
Into matter, as Christ does through the Eucharist.
Work is like a death. We have to pass
Through death. We have to be killed."
We have to wake in order to work to labor
And count, to fail repeatedly, to submit
To the furious rhythm of machines, to suffer
The pandemonium and inhabit the repetitions,
To become the sacrificial beast: time entering
Into the body, the body entering into time.
She presses her forehead against the table:
To work in order to eat, to eat ...
Outside, the moths are flaring into stars
And stars are strung like beads across the heavens.
Inside, a glass of red wine trembles
Next to the cold cabbage and broken bread.
Exhausted night, she is the brimming liquid
And untouched food. Come down to her.
DOOMSDAY
It will be when the trumpet
sounds, as Saint John the
theologian writes.
It was in 1757, according to Swedenborg.
It was in Israel (when the she-wolf nailed the flesh of
Christ
to the cross) but
not only then.
It happens with every heartbeat.
There is no moment that can't be the pit of Hell.
There is no moment that can't be the water of Paradise.
There is no moment that isn't a loaded gun.
At any second you could be Cain or the Buddha, the mask
or
the face.
At any second Helen of Troy could reveal her love for
you.
At any second the rooster could have crowed three times.
At every second the water clock lets fall the final drop.
-S.K.
J.L. Borges: Poems
of the Night
Tận Thế
Nó sẽ xẩy ra khi tiếng
kèn rú lên, như Saint John nhà thần học
viết
Đó là vào năm 1757
[xém thì viết lộn thành 1975, hà
hà!],
theo như Swedenborg.
Đó là ở Israel, (khi nữ sói đóng
đinh Chúa Ky Tô lên cây thập tự), nhưng không
chỉ khi đó.
Nó xẩy ra với mọi cú tim đập
Chẳng có khoảnh khắc nào mà không
có thể gọi là “hố Địa Ngục”
Chẳng có khoảnh khắc mà không thể
gọi là “nước Thiên Đàng”
Chẳng có khoảnh khắc nào mà không
thể là “súng đã nạp đạn”
Bất cứ giây khắc nào bạn cũng có thể
là Cain hay Đức Phật, cái mặt nạ hay là bộ mặt.
Bất cứ giây khắc nào Người Đẹp thành
Troy cũng có thể bật mí Nàng yêu bạn.
Bất cứ giây khắc nào thì con gà
trống cũng có thể gáy ba phát.
Bất cứ giây khắc nào thì cũng có
thể, giọt nước cuối cùng của cái đồng hồ nước, rớt
xuống.
http://www.tanvien.net/Viet/Greene_Borges_Memory.htm
Nhiều người thận trọng nhìn
lại suốt hơn 30 năm, giật mình với cảm giác bên
được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc...” - Huy
Đức (Osin) (1)
Cái từ "thận trọng",
khó hiểu quá.
NQT
Cái ý của
Osin, "... bên được giải phóng hóa ra lại là
miền Bắc", chôm của… Gấu và của bạn Gấu, là Thảo Trường.
Chứng cớ:
Khi còn ở Trại
Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh
em đồng chí tính cho đi mò tôm, nên
đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó
xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ
đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không
giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra
tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn
thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn
đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính
mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam
chỉ có công: Thất trận. (3)
Cho đến năm 1975, tội
lớn nhất của cộng sản là đã thắng trận, và, chiến
công lớn nhất của cộng hòa là thua trận
(4)
Sự thực, nguồn của cái
ý tưởng “thận trọng” này, là từ Borges:
Trong 1 bài viết,
TV sẽ post bản tiếng Anh, sau, Borges kể là ngày 14 June
1940, một tay nói tiếng Đức mà tên của người này,
ông không muốn nói ra, tới nhà ông. Đứng
tại cửa, anh ta báo tin động trời: Quân đội Nazi đã
chiếm đóng Paris.
Tôi [Borges] thấy trong tôi lẫn lộn một mớ cảm xúc,
buồn, chán, bịnh.
Thế rồi Borges bỗng để ý tới 1 điều thật lạ, là,
trong cái giọng bề ngoài tỏ ra vui mừng khi báo
tin [30 Tháng Tư, nói tiếng Bắc Kít, mà không
mừng sao, khi Nazi/VC chiếm đóng Paris/Sài Gòn!], sao
nghe ra, lại có vẻ như rất ư là khiếp sợ, hoảng hốt?
Hà, hà!
Thế rồi anh ta phán
tiếp, Nazi/VC sẽ không tha London. Và không có
gì ngăn cản bước chân của Kẻ Thù Nào Cũng Đánh
Thắng!
Và tới lúc
đó, thì Borges hiểu, chính anh ta cũng quá
khiếp sợ!
Cũng tới lúc đó, Borges hiểu ra "chân lý":
Hitler muốn thua trận: Hitler wants to be defeated.
Đọc tới đó, thì
Gấu nhớ ra cái bà già nhà quê Bắc Kít
đã từng lén VC cho bạn của Gấu, sĩ quan cải tạo 13 niên,
tí ti đồ ăn, trong 1 lần chuyển trại tù. Bà lầm
bầm, khi nhìn bạn của Gấu nuốt vội tí cơm, các cháu
đánh đấm ra làm sao mà để thua giặc dữ.
Già này ngày đêm cầu khẩn các
cháu ra giải phóng Đất Bắc Kít! (5)
Note: Nhân đọc trên
net, FB, thấy tên tà lọt này khoe Bên Thắng
Nhục của hắn. Cuốn này, và cuốn Bóng Đen Giữa Ban
Ngày, đều được tác giả của chúng coi là hồi
ký, tức không-giả tưởng, đều có mùi ăn cắp,
trên Tin Văn đã từng nêu ra. Nhưng đó là
chuyện nhỏ. Cả hai thiếu, cái phần giả tưởng rất cần của cõi
văn Mít. Chỉ nhờ giả tưởng, thứ ròng, Mít mới tới được
sự thực của cuộc chiến, theo GCC. Chứng cớ: Trong những tác phẩm
sau đây, thí dụ, mỗi cuốn có tí sự thực, thứ
tinh ròng, về xứ Mít hiện đại: Bếp Lửa, Nỗi Buồn Chiến Tranh,
Ba Người Khác, MCNK, Đi Tìm Cái Tôi, Thời Gian
Của Người…. Trong bài Intro cho cuốn Ngôi Mộ, Brodsky cũng
tin như vậy, khi đọc Kis.
Sở dĩ đa số nhà văn Mít không đạt tới thứ
giả tưởng thật bảnh, là do đạo hạnh của chúng quá
tệ, theo GCC. Đây cũng là ý của Brodsky, Mỹ là
Mẹ của Đạo Hạnh
Thu 2015
RADE
DRAINAC
[1899-1943]
Drainac was a famous Belgrade bohemian who
spent his life in the taverns of the city, often playing the
violin. He served in the Serbian army in the First World War.
His first book, Purple Laughter, was published in 1920.
He wrote three more collections of poetry, plus a novel and a war
diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He
died of consumption.
Leaf
I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my
sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters
have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of
smoke.
A plane has just been invented as small as
a butterfly.
Bravo! That's a good Sign.
The first autumn leaf falls on my hat.
Charles Simic: The Horse has six legs
Serbian Poetry ed by Simic
Lá
Tôi đổi ga, mùa thu ở lại cùng
hành lý
Bầu trời hồ nghi như lời dối trá vụng
về
Trong quán hầm thứ nhất tôi
sẽ cần quên đi
Lá thư buồn đánh thức tôi
khỏi giấc ngủ
Lừ đừ xuống phố, qua những văn phòng
Chim sẻ bay đi, cái máy chữ
ở lại
Ở nơi chân trời 1 cột khói khổng
lồ giống như cái kèn đồng
Một cái máy bay vừa được phát
minh, nhỏ như 1 con bướm
Bravo! Một dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên rớt
xuống nón tôi.
Quả có cái air Apollinaire,
sư phụ của nhà thơ bô hê miêng, nổi
tiếng, trải đời mình trong những quán hầm với cây
vĩ cầm.
Đã từng là sĩ quan Ngụy trong
Đệ Nhị Chiến!
V/v Tận thế là đây:
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính",
coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl
đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn
và sự quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái
tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà tiên
tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng,
với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình
yêu."
Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta
lại được đọc những trang sách tuyệt vời, về Hà-nội.
Có thể là do một câu thơ và viễn
ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi.
"Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu
thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế Là Đây), không
phải chỉ riêng cho Hà-nội. Làm sao mà thi
sĩ lại nhìn thấy suốt cuộc chiến sau đó, không
phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng
với nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?
Liệu Mít thoát “Tận Thế Là
Đây”?
Một câu hỏi như thế, vô nghĩa, mà phải
đặt ngược lại:
Chỉ Tận Thế mới cứu nổi Mít!
Đây là 1 essay trên báo Harperr's,
số mới nhất, Sept 2016.
Đọc cái tít 1 phát, là quơ liền
tờ báo, ơ rơ ka, kiếm thấy nó rồi!
Essay
49-53
PDF
On the politics of nostalgia
By
Mark Lilla
http://intelligentlifemagazine.com/features/photo-essay/whose-sea-is-it-anyway
D. H. LAWRENCE
1885-1930
D. H. Lawrence in his "Maximus" returns
to the polytheistic world, and the poem is so effective
that we feel a shock of recognition, as if we ourselves were
visited by the god Hermes. Maximus is the name of a philosopher
who was a teacher of the emperor Julian, called the Apostate because
he tried to restore paganism. Epiphany may also mean a privileged
moment in our life among the things of this world, in which they
suddenly reveal something we have not noticed until now; and that
something is like an intimation of their mysterious, hidden side.
In a way, poetry is an attempt to break through the density of reality
into a zone where the simplest things are again as fresh as if they were
being seen by a child.
This anthology is full of epiphanies.
I decided to place some of them in a separate first chapter
to highlight this aspect of poetry. These particular poems
are a distillation of my major theme.
Czeslaw Milosz
Trong Maximus, D.H. Lawrence
trở về với thế giới đa thần, và bài thơ, hiệu quả đến nỗi chúng ta cảm thấy 1
cú sốc, thì cứ gọi đại là "ngộ, mặc khải",
như thể chính chúng ta, đượcThần Hermes ghé
thăm. Maximus là triết gia, thầy dạy của Hoàng Đế Julian,
được gọi là Apostate vì ông cố tái lập
tà giáo. Epipany có thể còn có nghĩa
1 khoảnh khắc đặc dị, đặc quyền trong cuộc đời của chúng ta, giữa
những sự vật trong thế giới, trong khoảng khắc đó, chúng
bất thình lình vén lộ ra 1 điều mà cho tới
lúc đó, chúng ta không để ý, cái
điều này, thì giống như 1 gợi báo cái phía
ẩn giấu, bí mật của chúng.
Trong 1 đường hướng, thơ là cái toan
tính thần sầu này!
MAXIMUS
God is older than the sun and
moon
and the eye cannot behold him
nor voice describe him.
But a naked man, a stranger, leaned
on the gate
with his cloak over his arm, waiting
to be asked in.
So I called him: Come in, if you will!-
He came in slowly, and sat down by the
hearth.
I said to him: And what is your name?-
He looked at me without answer, but
such a loveliness
entered me, I smiled to myself, saying:
He is God!
So he said: Hermes!
God is older than the sun and moon
and the eye cannot behold him
nor the voice describe him:
and still, this is the God Hermes, sitting
by my hearth.
Note: Bài thơ trên,
mở ra tuyển tập thơ, và được để trong chương/mục Ephinay. Milosz
đi 1 đường về từ này:
Epiphany is an unveiling of reality. What in Greek
was called epiphaneia meant the appearance,
the arrival, of a divinity among mortals or its recognition under
a familiar shape of man or woman. Epiphany thus interrupts the everyday
flow of time and enters as one privileged moment when we intuitively
grasp a deeper, more essential reality hidden in things or persons.
A poem-epiphany tells about one moment-event and this imposes a certain
form.
A polytheistic antiquity saw epiphanies
at every step, for streams and woods were inhabited by dryads
and nymphs, while the commanding gods looked and behaved like humans,
were endowed with speech, could, though with difficulty, be distinguished
from mortals, and often walked the earth. Not rarely, they would
visit households and were recognized by hosts. The Book of Genesis
tells about a visit paid by God to Abraham, in the guise of three travellers.
Later on, the epiphany as appearance, the arrival of Christ, occupies
an important place in the New Testament.
D.
H. LAWRENCE
1885-1930
D. H. Lawrence in his "Maximus" returns to the polytheistic
world, and the poem is so effective that we feel a shock of recognition,
as if we ourselves were visited by the god Hermes. Maximus is the name
of a philosopher who was a teacher of the emperor Julian, called the
Apostate because he tried to restore paganism. Epiphany may also mean
a privileged moment in our life among the things of this world, in which
they suddenly reveal something we have not noticed until now; and that
something is like an intimation of their mysterious, hidden side. In
a way, poetry is an attempt to break through the density of reality into
a zone where the simplest things are again as fresh as if they were being
seen by a child.
This anthology is full of epiphanies. I decided to place
some of them in a separate first chapter to highlight this aspect
of poetry. These particular poems are a distillation of my major
theme.
Czeslaw Milosz
MAXIMUS
God is older than the sun and
moon
and the eye cannot behold him
nor voice describe him.
But a naked man, a stranger, leaned on the gate
with his cloak over his arm, waiting to be asked in.
So I called him: Come in, if you will!-
He came in slowly, and sat down by the hearth.
I said to him: And what is your name?-
He looked at me without answer, but such a loveliness
entered me, I smiled to myself, saying: He is God!
So he said: Hermes!
God is older than the sun and moon
and the eye cannot behold him
nor the voice describe him:
and still, this is the God Hermes, sitting by my hearth.
KIKAKU
1661-1707
In Japanese haiku there are often flashes, or glimpses,
and things appear like lighting, or as if in the liight of a flare:
epiphanies of a landscape.
Above the boat,
bellies
of wild geese.
Translated from the Japanese by Lucien
Stryk and Takashi Ikemoto
ISSA
1763-1827
From the bough
floating down river,
insect song.
Translated from the Japanese by Lucien Stryk and
Takashi Ikemoto
JEAN FOLLAIN
1903-1971
It seems nothing peculiar happens when somebody walks
on a road and kicks an empty can. But here, in French poet Jean Follain,
this movement, like an immobilized frame of a film, suddenly opens
into 'the cold of the cosmos. Because it is winter, the road is frozen,
the keys are iron, the shoe is pointed, and the can itself is cold,
empty.
MUSIC OF SPHERES
He was walking a frozen road
in his pocket iron keys were jingling
and with his pointed shoe absent-mindedly
he kicked the cylinder
of an old can
which for a few seconds rolled its cold emptiness
wobbled for a while and stopped
under a sky studded with stars.
Translated from the French by Czeslaw
Milosz and Robert Hass
ADAM ZAGAJEWSKI
1945-
We're
separated from nature as if by a glass wall-and this is the subject
of this Polish poet. Poets have always been fascinated by the incomprehensible
behavior of some creatures, for instance, the moth, which strives
toward light and burns itself in the flame of a candle or kerosene
lamp. Thence come comparisons: Love, as a fire which lures the lovers
to their destruction. Yet moths, because they come from darkness
into our circle of light, are, at the same time, messengers of that
which is the most other. In this poem, people have their small security
in a lighted house, but beyond the window, immeasurable spaces of the
cosmos stretch, and the moths are like visitors from other galaxies.
Milosz
Chúng
ta bị chia cách với thiên nhiên, như thể bởi
một bức tường kính - và đây là đề tài
bài thơ sau đây của Adam Zagajewski.
Thi sĩ thì luôn luôn sững sờ bởi
cách ứng xử không làm sao hiểu được của vài
sinh vật, thí dụ, thiêu thân, cứ thấy lửa là
lao vô, để tự thiêu.
Từ đó, là… THNM: Tình yêu,
thì, như lửa, lùa những kẻ yêu nhau tới huỷ
diệt, tiêu trầm.
Tuy nhiên, thiêu thân, từ vùng
tối, tới vùng sáng quanh ta:
Liệu chúng là những thiên sứ,
từ 1 nơi, khác, thật khác?
MOTHS
Moths
watched us through
the window. Seated at the table,
we were skewered by their lambent gazes,
harder than their shattering wings.
You'll always be outside,
past the pane. And we'll be here within,
more and more in. Moths watched us
through the window, in August.
Translated from the Polish by Renata
Gorczynski, Benjamin Ivry, and C. K. Williams
Thiêu thân
Thiêu thân ngắm
chúng ta qua kính cửa sổ
Ngồi ở bàn,
Chúng ta xốn xang bởi những cái nhìn
van nài, cầu khẩn
Hơn là những tiếng đập cánh tơi tả
Em cứ ở bên ngoài
Quá cái ô cửa kính
Gấu cứ ở bên trong
Bên trong, mãi bên trong....
Thiêu thân theo dõi chúng
ta
Qua kính cửa sổ
Tháng Tám
Two Monkeys by Brueghel
I
keep dreaming of my graduation exam:
in a window sit two chained monkeys,
beyond the window floats the sky,
and the sea splashes.
I am taking an exam on the history of mankind:
I stammer and flounder.
One monkey, eyes fixed upon me, listens ironically,
the other seems to be dozing-
and when silence follows a question,
he prompts me
with a soft jingling of the chain.
Hai con khỉ của Brueghel
Tôi tiếp tục lơ tơ mơ
về bài thi ra trường của mình:
Ở cửa sổ có hai con khỉ, ngồi, bị xiềng
Quá cửa sổ, bầu trời bồng bềnh
Và biển vỗ
Tôi làm bài thi về đề tài
lịch sử nhân loại:
Tôi lúng ta lúng túng, lập
đi lập lại
Một con khỉ, mắt xoáy vào tôi,
ra vẻ diễu cợt
Con kia, có vẻ ngái ngủ –
Và khi sự im lặng tiếp theo 1 câu hỏi
Nó nhắc tôi
Bằng cách lắc nhè nhẹ sợi xiềng
Comments
Two Monkeys by Brueghel
The poem refers to the painting "Two Monkeys"
(1562), by Pieter Brueghel the Elder. Szymborska often uses
the monkey and related animals such as the tarsier (see the poem
"Tarsier") by way of commenting on man's. cruelty, destructiveness,
and selfishness. But this poem is more specifically relevant to
Poland: written in 1957, it was widely interpreted as a condemnation
of the repressive atmosphere of the recent Stalinist period. Coincidentally,
many scholars throughout the ages have seen this painting as a protest
against political repression (notably the Spanish occupation of the
Netherlands). The "graduation exam II (matura) has traditionally been
a trau- matic experience for students in Central and Eastern Europe.
