AMOR
FATI - Nguyễn Hữu Liêm
& Bạc Giả
Nguyên
Châu
Câu
Chuyện Triết Học
Friedrich
Nietzsche - Quan
Niệm “Amor Fati” và Kiến Thức của Một Thầy Triết.
Trong
bài viết nhan đề “Cái
Âm Điệu Tủi Thân, Bi Đát” đăng trên báo Văn số 80, tháng 8-2003, Nguyễn
Hữu
Liêm đã bàn về tương quan giữa âm nhạc và sự mất nước của nhà Nguyễn,
của Việt
Nam Cộng Hòa...qua giọng hát của một số nữ ca sĩ như Khánh Hà, Khánh
Ly, Ý Lan.
Những lý luận lẫm cẩm, sai lầm về âm nhạc, về lịch sử và tương lai dân
tộc...
mà Nguyễn Hữu Liêm vấp phải, đã được nhiều người vạch ra và điều chỉnh.
Nay còn
lại vấn đề triết học, tưởng cũng cần nói thêm, vì, được biết, Nguyễn
Hữu Liêm,
ngoài nghề Luật sư, còn làm thầy dạy triết học ở San José City College.
Việc
chẳng đặng đừng bởi “làm thầy thuốc mà sai chỉ hại chết một người, làm
chính
trị mà sai hại cả một nước, làm văn hóa mà sai thì hại nhiều thế hệ”.
Cớ sự
là sau khi lập luận một
cách thiếu căn cứ để chứng minh rằng “Cái thối nát của con người khởi
đi từ sư
thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos của tâm thức...” Nguyễn Hữu
Liêm dẫn
chứng triết gia Nietzsche để hỗ trợ cho lập luận của mình. Ông Liêm
viết:
“Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor
fati - cái
bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati
của dân
Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua
nhạc Chàm,
qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước
mắt...”
Qua
câu trên, tôi thấy
Nguyễn
Hữu Liêm quả thật chưa hiểu quan điểm và triết lý của Friedrich
Nietzsche, một
triết gia Đức cuối thế kỷ 19 (1844-1900). Một triết gia đã gây ảnh
hưởng lớn
lên tư tưởng của cả Âu châu, chuyển hóa cả một thời đại.
Ảnh
Hưởng của Nietzsche Đối
với Tư Tưởng Thế Kỷ 20.
Nietzsche
đã viết rằng có
một
số người được sinh ra sau khi đã qua đời [born posthumously], đây đích
thị là
trường hợp của bản thân ông ta. Nietzsche mất năm 1900. Sau khi ông qua
đời,
các triết gia Đức như Max Scheler, Karl Jaspers và Martin Heidegger đã
dốc sức
vào món nợ của Nietzsche, cùng với các triết gia Pháp như Albert Camus,
Jacques
Derrida và Michel Foucault, trong nỗ lực cứu con người ra khỏi tình
cảnh mà
triết lý Hiện sinh gọi là “bị ném vào thế giới” nghĩa là bị bỏ rơi mặc
cho định
mệnh hành hạ và không chế. Triết lý Hiện sinh, một trào lưu triết học
và phê
bình văn học đã khởi nguyên từ tư tưởng và triết thuyết của Nietzsche.
Do đó,
lịch sử của thế kỷ 20 về triết học, thần học và tâm lý học sẽ không thể
hiểu
được nếu không tìm về Nietzsche.
Các
nhà thần học như Paul
Tillich và Lev Shestov thừa nhận đã được lời tuyên bố “Thượng đế đã
chết” của
Nietzsche soi đường. Martin Buber, một nhà tư tưởng Do thái giáo lớn
nhất thế
kỷ 20, đã xem triết học Nietzsche là một trong ba ảnh hưởng quan trọng
nhất
trong cuộc đời ông ta. Martin Buber đã dịch phần đầu cuốn “Also sprach
Zarathustra” [Zarathustra đã nói như thế] ra tiếng Ba-lan. Các nhà tâm
lý học
như Alfred Adler, Carl Jung cũng đã chịu ảnh hưởng Nietzsche rất sâu
xa.
Sigmund Freud, nhà phân tâm học noi tiếng cũng đã nói về Nietzsche
rằng, qua
triết học Nietzsche, ông ta đã hiểu sâu được chính mình hơn. Các nhà
viết tiểu
thuyết như Thomas Mann, Hermaann Hesse, André Malraux, André Gide và
John
Garner cũng nhận cảm hứng từ Nietzsche và đã viết về Nietzsche. Các thi
sĩ và
các nhà soạn kịch như George Bernard Shaw, Rainer Maria Rilke, Stefan
George và
William Butler Yeats cũng thế. Như vậy Nietzsche là một trong những
triết gia
có ảnh hưởng lớn nhất thời đại. Sự kiện này không những chỉ bắt nguồn
từ tư
tưởng triết học của Nietzsche mà còn vì ông ta là một nhà văn lỗi lạc
của ngôn
ngữ Đức quốc.
