Huỳnh
Phan Anh, Gấu, và Thời của Chúng Ta!
1.
Phỏng vấn HPA
Nhà
văn - dịch giả Huỳnh Phan Anh: Tôi đã và vẫn sẽ là một người VN.
"Tôi
nghĩ rằng sống còn chưa ra con người mà muốn trở thành nhà văn thì hơi
khó. Anh
phải là con người có giá trị thì những gì anh viết ra, người ta mới tin
được.
Tôi nghĩ trong khi chờ đợi làm nhà văn thì hãy làm người đã. Điều đó
cũng có
ích cho xã hội".- HPA
*
Thưa ông, sau nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực văn học ở VN cả trước
và sau
năm 1975, bây giờ, ông có một vị thế rất thuận lợi để nhìn nhận cả hai
nền văn
học Mỹ và VN dưới góc độ của một nhà văn sinh sống tại Mỹ...
-
Trước hết, tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống tại Mỹ một
vài năm
hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời thì tôi cũng khó hội nhập được
vào
nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong. Tôi là một nhà văn
VN sinh
sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng của gia đình. Tôi biết rằng có một vài
người tại
Mỹ tự bỏ tiền ra in tác phẩm của mình rồi tự xưng là nhà văn lưu
vong... Nhưng
tôi đã và vẫn sẽ là một người VN.
"Những
tác phẩm văn chương mà cứ đâm sầm vào chính trị với những thiên kiến
thì khó có
thể có chỗ đứng trong độc giả.... Tôi vẫn nhớ lời nhà văn Boris
Pasternak nói
rằng "một nhà văn không thể xa rời tổ quốc mình". Nếu không nặng lòng
với đất nước quê hương thì không thể nào hiểu được tâm trạng của những
người
cùng dòng máu..." - HPA.
-Dù
sao thì ông cũng có quan sát đời sống văn học của nước Mỹ chứ?
-
Có, mặc dù không nhiều lắm. Do là một người từng dạy triết và dịch văn
học nên
tôi chú ý đến hai mảng này hơn cả.
Thị
trường văn học dịch ở Mỹ vô cùng đa dạng; tôi có cảm tưởng bất cứ tác
phẩm cổ
kim đông tây nào họ cũng đều dịch hết, chẳng thiếu một cuốn nào. Có
điều khiến
tôi ngạc nhiên là nhiều người sống khá sung túc, đầy đủ tiện nghi,
nhưng họ vẫn
dịch văn học, một công việc mà rõ ràng là không hề được trả công cao.
Cách
lý giải có lý nhất có lẽ cũng chính từ đặc điểm ấy: họ có nhiều tiền và
khi đó,
việc dịch văn học không phải nhằm mục đích sinh nhai nữa mà chỉ để làm
phong
phú thêm cho nền văn học Mỹ.
Trong
khi đó triết học ở nước Mỹ khá nghèo nàn, hay nói cho đúng hơn là nước
Mỹ thiếu
một căn bản triết học. Bởi vậy sách triết ở Mỹ không phong phú cho lắm.
Chỉ cần
một tác giả nào đó, người Mỹ hay nước ngoài cũng vậy, tương đối độc đáo
một
chút, là có thể dễ dàng nổi tiếng.
*
Trước đây, ông có nói đến con số cô đơn "1.000 bản" của mỗi tác phẩm
in trên thị trường VN. Bây giờ, sau một thời gian biết về ngành xuất
bản ở Mỹ,
theo anh có cách nào để thoát khỏi cái tình trạng "cô đơn" kỳ cục đó
không?
-
Tôi nghĩ chủ yếu vẫn do cơ chế xuất bản ở ta mà thôi. Cái cơ chế này
chỉ làm
giàu cho mấy anh làm sách, còn tác giả viết hoặc dịch sách không bao
giờ có thể
giàu được.
Thực
ra thì tôi biết không có cuốn nào tương đối đắt khách mà lại in dưới
con số
2.000 bản đâu, nhưng tác giả thì bao giờ cũng chỉ được lĩnh nhuận bút
theo con
số 1.000 bản đó thôi.