Here, however, Szymborska develops the theme not in personal but historical
terms.
Còm:
Bài thơ là về bức họa “Hai con khỉ” của
Pieter Brueghel
the Elder. Szymborska
thường sử dụng khỉ và loài vật liên hệ, để bàn
về sự độc ác, tàn phá, tiêu huỷ, và
tính ích kỷ của con người. Nhưng bài thơ này
còn xoáy vào 1 nước Ba Lan: Sáng tác năm 1957, nó được giải thích
rộng rãi như là 1 sự kết án, cái không
khí đàn áp của chế độ Xì Ta Lin Nít
đương thời. Trùng hợp làm sao, nhiều học giả qua nhiều
thời đại, nhìn bức họa như là một phản đối tình
hình đàn áp chính trị (đáng kể
là sự chiếm đóng của Tây Ban Nha ở Hòa
Lan)
Từ “bài thi” thì lại là 1 kinh
nghiệm nhức nhối đối với sinh viên ở vùng Trung và
Đông Âu. Ở đây, tuy nhiên, Szymborska phát
triển đề tài bằng những từ không có tính
cá nhân, riêng tư, nhưng mang tính lịch
sử.
There But for the Grace
It could have happened.
It had to happen.
It happened sooner. Later.
Nearer. Farther.
It happened not to you.
You survived because you were the first.
You survived because you were the last.
Because you were alone. Because of people.
Because you turned left. Because you turned
right.
Because rain fell. Because a shadow fell.
Because sunny weather prevailed.
Luckily there was a wood.
Luckily there were no trees.
Luckily there was a rail, a hook, a beam,
a brake,
a frame, a bend, a millimeter, a second.
Luckily a straw was floating on the surface.
Thanks to, because, and yet, in spite of.
What would have happened had not a hand, a
foot,
by a step, a hairsbreadth
by sheer coincidence.
So you're here? Straight from a moment still
ajar?
The net had one eyehole, and you got through
it?
There's no end to my wonder, my silence.
Listen
how fast your heart beats in me.
Szymborska
Ở đó, Ân Sủng. Chỉ nó.
Nó có thể xẩy
ra
Nó phải xẩy ra
Nó đã xẩy ra sớm hơn. Trễ hơn
Gần hơn. Xa hơn
Nó xẩy ra không cho anh đâu
Anh sống sót bởi là vì kẻ thứ
nhất
Anh sống sót vì là kẻ sau cùng
Bởi vì anh một mình. Bởi vì những
người khác
Bởi vì anh quẹo trái. Bởi vì anh
quẹo phải
Bởi vì trời mưa. Bởi vì bóng đổ
Bởi vì nắng vượt lên
May quá có cụm rừng
May quá không có cây
May quá, có đường ray, có cái
móc, có khối sáng, có cái thắng
Cái khung, cái khuỷ, 1 mi li mét,
một giây đồng hồ
May quá có sợi rơm bồng bềnh ở trên
mặt
Nhờ ở, bởi vì, tuy nhiên, mặc dù,
Cái sẽ xẩy ra không có cái
tay, cái chân
Xém 1 bước, 1 ly,
Hoàn toàn do tình cờ
Vậy là Em có ở đó?
Đúng ngay chóc, ngay từ thoạt đầu?
Cái lưới có đúng 1 lỗ hổng, một
mắt lươn, thế là Em chui tọt vô,
Qua Cõi Khác, Đời Khác?
Ui chao, làm sao Gấu cạn hết cho được,
Nỗi bàng hoàng, ngơ ngác, câm
lặng
Nghe này
Tim của Em đập nhanh như thế nào
Ở trong Gấu.
Thơ Mỗi Ngày
THE THREE AUTUMNS
I don't understand summer smiles
at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without fail
I've noticed every year has three.
And the first one is holiday
disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.
The birches are the first to
join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every transient tear
Onto the neighbor over the fence.
Here's what happens when you
use a story to
break the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
as conscience,
As somber as an air raid siren.
Everyone immediately appears
pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading their gold
-Music floats through the fragrant mist.
And in the waves of frankincense,
cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened up,
and right away
Everyone understood: that's the end of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.
Akhmatova
1943
Ba thu
Tôi đếch làm sao
hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng có tí
“đẹp zai” gì đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và ngộ ra rằng, có
tới ba mùa thu
Mùa đầu tiên thì
là một cú loạng quạng của ngày nghỉ lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu bù mùa
hè, của ngày hôm qua.
Lá cây bay như những trang, những mẩu, từ
những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù mới ngọt ngào
làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ, long lanh sáng.
Những cây bu lô
gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng được phủ bằng một
bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù tì mọi giọt
lệ thoảng,
qua hàng rào nhà hàng xóm.
Và bây giờ, là
điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu chuyện để phá
vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì, bèn tiếp theo
liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới, ngán như là
lương tâm,
Âm u như là tiếng còi báo động
máy bay Mẽo tới vùng trời Bắc Kít
Và mọi tên Bắc Kít,
liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể như không còn,
đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn dòn dã,
đường ra trận mùa này đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là chiến lợi phẩm
Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không gian, qua thềm
sương mù thơm ngát.
Và trong những đợt hương
trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt, được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão, mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều hiểu: Cuộc chiến chấm
dứt.
Xề gòn bị làm thịt rồi
Và đó, đếch phải mùa thu - một mùa
thu năm qua, cách mạng tiến ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó ra cho lũ Mít
cùng nhìn thấy.
Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng
cực tới, hà, hà!
To SLN - sáng nay (ở Hội An),
Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch, cảm động vô
cùng -
with Tks. NQT
Long Time No Mail.
R U OK ?
Take Care
NQT
21.8.2016
Như hầu hết các bài
thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà
thơ này là tới nhất (mặc dù tôi
không đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với
thơ dịch Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ
là cảm nhận riêng mà thôi).
DV
Thơ Simic trầm trọng hơn so
với Zagajewki. Trong thơ Simic có cái quá khứ Mít. Có
thể vì thế mà chúng ta thích đọc thơ
Zagajewski hơn chăng?
Bài dưới đây mà
chẳng trầm trọng sao?
Gấu cứ nghĩ đến 1 anh cu Gấu,
của một thời vị lai, đang đọc sử Mít, và chứng kiến
cái cảnh ông cụ của Gấu bị lịch sử cho đi mò
tôm!
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away
from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans Magnus
Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt nhắm tít,
tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái
đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó
Bao la, tối, không cách
nào xuyên thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế giới mà tôi thì hoàn
toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có
thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì
vẫn còn trên hai vai
Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại của
cuộc đời của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
EMPIRES
My grandmother
prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving
a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were
all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure I understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi
tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất
nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì
đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng,
Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô
chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần
của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu
của bà.
Bà ui, đâu cần làm
dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành
Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin
Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin
chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
There But for the Grace
It could have happened.
It had to happen.
It happened sooner. Later.
Nearer. Farther.
It happened not to you.
You survived because you were the first.
You survived because you were the last.
Because you were alone. Because of people.
Because you turned left. Because you turned right.
Because rain fell. Because a shadow fell.
Because sunny weather prevailed.
Luckily there was a wood.
Luckily there were no trees.
Luckily there was a rail, a hook, a beam, a brake,
a frame, a bend, a millimeter, a second.
Luckily a straw was floating on the surface.
Thanks to, because, and yet, in spite of.
What would have happened had not a hand, a foot,
by a step, a hairsbreadth
by sheer coincidence.
So you're here? Straight from a moment still ajar?
The net had one eyehole, and you got through it?
There's no end to my wonder, my silence.
Listen
how fast your heart beats in me.
Two Monkeys by Brueghel
I
keep dreaming of my graduation exam:
in a window sit two chained monkeys,
beyond the window floats the sky,
and the sea splashes.
I am taking an exam on the history of mankind:
I stammer and flounder.
One monkey, eyes fixed upon me, listens ironically,
the other seems to be dozing-
and when silence follows a question,
he prompts me
with a soft jingling of the chain.
Comments
Two Monkeys by Brueghel
The poem refers to the painting "Two Monkeys" (1562), by
Pieter Brueghel the Elder. Szymborska often uses the monkey and related
animals such as the tarsier (see the poem "Tarsier") by way of commenting
on man's. cruelty, destructiveness, and selfishness. But this poem is
more specifically relevant to Poland: written in 1957, it was widely
interpreted as a condemnation of the repressive atmosphere of the recent
Stalinist period. Coincidentally, many scholars throughout the ages have
seen this painting as a protest against political repression (notably
the Spanish occupation of the Netherlands). The "graduation exam II (matura)
has traditionally been a trau- matic experience for students in Central
and Eastern Europe. Here, however, Szymborska develops the theme not in
personal but historical terms.
DRAMATIC EVENINGS
You take turns being yourself,
Being someone else,
Addressing mirrors, airing your grievances
To a goldfish in a bowl.
Your Queen Gertrude and Ophelia
Are snoring away across town.
Your father's ghost is in the bathroom
Reading Secret Life of Nuns,
While you pace back and forth
Clenching and unclenching your fists,
As if planning a murder,
Or more likely your own crucifixion.
Or you stand frozen still
As if an idea so obvious, so grand
Has come to you
And left you, for once, speechless.
Outside, you notice, it has started snowing.
You press your feverish forehead
Against the cold windowpane
And watch the flakes come down
Languidly, one at a time,
On the broken bird feeder and the old dog's grave.
Những buổi tối bi thương
Mi làm những cú,
là chính mi
Hay, là 1 tên nào đó
Lèm bèm với những tấm gương
Ném vẻ thiểu não
Tới con cá vàng trong bồn
Vì hoàng hậu của mi, Queen Gertrude and
Ophelia
Đang ngáy khò khò ở một xó
nào xa thành phố.
Con ma của ông già của mi
Thì ở trong bồn tắm
Đọc Đời bí mật của những vì nữ tu
Trong lúc mi đi tới đi lui
Tay, hết nắm, lại xòe
Như đang toan tính 1 vụ sát nhân
Hoặc đúng hơn
Một cuộc đóng đinh thập tự, chính mi
Hay là mi ngồi chết sững, như 1 cái xác
bị đông lạnh
Như thể 1 ý tưởng cực kỳ lớn lao
Cực kỳ hiển nhiên
Bỗng dưng làm 1 chuyến viếng
thăm mi
Rồi bỏ đi
Khiến mi quê 1 cục
Miệng há hốc
Không nói 1 tiếng
Bên ngoài, mi nhận ra, tuyết bắt đầu xuống
Mi tì trán
Vào kính cửa sổ
Ngắm tuyết rơi
Từng bông, từng bông
Trên cái lồng chim bể
Và trên nấm mồ của 1 con chó già
TO BOREDOM
I'm the child of your rainy Sundays.
I watched time crawl
Over the ceiling
Like a wounded fly.
A day would last forever,
Making pellets of bread,
Waiting for a branch
On a bare tree to move.
The silence would deepen,
The sky would darken,
As Grandmother knitted
With a ball of black yarn.
Heaven is like that.
In eternity's classrooms,
The angels sit like bored children
With their heads bowed.
Charles Simic
Gửi Buồn Chán
Tôi là thằng bé
những Chủ Nhật mưa của bạn.
Ngó thời gian bò trên trần nhà
Như một con ruồi bị thương.
Ngày dài lê
thê,
Làm những mẩu bánh mì
Ðợi một cành cây
Trên cái cây trần trụi
Chuyển động.
Im lặng sẽ càng im lặng
Bầu trời sẽ càng tối thêm,
Trong khi Bà đan
Với một trái banh ni lông đen.
Thiên Ðàng
thì như thế đó.
Trong những lớp học của vĩnh cửu
Thiên thần ngồi như những đứa trẻ buồn chán
Ðầu chúi xuống.
Charles Simic: That
Little Something
http://tanvien.net/new_daily_poetry/4_Poems_Simic_Paris_Review.html
Obscurely
Occupied
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In a cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In
your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic
U tối bận rộn
Người là Chúa
Tể của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng
đinh trên cây thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù
nào đó
Bên trên ngày
ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt
sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc
nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá
rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác
nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng
qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công
bằng chính trực của Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống
Vài cây đèn
cầy, cháy thật cao
Cao hơn cả sự vắng mặt khủng
khiếp của Người
Dưới vòm trời phóng
lớn tối thui.
Note: Bài thơ này
cực kỳ… u tối. Chỉ bằng mấy
dòng thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ
chạy, vắng mặt, ẩn giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò
Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là
vậy!
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Charles_Simic_2.html
ETERNITIES
Discreet reader of discreet lives.
Chairs no one ever sits in.
Motes of dust, their dancing days
done.
Schools of yellow fish
On the peeling wallpaper
Keeping their eyes on you.
It's late for today, late.
A small crucifix over the bed
Watches over a stopped clock.
*
Sewing room, linty daylight
Through a small window:
You will never be in my shoes,
Eternity. I come with an expiration date.
My scissors cut black cloth.
I stick silver pins into a tailor's dummy,
Muttering some man's name
While aiming at its heart.
*
Raleigh played cards with his executioners.
I sit over a dead mouse in the kitchen.
Hot night, the windows open,
The air rich with the scents of lilacs
And banked fires of backyard grills.
My lovely neighbor must be sleeping naked,
Or lighting a match to see what time it is.
*
The torment of branches in the
wind.
Is the sea hearing their confession?
The little white clouds must think so.
They are rushing over to hear.
The ship on the way to paradise
Seems stuck on the horizon,
Pinned by one golden pin of sunlight.
Only the great rocks act as if nothing's the matter.
*
In a city where so much is hidden:
The crimes, the riches, the beautiful women,
You and I were lost for hours.
We went in to ask a butcher for directions.
He sat playing the accordion.
The lambs had their eyes closed in bliss,
But not the knives, his evil little helpers.
Come right in, folks, he said.
*
Conscience, that awful power,
With its vast network of spies,
Secret arrests at night,
Dreaded prisons and reform schools,
Beatings and forced confessions,
Wee-hour crucifixions.
A small, dead bird in my hand
Is all the evidence they had.
*
The sprawling meadow bordered
by a stream,
Naked girl on horseback.
Yes, I do remember that.
Sunlight on the outhouse wall,
One little tree in the yard afraid of darkness,
The voice of the hermit thrush.
*
Thoughts frightened of the light,
Frightened of each other.
They listen to a clock ticking.
Like flock of sheep led to slaughter,
The seconds keep a good pace,
Stick together, don't look back,
All worried, as they go,
What their shepherd may be thinking.
*
A sough of wind in the open window
Making the leaves sigh.
"I come to you like one
Who is dying of love,"
God said to Christine Ebner
On this dull, sultry night.
"I come to you with the desire
Of bridegroom for his bride."
*
Soul's jukebox
Playing golden oldies
In the sky
Strewn with stars.
When I ask God
What size coin it takes
I'm greeted
With stunned silence.
Vĩnh Cửu
Ðộc giả kín đáo
của những cuộc đời kín đáo
Những chiếc ghế chưa từng có ai đặt đít
lên
Những hạt bụi, những ngày khiêu vũ của
tụi mi qua rồi.
Những trường học cá vàng
Trên tờ giấy dán tường bong ra
Vẫn để mắt nhìn bạn
Quá trễ cho ngày hôm nay, quá
trễ.
Một chiếc thập tự nhỏ nằm trên giường
Ðăm đăm nhìn cái đồng hồ chết.
*
Phòng may vá,
ánh sáng ban ngày lẫn những sợi vải
Qua một cửa sổ nhỏ
Bạn sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy đôi giầy
của tôi, Vĩnh Cửu.
Tôi tới, trễ hẹn.
Cây kéo của tôi cắt miếng vải đen
Tôi đính những đinh bạc lên hình
nộm của người thợ may
Lầm bầm một cái tên người
Trong khi nhắm ngay tim của nó.
*
Raleigh chơi bài với đám
đao phủ
Tôi ngồi lên một con chuột chết ở trong
bếp
Ðêm nóng, những đống lửa ủ ở sân
sau, nướng.
Không khí sặc mùi hoa sữa
Bà bạn hàng xóm thân thương
của tôi chắc chắn khoả thân khi ngủ
Hay đang đốt quẹt để coi mấy giờ rồi.
*
Những cành cây
ray rứt trong gió
Liệu biển có nghe lời thú tội của chúng?
Những cụm mây trắng hẳn là nghĩ thế.
Chúng đổ xô tới để nghe.
Con tầu trên đường tới thiên đàng
Như tắc ngẫng ở nơi chân trời
Bị ghim bởi một cây kim vàng óng
ánh ánh mặt trời
Chỉ có những tảng đá lớn hành
động, như thể chẳng có gì liên can.
*
Ðó là 1 thành
phố quá nhiều giấu giếm, che đậy
Những tội ác, những kẻ giầu có, những
mỹ nhân, những cẳng dài.
Bạn và tôi bị lạc nhiều giờ
Chúng ta đi hỏi 1 tay đồ tể chỉ dẫn đường đi
Hắn ta ngồi chơi phong cầm.
Những con cừu có những cặp mắt hạnh phúc
Nhưng những con dao,
Những kẻ ra tay cứu giúp những con cừu
Thì lại không tỏ ra khoan khoái
1 tí nào.
Mời dzô, mời dzô, mấy chả, hắn ta nói.
*
Lương tâm, thứ quyền lực
dễ sợ
Với mạng cớm lớn rộng của nó
Bắt nguội ban đêm,
Nhà tù Phan Ðăng Lưu,
Lao động cải tạo,
Phục hồi nhân phẩm ban ngày
Ðánh, ép tội dởm,
Ðóng đinh thập tự quá nửa đêm,
hoặc vừa chớm sáng
Một con chim nhỏ, chết, nằm trong lòng bàn
tay tôi
Là tất cả chứng cớ lũ cớm VC có.
*
Cánh đồng cỏ nằm ườn ra
bên bờ 1 con suối
Mấy em trần truồng cưỡi ngựa.
Nhớ chứ, làm sao quên.
Mặt trời chói chang trên tường nhà
ngoài
Cái cây còn bé tí
ở ngoài vườn sợ bóng tối,
Giọng khổ hạnh của con chim hét.
*
Tư tưởng sợ ánh sáng,
Ánh sáng cũng sợ nó,
Thằng nọ sợ thằng kia.
Cả hai cùng lắng nghe tiếng tích tắc
của chiếc đồng hồ
Như đàn cừu bị dẫn tới… Lò Thiêu
Những phút giây mới quí báu
làm sao
Xúm xít bên nhau, bấu víu
lấy nhau, đừng nhìn ngoái lại
Tất cả đều âu lo, sợ hãi, trong khi đi,
Và không hiểu
Tên quản giáo nghĩ gì.
*
Tiếng xào xạc của gió
nơi cửa sổ mở
Làm những chiếc lá thở dài thật
là dài.
“Ta tới với mi như 1 kẻ chết vì tình,”
Chúa nói với Christine Ebner
Vào cái đêm cù lần, oi bức
đó
“Ta tới với mi với ước ao của chú rể đối với
cô dâu”
*
Hộp nghe nhạc của linh hồn
Chơi những điệu nhạc sến
Trên bầu trời rắc vãi sao
Khi tôi hỏi Chúa
Bỏ đồng xu nào vô cái máy
Chúa đếch thèm trả lời.
Obscurely
Occupied
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In a cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying
absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic
U tối bận rộn
Người là Chúa
Tể của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên
cây thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào
đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt
sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm
lẩm
Chúng quả là quá rành nghề
của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính
trực của Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống
Vài cây đèn
cầy, cháy thật cao
Cao hơn cả sự vắng mặt khủng
khiếp của Người
Dưới vòm trời phóng
lớn tối thui.
Note: Bài thơ này
cực kỳ… u tối. Chỉ bằng mấy dòng
thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn
giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!
Poppies in July
Little poppies, little hell flames,
Do you do no harm?
You flicker. I cannot touch
you.
I put my hands among the
flames. Nothing burns.
And it exhausts me to watch
you
Flickering like that, wrinkly
and clear red, like the skin of a
mouth.
A mouth just bloodied.
Little bloody skirts!
There are fumes that I cannot
touch.
Where are your opiates, your
nauseous capsules?
If I could bleed, or sleep!
-
If my mouth could marry a
hurt like that!
Or your liquors seep to me,
in this glass capsule,
Dulling and stilling.
But colorless. Colorless.
Phiện, Tháng Bảy
Ngọn đèn dầu lạc le
lói, địa ngục le lói
Mi có làm Gấu đau không đấy?
Mi le lói. Gấu không thể sờ vô mi 1
phát
Gấu để tay giữa ngọn lửa. Chẳng thấy bỏng
Và chỉ ngắm mi thôi đủ hết đời
[Cái này thuổng bạn Cà]
Le lói như thế đó, nhăn nheo, đỏ veo,
Như làn môi
Miệng máu me
Áo me máu
Một làn khói trắng
Ru đời vào quên lãng
Gấu không thể nắm bắt
Phiện đâu, bi đâu?
Nếu ta có thể chảy máu
Hay ngủ vùi
Nếu miệng của ta có thể kết hôn với cú
đau như thế!
Hay dòng sữa đen lậm vô ta
Trong bi này
Đần độn, lú lẫn, cù lần
Nhưng không màu sắc. Không màu
sắc
Poppies in July
Poppies
in July – Plath
Background
- Poem wrote
during the breakup of her marriage
- Feelings of
numbness and despair
- The only way
she can see that she exists or escaping this numbness is through pain
or becoming drugged.
Poem
Title
Suggests beauty
and happiness but contrasts greatly with the content of the poem.
Is she questioning if there is any beauty or happiness in the world.
Line 1-2
By referring to
the poppies as ‘hell flames’ she is showing that she is in a negative
frame of mind. Asking if they do any harm seems to be Plath looking
for pain.
Line 3-4
The fact that she
cannot touch the poppies shows that she has lost all feeling (numb
physical/emotional). By putting her hands ‘among the flames’ shows
that she desires pain. Plath does tell us that her hand does not burn.
Emphasise on the fact she cannot feel here.
Line 5-6
Referring back to
the title the flowers should inspire happiness and beauty but they exhaust
Plath. We have a notion here that she is weary with the world and
it holds nothing for her anymore. Like in other poems Plath uses shocking
imagery and compares the flowers to a bloodied mouth. This shows
her desire for some sort of pain to show herself that she can in fact
still feel.
Lines 7-8
The poppies continue
to remind her of blood and pain. We are to be unsettled by the fact
she associates the flowers with violence.
Line 9-10
Here Plath moves
to the desire for a drugged state. This shows her desire to escape
if she can not feel. The use of the word nauseous can work on a couple
of levels. If Plath cannot sleep in a drug induced state then maybe
the sickening effects of the flowers will help her feel, however violent
it may be.
Line 11-12
Again she repeats
the desire for pain or sleep rather than be as she is. Again here
she asks for pain but we have to look at the word ‘marry’ and ask
if she uses this word to represent her failed marriage.
https://sylviaplathnotes.wordpress.com/poppies-in-july/
TYPICAL
LINES
These, from "The Colossus", for their wave-like rhythms
and unapologetic tone. "The sun rises under the pillar of your
tongue./My hours are married to shadow./No longer do I listen for
the scrape of a keel/On the black stones of the landing".
Note: Mừng Tám Bó, bèn nhớ bạn
ghiền Sĩ Phú & những lần hai đứa bên ngọn đèn
dầu lạc.
Chuyến đi xa đầu tiên, khi ra hải ngoại, là
lên Montreal. Chả là bạn khi đó còn đi
hát, và trong lần đi khách ở đây, nghe
Nguyễn Đông Ngạc cho biết tin, bèn đưa cho anh năm trăm
đô, nói đưa cho Gấu.
LET'S GO
for L
Let's go-
Fallen leaves blow into deep valleys
But the song has no home to return to.
Let's go-
Moonlight on the ice
Has spilled beyond the river bed.
Let's go-
Eyes gaze at the same patch of sky
Hearts strike the twilight drum.
Let's go-
We have not lost our memories
We shall search for life's pool.
Let's go-
The road, the road
Is covered with a drift of scarlet poppies.
Hãy đi
Gửi L
Hãy đi –
Lá khô xào xạo lũng sâu
Nhưng bài hát không có nhà
để mà trở về
Hãy đi –
Ánh trăng trên mặt băng
Tràn quá lòng sông
Hãy đi –
Mắt nhìn vẫn đường trời
Tim đập trống hoàng hôn
Hãy đi –
Chúng ta chưa mất hồi ức
Sẽ tìm được ao đời
Hãy đi –
Con đường, con đường
Phủ bụi nha phiến đỏ
Bắc Đảo Bei Dao
TTT 10 years Tribute
Thơ
Mỗi
Ngày
http://huyvespa.blogspot.ca/2016/08/nguyen-tat-nhien-sao-thien-thu-khong-la.html
THE SONG OF THE FINAL MEETING
My breast was bound with a cold
band,
And still my steps were light.
The glove intended for my left
hand,
I put upon my right.
At the thought of the stairs,
I grew faint-hearted,
But I knew, there were only
three!
An autumnal whisper in the maples
started
Begging: "Die with me!
"Fate cheated me-fate, so abysmal,
So moody and full of spite .
. ."
I answered: "My dear! I too
am dismal.
I'll die with you tonight ...
"
The final meeting: I stood on
the road.
The house was as dark as shame.
Only, in the bedroom, candles
showed
An indifferent yellow flame.
1911
Anna Akhmatova
Bài ca về lần gặp cuối
Tim tôi lạnh như băng
Chân vưỡn nhẹ
Tất, tay trái
Xỏ mẹ tay phải
Nghĩ đến mấy bực thang
Tim oải ra
May quá chỉ ba bực
Tiếng thì thầm, thu thật
thu
Trong lá thông
Nài nỉ:
“Hãy chết cùng
anh, em nhé!”
“Số mệnh đánh lừa tôi
- số mệnh, sâu hoắm,
Ủ ê, tràn
đầy giận dữ….”
Tôi bèn trả lời:
“Anh yêu, em cũng quá chán đời,
Em sẽ chết cùng với anh
đêm nay”
Cuộc gặp gỡ lần chót:
Tôi đứng trên lộ
Căn nhà tối thui, như
tủi hổ
Chỉ ở nơi phòng ngủ
Đèn cầy le lói
Một ánh lửa màu
vàng,
Dửng dưng.
TTT 10 years Tribute
Next Spring
The nations were exhausted
after many wars
and lay serenely in their marriage beds
vast as the Danube river basin.
Spring had begun, the first ecstasies.
In the boughs of trees, still naked,
Turkish turtle doves were cooing.
No one knew what to do, what to think.
We were orphans, since winter
had left us no testament;
a young butterfly studied flying
haphazardly, from scratch.
Butterflies lack tradition.
But we must die.
This is an inelegant
way to end a poem,
R protests. And adds:
A poem should end
better than a life. That's the point.
Adam Zagajewski:
Unseen Hand
Xuân Tới
Những xứ sở mệt nhoài sau nhiều cuộc
chiến
Và nằm thanh thản trên những
chiếc giường hôn phối của chúng
Rộng như lòng sông Danube
Mùa Xuân bắt đầu, những cực
khoái đầu tiên
Trong những nhánh cây, vưỡn
trần truồng,
Rùa biển Thổ Nhĩ Kỳ gù gù
Chẳng ai biết làm gì, nghĩ
gì
Chúng ta là những kẻ mồ côi,
Kể từ mùa đông chẳng để lại
cho chúng ta một cái di chúc nào
cả;
Một em bướm trẻ học bay,
Theo kiểu may rủi, tình cờ, không
chọn lựa.
Bướm đếch có truyền thống
Nhưng, than ôi, chúng ta phải
chết
Đúng là 1 cách bất
lịch sự, chẳng ra làm sao cả
Để kết thúc một bài thơ.
TTT phản đối: Thơ là lời hơn lời
Và phán thêm, từ phiá bên kia nấm
mồ:
Một bài thơ nên chấm dứt
Đẹp hơn là cuộc đời.
That’s the point
Adam Zagajewski:
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/22.html
THE GREAT POET HAS GONE
THINKING OF C.M.
Of course nothing
changes
in the ordinary light of day,
when the great poet has gone.
Gray sparrows and dapper starlings
still squabble heatedly
in the tops of ancient elms.
When the great poet has gone,
the city doesn't miss a beat, the metro
and the trams still seek a modern Grail
In the library a lovely girl
looks in vain for a poem that could explain
it all
At noon the same noise surges,
while quiet concentration reigns at night,
among the stars-eternal agitation.
Soon the discotheques will open,
indifference will open-
although the great poet has died.
When we part for a long while
or forever from someone we love,
we suddenly sense there are no words,
we must speak for ourselves now,
there's no one to do it for us
-since the great poet is gone.
Nhà thơ lớn đã ra đi
Nghĩ về C.M.
Lẽ dĩ nhiên chẳng có
gì thay đổi
Trong ánh dương bình thường
của ngày,
Khi nhà thơ lớn đã ra đi
Bầy sẻ xám, đám sáo
đá lanh lẹn
Vưỡn cãi nhau loạn sạ trên
những ngọn cây đu
Khi nhà thơ lớn ra đi
Thành phố đếch thèm hụt
1 nhịp, xe điện ngầm, xe điện,
vưỡn tìm kiếm một Grail hiện đại
Trong thư viện, một em xinh ơi là
xinh, đáng yêu cực đáng yêu
Kiếm đỏ con mắt một bài thơ giải
thích mọi chuyện cà chớn đó
Tới trưa, vẫn thứ tiếng ồn đó
nổi lên,
Trong khi một sự chú tâm
lặng lẽ ngự trị đêm
giữa những vì sao - một lay động
thiên thu
Chẳng mấy chốc, quán nhạc mở cửa
sự lạnh lùng, dửng dưng cũng sẽ
mở cửa –
mặc dù nhà thơ lớn đã
chết,
Khi chúng ta bỏ đi, một
chuyến đi dài
Hay mãi mãi, xa một người
nào đó mà chúng ta yêu
Chúng ta bất thình lình
cảm thấy đếch kiếm ra lời.
Đếch có lời.
Chúng ta phải nói cho chúng
ta, bây giờ.
Đếch có ai làm chuyện này
cho chúng ta nữa-
Kể từ khi mà nhà thơ lớn
đã ra đi
Adam Zagajewski
Note:
CM: Czeslaw Milosz
CLOUD
Poets build a home for us-but
they themselves
can't dwell in it
(Norwid in the poorhouse, Holderlin in
a tower).
At dawn mist above the forest,
a journey, the rooster's husky call,
the hospitals are shut, uncertain signals.
At noon we sit in a cafe on the
square,
we observe the azure sky
and a laptop's azure screen;
a plane writes out the pilot's
manifesto
in clear, white script,
perfectly legible to the farsighted.
Azure is a color that happily
promises great events,
and then sits back and waits.
A leaden cloud draws close,
terrified pigeons rise
gracelessly into the air.
Storms and hailstones gather
in dark streets and squares,
and yet the light doesn't die.
Poets, invisible like miners,
hidden in the shafts,
build a home for us:
lofty rooms rise
with Venetian windows,
splendid palaces,
but they themselves
can't dwell in it:
Norwid in the poorhouse, Holderlin
in a tower;
the jet's lonely pilot
hums a lullaby; awaken, Earth.
Adam Zagajewski: Unseen Hand
Mây
Thi sĩ xây nhà cho
chúng ra – nhưng họ thì không thể ở trong đó
(Norwid trong viện tế bần, Holderlin, một
ngọn tháp)
Rạng đông, sương mù
trên khu rừng
một chuyến đi, tiếng gọi khàn khàn
của con gà trống
Bịnh viện đóng cửa, những tín
hiệu không rõ rệt
Trưa, chúng ta ngồi cà
phê quảng trường Bưu Điện Xề Gòn
Nhìn bầu trời thiên thanh
Và màn hình thiên
thanh của cái laptop
Một cái máy bay
vẽ ra bản tuyên ngôn của viên phi công
bằng 1 thứ chữ sáng sủa, màu
trắng
đọc thật rõ với những kẻ viễn thị
Thiên thanh là màu
hớn hở
hứa hẹn những sự kiện lớn
rồi ngồi xuống, và đợi
Một đám mây màu
chì tới gần
Đám bồ câu khiếp sợ bay lên,
chẳng tí duyên dáng,
vào bầu trời
Dông tố, mưa đá
tụ tập
Trong những con phố và quảng trường
Tuy nhiên ánh sáng
đếch, hoặc chưa, chịu chết
Thi sĩ, vô hình
như mấy anh thợ mỏ
ẩn náu trong hầm
Xây nhà cho chúng ta
Những căn phòng cao ngất
dâng lên
với những cửa sổ Vienne
những cung điện tuyệt trần
Nhưng, chính họ -
không thể ở, trong đó.
Norwid trong viện tế bần, Holderlin
trong 1 ngọn tháp;
TTT, Xóm Gà
Viên phi công ư ử
một bài ru em
Hãy thức giấc, Trái Đất
Đọc &
http://www.newyorker.com/magazine/2016/08/01/low-tide-late-august-by-marie-howe
Poems August 1, 2016 Issue
Low Tide, Late August
By Marie Howe
That
last summer when everything was almost always terrible
we waded into the bay one late afternoon as the tide had
almost finished pulling all the way out
and sat down in the waist-deep water,
I floating on his lap facing him, my legs floating around
him, and we quietly coupled,
and stayed, loosely joined like that, not moving, but being
moved by the softly sucking and lapping water,
as the pulling out reached its limit and the tide began
to flow slowly back again.
Some children ran after each other, squealing in the shallows,
near but not too near.
I rested my chin on his shoulder looking toward the shore.
As he must have been looking over my shoulder, to where the water deepened
and the small boats tugged on their anchors.
Marie Howe has published three books of poems, including
“The Kingdom of Ordinary Time.” Her next collection, “Magdalene,” is
due out early next year.
6. NIGHT VISIT
Everyone left, and no one came back.
You won't wait on a path that's
asphalty,
Or in a leaf-covered street.
But in some adagio by Vivaldi (1)
Again we'll meet.
The candles will show a dim yellow flame,
Bewitched by sleep,
But the bow won't ask how it was you came
To my midnight keep.
In lamentation, deadly and calm,
We'll pass an hour or more,
You, of course, will read in my palm
Such wonders as before.
And then that great anxiety
Which is now your doom
Will lead you into the icy sea,
Far from me and my room.
1963
Anna Akhmatova
Tựa hồn những năm xưa
Mọi người bỏ đi, và không
ai trở lại
Anh sẽ không đợi trên con đường trải nhựa
Hay trên con phố phủ lá vàng
Nhưng trong một adagio của Vivaldi
Đôi ta lại gặp
Nến sẽ soi một ngọn lửa, vàng, mờ.
Điên dại, nhờ giấc ngủ
Nhưng cái cúi đầu sẽ không hỏi
Là anh ư, người tới trong vòng tay nửa đêm
của em.
Trong than thở, chết người, và êm ả
Đôi ta sẽ trải qua, một giờ, hoặc hơn
Anh, lẽ tất nhiên, sẽ nhìn thấy trong lòng bàn tay của em
Những sững sờ, kinh ngạc như thế đó, như trước
đó
Và rồi bây giờ thì cơn sao xuyến lớn lao
Cuộc trầm luân của anh
Sẽ dẫn anh tới biển băng giá
Xa, thật xa, em,
Căn phòng của em.
(1) Vivaldi
Brodsky cho rằng, thơ tù của
Nga, nhức nhối nhất, the most stunning, là từ ngòi
viết của Zabolosky. "Somewhere in the field, down Magadan way... ".
Có một dòng, mà nó làm cho bạn,
dù có tưởng tượng tới cỡ nào thì cũng không
thể làm bật ra được, khi muốn mầy mò vào cõi
thơ tù [in connection with this topic].
Đó là một câu rất ư là giản
dị sau đây:
"So they went walking in their peacoats - two old men,
unlucky Russians".
Ôi chao, đọc câu trên, rồi nhớ lại những
dòng thơ tù của một nhà thơ, gốc Bắc Kỳ, bị
đầy trở về quê cũ, vào một buổi chiều cuối năm, cùng
bạn tù, vác bó cuốc nặng, đi qua một thôn
nghèo, tránh sao cũng không khỏi lũ trẻ lem luốc,
co ro đứng coi tù qua thôn, cảm khái cho chúng,
cho cái thôn nghèo của chúng, cho một buổi
chiều cuối năm xa gia đình, xa vợ con, ở mãi tít
Miền Nam, nhưng cái lạnh lẽo không đèn lửa của nhà
ai kia làm át nỗi nhớ nhà, làm ảm đạm lòng
ta.
Chiều cuối năm qua xóm nghèo
Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm!
Đây có lẽ là dòng thơ tuyệt
vời nhất của thơ tù, của mãi mãi, về sau này.
Note: Đó là quê hương của TTT, và
của GCC.
Ông có cõi tù của ông.
Gấu cũng có 1 cõi tù, và cũng đều là
quê hương.
Hai tên già, unlucky Bắc Kít!
ON THE ROAD
This land isn't native to me
and still
It's given me memories time can't
erase,
In its sea, water is tenderly
chill,
Of salt it bears not a single
trace.