Ở
Pháp, nếu in được 50.000 bản trở lên thì người ta khoe nhắng cả lên,
còn ở ta
thì càng giấu đi được bao nhiêu càng tốt! Chính cái hiện trạng này dễ
tạo ra ấn
tượng rằng người VN không đọc sách, còn tác giả viết sách, dịch sách
thì không
sống nổi. Như cuốn Thế giới của Sophie tôi dịch trước đây, trên thế
giới bán
được hàng triệu bản, ở VN cũng chỉ đề in có 1.000 bản mà thôi. Hầu hết
sách đều
do đầu nậu làm, chỉ cần nhấc điện thoại lên điều đình 5 phút là xong...
*
Ở nước ngoài, ông có theo dõi văn học trong nước hay không?
-
Thành thực mà nói tôi đọc không nhiều. Đó là thiếu sót lớn nhất của
tôi. Nhưng
qua những gì tôi biết, tôi vẫn cảm thấy những cây bút trẻ đã thổi một
luồng không
khí mới vào đời sống văn học VN. Những người trẻ viết ít run tay và rất
trong
sáng. Tôi vẫn nhớ những tên tuổi như Phan Thị Vàng Anh, Châu Giang,
Phan Triều
Hải. Đọc Bảo Ninh tôi rất thích. Cuốn Nỗi buồn chiến tranh anh ấy viết
như một
công trình văn chương chứ không phải một sơ đồ tư tưởng.
*
Hiện nay ông đang làm gì?
-
Tôi im hơi lặng tiếng lo những việc của mình. Sống ở Mỹ nhưng tôi không
là công
cụ của ai, cũng không thỏa hiệp với ai. Tôi thỏa hiệp với mình còn chưa
xong
nữa là!
YÊN
BA (Báo
TN)
Học
triết ở Đà Lạt từ 1961 đến 1964 rồi về Sài Gòn dạy triết, Huỳnh Phan
Anh là một
nhà giáo "đi lạc vào văn học" - như ông tự nhận với bạn bè. Cả trước
và sau 1975, cái tên Huỳnh Phan Anh được nhiều người biết tới với tư
cách là
tác giả - phê bình, dịch giả.
Các
tác phẩm phê bình văn học của Huỳnh Phan Anh từng được nhiều người
biết
như Văn chương và kinh nghiệm, Đi tìm tác phẩm văn chương...; hay các
tác phẩm
dịch của ông như Tình yêu bên bờ vực thẳm, Chuông gọi hồn ai, Bãi
hoang, Thời
gian của một tiếng thở dài, Hò hẹn trên đồi, Tình cuồng, Thế giới của
Sophie,
Sa mạc, Thơ Paul Eluard, Thơ Victor Hugo... đã quen thuộc với nhiều
người. Từ
năm 2002, ông sang định cư tại Hoa Kỳ.
[Trích
báo Tuổi Trẻ trên web]
2.
Lưu
Vong Hay Không Lưu Vong, Đó Là Vấn Đề.
Huỳnh
Phan Anh qua Mỹ năm 2002, là do cô con gái bảo lãnh. “Ông bạn của tui”
có thể
coi mình là một nhà văn di dân, thành thử khẳng định, tôi không bao giờ
là một
nhà văn lưu vong, là không cần thiết. Lại càng không cần thiết, khi HPA
nhắc
tới những người ở Mỹ tự bỏ tiền in tác phẩm rồi tự xưng là nhà văn lưu
vong.
Có
lẽ nên để vào một dịp khác bàn về, thế nào là nhà văn lưu vong, nhưng
một nhà
thơ như Brodsky, một nhà văn như Kundera, bất cứ một độc giả khi đọc
họ, đều
nhận ra, đây là những người viết lưu vong, theo nghĩa, họ sẽ bị bỏ tù,
bị sát
hại, vì những gì họ viết ra, nếu còn ở quê hương của họ. Làm người đã,
rồi hãy
làm nhà văn, nếu nhìn theo quan điểm của những nhà văn nhà thơ trên, là
như
vậy. Họ vừa muốn làm người, vừa muốn viết văn. Ở quê hương của họ, họ
không làm
sao làm được cả hai. Với họ, vấn đề hãy làm một người dính cứng với vấn
đề viết
văn. Bởi vì họ không thuộc vào những người không hề biết tới văn
chương, mà vẫn
là những con người hoàn toàn!