The air intoxicates like wine,
Under the sea is sand, chalk-white.
And the rosy body of every pine
Is denuded as sunset beckons
night.
And the sunset itself in waves
of ether
Is such that I can't say with
certainty
Whether day is ending, or the
world, or whether
The secret of secrets is again
in me.
1964-1965
Anna Akhmatova
Trên lộ
Đất này không phải là quê
hương của tôi
Nhưng nó vẫn cho tôi những hồi ức thời
gian không thể xóa nhòa
Trong biển của nó, nước lành lạnh
Không 1 tì vết của muối
Khí trời làm say, như rượu vang
Biển, cát, trắng như phấn
Và mỗi cây thông
Thì hồng hồng
Như một em cởi truồng, và nắng bèn ngoạm
em một vài phát
Khi buổi chiều gật gù, nhường chỗ cho màn
đêm.
Và hoàng hôn, chính nó,
thì như những đợt ê te
Chính vì thế mà tớ không
sao phán chính
xác
Về ngày đang hết,
Hay thế giới,
Hay,
Niềm bí ẩn của những bí ẩn
Lại ngoạm luôn cả tớ
Poetry
is like an old clock that stops ticking from time to time and
needs to be violently shaken to get it running again, and if that
doesn’t do the trick, opened up and disassembled, its wheels cleaned,
lubricated, and its intricate moving parts made to run again. Unlike
watchmakers, poets repair their poems by leaving parts behind that
after centuries of use have turned out to be unnecessary to their
workings. Hard as it is to believe, lyric poets are still tinkering
with a contraption thousands of years old, mending it and reinventing
it with no desire to call it quits. As they do that, poetry keeps
changing while remaining the same.
If that weren’t so, how could we still understand
and enjoy the old Greek, Roman, and Chinese poems and recognize
ourselves in them while knowing next to nothing about the world
those poets lived in?
http://www.lrb.co.uk/v38/n14/john-banville/what-do-clocks-have-to-do-with-it
What do clocks have to do
with it?
Đồng hồ thì mắc mớ gì
đến nó?
John Banville
The Physicist and the Philosopher:
Einstein, Bergson and the Debate That Changed Our Understanding
of Time
by Jimena Canales
Princeton, 429 pp, £24.95, May 2015, ISBN
978 0 691 16534 9
Fama
is a fickle goddess. In the early decades of the 20th century
the French philosopher Henri Bergson was a worldwide celebrity, ranked
as a thinker alongside Plato, Socrates, Descartes and Kant. William
James thought Bergson’s work had wrought a Copernican revolution in
philosophy. Lord Balfour read him with great care and attention; Teddy
Roosevelt went so far as to write an article on his work. People climbed
ladders merely to catch a glimpse of the great Frenchman through the
windows of university halls, and Parisian society figures sent their
servants ahead to secure seats at his lectures. When he gave a talk
at City College in New York in 1913, so many people turned up in the
hope of hearing him that the Manhattan traffic was brought to a standstill.
Trên tờ LRB,
Điểm Sách London, 14 July, John Banville, điểm cuốn
Nhà Vật Lý và Triết Gia.
Bài này cực tuyệt.
Nó giải thích 1 điều, tại sao mà lũ Văn Khoa
Mít dốt đến như thế:
Do mù tịt về khoa học, ngay cả thứ khoa học
thường thức.
Einstein phạng Bergson: Đếch có 1 thời gian
của triết gia: "Il n'y a donc pas un temps des philosophes".
Ui chao, đúng như thế với lũ Văn Khoa Mít.
Do cố đậu cái bằng Triết Mít, để trốn
lính, để bỏ chạy qua Tẩy, để làm tuỳ viên
văn hóa Tòa
Đại Sứ Ngụy, để làm Cớm VC hải ngoại, như tên đệ
tử PXA.... thế là chúng "không
hiện hữu", trong thời gian có cuộc chiến Mít!
The time of the philosophers don't exist!
Thời gian không có, thì làm
sao có con người!
Bài này không
cho đọc free. Tin Văn sẽ scan. Và, có thể sẽ dịch.
Trên net, thấy có cái còm
của 1 độc giả LRB
Hãy nói cho
tôi
Tại sao nỗi cô đơn của tôi
Bài hát của tôi
Giấc mơ của tôi
Trì hoãn
Lâu như thế?
Khuyên
Nè bồ tèo, nghe nè
Sinh dữ
Tử lành
Hãy có tí ti tình yêu
Ở giữa
Harlem
Chuyện gì xẩy ra cho giấc mơ bị trì
hoãn?
Liệu nó khô queo dưới nắng gắt như lửa?
Hay mưng mủ như nỗi đau
Rồi bỏ chạy?
Hay thối rữa như đồ ăn thiu
Hay tráng tí đường
Như cục kẹo?
Có khi nào nó trũng xuống
Như chở nặng quá?
Mà, có khi nào
Nó nổ cái đùng?
Vưỡn như ngày nào.
Cái cổng sắt khi đó
chưa có
WALKING
I never run into anyone from
the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were they
always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with the
red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the
night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make another
tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the
way
And a place to sleep, since I've no return
ticket .
To wherever it is I came from earlier this
evening
Charles Simic
Đi Bộ
Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ nào
quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một mình trong
thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà,
mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì
quen quen ngày xưa.
Cây trong công viên
– Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im
ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này,
đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm
cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường
giống như căn nhà với cái hàng rào
đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn
giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn
vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm
ra con phố.
Tất cả những
gì mà tớ làm, là làm 1
tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm
ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và
kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên
mua vé khứ hồi
Trở về bất
kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi
chiều.
Note: Đúng
là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà
ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch làm sao kiếm ra nhà.
Tới căn nhà yên chí là nhà
ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng
bực quá, vô lý quá, lại quay lại,
và 1 bà trong xóm bèn nói lớn,
vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ
quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....
Tới đó, thì bèn “ơ
rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm
sao mà lại quên được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò
ở bãi biển, nhưng thay vào đó, là
mấy con gà đang lang thang trong sân đất…
We have time
to grow old.
The air is full of our cries.
Samuel Beckett, Waiting for Godot
Thời gian, đủ để già
Trời kia, đầy tiếng khóc
Tôi vừa được tin Ngọc Dũng mất.
Và cả một thời niên thiếu của tôi, của
"chúng tôi", có bóng dáng
của ông ở trong, bừng sống lại. Tôi viết ra ở đây,
như những lời chúc tốt lành nhất mong ông
mang theo…
Nhà
cụ Chất khi đó, và bây giờ, vẫn
nằm trong con hẻm Đỗ Thành Nhân, ngay sau Tòa
Thị Chính Gia Định. Căn nhà là của
bà Kh, bà cụ Chất thuê, tầng dưới. Sau
cụ dành dụm đủ tiền mua căn nhà. Trên
lầu có hai phòng. Phòng anh Tâm ở
phía trước, có lối đi riêng là cầu
thang ở bên ngoài. Tôi đã viết về
lần đầu tới, thấy anh Tâm ngồi ở một cái bàn
góc phòng khách, co cả hai chân
lên ghế, cặm cụi viết… và tôi nhận ra một điều,
và tôi tự nhủ chính mình: hãy
cố sống như anh, ở ngoài đời, cũng như ở trong… văn chương!
Ngọc Dũng khi đó
còn sống độc thân, nghèo. Và
thường tới cụ Chất để xin tiếp tế gạo. Anh có chiếc ruột
tượng, mỗi lần tới, cụ Chất đổ gạo vô, rồi anh đeo quanh
người, phủ chiếc áo lên, ra về.
Hai
cuốn tiểu thuyết của ông, quả đúng là chúng
đóng dấu ấn của chúng lên lịch sử Mít.
Bếp Lửa, 1954, phát
sinh cùng chủng loại Mít có
tên là Bắc Kít Di Cư, trong nó, có
thứ chủng loại nhà văn - như là con hoang của 1 miền
đất.
MCCN tưởng tượng ra 1 tên bỏ chạy cuộc
chiến, tới lúc nó sắp sửa chấm dứt, sợ quá,
bèn vội vàng trở về để… kịp chết!
Gấu học trước Thầy Đạo ít
nhất 1 năm, nếu
ông học cùng ông anh BHD. Nhờ đậu đạt nhanh,
ba năm làm ba cái bằng.
Trung Học Đệ Nhất Cấp, cc 1955, đậu kỳ 2. Kỳ 1, rớt, vì tông
tông Diệm, như đã kể.
Giáo dục Ngụy cấm dính
dáng tới chính trị. Không chỉ ở Tiểu Học, mà luôn cả
ở Đại Học.
Nghe lời xúi bẩy của đám
bạn bè như Ngô Khánh Lãng - đậu kỳ
1, ba tháng hè
học Đệ Tam, vô năm học - cũng theo lên luôn Đệ Nhị.
Lúc này hết còn ăn chực ông
anh rể Nguyễn Hoạt, mà qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ
bà cô từ Tây tháng tháng gửi
tiền về, tiền ăn, tiền học.
Cuối năm, mình Gấu thi đậu Tú Tài
I. Cả đám rớt.
Trường tư lúc đó,
chưa có Đệ Nhất, thế là được vô học Đệ Nhất
Chu Văn An, nhờ thế quen bạn Chất.
Cuối năm, thi kỳ 1, cả đám rớt, thi kỳ 2,
cả đám rớt, trừ Gấu đậu.
Ba năm chơi ba cái bằng, là thế!
Lần đầu gặp ông anh BHD, chắc là nghe
bạn bè kể, thằng đó giỏi toán, ông
bèn nhờ giải 1 bài toán, chương trình
Đệ Tam, vẫn còn nhớ.
Thế là Gấu lôi cours ra, đánh
vật với nó, giải được, bèn mang tới nhà,
không gặp ông anh BHD, bèn đưa cho bà cụ.
đang đứng bán hàng, một cửa tiệm tạp hóa, nhớ
đại khái. Nhớ là, bà ngạc nhiên ra mặt,
chắc là bà không tin thằng bé lùn
lé này giỏi hơn con của bà. Đúng lúc
đó, BHD ở đâu chạy về. Thế là đến lượt cô
bé ngạc nhiên ra mặt.
Có thể là cái nhìn
lé xệch của Gấu làm cô nhận ra [nhận ra….
cái gì?], và cô ngạc nhiên, tại
sao mi nhìn ta như thế, không lẽ mi…. yêu
ta, ư, mà mi là ai…. ?
Thì cú sét đánh, mặc
khải, ngộ, bị cái rìu phá băng bổ trúng
đầu, kẻ mộng du đang lang thang bất ngờ vớ được chân lý....
“cái con mẹ gì”, chắc là như thế!
Phải đến già, Gấu mới hiểu ra 1 điều, về
mặc khải: Bạn phải ở trong tư thế, sửa soạn, và quá
nữa, sẵn sàng,
ready, để đón nhận.
Cái học, cái đọc, cái đời của
Gấu, trước kia, trước khi ra hải ngoại, với bao nhiêu khổ
đau… chỉ là 1 cái test, để nhận cái họa mà
Thượng Đế, thì vừa cười, vừa xoa đầu Gấu, vừa trao gói
quà.
Cái cú gặp TTT, đang ngồi viết văn,
mà nhận ra, ngộ ra, sau này, Gấu sẽ y chang, sở
dĩ xẩy ra, là nhờ cú đọc cọp Bếp Lửa trên
lề đường Xề Gòn, trước đó.
Ngô Khánh Lãng
& Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà
Trụ ơi !
Tớ
còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè
1972, Trụ còn rủ bọn này đi "bát phố Bonnard" như
ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi
ngồi trên sườn xe đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu
Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường
Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê
Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn
Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không
? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà
Trỵ đó.
Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn
Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không gặp
và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn
Trọng Văn và Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng
có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.
Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có
dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này, phải không
? Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến
biết, có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40
năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến
Như
vậy, Gấu đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1956. Kỳ 2. Kỳ 1, rớt vì
bài Luận văn, vì ông Diệm, đúng hơn
Tôi
mê Ngô Đình Diệm đến nỗi… thi rớt trung học đệ
nhất cấp, kỳ một!
Kỳ đó, đề Việt văn: luận về hai chữ ‘anh hùng’.
Tôi, ngoài chuyện mê Ngô Đình
Diệm ra, còn mê chuyện Tầu.
Khi còn ở ngoài bắc, đã mê
rồi, nhưng mới làm quen sơ sơ những vị anh hùng như
Tần Thúc Bảo, với đường Sát Thủ Giản, La Thành
với đòn Hồi Mã Thương… qua Thuyết Đường. Vào
tới Sài Gòn, như cá gặp nước, rồng ra biển! Thế
là cứ thế ngốn, hết Thất Hiệp Ngũ Nghĩa tới Tục Thất Hiệp; hết
Chinh Tây tới Chinh Đông…. Trong một cuốn, có chữ
anh hùng, dịch giả cắt nghĩa là con chim và con
gấu.
Tôi ‘cọp dê’ luôn, đưa vào bài
luận, rồi cứ thế phăng phăng tiến về đất bắc, giải phóng
quê hương ‘ngày xưa’, thoát khỏi ngục tù Cộng
Sản!
Người buồn nhất, khi biết tôi hỏng thi, là
ông anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông không tin, vì
biết tôi học chăm, và khá giỏi! Khi tôi
đưa bản nháp, ông bật cười: đáng đời! Còn
nhỏ, lo học, chưa chi đã lo cứu đời, cứu nước!
Trớ trêu nữa, là sau đó, ông
vô tù, vì chống Ngô Đình Diệm.
Trong đời ‘ôi thi ơi là thi, sinh mi làm
chi’, tôi lận đận, đều là do văn chương, triết học.
Lần đầu, như kể trên. Lần hai, thi tú tài
hai. Sau bài triết, tôi đưa bản nháp cho anh
Tâm (tức nhà thơ Thanh Tâm Tuyền) coi. Anh không
nói gì hết. Qua bài toán, và
lý hóa, biết tôi chẳng tha một bài nào,
anh cười: vậy là đậu rồi. Hai bài này đủ kéo
cho bài triết, chỉ đáng ăn trứng (tức zéro),
hoặc gậy (tức một điểm)!
WHILE READING HAMLET
A dust-covered patch to the right of the cemetery.
Beyond that, a river of unfolding blue.
"Get thee to a nunnery," you said, "Or marry
An idiot-It's up to you."
That's the sort of thing princes always say,
But I won't forget it as I grow older.
May your words keep flowing as centuries wear away,
Like an ermine mantle tossed over someone's shoulder.
1909
Anna Akhmatova
Trong khi đọc Hâm Liệt
Một lối đi bụi bặm tới phía bên phải
nghĩa địa
Quá nữa, một dòng sông, xanh
tới chỉ.
"Hãy đi tu," chàng nói,
"Hay là lấy 1 thằng ngu si đần độn"
"Tùy em!"
Đó là điều mấy vị hoàng tử luôn
luôn phán
Và tôi chẳng hề quên, khi tôi
khôn lớn
Cầu cho những lời nói của anh cứ thế trải
dài
Như hàng hàng thế
kỷ cứ thế trôi đi
Như tấm áo lông chồn,
Bồn chồn trên vai một người nào đó.
Ui chao, THNM, bèn liền nhớ đến câu
phán,
không phải của hoàng tử nào đó,
mà là của BHD:
"Ta bi giờ hết lãng mạn rùi!"
Cái áo lông chồn bồn chồn trên vai, thì lại làm nhớ
đến thơ Bạn Cà:
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về như vết thương!
Nói chung, thì đều, lúc nào
cũng, nhớ BHD:
"Nỗi buồn cháy da, cháy thịt khi ta
đã đi ra khỏi đời của mi".
ON THE ROAD
This land isn't native to me and still
It's given me memories time can't erase,
In its sea, water is tenderly chill,
Of salt it bears not a single trace.
The air intoxicates like wine,
Under the sea is sand, chalk-white.
And the rosy body of every pine
Is denuded as sunset beckons night.
And the sunset itself in waves of ether
Is such that I can't say with certainty
Whether day is ending, or the world, or whether
The secret of secrets is again in me.
1964-1965
Anna Akhmatova
MY GIFT TO YOU
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The
Paris Review Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The
Paris Review có bài thơ tuyệt vời
của Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái
cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về,
và “kín đáo” nói cho biết, tại làm
sao Em vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa.
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ là
1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi" đến
nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật nhiều năm, có
khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy ra
khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít
rồi
Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực cần đến
nó
Và chắc chắn không
phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là một thoáng
chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể, chỉ
lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái
gọi là "mono no aware",
“Nỗi
buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra
khỏi đời của mi".
Nhưng cũng chỉ được 1 tí
tí.
Thơ Mỗi
Ngày
This
craft of ours, sacred and bright,
Has lasted too many years to tell . . .
The world is lit by it without light,
But, still, a poet has yet to dwell
On the thought that there's no wisdom or
hell,
No age and, perhaps, no death as well.
1944
Anna Akhmatova
Thủ bản này -Tứ
Tấu Khúc - của chúng ta, thiêng liêng
và sáng ngời
Nó sẽ sống dài dài
rất nhiều năm để kể….
Thế giới được chiếu sáng nhờ nó,
đếch cần đến ánh sáng
Tuy nhiên, thi sĩ Gấu Cà Chớn
thì vưỡn cư ngụ - trong căn nhà của hữu thể, thì
cứ chôm đại chữ của Heidegger –
Khư khư với cái ý nghĩ, là,
Làm đếch gì có minh
triết, hay địa ngục
Không tháng năm, tuổi tác,
thế hệ, thời kỳ cái con mẹ gì hết
Và có lẽ
Đếch có, luôn, cả, cái
chết!
Instead of an afterword
When they invented dreams and made them flower,
They didn’t have enough to go around,
We saw the same one, but it had power
In it, as spring first hits the ground
1965
Anna Akhmatova
Thay vì lời bạt
Khi họ phịa ra những giấc mộng, và biến
chúng thành hoa, thành bông
Họ phịa không đủ
Có thể vì thế mà GCC nhìn
thấy, chỉ có một
Đúng như thế
Nhưng bông hồng đen có đủ quyền
uy ở trong nó
Như cú đánh đầu tiên của
Mùa Xuân
Giáng xuống mặt đất
The souls of all my loved ones are
on high stars.
It's good there's no one left
to lose,
And I can cry. The air in
this town of the tsars
Was made to repeat songs,
no matter whose.
A willow among the September
brushes
Touches the water, bright
and clear.
Risen from the past, my shadow
rushes
In silence to meet me here.
So many lyres hang on this
tree,
But it seems there's room
for mine among these.
And this rain, sparse and
sunny,
Is my good tidings and my ease.
1944
Anna Akhmatova
Linh hồn những người thân
thương của tôi thì ở nơi những vì sao
cao thật cao
Thật là được quá đi mất, chẳng
còn ai ở dưới này để mất
Và tôi có thể khóc.
Không khí trong thành
phố của những vì nga hoàng
Thì được làm ra
Để lập lại những bài hát, của
ai thì cũng được
Một cây liễu giữa đám cây
Tháng Chín
Chạm mặt nước, sáng và trong
Mọc lên từ quá khứ, cái
bóng của tôi, vội vã,
Trong im lặng
Gặp tôi ở đó
Rất nhiều cây đàn lia treo trên
cây
Nhưng hình như vẫn có chỗ cho
tôi ở đó
Và cơn mưa này, lưa thưa và
nhuộm nắng
Là những tin mừng và sự nhàn
hạ của tôi
I called death down on the
heads of those I cherished.
One after the other, their deaths occurred.
I cannot bear to think how many perished.
These graves were all predicted by my word.
As ravens circle above the place
Where they smell fresh-blooded limbs,
So my love, with triumphant face,
Inflicted its wild hymns.
Being with you is sweet beyond mention,
You're as close as the heart I call my own.
Give me both hands, pay careful attention,
I beseech you: go away, leave me alone.
Don't let me know where you make your homes.
Oh, Muse, don't call to him from above,
May he live, unmentioned in my poems,
Ignorant of all my love.
1921
Tôi gọi cái chết giáng xuống
những người thân thương của tôi
Người này tiếp nối người kia, cái
chết của họ xẩy ra.
Tôi không thể chịu nổi, bao nhiêu
người đã tàn lụi
Những nấm mồ của họ thì đều được báo
trước bằng lời của tôi
Như cú liệng trên trời
Nơi mùi máu vẫn còn đọng
ở nơi xương cốt, tứ chi của họ
Và, như thế, tình yêu của
tôi, với bộ mặt thắng trận
Chích điệu nhạc của nó.
Ở bên anh, hạnh phúc nào bằng
Cận kề đến nỗi em lầm trái tim của anh,
là của em
Đưa cả hai tay anh cho em, này, hãy
cẩn thận
Em năn nỉ: Anh hãy đi đi, bỏ mặc em một
mình
Đừng nói cho em biết nhà mới của
anh ở đâu
Ôi, Nữ Thần Thi Ca của tôi, đừng ở
trên cao, kêu gọi anh ta
Cầu cho anh ta sống, không được nhắc tới
trong những bài thơ của tôi
Không biết 1 tí gì về tình
yêu của tôi
Dành cho anh ta.
This craft of ours, sacred and bright,
Has lasted too many years to tell . . .
The world is lit by it without light,
But, still, a poet has yet to dwell
On the thought that there's no wisdom or hell,
No age and, perhaps, no death as well.
1944
The souls of all my loved ones are on high stars.
It's good there's no one left to lose,
And I can cry. The air in this town of the tsars
Was made to repeat songs, no matter whose.
A willow among the September brushes
Touches the water, bright and clear.
Risen from the past, my shadow rushes
In silence to meet me here.
So many lyres hang on this tree,
But it seems there's room for mine among these.
And this rain, sparse and sunny,
Is my good tidings and my ease.
1944
Anna Akhmatova
The Novel as Manuscript
An ars poetica
I remember the death, in Russia,
of postage stamps
like immense museum
masterpieces
patchwork
wrapped in linen,
tea stained,
with hemp for strapping
...
these colored stamps
designed for foreign places
were even printed
during famine -
so when they vanished,
so did the whole
Soviet system:
the Berlin Wall,
tanks from Afghanistan,
and Ceausescu's bride
before a firing squad.
It had begun with
the character of Yuri Zhivago
in a frozen wilderness,
the summer house
of his dead in-laws,
his
pregnant mistress
asleep
before the fireplace
with flames dancing
around a broken chair, piano keys,
and the gardener's
long black underwear.
Lara lying there.
A vulgar fat businessman
coming by sleigh
to collect her for the dangers
of a near arctic
escape ...
But for Yuri, not
that long ago, he was
with celebrity,
a young doctor publishing
a thin volume
of poems in France,
he was writing
now at a cold desk
poems against all
experience
and for love of a
woman buried
in moth-eaten furs
on the floor -
while he wrote
wolves out along
the green tree line
howled at him. The
author of this novel,
Boris Pasternak,
arranged it all. Stalin would
have liked to have
killed him. But superstition kept him from it.
So, the daughter
of Pasternak's mistress eventually
is walking with a
candle
through a prison
basement -
she is stepping over
acres of twisted corpses
hoping to locate
her vanished mother ...
she thinks this reminds
her of edging slowly
over the crust on
a very deep snow, just a child who believes
she is about to be
swallowed by the purity of it all,
like this write your
new poems.
Norman Dubie
Tiểu thuyết như là Bản thảo
Một ars poetica
Tôi nhớ lại cái
chết, ở Nga,
Của những con tem
Giống như chắp vá của những danh họa bao la,
ở viện bảo tàng
Bọc vải, hoen ố nước trà
Buộc dây gai…
Những con tem với những phong cảnh ngoại
Được in ngay cả trong thời kỳ bị đói
Và như thế, khi chúng biến mất
Thì cẩm như trọn hệ thống Xô Viết biến
mất:
Bức tường Bá Linh, xe tăng từ A Phú
Hãn
Và cô dâu của ông Trùm
Ceausescu
Trước đội hành quyết
Nó bắt đầu với nhân vật Bác sĩ
Zi Và Gồ
Trong căn nhà mùa hè của bên
vợ, trong hoang dã, băng giá
Người tình mang bầu bên cạnh bếp lửa
Ngọn lửa nhảy múa chung quanh cái ghế
gỗ gãy, những phím dương cầm
Và chiếc áo ngủ đen dài của
người làm vườn
Lara nằm đó
Một tên thương gia mập, tầm thường
Tới bằng xe trượt tuyết
Cho những hiểm nguy của 1 cuộc trốn chạy gần cực
bắc
Nhưng trước đó ít lâu
Yuri là 1 người nổi tiếng
Một vị bác sĩ trẻ
Tác giả 1 tập thơ mỏng bằng tiếng Phú
Lãng Sa
Chàng bây giờ ngồi ở cái bàn
lạnh giá
Làm thơ
Chống lại mọi kinh nghiệm
Và cho tình yêu của một người
đàn bà gói trong bộ lông thú
bị mối ăn
Trên sàn nhà
Trong khi chàng làm thơ
Sói quanh nhà hú
Tác giả của cuốn tiểu thuyết này, đã
tiên liệu tất cả
Ông Trùm Xì Ta Lỉn tính
làm thịt chàng
Nhưng do mê tín, nên cũng ớn,
và sau cùng, không dám
Và như thế, cô con gái của người
tình của Pạt
Sau cùng lang thang nơi tầng hầm những nhà
tù
Với cây đèn cầy
Cố tránh những xác người
Cô muốn tìm nơi bà mẹ của cô
biến mất….
Cô nghĩ điều này làm cô
nhớ về 1 miền mép bờ trái đất
Trên nền tuyết sâu vào lúc
này
Y hệt 1 đứa trẻ
Tin rằng
Nó đang bị nuốt chửng
Bởi sự trinh nguyên, trong sạch của tất cả
Như thế, hãy viết những bài thơ mới của
bạn.
PORTRAIT OF A WOMAN
She must be a variety
Change so that nothing will change.
It’s easy, impossible, tough going, worth a shot.
Her eyes are, as required, deep blue, gray,
dark, merry, full of pointless tears.
She sleeps with him as if she's first in line
or the only one on
earth.
She'll bear him four children, no children, one.
Naive, but gives the best advice.
Weak, but takes on anything.
A screw loose and tough as nails.
Curls up with Jaspers or Ladies' Home Journal.
Can't figure out this bolt and builds a bridge.
Young, young as ever, still looking young.
Holds in her hands a baby sparrow with a broken
wing,
her own money for some trip far away,
a meat cleaver, a compress, a glass of vodka.
Where's she running, isn't she exhausted.
Not a bit, a little, to death, it doesn't matter.
She must love him, or she's just plain stubborn.
For better, for worse, for heaven's sake.
Wislawa Szymborska: Poems New and Collected
1957-1997
Chân dung một bà vợ
Nàng hẳn là
đỏng đảnh
Ưa thay đổi, đến nỗi
Thay đổi mất mẹ cái ý nghĩa của nó
Dễ dàng, bất khả, khó chơi, đáng
1 phát, hay 1 cú!
Đôi mắt của nàng ư?
Đạt yêu cầu:
Xanh một màu
Sâu thăm thẳm
Xám ngắt
Tối,
Vui,
Đầm đià nước mắt vô nghĩa, cà
chớn, chẳng ra làm sao cả!
Nàng ngủ với chàng
Như thể chàng đứng thứ nhứt, đầu hàng,
hay hàng đầu
Hay như thể
Chàng là tên đàn ông
cuối cùng ở trên cõi đời này
Nàng đẻ cho chàng, bốn đứa nhóc,
không một đứa, một đứa
Ngây thơ cụ: Lúc nào cũng có
thể đưa ra 1 lời dạy bảo tốt đẹp nhất
Cho thằng chồng khốn khổ khốn nạn
Yếu ớt, nhưng không bỏ 1 mạng nào!
[Cái gì gì, như thi sĩ Hoàng
Cầm đã từng nhận xét, họp chợ trên bụng, hà,
hà!]
…
Nàng hẳn yêu chàng
Vì cái tốt nhất
Tệ nhất
Hay vì số trời đã định!
[Note: Dịch loạn!]
Alexander Pushkin
O beauty,
you ought not sing
O beauty, you ought not sing a song
Of your sad Georgia to me:
In my fraught memory I long
For a far shore and distant
sea.
You sing a song of strife,
Of steppes lit by moonlight
And listening, I see a
different life,
My missing love's unhappy
plight.
The ghost in my blue dreams,
Though unreal is with me
more;
And beckoning-a phantom
preens
In a sea breeze above the
shore.
O beauty, you ought
not sing a song
Of your sad Georgia to me:
Distraught with memory
I long
For a far shore and distant
sea.
Ôi nhan sắc, mi đúng
ra đừng nên hát
Ôi nhan sắc, mi đúng ra đừng
nên hát, bài hát
Về cái xứ Georgia buồn bã
của mi cho ta nghe:
Trong hồi nhớ đầy ắp
Ta thèm một bãi biển, xa thật
xa,
Một biển, vời thật vợi
Mi hát một bài hát
phấn kích, xung đột,
Về những thảo nguyên dưới ánh
trăng
Và, lắng nghe
Ta nhìn ra một đời khác
Cảnh ngộ bất hạnh của tình yêu
thiếu vắng của ta
Cái bóng ma trong những giấc
mơ xanh của ta
Tuy không thực, nhưng ở với ta nhiều
thật nhiều
Và vẫy tay ra hiệu - một bóng
ma tô điểm
Nơi ngọn gió phía bên
trên bãi biển
Ôi nhan sắc, mi đừng nên hát
bài hát
Về xứ Georgia buồn bã của mi cho
ta nghe
Chán ngán hồi ức, ta mơ
Một bãi biển xa xa,
Một biển trời vời vợi
Anna Akhmatova
In the evening
A dour music in the garden,
A grief beyond artifice,
A plate of oysters on ice,
Succulence of the ocean.
"I'll be true to you!"
He touches my dress,
More like the idle petting
Of a cat or a bird
Or watching a girl ride sidesaddle
Than an intended caress.
Amber lashes hide
The knowing laughter in his eyes.
A lamentation of violins
As smoke curls in
On the garden wind: "Heavens above;
You're alone with the man you love."
Thơ
Mỗi
Ngày
Strong words
Alexander Pushkin
O beauty, you ought not sing
O beauty, you ought not sing a song
Of your sad Georgia to me:
In my fraught memory I long
For a far shore and distant sea.
You sing a song of strife,
Of steppes lit by moonlight
And listening, I see a different life,
My missing love's unhappy plight.
The ghost in my blue dreams,
Though unreal is with me more;
And beckoning-a phantom preens
In a sea breeze above the shore.
O beauty, you ought not sing a song
Of your sad Georgia to me:
Distraught with memory I long
For a far shore and distant sea.
Thơ
Mỗi
Ngày
Map by Szymborska
To My Own Poem
Best case scenario -
you'll be, my poem, read attentively,
discussed, remembered.
Worst comes to worst,
only read.
A third option -
actually written,
but tossed into the trash a moment later.
The fourth and final possibility-
you slip away unwritten,
happily humming something to yourself.
Gửi bài thơ của chính
GCC
Bảnh nhất, thì sẽ như
vầy:
Mi sẽ được đọc, tới chỉ, được lèm bèm
điếc con ráy, và được đời đời truyền tụng
[“Biển”, “cô bạn” của mi, mà chẳng
được như thế sao, hà, hà!]
Đọc 1 phát là thúi
tới tận Trời rùi!
Giải pháp thứ ba –
Vừa viết xong, là quăng sọt rác
liền tù tì!
Giải pháp thứ tư, mới
tuyệt cú mèo làm sao:
Mi trượt khỏi tay ta, như… con đỉa
[Kiếp trước của mi đúng là con
đỉa,
Một em đã từng mắng “êu” mi, nhớ
không?]
Trước khi mi được viết xong, hoặc, chưa có
lấy 1 dòng
Và huýt sáo nhè
nhẹ, chân nhảy sáo,
Có vẻ như hài lòng về
một điều gì đó,
Về chính mi.
Thơ
Mỗi
Ngày
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/30.html
by A.G. Tyshler. courtesy Moscow
collection
A white stone
An aching sadness has settled in me
Like a white stone at the bottom of a well.
A sweet sadness too bitter for words.
A bitter sadness too sweet for words.
If you look me straight in the eye
You'll know the weight of this stone,
And feel even more desultory
Than if you'd read some mournful story.
The gods changed men to a bestiary,
But held them battened to their hearts.
I've changed you to this reliquary
That contains the constant ache in my heart.
Anna Akhmatova
Hòn đá trắng
Một nỗi buồn đau ơi là
đau chiếm lấy tôi
Như một hòn đá trắng ở đáy
giếng
Một nỗi buồn ngọt ngào quá cay
đắng cho lời
Một nỗi buồn quá ngọt ngào cho
lời
Nếu anh nhìn thẳng vào mắt tôi
Anh sẽ biết hòn đá nặng ra sao
Và anh sẽ cảm thấy mới rời rạc làm
sao
Rời rạc hơn nhiều, so với câu chuyện
thê lương nào đó
Mà anh đã từng đọc
Thần thánh biến đàn ông
thành thú vật
Nhưng bắt chúng mập như heo, mất/lấp
mẹ luôn trái tim!
Tôi biến anh thành thứ hòm
này
Chứa trong nó cơn đau nhức hoài
hoài trong tim tôi.
The Novel as Manuscript
An ars poetica
I remember the death, in Russia,
of postage stamps
like immense museum masterpieces
patchwork
wrapped in linen, tea stained,
with hemp for strapping ...
these colored stamps designed for foreign
places
were even printed during famine -
so when they vanished, so did the whole
Soviet system:
the Berlin Wall, tanks from Afghanistan,
and Ceausescu's bride before a firing
squad.
It had begun with the character ofYuri
Zhivago
in a frozen wilderness, the summer house
of his dead in-laws, his
pregnant mistress asleep
before the fireplace
with flames dancing around a broken chair,
piano keys,
and the g~rdener's long black underwear.
Lara lying there. A vulgar fat businessman
coming by sleigh to collect her for the
dangers
of a near arctic escape ...
But for Yuri, not that long ago, he was
with celebrity,
a young doctor publishing a thin volume
of poems in France, he was writing
now at a cold desk
poems against all experience
and for love of a woman buried
in moth-eaten furs on the floor -
while he wrote
wolves out along the green tree line
howled at him. The author of this novel,
Boris Pasternak, arranged it all. Stalin
would
have liked to have killed him. But superstition
kept him from it.
So, the daughter of Pasternak's mistress
eventually
is walking with a candle
through a prison basement -
she is stepping over acres of twisted
corpses
hoping to locate her vanished mother
...
she thinks this reminds her of edging
slowly
over the crust on a very deep snow, just
a child who believes
she is about to be swallowed by the purity
of it all,
like this write your new poems.
Norman Dubie
For a Drowned Poet
after Du Fu
An October wind
has cleared the sky
and the brown waters
clarify their depths.
What might one reflect
in this empty hour?
When will the wild geese
bring their high word?
I whisper with one
fool enough to choose
perfection of the work.
How hell rejoiced.
I mail this poem for him
into the river.
Don Paterson
Số
cũ, có Simic. Số mới, có mấy bài thật là
thần sầu. Câu thơ, bìa sau, của Seamus Heanley,
cũng tuyệt & lạ: Thơ là ngôn ngữ trên quỹ
đạo, Poetry is language in orbit.
The Griffin Poetry Prize, của Canada, được
coi là 1 trong những giải thưởng thơ bảnh nhất trên
thế giới. Quả thế thực.
Bèn chứng tỏ, bằng 1 bài thơ
của 1 em Tẫu, kèm lời giới thiệu của 1 em mũi lõ.
WANG XIAONI
ELEANOR GOODMAN
Something Crosses My Mind
What is so attractive about Wang Xiaoni's
poems as translated into English by Eleanor Goodman is her
quiet, loving, meditative distance to the mostly anonymous and
lonely heroes she clearly knows well. And her attitude to time,
which she keeps dragging out of its anchored localities (and barely
marked history) to extend and connect, or fuse with specific spaces
that she also enlarges in size and scope. Moments prolong into a
century or a life, imaginary beasts meld with real animals, description
becomes an act of meditation. In a few lines, a village can take
on the dimension of a vast landscape - and yet still remain that
particular village. And while Xiaoni's characters may not speak, they
seem to have a real insight into our experience and lives. In a way
nothing much happens in her magic lyricism: the wind blows, the ocean
rises, people work or move from one place to another, or wait, or just
leave some place, and they have souls (which behave like shadows). Reading
her, I found myself repeating Auden's phrase ''About suffering they
were never wrong, / The old Masters." Wang Xiaoni is a terrific contemporary
poet gracefully extending the great classical Chinese tradition.
Seeing the Ocean from a Night Flight
Everything becomes small
only the ocean makes the night's leather
clothes
open up the further out it spreads.
Flying north
to the right is Tianjin
to the left is Beijing
two clusters of moths flinging themselves
at fire.
Then the East China Sea suddenly moves
the wind brings silver bits that can't be
more shattered
and many thick wrinkles whip up
I see the face of the ocean
I see the aged seashore
trembling and hugging the world too tightly.