Về
câu hỏi, “Thưa ông, sau nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực văn học ở VN
cả
trước và sau năm 1975, bây giờ, ông có một vị thế rất thuận lợi để nhìn
nhận cả
hai nền văn học Mỹ và VN dưới góc độ của một nhà văn sinh sống tại
Mỹ...”… Tôi
nghĩ đây là một câu hỏi tuyệt vời, dành cho HPA, và người hỏi đã đặt
rất nhiều
kỳ vọng vào ông. Nhưng HPA đã trả lời chẳng đâu vào đâu cả, thật uổng
cho người
dụng tâm đặt câu hỏi, và cho độc giả, mong được nghe những lời thực,
việc thực,
và người thực. Huỳnh Phan Anh là một trong những người viết nổi tiếng
của thập
niên 1960, thuộc trào lưu “tiểu thuyết mới” tại miền nam Việt Nam, khởi
nghiệp
viết vào lúc cuộc chiến đang ở mức tàn khốc nhất của nó. Người phỏng
vấn kỳ
vọng ở ông, sẽ cho người đọc biết, ít ra là về ba giai đoạn văn chương,
theo
tôi:
-Trước
1975 tại miền nam.
-Sau
1975, tại miền nam, mà HPA đã tham dự ngay từ những ngày đầu, tác giả
của,
thí dụ như “Những Tháng Ngày Êm Ả”, kịch bản chuyển
thành
phim ảnh.
-Những
ngày mới mẻ ở Mỹ của ông, như là một nhà văn trước 1975 của miền nam
tái ngộ
bạn bè “cùng hội cùng thuyền” ở Mỹ, những người cũng như ông, nhưng
cũng khác
ông….
Về
triết học ở Mỹ, tôi sợ HPA không rành, khi cho rằng triết học ở nước Mỹ
khá
nghèo nàn, sách triết ở Mỹ không phong phú cho lắm. Bởi vì bất cứ một
nhà xuất
bản đại học nào ở Mỹ đều có riêng một hay nhiều tủ sách triết của họ.
Nếu
thiếu, là thiếu những bực đại sư phụ, như Foucault, Derrida… và những
ông này,
đều được trọng vọng ở Mỹ, và nếu không có Mỹ, sợ rằng, mấy ông cũng
chẳng có
đất để mà dụng võ. Bảo nước Mỹ thiếu một căn bản triết học, nói như vậy
thì
cũng giống như người Pháp đã từng chê nước Mỹ là một quốc gia không có
lịch sử.
Nhưng để đưa ra một cái nhìn cho vấn đề này, ở đây, có lẽ nên viện đến
câu trả
lời của Steiner, trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ Điểm Sách Paris,
khi người
phỏng vấn đặt câu hỏi:
-Nhưng
chắc chắn có điều gì liên quan tới tính cách của cuộc sống trí thức và
văn
chương Mỹ, và nó làm ông giãn ra.