I have seen death
but never seen death come back to life like
that.
Anna Akhmatova
A white night
A sky bled white, a white night.
Earth of anthracite and granite.
A pale, pale moonlight,
Nothing illumines the infinite.
A woman, caustic, and coarse,
Does not croon, she croaks.
In the high branches of a black oak
Not one leaf stirring. No remorse.
Is this why I yearned to kiss you?
Driven half-crazy by loving?
To calmly remember you
With such weary loathing?
Một đêm trắng
Trời tái đi, một đêm trắng
Đất màu than, granite
Trăng nhợt nhạt
Chẳng có gì chiếu sáng
cái vô cùng
Người đàn bà cay độc,
thô lỗ
Không ngân nga, than vãn:
Bà càu nhàu.
Cành cao, cây sồi:
Không một cái lá
lay động.
Không ăn năn, không ân
hận
Có phải bởi là vì
như thế mà Em thèm hôn Anh?
Do gần như phát khùng
vì… Êu?
Chỉ lặng lẽ nhắc nhở Anh
Với cái sự ghê tởm rã
rời, như thế đó!
And If I Remained By the Outermost
Sea
Note: Đọc
bài thơ này, THNM, GCC bỗng nhớ lần
từ giã Trại Tị Nạn Thái Lan, chờ máy
bay đi tái định cư nơi Xứ Lạnh.
Quá khiếp hãi,
với cái ý nghĩ, sẽ chẳng bao giờ trở
lại cái xứ sở khốn nạn Á Châu cằn cỗi,
cái xứ Mít đầy Cái Ác Bắc Kít,
bịnh cao áp ra đòn, huyết áp tăng vọt,
khiến Bác Sĩ tính hủy bỏ tên trong danh sách
chuyến bay.
Chuyện này cũng
đã kể rồi.
Nhờ bữa đó Thứ
Bẩy. Chuyến bay Thứ Hai.
Thế là bèn
đưa vô bịnh viện, chích thuốc, tới Thứ
Hai, trở lại bình thường.
After Nature gồm ba
bài thơ dài.
Sau đây là
1 mẩu, trong bài thơ dài, có tên như trên:
Nếu tớ ở mãi nơi Mỏm Biển Bắc, Xứ Lạnh
... Immer steipetider hebst, Woge, du
dich!
Ach! die
letzte, letzte bist du! das Schiff 8eht unter!
Und den Todtetiqesang
heult dumpf fort,
Auf dem gro[b]en,
immer offenen Grabe der Sturm!
... Higher and higher, billow,
you rise!
Ah, you're
the last, the last! the ship's going down!
And muted,
over the grave yet open and huge,
Still the
gale howls its death-chant, its dirge.
Friedrich Gottlieb Klopstock,
"The Worlds," Feb. 1746
· ··IV···
When the ship sailed out
of Danzig Bay,
Steller, who had never
yet confronted
the sea, stood on the
deck for a while,
wondering at the passage
over water, at power and
weight,
at the salt in the air
and
the darkness pushed down
to the deep
under the keel. To the
left,
the outermost point of
the Putzig spit,
to the right, the headland
fronting the Frische Haff,
a pale grey streak endlessly
merging into a still paler
grey.
This behind him had been
Germany,
it occurred to him, his
childhood,
the woods of Windsheim;
the learning of ancient
languages,
protracted throughout
his youth
perscrutamini scripturas,
shouldn't that read,
perscrutamini
naturas rerum? (1)
A place in
the country
Points of Departure
‘A Place in the Country,’ by
W. G. Sebald
Six loosely linked essays from
the author “whose only homeland was on the page.”
Tác phẩm mới xb
của W.G. Sebald: "Một Chỗ Trong Một Xứ Sở": Sáu tiểu
luận nối kết lỏng lẻo, của một tác giả mà “quê
hương chỉ có ở trên trang giấy”
He wrote in German, but was a
“German writer” in the same way that Alfred Döblin, Hermann Broch and
Stefan Zweig were “Jewish writers”: tragically and by accident.
Ông viết bằng tiếng Đức,
nhưng là một “nhà văn Đức”, theo kiểu
của những nhà văn Alfred Döblin, Hermann Broch
and Stefan Zweig là “nhà văn Do Thái”:
bi thảm và do tai nạn.
The book’s finest essay concerns its
earliest figure, Jean-Jacques Rousseau. Its opening resembles a Sebald novel,
with the author hiking up the Schattenrain in September 1965, and glimpsing
Île St. Pierre, which, Sebald notes, Rousseau had visited in September
1765, after having been forced out of Paris with the banning of his books
“Émile” and “The Social Contract,” and exiled from Geneva in a campaign
masterminded by a resentful Voltaire. Sebald combines an account of his sojourn
with Rousseau’s, and of the philosopher’s subsequent travails — getting tossed
out of Switzerland, and even his own grave: In 1794, Rousseau, dead for 16
years, is exhumed by revolutionists and entombed in the Panthéon, in
a procession “led by a captain of the United States Navy bearing the banner
of the stars and stripes and followed by two standard-bearers
carrying the tricolore and the colors of the Republic of
Geneva.”
Bài tiểu luận bảnh nhất
thì lèm bèm về một khuôn mặt
sớm sủa nhất của cuốn sách, J.J. Rousseau. Cú
mở ra thì giống như của một cuốn tiểu thuyết của Sebald,
với hình ảnh tác giả leo lên Schattenrain, September 1965, nhìn xuống hòn
đảo Île St. Pierre.
Như Sebald cho biết, Rousseau đã từng thăm viếng nơi này,
sau khi bị tống ra khỏi Paris, cùng với việc sách của
ông - “Émile” và
“The Social Contract” - bị biếm, và sau đó
là lưu vong, trong 1 chiến dịch “bỉ ổi”, cầm đầu bởi 1 Voltaire
“bực bội”.
Sebald trộn cuộc viếng thăm của
ông, với của Rousseau, và với 1 số tác
phẩm của vị triết gia Tẩy này, bị truy bức bật ra khỏi
Thụy Sĩ, và, bật ra khỏi ngôi mộ của chính
mình: Vào năm 1794, Rousseau, chết đã được
16 năm, được các “biệt kích văn nghệ” mang danh những
nhà “cách mạng”, đào ra khỏi mộ, mang cái
xác vô Điện Chư Thần, trong 1 nghi lễ, dẫn đầu bởi
1 vị Đại Uý Hải Quân Mẽo [Mẽo nhe - dám xẩy ra,
trong tương lai, biệt kích VC mang xác nhà thơ
Mít chôn ở Mẽo, thí dụ, về Xứ Mít,
như lần đưa vô Văn Miếu, mấy năm trước đây], mang
băng rôn Cờ Sao Sọc, tiếp theo sau, là cờ tam tài
của Tẩy, và cờ CH Geneva!
(1)
... effect abandons the
injunction to study scripture (''perscrutamini scripturas'')
for the scrutiny of natural things (''perscrutamini naturas rerum'').
'After Nature'
Reviewed by EVA HOFFMAN
Published: September 22, 2002
http://www.nytimes.com/2002/09/22/books/sebald-nature.html?pagewanted=all
Hải đảo
Trên biển mù sóng cuộn
Ngày lộng tuôn như máu loang
khô
Sóng thảng thốt dập vùi hải đảo
Cửa ngàn trùng gió mở toang
Nâng niu máu rỉ cườm tay nhỏ
Thời khắc câm tiếng nỉ non
Hải đảo xa vời em
Trên miền non cao rừng rú
Gió gào giận khốn tù
Trong cõi mộng hung tàn
Một mùa đông dài bão
táp
Đêm qua ác điểu đậu cành khuya
Thả rớt trái tim ác độc
Trong một tiếng tang thương
Đêm qua gió cắp mộng lên non
trốn chạy
Rồi gió hú vang
Trong hành lang tối ám giờ lâm
tử
Hải đảo xa vời em
Trời chuyển màu chớp xé
Cánh chim bay cánh chim bay
Vào mùa hư không trôi
nổi
Khi bóng đảo chìm
Tâm
Note:
Tâm, là tên thực, ngoài đời của TTT.
Bài thơ viết cho Đảo Xa có thể đọc
song song với bài thơ của Sebald, theo GCC
Thơ Mỗi
Ngày
W.G.
SEBALD'S MENTAL WEATHER
Cái tít làm
Gấu nhớ bài viết về 1 bạn quí, những ngày
mới vô làng.
“Khí hậu ẩm ướt trong thế giới
tiểu thuyết NDT.”
Bài đăng trên Nghệ Thuật.
VL đọc bản thảo, nghiêm giọng phán, mày
viết sao là nó mang cái tên của
mày, ký ở dưới bài viết đấy.
Ý anh muốn nói, mày
thổi bạn quí vừa thôi.
TTT cũng đi 1 đường, tương tự.
Cái khí hậu của
TV, thì cũng là cái khí hậu
tâm thần của Sebald, theo GCC
Sau cuộc chiến [Mít], nếu bạn vẫn
là con người, thì không thể lành
lặn được.
Phải có 1 cái gì
ở trong bạn bị hư, hỏng, hoặc trục trặc, lâu lâu
dở chứng.
NQT
And If I Remained By the Outermost
Sea
Note: Đọc bài thơ này,
THNM, GCC bỗng nhớ lần từ giã Trại Tị Nạn Thái
Lan, chờ máy bay đi tái định cư nơi Xứ Lạnh.
Quá khiếp hãi, với cái
ý nghĩ, sẽ chẳng bao giờ trở lại cái xứ sở
khốn nạn Á Châu cằn cỗi, cái xứ Mít
đầy Cái Ác Bắc Kít, bịnh cao áp
ra đòn, huyết áp tăng vọt, khiến Bác Sĩ tính
hủy bỏ tên trong danh sách chuyến bay.
Chuyện này cũng đã kể rồi.
Nhờ bữa đó Thứ Bẩy. Chuyến bay
Thứ Hai.
Thế là bèn đưa vô
bịnh viện, chích thuốc, tới Thứ Hai, trở lại bình
thường.
After Nature gồm ba bài thơ
dài.
Sau đây là 1 mẩu, trong bài
thơ dài,
có tên như trên:
Nếu tớ ở mãi nơi Mỏm Biển Bắc, Xứ Lạnh
... Immer steipetider hebst, Woge, du
dich!
Ach! die letzte, letzte bist du! das
Schiff 8eht unter!
Und den Todtetiqesang heult dumpf fort,
Auf dem gro[b]en, immer offenen Grabe
der Sturm!
... Higher
and higher, billow, you rise!
Ah, you're the last, the last! the
ship's going down!
And muted, over the grave yet open
and huge,
Still the gale howls its death-chant,
its dirge.
Friedrich Gottlieb
Klopstock, "The Worlds," Feb. 1746
... I...
Georg Wilhelm Steller
born at Windsheim, in Franconia,
while pursuing his studies
at the University of Halle
repeatedly came across news
items in journals
that the Russian Czarina,
in the course of her empire's expansion,
was preparing an expedition on an unprecedented
scale
under the supreme command of Vitus Bering
to the Pacific coast, so that
the sea route from there to America
should become known.
... II….
Visions of this voyage of discovery,
Steller later recorded, had so seized
his imagination that he, the son
of a cantor, gifted with a
fine tenor voice and furnished
with a bursary for true Christians,
having abandoned Wittenberg and
theology for natural science,
could now, during his doctoral
disputations, which he passed
with the highest distinction,
think of nothing other than
the shapes of the fauna and
flora of that distant region
where East and West and North
converge, and of the art and skill
required for their description.
... III···
Although it was said that the authorities
would appoint him in the near future
to the Chair of Botany and so
accredit him to society,
Steller, without means though he was,
and with scarcely more than his notebooks
in his pocket, on the very day
after the Rigorosum set out in the
mail coach to the city of Danzig,
then occupied by Russian troops,
where he signed on as a medical assistant
on a packet-boat that was
to carry some hundreds
of invalids back to Russia.
· ··IV···
When the ship sailed out of Danzig Bay,
Steller, who had never yet confronted
the sea, stood on the deck for a while,
wondering at the passage
over water, at power and weight,
at the salt in the air and
the darkness pushed down to the deep
under the keel. To the left,
the outermost point of the Putzig spit,
to the right, the headland
fronting the Frische Haff,
a pale grey streak endlessly
merging into a still paler grey.
This behind him had been Germany,
it occurred to him, his childhood,
the woods of Windsheim;
the learning of ancient languages,
protracted throughout his youth
perscrutamini
scripturas,
shouldn't that read,
perscrutamini naturas rerum?
CHILDREN'S BOOK
In which a newborn cricket
walks across a field,
unable to reply to the greetings of the mantis,
the moth,
and the dragonfly, until his rubbing of wing
on wing
becomes a sound that can speak for him. When
the last page turns,
the book itself makes a chirruping. Here is the
church, and the steeple.
Here is the coffee table where the child lines
up a squad
of plastic people. Can the child tell the difference
between himself and other things? He totters
back and forth
on a tractor mounted on a spring. Here's the
tension
of a string pulled tight, and the child's father
rolling over and over
and over in the night: the cricket book, after
much rough reading,
now chirrups nightly on its own. Finally th,e
father, knowing
what must be done, cuts into the book with a
sturdy paring knife,
looking for whatever little engine, whateverlittle
part,
makes the lifelike cricket sound. Here is the
trailer, the baler,
the harrow, the plough. Can a stem grow up from
inside a stone?
Here is how to sit in silence and be alone. Here's
the yard
where yesterday the child sat watching as blowing
branches made
and remade daggers of light and shade. The book's
voice box,
to the father's eye, looks like a dime-sized
bicycle bell,
.and as he pries it free, the chirruping intensifies,
becoming something like the death cry of a creature
with an actual beating heart; something like
a metal prong
banging indifferently on another metal part.
-James Arthur
NYRB July 14, 2016
There's a sacred limit
to any closeness,
Even the
passionate fact can't transcend,
Though in
fearful silence lips on lips may press
And the heart
love tears to pieces won't mend.
And friendship
is powerless and years
Of intense
high-minded happiness,
Where the
soul is free, a stranger to fears
Of the slow
languors of passionate excess.
Those who
strive to reach it play the part
Of madness,
those who succeed are stricken-And
Now you understand
why my heart
Is not beating
beneath your hand.
1915
Anna Akhmatova
Có một giới hạn thiêng
liêng cho bất cứ cận kề
Ngay cảm thông, không
thể vượt
Tuy nhiên trong im lặng sợ hãi,
môi trên môi, có thể ép
Và trái tim, tình
yêu xé thành mảnh vụn, không sao
vá.
Và tình bạn thì
yếu xìu
Và những năm tháng
Hạnh phúc cực kỳ thanh thoát
Một khi linh hồn tự do,
Một kẻ lạ cho những lo sợ
Về cơn đam mê thái quá
khiến trở thành uể oải
Những kẻ cố đạt cho bằng được điều
này
Thì sẽ chơi cái phần
khùng điên, ba trợn, hoặc phát rồ, phát
dại
Những kẻ thành công,
thì trở thành tê liệt
Bây giờ, mi hiểu tại làm
sao mà trái tim của ta ngưng đập
Bên dưới bàn tay của
mi?
Bài thơ này thì hình như mình
đã dịch rồi, nhưng bị thất lạc trong quá
trình lưu trữ :)
Anna Akhmatova I smile stopped, frosty wind lips of Constantinople,
one hope, one less became more song will be. And this is
a song that I couldn't help but give the laughter and reproach,
then, that the soul hurts a shag love silent. Anna Akhmatova giờ
em đã cười không còn nữa... [81 more words.
]
https://ninablog2008.wordpress.com/…/gio-em-da-khong-con-cu…
Giờ em đã không
còn cười nữa – Anna Akhmatova
Bài thơ này thì hình như mình
đã dịch rồi, nhưng bị thất lạc trong quá
trình lưu trữ
Анна Ахматова
Я улыбаться перестала,
Морозный ветер губы студит,
Одной надеждой меньше стало,
Одною песней больше будет.
И эту песню я невольно
Отдам на смех и поруганье,
Затем, что нестерпимо больно
Душе любовное молчанье.
|
Anna Akhmatova
Giờ em đã không còn
cười nữa
Gió lạnh làm buốt giá
đôi môi,
Một hy vọng giờ không còn
nữa,
Một bài ca thêm với cuộc
đời.
Em vô tình đem bài hát ấy
Cho cuộc đời chửi rủa, nhạo cười,
Bởi tâm hồn đau không
chịu nổi
Khi tình yêu chỉ im lặng
mà thôi.
|
Tks.
NQT
I cannot smile
I cannot smile, ice wind
Lips sealed with rime.
My only hope has disappeared,
Foretelling this song of
mine.
Which I now give to you
To ridicule, to profane,
Your silence in the face
Of my love is unbearable.
Tôi không
thể cười
Tôi không thể
cười, gió lạnh
Môi, sương muối khóa
cứng.
Hy vọng độc nhất của tôi
đã biến mất
Tiên đoán
bài hát này của tôi
Và bi giờ, ta trao
nó cho mi
Để chọc quê, để báng
bổ,
Sự im lặng của mi
Trước tình ta
Thật hết còn chịu nổi
Note: Dịch từ bản tiếng Anh, trong
khi chờ, nếu HL có hứng thú, dịch lại từ nguyên
tác.
NQT
Bác Quoc
Tru Nguyen chắc có quan tâm đến bài
này...
Like · Reply · 1 hr
To Osip Mandelstam
How spicy is the scent carnations give,
The carnations I dreamed of at one time
there;
There, where the circling Eurydices live,
Where Europa rides the bull, and where
Our shadows fleet across the river;
They cross the Neva, your reality,
Where city steps make the Neva shiver,-
This is your passport to immortality.
1940-1960
Anna Akhmatova
[Translated by Lyn Coffin]
Mùi cẩm chướng mới cay cay làm
sao
Hoa cẩm chướng, tôi đã từng
có lần mơ ước một lần nào, ở đó;
Ở đó, nơi Eurydice quanh quẩn sống
Nơi Europa cưỡi bò đực
Và, nơi
Bóng của chúng ta lướt dòng
Neva;
Chúng vượt qua con sông, thực
tại của anh,
Nơi những bước chân của thành
phố làm anh rùng mình –
Đó là tấm giấy thông
hành tới vĩnh cửu của anh
Note: GCC đọc mấy dòng chót
của bài thơ, thì bèn nghĩ đến bài
thơ dán trên tường phòng ông anh nhà
thơ, nơi bàn viết, và cái câu thơ khủng
khiếp, đi cùng với ông vô Trung Tâm Ba
Nhập Ngũ:
Khi anh đi, anh đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết
TTT
Bài thơ, thằng em lén vô
phòng chôm, bèn dán lên tường
Tin Văn, lại bị chôm thêm 1 lần nữa, tếu thế!
Voronezh
for Osip Mandelstam
All the town's gripped in an icy fist.
Trees and walls and snow are set in glass.
I pick my timid way across the crystal.
Unsteadily the painted sledges pass.
Flocks of crows above St Peter's, wheeling.
The dome amongst the poplars, green and
pale in
subdued and dusty winter sunlight, and
echoes of ancient battles that come stealing
out across the proud, victorious land.
All of a sudden, overhead, the poplars
rattle, like glasses ringing in a toast,
as if a thousand guests were raising tumblers
to celebrate the marriage of their host.
But in the exiled poet's hideaway
the muse and terror fight their endless
fight
throughout the night.
So dark a night will never see the day.
(1936)
Anna Akhmatova
Peter Oram
[in The Penguin
Book of Russian Poetry]
To Osip Mandelstam
Nothing's
been taken away!
We're
apart -I'm delighted by this!
Across
the hundreds of miles
that
divide us, I send you my kiss.
Our gifts,
I know, are unequal.
For the
first time my voice is still.
What,
my young Derzhavin, do
You make
of my doggerel?
For your
terrible flight I baptize you -
young
eagle, it's time to take wing!
You endured
the sun without blinking,
but my
gaze - that's a different thing!
None
ever watched your departure
more
tenderly than this
or more
finally. Across hundreds
of summers,
I send you my kiss.
MARINA
TSVETAEVA
(1916)
Gửi Osip Mandelstam
Chẳng có
gì bị lấy đi
Đôi ta mỗi người
mỗi ngả - Em sướng điên lên vì chuyện
này!
Qua ngàn dâu
xanh biếc một màu, em gửi tới chàng
1 nụ hôn
Tài năng thiên
bẩm của đôi ta, thì không đồng
đều
Lần đầu tiên,
tiếng nói của ta câm nín
Hỡi anh yêu,
tên tuổi trẻ Derzhavin của ta ơi
Mi đã làm
gì với những vần thơ tồi tệ của ta?
Dành cho chuyến
đi khủng khiếp của mi
Tới đây, ta
rửa tội cho –
Con chim ưng trẻ,
tới giờ cất cánh
Hãy nhìn
thẳng vào mặt trời, chịu đựng chuyến bay, không
thèm nháy mắt
Nhưng cái nhìn
ban phước lành của ta cho mi, thì lại
là chuyện khác
Chẳng đứa khốn nào
theo dõi mi lên đường
Dịu dàng như
thế này
Sau chót như
thế này
Qua ngàn ngàn
mặt trời, ánh nắng, mùa hè
Ta gửi cho mi nụ hôn
của ta
2
Một
nhà thơ lớn của thời của bà, Tsvetaeva đã
từng gặp; vào năm 1916, bà gặp Osip Mandelstam
trẻ. Họ có 1 cuộc tình ngắn ngủi trong thời kỳ
Nội Chiến.
Mandelstam thường xuyên thăm bà - bằng
hoả xa từ St. Petersburg – một người bạn thân nói
đùa, hay là anh ta là nhân
viên hỏa xa.
Những năm sau đó, bà vợ góa
của Mandelstam nhớ lại:
Tình bạn với Tsvetaeva
theo tôi, đã ảnh hưởng lớn lên
thơ của Mandelstam. Nó là cây
cầu mà nhờ nó mà nhà thơ bước
từ một giai đoạn của mình, qua 1 giai đoạn khác.
Với những bài thơ với Tsvetaeva, bắt đầu cuốn thơ
thứ nhì của anh, Tristia. Tập thơ
đầu, Stone, là 1 tác
phẩm câu thúc, thanh nhã, của
nhà thơ của St. Petersburg. Tình bạn với
Tsvetaeva cho anh, Moscow của bà, thoát ra
khỏi lời nguyền của sự lịch lãm của St. Petersburg.
Đúng là 1 món quà thần
kỳ, bởi là vì với chỉ Petersburg
không thôi, không có Moscow,
thì sẽ thiếu khí trời, thiếu sự tự do của hơi thở trọn vẹn, đếch có
tình tự thực, cảm nghĩ thực, về Nga xô, đếch
có luôn lương tâm, ý thức…
15.
On August 2,1921 Nikolai Gumiliov, who was
Akhmatova's husband and a prominent poet, was arrested and
subsequently shot. On August 7, Alexander Blok, forty-one years
old, died in a state of despair bordering on insanity. At the
end of August, rumors circulated that Akhmatova had killed herself.
(Mayakovsky organized a chain of friends to discover the truth and
dispel rumors. In gratitude, Tsvetaeva dedicated a poem to him, calling
him "heavy-footed archangel.") In early 1922, the great Futurist
poet Velemir Khlebnikhov died. In 1922, the Communists ordered two
hundred philosophers, scientists, and writers to board a ship. Subsequently
called The Philosophers' Ship, it included every single prominent
non-Marxist philosopher in Russia. All were sent into exile.
Marina Tsvetaeva left Russia in the spring
of that year; she stepped off the train in Berlin on May 15,
1922.
Ngày 2 Tháng
Tám, 1921, Nikolai Gumiliov, nhà thơ nổi tiếng, chồng Akhmatova,
bị bắt và sau đó bị xử bắn. Ngày 7, Alexander
Blok, 41 tuổi, chết trong trạng thái chán chường mấp
mé bờ khùng
điên. Cuối tháng Tám, có lời đồn Akhmatova
tự tử (Mayakovsky cùng 1 số bạn hữu làm 1 cú
kiểm tra, tin đồn vô căn cứ. Bằng 1 sự biết ơn, Tsvetavaeva bèn
làm 1 bài thơ tặng "nhà thơ của người tù
VC Bùi Ngọc Tấn", và ban cho chàng cái
nick "Trùm Thần Chân Nặng"
Thơ
Mỗi
Ngày
Poems July 11 & 18, 2016 Issue
My Body
Is an Injury the World
My body is an injury
the world
can’t seem to heal from—
you would expect it
gone
by now, and yet each
next
day it persists, still
implementing
its same staunch pain,
atrocious,
railed against, assumed
by the world to be an
ingenious comeuppance, a vengeance against it—
what did it do
what did the world do
to warrant my body within
it,
smarting, to warrant
each of our
bodies within it, crowding
the sites of abuse,
assessing ticket
prices, asking how much
to see the slave house, how much
to touch the indented
names of the killed, how much to enter
the slatted cell and
size it, close behind us its wrought door, oh
actually that one’s
free
There's a sacred limit to any
closeness,
Even the passionate fact
can't transcend,
Though in fearful silence
lips on lips may press
And the heart love tears
to pieces won't mend.
And friendship is powerless
and years
Of intense high-minded
happiness,
Where the soul is free,
a stranger to fears
Of the slow languors
of passionate excess.
Those who strive to reach
it play the part
Of madness, those who
succeed are stricken-And
Now you understand why
my heart
Is not beating beneath
your hand.
1915
Anna Akhmatova
I cannot smile
I cannot smile, ice wind
Lips sealed with rime.
My only hope has disappeared,
Foretelling this song of mine.
Which I now give to you
To ridicule, to profane,
Your silence in the face
Of my love is unbearable.
Tôi không thể
cười
Tôi không thể cười, gió
lạnh
Môi, sương muối khóa cứng.
Hy vọng độc nhất của tôi đã
biến mất
Tiên đoán bài hát
này của tôi
Và bi giờ, ta trao nó cho
mi
Để chọc quê, để báng bổ,
Sự im lặng của mi
Trước tình ta
Thật hết còn chịu nổi
Note:
Dịch từ bản tiếng Anh, trong khi chờ, nếu HL có hứng
thú, dịch lại từ nguyên tác.
NQT
How can you bear to look
... ?
How can you bear to look at the Neva?
How can you bear to cross its bridges?
Your footstep is a feverish
Phantom in my heart.
Black angels strop their wings.
The scything dead are on the road
Where a curbside fire grows like a
Crimson rose in the driven snow.
Làm sao mi dám
nhìn…. ?
Làm sao mi dám nhìn
xuống dòng Neva?
Làm sao mi có thể bước qua
cây cầu của nó?
Bước chân của mi thì chẳng
khác gì
Hồn ma hừng hực trong tim ta
Thiên thần đen liếc cánh
Những cái chết lưỡi liềm liếm trải
dài trên mặt lộ
Lửa bên lề đường nở rộ
Như bông hồng đỏ trong tuyết chạy
dài.
Why are you wandering around
so,
Breathless, as if on the run?
Probably you suspect or know
Two souls have been fused into one.
You'll be consoled by me in ways
That still haven't dawned on you.
And if you hurt me with an angry phrase,
You'll be wounded, too.
1922
Anna Akhmatova
Translated by Lyn Coffin
Hà cớ chi mà mi đi đâu
loanh quanh
Cho đến hết hơi, như bị ma đuổi?
Hay là mi nghi, hay biết
Hai linh hồn nhập một.
Nhờ ta, mi sẽ được an ủi
Bằng những cung điệu chưa sáng lên
mi
Và nếu mi sảng bậy với ta
Thể nào mi cũng bị dính miểng
Trầm tư 1 mình
- độc thoại nội tâm - của 1 con chó
PHOTOGRAPH FROM SEPTEMBER
11
They jumped from the burning
floors-
one, two, a few more,
higher, lower.
The photograph halted them in
life,
and now keeps them
above the earth toward the earth.
Each is still complete,
with a particular face
and blood well hidden.
There's enough time
for hair to come loose,
for keys and coins
to fall from pockets.
They're still within the air's
reach,
within the compass of places
that have just now opened.
I can do only two things for
them-
describe this flight
and not add a last line.
Wislawa Szymborska
Những hình ảnh
của ngày 11/9
Họ nhảy từ những tầng lửa cháy
một, hai, thêm vài người
nữa
cao hơn, thấp hơn
Những bức hình kiềm giữ họ như
thế đó, trong đời sống
Và bây giờ,
Giữ họ ở bên trên mặt đất,
về phía trái đất
Mỗi cái thì vẫn đầy đủ,
với khuôn mặt đặc biệt
máu được giấu thật kín
Có đủ thì giờ
Cho mớ tóc xổ tung ra
Chìa khóa, tiền đồng
Rớt ra khỏi túi quần áo
Họ vưỡn cứ như thế
Ở lưng chừng trời
Ở lưng chừng những cái la bàn
Lúc này được mở ra
Tôi chỉ có thể làm
hai điều cho họ -
Mô tả chuyến bay
Và không thêm dòng
chót
Bài thơ này,
mượn hoa tiến Phật, cũng có thể mô tả Mít
chết vì tai họa biển như cá chết:
GCC cũng chỉ có thể làm
hai điều cho họ
Mô tả chuyến tàu
chót của họ
Và không thêm
dòng chót
Thơ
Mỗi
Ngày
Thực ra thì
là thơ không đề, nhưng vì chữ
đầu tiên trong bài là Hoa bất tử,
nên mình gọi thế. Đây cũng là
một bản dịch theo đơn đặt hàng chuyển qua chị Sonata
:) * * * Анна Ахматова
Бессмертник сух и розов. Облака На свежем небе вылеплены грубо.
Единственного в этом парке дуба [ 160 more words. ]
https://ninablog2008.wordpress.com/…/hoa-bat-tu-tho-khong-d…
Bản tiếng Anh:
An immortelle
An immortelle is bone dry.
Broken clouds, a chill sky.
In the park the maple
Leaves curl and crimp le.
Daybreak dawns at midnight.
I'm cocooned in my cell!
Birds talk to me in mid-flight
Of how lovers elsewhere excel.
I am happy here. Yes. But
I dreamt
Of a wild wood, a weed-grown
crescent,
An old bridge, humpbacked
and rent,
And of freedom, mine, immanent.
Note: Những bài thơ
trong cuốn này, có bản tiếng Nga kèm.
TV nhờ mấy người bạn rành
tiếng Nga dịch thẳng từ nguyên tác.
This craft of ours, sacred and bright,
Has lasted too many
years to tell ...
The world is lit
by it without light,
But, still, a poet
has yet to dwell
On the thought that
there's no wisdom or hell,
No age and, perhaps,
no death as well.
1944
Anna Akhmatova
[Translated
by Lyn Coffin]
Nghề
thơ, ngón thơ của chúng ta
Thiêng liêng và
sáng ngời
Còn hoài với năm
tháng, để kể....
Thế giới được chiếu sáng
nhờ nó, chẳng cần tới ánh sáng
Nhưng, nhà thơ vưỡn miệt
mài
Với cái ý nghĩ
Làm đếch gì có
minh triết, hay địa ngục
Hay tuổi tác, và
có lẽ,
Đếch có luôn cả
Cái gọi là cái
chết!
Thêm một
bài được đặt hàng. Có lẽ là mình
chưa thấm được bản gốc, nên bản dịch hơi lủng củng Thánh
Lót ở đây là thánh Lót trong
Kinh Thánh. Khi Chúa trời quyết định trừng phạt
hai thành phố Sô-đôm và Gô-mô-rơ
đầy dẫy tội ác, thì chỉ có Lót và
gia đình được cứu thoát - hai thiên sứ dẫn
Lót và gia đình ra khỏi thành phố này,
và dặn họ cứ đi, không được nhìn lại. [ 288
more words. ]
https://ninablog2008.wordpress.com/…/vo-cua-thanh-lot-anna-…
Vợ của thánh
Lót – Anna Akhmatova
Thêm một bài được đặt hàng.
Có lẽ là mình chưa thấm được bản gốc, nên bản
dịch hơi lủng củng
Thánh Lót ở đây
là thánh Lót trong Kinh Thánh.
Khi Chúa trời quyết định trừng phạt hai thành
phố Sô-đôm và Gô-mô-rơ đầy tội
ác, thì chỉ có Lót và gia đình
được cứu thoát – hai thiên sứ dẫn Lót và
gia đình ra khỏi thành phố này, và
dặn họ cứ đi, không được nhìn lại. Tuy nhiên
vợ của thánh Lót đã lỡ nhìn lại thành
phố Sô-đôm bốc lửa, và bị biến thành tượng
muối (Sáng thế ký, chương 19).
Thánh Lót chạy khỏi
Sodom. Tranh của Gustave Dore.
Лотова жена
Анна Ахматова
И праведник
шел за посланником Бога,
Огромный и светлый, по черной горе.
Но громко жене говорила тревога:
Не поздно, ты можешь еще посмотреть
На красные башни родного Содома,
На площадь, где пела, на двор, где пряла,
На окна пустые высокого дома,
Где милому мужу детей родила.
Взглянула – и, скованы смертною болью,
Глаза ее больше смотреть не могли;
И сделалось тело прозрачною солью,
И быстрые ноги к земле приросли.
Кто женщину
эту оплакивать будет?
Не меньшей ли мнится она из утрат?
Лишь сердце мое никогда не забудет
Отдавшую жизнь за единственный взгляд.
(1924)
|
Vợ của thánh
Lót
Anna Akhmatova
Và
thánh Lót bước đi sau thiên sứ của Chúa
trời
Cao lớn, sáng ngời, theo núi
đen từng bước
Nhưng nỗi lo lắng nói to cùng
người vợ:
Vẫn còn chưa muộn, em hãy
nhìn nữa
Những tháp đỏ thành phố Sodom
thân thương
Nơi ngày xưa em hát ở quảng
trường
Nơi kéo sợi ngoài sân,
khung cửa sổ ngôi nhà.
Nơi những đứa con em đã sinh ra.
Nàng nhìn lại, và
cơn đau chết chóc.
Khóa lấy người – mắt không
còn nhìn thấy;
Thân thể nàng trở thành
muối trong suốt
Cặp chân nhanh gắn chặt xuống đường.
Ai sẽ khóc
cho người đàn bà ấy?
Mất mát của nàng có
phải cũng ít thôi?
Nhưng có điều không quên
được trong tôi
Cuộc đời hiến dâng vì cái
nhìn duy nhất.
(1924)
|
Lot's wife
A man of God, he followed in the afterglow
Of an angel's footsteps across a black hill.
An anxious need nettled at his wife;
"It's never too late to look back on
The red towers of your birthplace, Sodom,
The square in which you sang, the spinning
shed,
The window in the upper room, the bed
In which you birthed your children."
She stole an almost inadvertent look
And, unsuspecting, was struck stone blind;
Her body turned to translucent salt,
Her feet were rooted in desert grit.
No one mourns a single death by firestorrnl
What does such a dying woman signify?
She simply wanted to whisper goodbye.
For that alone, that last look, she had
to die.
Tks All. NQT
Bản tiếng Anh có tí khác.
Vợ Lot
Một người của Chúa, anh ta đi theo,
trong ánh chiều,
Những bước chân của vì thiên
thần, qua ngọn đồi đen
Người vợ như muốn 1 điều gì thật
là khẩn thiết;
“Chẳng bao giờ quá muộn khi nhìn
ngoái lại
Những cái tháp đỏ nơi em ra
đời, Sodom
Quảng trường nơi em đã từng hát,
nơi em kéo sợi
Cửa sổ căn phòng bên trên
Cái giuờng nơi em cho ra đời những
đứa con "
Nàng lén 1 cái nhìn
hầu như vô thức, thiếu cẩn trọng
Và, không hồ nghi, nàng
bị quất thành đá mù.
Thân thể nàng, 1 khối muối
trong suốt
Chân dính chặt vào sỏi
đá sa mạc
Chẳng ai khóc than một cái
chết đơn độc, bởi sét đánh!
Cái chết của 1 người đàn bà
như thế có ý nghĩa gì?
Nàng đơn giản chỉ muốn thì
thầm 1 lời giã biệt.
Chỉ nội cái đó thôi,
cái nhìn sau cùng, nàng phải chết.
Marina
Tsvetaeva
Ta nâng niu một nhánh
u thảo:
Thơ Marina Tsvetaeva
I won't
fall behind you. I'm the guard.
You-the prisoner. Our fate is the
same.
And here in the same open emptiness
they command us the same-Go away.
So-I lean against nothing.
I see it.
Let me go, my prisoner,
to walk over towards that pine tree.
JUNE 1916
Trầm tư 1 mình
- độc thoại nội tâm - của 1 con chó
PHOTOGRAPH FROM SEPTEMBER
11
They jumped from the burning floors-
one, two, a few more,
higher, lower.
The photograph halted them in life,
and now keeps them
above the earth toward the earth.
Each is still complete,
with a particular face
and blood well hidden.
There's enough time
for hair to come loose,
for keys and coins
to fall from pockets.
They're still within the air's reach,
within the compass of places
that have just now opened.
I can do only two things for them-
describe this flight
and not add a last line.