Steiner:
Vâng. Tôi viết một tiểu luận được tái đăng nhiều nhất và bị ghét bỏ –
trong số
những gì tôi viết, đây có lẽ là bài bị ghét bỏ nhiều nhất – tên là "Thư
Khố Vườn Địa Đàng" (The Archives of Eden), trong đó tôi dướn mãi cổ lên
mà
nói rằng những bảo tàng viện, thư khố, những viện nghiên cứu, đại học
Mỹ sẽ là
trung tâm của thế giới văn hóa, sống nhờ nghệ thuật, triết học, siêu
hình học
của Âu Châu. Nói vậy có nghĩa, rằng những Wittgenstein, những
Heidegger, những
Sartre của trái đất này sẽ vẫn tiếp tục tới, từ một Âu Châu tự sát, bị
moi
ruột, tan hoang rã rời; rằng tác phẩm loại nhì - chứ không phải loại
nhất - đang
làm đầy văn hóa Mỹ, và cứ thế tràn lan ra mãi; rằng de Tocqueville đã
đúng, khi
ông nói về một chủ nghĩa đồng hạng sâu xa, cố hữu, (a deep inherent
egalitarianism) ở trong những hy vọng của tâm hồn Mỹ; rằng cái thứ công
lý xã
hội và chủ nghĩa đồng hạng, và phép lịch sự (decency) – hãy gạch dưới
từ này
bằng tám cây bút chì đỏ! – trớ trêu làm sao [lại tỏ ra] thù nghịch với
một vài
phẩm chất triết học dứt khoát thuộc loại thượng hảo hạng và có lẽ [thù
nghịch
cả với] sáng tạo nghệ thuật
Về
câu nói của Boris Pasternak, tôi sợ rằng HPA không nói hết ý của nhà
văn này,
bởi vì, như chúng ta đều biết, khi ông được Nobel văn chương, nhà nước
Xô Viết
đã bắt bí ông: Nếu đi nhận giải Nobel thì đừng về. Chính vì vậy mà ông
phải từ
chối. Ông quá yêu nước Nga. Và ông biết, với ông, rời khỏi nước, là
không thể
viết được. Nhưng trường hợp của Brodsky, hay của Solzhenitsyn lại khác
hẳn. Hai
ông này, phải ra ngoài mới viết được. "Một nhà văn không thể xa rời tổ
quốc mình", nếu nói thế, chẳng lẽ hai ông sau không còn là nhà văn nhà
thơ, và không yêu nước Nga, vì đã rời xa tổ quốc yêu quí của họ?
Về
cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, tôi không hề nghĩ, tác giả của nó, đã từng
mơ tưởng
một hoang tưởng, rằng, cuốn tiểu thuyết của ông, sẽ là một “sơ đồ tư
tưởng.
NQT
Phụ
lục: Thư độc giả, và bạn.
[Mấy
cái meo này, tôi nhận được, từ một độc giả tới email trang Tin Văn,
hoặc từ
bằng hữu, tới mail riêng. NQT]
Anh
NQT thân mến,
….
Nay tôi cũng vừa mới đọc bài viết của HPAnh trên Tuổi Trẻ [trên net],
và cũng
thấy hơi phiền ông này về vài chỗ: thí dụ chuyện viết về nhà văn lưu
vong, và
chuyện triết học ở Mỹ. Hãy gác chuyện lưu vong qua đã, bây giờ chỉ nói
chuyện
triết học ỡ Mỹ có nghèo nàn hay không. Câu nói của HPA chứng tỏ ông ấy
chưa kịp
sinh hoạt với môi ttường triết học của Mỹ… Tôi gửi email này để có dịp
anh thân
mật chuyển thông tin này cho HPA vì tôi biết anh và HPA cũng là chỗ tri
giao.
Đa
số trường đại học, và ngay cả cộng đồng ở Mỹ cũng có những department
of
Philosophy, trong đó đầy những lớp căn bản về triết học cho năm thứ
nhất và thứ
nhì. Sau đó, ai chuyên về triết thì học thêm lên. Các loại triết thường
được
giảng dậy là: Analytic Philosophy, Continental Philosophy, Philosophy
of
Language, Ethics (Moral Philo), Metaphysics, có đại học như
North-Western
University of Illinois hay Duquesne Univ. ở Pennsylvania hay có khi UC
Irvine,
CA cũng thường nghiên cứu Existentialism, hay Phenomenology, của
Husserl, hay
các tác giả hiện đại như M. Foucault, J. Derrida, J. Habermas. Đó là
chưa kể
các ngành khác, như Political Philo, Social Philo, Philo of
Mathematics, Philo
of History… Các vị giáo sư các trường lớn, chừng 10 năm giảng dậy, là
có in
sách về đề tài chuyên môn của họ. Chỉ xin kể một số những tên tuổi gần
đây
nhất, về Analytic Phil và Phil of Language (có liên quan tới Literary
Theories
& Criticism) của Mỹ, là: R. Rorty, Donald Davidson, David Lewis, W.
Sellars, hay khá lẫy lừng là W. Quine (Analytic Phil), John Rawls
(Political
Phil),… thì đủ biết triết Mỹ phong phú đa dạng không thể bảo là nghèo
nàn được…
xin anh khuyên HPA nên tìm hiểu lại. Chắc là vì mới qua một năm nên HPA
chưa
biết. Vì có chút cảm mến khi đọc cuốn Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô
của HPA
hơn 20 năm trước nên mới có email này…
Trước
thềm năm mới…
Thân
mến,
TN
-Ôi,
trả lời phỏng vấn trong nước như vậy là ổn rồi, cho anh coi cái này,
còn tệ
hơn...
-Nhưng
đây là ông bạn chí thân của tui...
-Ô,
nếu thế, phạng như vậy là còn nhẹ lắm! Nếu cần, viết thư riêng, phạng
cho đã!
....
-Mày
viết như vậy, về thằng T. là nặng lắm đấy!
******
Những
câu đối đáp qua email bắt Gấu chạy ngược về dĩ vãng, những ngày mới
quen biết
anh bạn HPA. Nhưng cái tin về cô bé LH ngày nào cả anh cả Gấu tôi đều
biết, làm
cho tôi nóng nảy hơn. L.H hay Bông Hồng Đen, La Rose Noire, theo như
Gấu tôi
đuợc biết, sắp sửa từ biệt Gấu tôi và cuộc đời này.
Từ
biệt Gấu, thì từ lâu rồi, từ những ngày Gấu chưa lập gia đình
Nhưng
chả lẽ lại bắt đầu viết về những kỷ niệm tuyệt vời nhất trong đời một
người,
bằng những lời lẽ cay đắng về một người bạn từ thuở tuyệt vời nhất đó?
Tôi
quen HPA là qua ông anh của BHĐ [Bông Hồng Đen]. Qua ông anh, tôi biết
cô em,
lúc ấy còn bé tí, mới mười một tuổi, và không thuộc típ người nẩy nở
sớm, ốm
tong teo, da ngăm ngăm đen, cặp mắt long lanh, cái răng khểnh, khi
cười, là
cười bằng răng, còn riêng cặp mắt long lanh đó, thì như chiếu thẳng vào
tận tim
đen, tâm hồn đen tối của tôi, như hỏi thẳng thừng, anh yêu tôi, có phải
không?
Tôi đọc thấy điều này, mà có thể chính anh cũng không thể nào đọc
thấy.....
Tuy
học triết, và đã từng tụng hết cuốn Hữu Thể và Hư Vô của Sartre, kinh
nghiệm
đọc Sartre của HPA và của tôi có những điểm giống nhau. Với cuốn sách
triết dầy
trên năm, bẩy trăm trang, anh chỉ giữ lại hình ảnh khép lại nó: con
người là
một đam mê vô ích.
Tôi
cũng chỉ mê mỗi câu này, khi đọc ba chớp ba nhoáng giữa hữu thể [L.H],
và hư vô
[cuộc chiến đang rình mò?] thời gian yêu L.H và được nàng đáp lại.
Cũng
vậy, hai chúng tôi đều đọc Buồn Nôn, không cùng lúc, nhưng cùng thời,
trong một
quán chệt, có hủ tíu, bánh mì xí mại, cà phê túi, hồng xà, có gần như ở
bất cứ
một góc nào đó của Sài Gòn. Với tôi, là một tiệm nơi Chợ Đũi, đối diện
rạp ciné
không còn nhớ nổi tên, buổi sáng từ Phú Nhuận chạy chiếc solex tới,
thường là
gọi hủ tíu, cà phê, và ngồi chờ L.H đưa em gái tới trường học, thì cũng
vẫn
trường Kiến Thiết trước đó cô bé đã từng học.
Và
tôi từ biệt ông Sartre, hai đứa đi lang thang trong vườn Bờ Rô, trên
đường đưa
cô bé về nhà.
Hay
tại quán đầu đường Gia Long/Lê Văn Duyệt, không có hẹn, mà chỉ ngồi gần
nhà em,
để thỉnh thoảng ngưng đọc Sartre, hay Dostoievky, và ngó lên căn phòng
trên lầu
ba.