Wislawa Szymborska
Những hình ảnh của ngày
11/9
Họ nhảy từ những tầng lửa cháy
một, hai, thêm vài người nữa
cao hơn, thấp hơn
Những bức hình kiềm giữ họ như thế
đó, trong đời sống
Và bây giờ,
Giữ họ ở bên trên mặt đất, về
phía trái đất
Mỗi cái thì vẫn đầy đủ,
với khuôn mặt đặc biệt
máu được giấu thật kín
Có đủ thì giờ
Cho mớ tóc xổ tung ra
Chìa khóa, tiền đồng
Rớt ra khỏi túi quần áo
Họ vưỡn cứ như thế
Ở lưng chừng trời
Ở lưng chừng những cái la bàn
Lúc này được mở ra
Tôi chỉ có thể làm hai
điều cho họ -
Mô tả chuyến bay
Và không thêm dòng
chót
Bài
thơ này, mượn hoa tiến Phật, cũng có thể
mô tả Mít chết vì tai họa biển như cá
chết:
GCC cũng chỉ có thể làm
hai điều cho họ
Mô tả số phận, chuyến tàu
chót của họ
Và không thêm
dòng chót
Cuộc họp báo công bố nguyên
nhân thảm họa biển Việt Nam giới thiệu rõ một
màn trình diễn thô vụng. Formosa Hà
Tĩnh đột nhiên trở thành…
Và không thêm
dòng chót:
Xứ Mít bị bán nhiều lần rồi,
kể từ lúc ông Hồ, ở Paris, thoát được
sự canh chừng của Cớm Tẩy, qua Moscow, được Xì tha chết,
trong chiến dịch thanh trừng cựu trào, và cho về
TQ.
Hẳn là phải có cú
phôn của Xì cho Mao, coi chừng thằng này.
The Holocaust survivor Elie Wiesel seared
the memory of the Holocaust on the world’s conscience.
Cái câu vinh danh Elie Wiesel,
khi ông vừa mất, giải thích điều Tin Văn từng
lèm bèm.
Những người như E.W, Primo Levi…
đã dùng 1 cái giùi sắt, nung
đỏ, rồi chơi 1 phát lên lương tâm Âu
Châu, và phán, đừng bao giờ quên Lò
Thiêu, nhờ vậy họ thoát Quỉ Đỏ CS.
Giả như ông Hồ cứ ở Paris, thì
Mít thoát họa CS.
Thơ
Mỗi
Ngày
A Happy Love
A happy love. Is it normal,
is it serious, is it profitable-
what use to the world are two
people
who have no eyes for the world?
Elevated each for each, for
no apparent merit,
by sheer chance singled out
of a million, yet convinced
it had to be so-as reward for
what? for nothing;
the light shines from nowhere-
why just on them, and not on
others?
Is this an offense to justice?
Yes.
Does it violate time-honored
principles, does it cast
any moral down from the heights?
It violates and casts down.
Look at the happy couple:
if they'd at least dissemble
a bit,
feign depression and thereby
cheer their friends!
Hear how they laugh-offensively.
And the language they speak-it
only seems to make sense.
And all those ceremonials,
ceremonies,
those elaborate obligations
toward each other-
it all looks like a plot behind
mankind's back!
It's even hard to foresee how
far things might go,
if their example could be followed.
What could religions and poetries
rely on,
what would be remembered, what
abandoned,
who would want to keep within
the bounds.
A happy love. Is it necessary?
Tact and common sense advise
us to say no more of it
than of a scandal in Life's
upper ranks.
Little cherubs get born without
its help.
Never, ever could it populate
the earth,
for it happens so seldom.
Let people who know naught
of happy love
assert that nowhere is there
a happy love.
With such faith, they would
find it easier to live and to die.
Under a Certain Little Star
I apologize to coincidence
for calling it necessity.
I apologize to necessity just
in case I'm mistaken.
Let happiness be not angry
that I take it as my own.
Let the dead not remember they
scarcely smoulder in my
memory.
I apologize to time for the
muchness of the world overlooked per
second.
I apologize to old love for
regarding the new as the first.
Forgive me, far-off wars, for
bringing flowers home.
Forgive me, open wounds, for
pricking my finger.
I apologize to those who cry
out of the depths for the minuet-
record.
I apologize to people at railway
stations for sleeping at five in
the morning.
Pardon me, hounded hope, for
laughing now and again.
Pardon me, deserts, for not
rushing up with a spoonful of water.
And you, O falcon, the same
these many years, in that same
cage,
forever staring motionless
at that self-same spot,
absolve me, even though you
are but a stuffed bird.
I apologize to the cut-down
tree for the table's four legs.
I apologize to big questions
for small answers.
O Truth, do not pay me too
much heed.
O Solemnity, be magnanimous
unto me.
Endure, mystery of existence,
that I pluck out the threads of
your train.
Accuse me not, O soul, of possessing
you but seldom.
I apologize to everything that
I cannot be everywhere.
I apologize to everyone that
I cannot be every man and woman.
I know that as long as I live
nothing can justify me,
because I myself am an obstacle
to myself.
Take it not amiss, O speech,
that I borrow weighty words,
and later try hard to make
them seem light.
The Suicide's Room
You certainly think that the
room was empty.
Yet it had three chairs with
sturdy backs.
And a lamp effective against
the dark.
A desk, on the desk a wallet,
some newspapers.
An un sorrowful Buddha, a sorrowful
Jesus.
Seven good-luck elephants,
and in a drawer a notebook.
You think that our addresses
were not there?
You think there were no books,
pictures, records?
But there was a consoling trumpet
in black hands.
Saskia with a heartfelt flower
of love.
Joy the fair spark of the gods.
Odysseus on the shelf in life-giving
sleep
after the labors of Book Five.
Moralists,
their names imprinted in syllables
of gold
on beautifully tanned spines.
Right next, statesmen standing
straight.
And not without a way out,
if only through the door,
not without prospects, if only
through the window,
that is how the room looked.
Distance glasses lay on the
windowsill.
A single fly buzzed, that is,
was still alive.
You think at least the note
made something clear.
Now what if I tell you that
there was no note-
and so many of us, friends
of his, yet all could fit
in the empty envelope propped
against the glass.
Semyon Lipkin (I911-2003)
Born in Odessa, Semyon Israilievich
Lipkin moved to Moscow in 1929. Unable from 1934 to publish
his own work, he turned to translating, mainly from Persian
and the Turkic languages of Central Asia. His first collection
of his own poetry appeared only in 1967. He also wrote a novel about
Stalin's deportation of the Chechens, and a memoir of Vasily Grossman.
It was Lipkin who initiated the process that led
to the text of Grossman’s Life and Fate being
smuggled out to the West.
By the Sea
The waves crashed under the
flicker of the lighthouse
and I, in my ignorance, heard
a monotone.
Years later the sea speaks
to me and I begin to understand
there are birds and laundresses,
sprites and sorcerers,
laments and curses, moans and
profanity, white horses
and half breeds who rear up
unexpectedly.
There are waves who are salesgirls
with buxom hips
who sell foam from the counter,
they tremble fluent or airy.
Nature can't be indifferent,
she always mimics us
like a loan, a translation;
we're the blueprint, she's the copy.
Once upon a time the pebble
was different
and so the wave was different.
(1965)
Yvonne Green
*
He who gave the wind its weight,
and gave measure to the water,
pointed lightning on its path,
and showed rain what rules
to follow -
he once told me with quiet
joy:
'No one's ever going to kill
you:
How can dust be broken down?
Who has power to ruin beggars?'
(1981)
Robert Chandler
Nhờ Lipkin mà Tây
Phương được đọc tuyệt tác Đời và
Số Phận của Vasily Grossman
Bác
đọc quyển này chưa – 832 trang, bây giờ
bán ở format de poche rồi. Bác cốp theo kiểu
này viết đi, lồng trong chế độ là cảnh đời của
người dân. Bác có trí nhớ phi
thường, bác không viết thì ai mà viết
được.
Tks
NQT
"Mort de l'esclave
et réssurection de l'homme libre".
Dans ce roman-fresque,
composé dans les années 1950, à
la façon de Guerre et paix, Vassili
Grossman (1905-1964) fait revivre l'URSS en guerre à travers
le destin d'une famille, dont les membres nous amènent
tour à tour dans Stalingrad assiégée, dans
les laboratoires de recherche scientifique, dans la vie ordinaire
du peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas de
l'Armée rouge. Au-delà de ces destins souvent tragiques,
il s'interroge sur la terrifiante convergence des systèmes
nazi et communiste alors même qu'ils s'affrontent sans
merci. Radicalement iconoclaste en son temps - le manuscrit
fut confisqué par le KGB, tandis qu'une copie parvenait
clandestinement en Occident -, ce livre pose sur l'histoire du
XXe siècle une question que philosophes et historiens n'ont
cessé d'explorer depuis lors. Il le fait sous la forme d'une
grande œuvre littéraire, imprégnée de vie
et d'humanité, qui transcende le documentaire et la polémique
pour atteindre à une vision puissante, métaphysique,
de la lutte éternelle du bien contre le mal.
Destin de Grossman
Vie
et destin est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème
siècle. On n'en lisait pourtant qu'une version incomplète
depuis que les manuscrits avaient été arrachés
au KGB et à la censure. Celle que Bouquins propose
désormais est la première intégrale.
Elle a été révisée à partir
de l'édition russe qui fait désormais autorité,
celle de 2005, et traduite comme la précédente
par Alexis Berelowitch et Anne
Coldefy-Faucard. Raison de plus pour se le procurer. Ce volume
sobrement intitulé Oeuvres (1152 pages,
30 euros) contient également une dizaine de nouvelles, le
roman Tout passe, texte testamentaire qui dresse
notamment le portrait d'une série de Judas, et divers documents
dont une lettre à Kroutchtchev. Mais Vie
et destin, roman dédié à sa mère
par un narrateur qui s'adresse constamment à elle, demeurera
l'oeuvre qui éclipse toutes les autres. La bataille de Stalingrad
est un morceau d'anthologie, et, au-delà de sa signfication
idéologique, la manière dont l'auteur passe subrepticement
dans la ville de l'évocation du camp nazi au goulag soviétique
est un modèle d'écriture. Toute une oeuvre parue
à titre posthume.
Dans son éclairante
préface, Tzvetan Todorov résume
en quelques lignes "l'énigme" de Vassili Grossman (1905-1964)
:
" Comment se fait-il
qu'il soit le seul écrivain soviétique
connu à avoir subi une conversion radicale, passant
de la soumission à la révolte, de l'aveuglement
à la lucidité ? Le seul à avoir été,
d'abord, un serviteur orthodoxe et apeuré du régime,
et à avoir osé, dans un deuxième temps,
affronter le problème de l'Etat totalitaire dans toutes
son ampleur ?"
On songe bien sûr
à Pasternak et Soljenitsyne. Mais
le préfacier, anticipant la réaction du lecteur,
récuse aussitôt les comparaisons au motif que
le premier était alors un écrivain de premier
plan et que la mise à nu du phénomène totalitaire
n'était pas au coeur de son Docteur Jivago
; ce qui n'est évidemment pas le cas du second avec Une
Journée d'Ivan Denissovitch, à ceci près
rappelle Todorov, qu'étant un inconnu dans le
milieu littéraire, il n'avait rien à perdre. La
métamorphose de Grossman
est donc un cas d'école unique en son genre :"mort de l'esclave et réssurection
de l'homme libre".
Bảnh hơn Pasternak, bảnh hơn
cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa, thổi
Đời & Số Mệnh
của Grossman: Cái chết của tên nô
lệ và sự tái sinh của con người tự do.
Tờ Obs, số đặc biệt về những
tuyệt tác của văn học, kể ra hai cuốn cùng
dòng, là Gulag
của Solz, 1 cuốn sách lật đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin
của Grossman: Trái bom chống toàn
trị.
TV sẽ giới thiệu bài
phỏng vấn Ovivier Rolin, trên tờ Obs.
Why
even poets hate poetry
The
Hatred of Poetry. By Ben Lerner. Farrar,
Straus & Giroux; 86 pages; $12. Fitzcarraldo; £9.99.
POETRY has always
occupied an ambivalent space in society. In the
ancient world Plato banned poets from his ideal republic;
today they have to navigate the “embarrassment or suspicion
or anger” that follows when they admit to their profession
in public. Ben Lerner understands this hatred: as a poet he has
been on the receiving end of it, but also, more interestingly,
he has felt it himself.
Long before he
published his two acclaimed novels, “Leaving the Atocha Station” and “10:04”,
Mr Lerner was known as a poet. Yet the biographical details that are woven
into this short and spirited discussion suggest an uneasy relationship with
the form. As a boy, charged with learning a poem, Mr Lerner tried to game
the system by asking his librarian which was the shortest; later in life
he confesses that he has never heard what Sir Philip Sidney described as
“the planet-like music of poetry”, nor experienced the “trance-like state”
widely said by critics to be induced by John Keats (“I’ve never seen any
critic in a trance-like state,” he adds, not unfairly.)
Yet Mr Lerner does
not see all this as a problem; indeed, he believes
it to be central to the art form. Poets and non-poets
alike hate poetry, he argues, because poetry will always
fail to deliver on the transcendental demands people have
invested in it. As a result they enjoy pronouncing upon the
abstract powers and possibilities of poetry more than they
actually like to sit down and read it. As Keats wrote in “Ode
on a Grecian Urn”, “Heard melodies are sweet, but those unheard/Are
sweeter.” Mr Lerner takes his cue from Keats, but is a little
more frank when he describes “the fatal problem with poetry: poems”.
This inevitable
sense of falling short is expressed in some of the
best poetry ever written, he says, and he elaborates
his point with energised discussions of Keats, Walt Whitman
and Emily Dickinson. But it is also inadvertently present
in some of the worst poetry ever written. “Alas! I am very
sorry to say/That 90 lives have been taken away”, wrote William
Topaz McGonagall, a Scottish poet, in a notoriously underwhelming
response to the Tay Bridge disaster of 1879. “When called
upon to memorialise a faulty bridge, McGonagall constructs another,”
writes Mr Lerner, as he dissects McGonagall’s swirling metrical
confusion with poetically informed glee across a number of pages.
But McGonagall’s
literary ineptitude is well known, and Mr Lerner’s
essay becomes most interesting when he ventures into
more contemporary territory, attacking with polemic
zeal what he sees as confused critical assaults on modern
poetry: the belief in a “vague past the nostalgists can never
quite pinpoint” when poetry could still unite everyone, or in
a “capacity to transcend history” that often seems to rely on
its poetic purveyors being “white men of a certain class”. The
hatred of poetry, Mr Lerner shows, can suddenly and revealingly
become a vehicle for bitter politics. Yet he also sees communal
redemption in the strange bond people have with this ancient
art form: if we constantly think poetry is an embarrassing failure,
then that means that we still, somewhere, have faith that it can
succeed.
http://tanvien.net/new_daily_poetry/9.html
MIRRORS AT 4 A.M.
You must come to them sideways
In rooms webbed in shadow,
Sneak a view of their emptiness
Without them catching
A glimpse of you in return.
The secret is,
Even the empty bed is a
burden to them,
A pretense.
They are more themselves
keeping
The company of a blank
wall,
The company of time and
eternity
Which, begging your pardon,
Cast no image
As they admire themselves
in the mirror,
While you stand to the
side
Pulling a hanky out
To wipe your brow surreptitiously.
Charles Simic: Sixty
Poems
Gương, 4 giờ sáng
Bạn phải rón rén,
me mé, tới đó (1)
Những căn phòng,
đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn
1 cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để chúng lén
"đợp" lại bạn
Cũng 1 cú!
Niềm bí ẩn là,
Ngay cả cái giường
trống trơn
Thì cũng là
1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy bình
yên hơn
Cảm thấy chúng là
chúng hơn
Khi có bạn quí
cận kề
Là bức tường trần
trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu
Những thứ đó, xin lỗi
bạn
Chúng đếch để bóng
của chúng
Trên mặt gương
Khi chúng tự sướng
Trong lúc bạn đứng né
qua 1 bên
Rút chiếc khăn tay
Kín đáo lau
lông mày
1.
with one side faced forward
<I had to walk sideways to
get between the two towering piles of boxes>
Synonyms broadside, crabwise,
edgeways [chiefly British] [net]
Chữ này - sideways - của
tiếng anh hay quá, tiếng việt không có từ tương đương
. Nó vừa có nghĩa là không
đi thẳng đến trước mặt, chỉ đi bên mé, bên
rìa, hoặc đi bằng ngõ vòng vo, lại
vừa có nghĩa len lén .
K
Note: Bài
thơ này, mới thấy trên Gió-O.
Nhớ là, không
làm sao dịch được từ "sideways", bèn cầu
cứu K.
Tks again.
Bản của Lý Ốc, theo
Gấu, dịch ẩu quá, "as always": "to them" sao mà
là "đến bên cạnh chúng"; nếu
đã "lén" lau chân
mày, thì cắt bỏ "một cách
kín đáo"!
Thảo nào, ngay cả
thi sĩ mà cũng thù ghét thơ!
Why?
Poets and non-poets alike hate
poetry, he argues, because poetry will always fail to deliver on
the transcendental demands people have invested in it. As a result
they enjoy pronouncing upon the abstract powers and possibilities of
poetry more than they actually like to sit down and read it. As Keats
wrote in “Ode on a Grecian Urn”, “Heard melodies are sweet,
but those unheard/Are sweeter.” Mr Lerner takes his cue from
Keats, but is a little more frank when he describes “the fatal
problem with poetry: poems”.
Đọc thơ tán gái/thơ
ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền thì
thật là ngọt ngào/ Nhưng đếch đọc chúng,
ngọt hơn nhiều!
Thơ luôn thất bại,
không đáp trả những đòi hỏi siêu
thoát mà người đọc đầu tư vào nó
Cái vấn nạn tàn
khốc của thơ, chính là: những bài thơ!
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBRTamGuongDich.htm
Những Tấm Gương Lúc 4 AM
Em hãy đi nép đến bên
cạnh chúng
Những căn phòng trong
in bóng sọc giăng,
Len lén nhìn
vào cõi không gian trống trơn
Đừng để chúng bắt
dính
Một ánh liếc nhìn
của em dội lại.
Bí mật là,
Ngay cả chiếc giuờng trống
cũng mang gánh nặng,
Một sự giả vờ.
Chúng vẫn còn
đang tự gắn liền
Sự kết liên với bức
tường phẳng tắp,
Mối thân quen cùng
với thời gian và muôn năm
Mà, xin em,
Hãy lánh mặt
Khi chúng tự ái
mộ mình trong gương;
Trong khi em đứng nép bên
cạnh
Lấy ra chiếc khăn tay
Em lén lau nét
chân mày một cách kín đáo.
|