Và
cả hai đứa chúng tôi đều tin rằng còn nhiều độc giả khác nữa, không thể
quên
cái xen anh chàng Tự Học [L' Autodidacte] bị tay quản thủ thư viện
người Corse
đánh cho sặc máu mũi, vì cái tội vẫy gọi nhau làm người, đam mê làm
người, say
mê chủ nghĩa nhân bản, trong Buồn Nôn... Gấu tôi sẽ còn trở lại với
nhân vật Tự
Học này, vì , nếu thiếu anh, những ngày mới lớn của Gấu tại Sài Gòn sẽ
nghèo đi
rất nhiều.
Vả
chăng, đây cũng là nhân vật ám ảnh Roequentin cho tới ngày cuối cùng,
của Nhật
Ký [tức Buồn Nôn].
Ôi
chao, [tôi] đang học làm người!
Ôi
chao, làm người đã, rồi hãy làm nhà văn!
Nói
gì thì nói, thế hệ của chúng tôi, trên toàn thể thế giới, bắt đầu lớn
vào những
năm 1960, tôi muốn nói những người mê đọc, và quá chút nữa, mê viết, và
quá
chút nữa, hy vọng viết được, đều không ít thì nhiều ảnh hưởng, hoặc
Sartre,
hoặc Camus. Một số nhà văn đã thành danh, thí dụ như Grass, LLosa, hay
Paz… đều
viết về những tháng phân vân giữa hai ông thầy kể trên. Grass, nhà văn
Đức,
sinh năm 1927 trong một lần phỏng vấn, cho biết, ông chọn Camus, và sau
này,
ông nghĩ là đã chọn đúng. LLosa, [sinh 1936, Arequipa,
Peru]
đã chọn Sartre, và
sau đó, đã thất vọng.
[Sau
đây sẽ tóm tắt một số suy nghĩ của Grass, LLosa, và của Paz về Sartre]
Ở
Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền trong cuốn tiểu thuyết đầu tay, Bếp Lửa, đã
để cho
nhân vật Tâm làm quen với một cô đầm, và cô đầm này, là một sinh viên
khuynh
tả, đã từng gặp Sartre….
Trong
một bài viết về La Nausée, tôi có nhắc tới một kỷ niệm về nó, một lần
ngồi
Pagode, vào cái thời mới tập tành viết, và đã dám hùng dũng tuyên bố
với bậc
đàn anh, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, là Gấu tôi mê cuốn đó lắm! Ông trợn
mắt,
không tin, và hỏi gặng lại:
-‘Cậu’
hiểu nó hả?
-Em
nghĩ là… hiểu!
Ông
thở dài than:
-Vậy
là cậu hơn tôi rồi!
Bao
nhiêu năm sau, giờ này, ngồi viết những dòng này, Gấu tự hỏi chính Gấu:
Mi hiểu
La Nausée của Sartre?
Cứ
cho như mi hiểu đi, như vậy thì mi có hiểu được Bông Hồng Đen,
“của mi”
không?
Bởi
vì, có thể đây là hậu quả của hai cái việc hiểu trên:
Nếu
hiểu Sartre , không hiểu LH!
Và
nếu hiểu LH, không hiểu Sartre!
[Liệu
có thể coi Hữu Thể và Hư Vô: một cuốn tự thuật, về cuộc tình
của
Sartre và Simone de Beauvoir: một là Hữu, một là Vô?]
3.
“Ông
bạn của tui” có thể coi mình là một nhà văn di dân…
Brodsky,
trong một buổi nói chuyện tại Vienna, năm 1987, về
nhà văn lưu vong, đã xin cử tọa trầm ngâm một phút, để nghĩ tới, thí
dụ, một di
dân tại Tây Đức mà thực tại, môi trường sống, thiên nhiên, con người ở
nơi đó
chẳng hề muốn, hay những thuyền nhân Việt Nam đang ở đầu ngọn sóng, nơi
biển
cao, hay đã được tạm trú trong những trại tị nạn Đông Nam Á…. hàng
triệu triệu
con người như thế đó, đã tạo nên hiện tượng gọi là thiên di, là dời đổi
từ chỗ
này tới nơi khác [migration]. Ông viết, cho dù bất cứ một tên gọi, di
dân, tị
nạn, lưu vong… tất cả đều có chung một “chân lý” - đúng như ông bạn của
tui đã
phát biểu, “Tôi là một nhà văn VN sinh sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng
của gia
đình” - là, chạy từ một chỗ tồi tệ tới một nơi chốn khác khấm khá hơn.
Từ một
chế độ bạo tàn, con người chỉ lưu vong, để có được tự do dân chủ.
Theo nghĩa đó, lưu vong đối với một nhà văn, chính là về nhà, về cái
chỗ mà anh
ta được thoải mái ngồi viết! Hoàn cảnh riêng gia đình, đối với anh bạn
của tôi,
thể nào cũng le lói từ đó, một hy vọng: Sang Mẽo, mình có nhiều điều
kiện viết
lách hơn, so với ở VN. Vẫn theo nghĩa đó, VN không còn là nhà của một
nhà văn như
là HPA. Thành thử, đi đâu, ở đâu, tôi vẫn là người VN, là một “chân lý”
cần
phải xét lại, đối với một nhà văn VN.
Tôi đã từng đọc một bài viết, bằng tiếng Anh, ghi lại một cuộc phỏng
vấn của
một nhà văn nhà nước VN, đi ngao du nước ngoài, với tư cách là một nhà
văn nhà
nước VN. Xin phép cho tôi không nhắc tới tên nhà văn này ở đây. Ông ta
tuyên
bố, khi được hỏi, rằng, ở VN bi giờ, chúng tôi được tự do, muốn viết gì
thì
viết! Một nhà phê bình trẻ tuổi, ở trong nước, trong một cuộc phỏng vấn
do đài
BBC thực hiện, đã than thở, văn học VN bi giờ ẹ lắm, nhưng giải thích
thêm,
không phải nhà nước cấm viết, cấm đụng tới những đề tài "tế nhị", mà
là do nhà văn VN không có tài, viết dở như hạch!
Một ông khác, [nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, nhà dịch thuật Dương
Tường],
trên diễn đàn Talawas, nói huỵch toẹt: nhà văn chúng ta... dốt quá!
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ tới một nhân vật mà Hemingway nhắc tới, ở
ngay
chương đầu Mặt Trời Vẫn Mọc. Anh chàng nhà văn võ sĩ này than thở với
bạn, tôi
phải đi Phi Châu mí viết được! Bạn trả lời, với cái đầu 'bò" như thế,
đi
đâu cũng chẳng viết được!
Nhà văn VN ở Đức, PTH, có lần trả lời phỏng vấn, cứ bật cái PC
lên, là đã
thấy Việt Nam [theo nghĩa, ở nhà] rồi, tha hồ mà viết!
Thành thử cái chuyện ở nhà, đi, và viết văn, nó cũng nhiêu khê chứ
không đơn
giản. Đi đâu, cũng vác theo cái đầu bò, hay là dốt quá, ẹ quá, dù có
ban cho đủ
thứ tự do, dân chủ, chưa chắc đã đẻ ra tác phẩm!
3.
…..
Mà HPA tham dự ngay những ngày đầu.
Cần phải viết thêm ở đây: Tôi không nghĩ bạn tôi là một tay cách mạng
30 tháng
Tư, theo một cái nghĩa thảm hại, là, bạn tôi thuộc trong số những người
chạy
theo cơ hội, đón gió trở cờ.
HPA
đã từng tin, như bất kỳ một người miền nam nào đã từng tin vào người
anh em
ruột thịt ở miền bắc. Với riêng cá nhân tôi, tôi biết chắc chắn có… ba
người.
Hai người đã mất, chỉ còn HPA, những ngày đó, đó. Tôi không nghĩ bạn
tôi vẫn
còn tin tưởng vào người anh em ruột thịt, và cái câu nói “Tôi không bao
giờ là
nhà văn lưu vong”, nó có nhiều nghĩa lắm, có khi còn có cả cái nghĩa
“Tôn Phu
Nhân Qui Thục” nữa đấy!