Triết
lý của Nietzsche được
mệnh danh là triết học về Siêu Nhân [Ubermench, thường được dịch là
“Superman”]. Khái niệm “Siêu Nhân” của Nietzsche được hiểu là một con
người có
khả năng vượt lên trên mọi giới hạn, mọi ràng buộc của đạo lý thường
tình đã có
từ bao nhiêu đời và do các tôn giáo đặt định ra. Nietzsche xem mọi lệ
luật giáo
điều đều là “nô lệ tinh thần”đặt trên căn bản ham muốn và đố kỵ, đó là
thứ luân
lý của những kẻ hèn yếu, đố kỵ và sợ hãi sức mạnh, sợ cả sự tự hào và
tự quyết
của bản thân. Theo Nietzsche, những thứ đạo lý thường tình mà thế gian
đang
theo chỉ ngấm ngầm làm suy yếu nghị lực nhân bản là sức mạnh để đưa con
người
đến chỗ vĩ đại nhất và hoàn thành những mục đích cao cả nhất. Chính
những thứ
thường tình này đã sinh ra bi kịch của nhân loại “Die Geburt der
Tragodie”(1872). Nietzsche tin rằng thời đại của các tôn giáo cổ truyền
đã qua
rồi “Gotzen-Dammerung” [Hoàng hôn của Thần tượng] (1889)
Câu nói
thời danh gây chấn
động của Nietzsche là “Thượng đế đã chết” trong tác phẩm nhan đề “Also
sprach
Zarathustra” [Ainsi parla Zarathustra - Thus spoke Zarathustra]. Vì
“Thượng đế
đã chết” cho nên cần phải đặt lại vấn đề đối với tất cả các giá trị,
tái thẩm
định các giá trị để đi đến một lý tưởng mới: “Ubermensch”. Nietzsche ca
tụng
“Der Wille zur Macht” [Ý chí đưa đến Sức mạnh, Walter Kaufmann dịch ra
tiếng Mỹ
là “The Will to Power”].
Der
Wille zur Macht là cuốn
sách do người chị của Nietzsche biên soạn dựa theo các ghi chép và bản
thảo mà
ông ta để lại sau khi chết, xuất bản năm 1901. Đây là tác phẩm mà
Nguyễn Hữu
Liêm đã chỉ biết bản dịch tiếng Anh, nhưng lại đưa ra để dẫn chứng và
gán cho
Nietzsche những điều mà sách này không nói tới.
Thật
vậy, Nguyễn Hữu Liêm
viết: “Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức
amor fati
- cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh
amor fati
của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay...”
- Trước
hết, điều cần phải
nói là Nietzsche không có tác phẩm nào mang tên là The Will to Power mà
chỉ có
cuốn “Der Wille zur Macht”dịch ra Việt ngữ là “Ý chí đưa đến Sức mạnh
hay Quyền
Lực”. Nguyễn Hữu Liêm dùng The Will to Power mà không nói là bản dịch
Anh ngữ
cũng không chú thêm tiếng Việt cho người đọc, như vậy là không đúng
phép tắc.
- Thứ
hai, trong Der Wille
zur Macht của Nietzsche không đề cập đến cái mà Nguyễn Hữu Liêm gọi là
“tâm
thức amor fati”. Và tệ hại hơn nữa, là Nguyễn Hữu Liêm đã gán cho chủ
trương
Amor Fati của Nietzsche một nội dung hoàn toàn trái ngược cả ý nghĩa
lẫn chủ
trương.
-Thứ
ba, nội dung của Der
Wille zur Macht chỉ có phần mở đầu nói về cái vĩ đại. Cái Vĩ đại chỉ có
hai
thái độ hoặc là im lặng hoặc chỉ nói với tính chất vĩ đại mà thôi. Tính
chất vĩ
đại theo Nietzsche, đó là sự ra ngoài quy ước đạo lý [Zyniker / cynic]
và với
tính hồn nhiên.
Nietzsche
viết “Cái mà tôi
nói đến là lịch sử của hai thế kỷ sắp tới. Tôi mô tả những gì đang đến,
những
gì không thể xảy ra một cách nào khác: đó là sự xuất hiện của chủ nghĩa
Hư vô [
die Ankunft der Nihilismus]. Toàn thể văn hóa Âu châu sẽ di chuyển về
nơi tan
rã.
“Người
đang nói ở đây cũng
chẳng làm được gì hơn, ngoài việc trầm tư: như một triết gia vốn dĩ cô
đơn từ
bản năng, đã tìm thấy lợi thế bằng cách đứng bên lề và bên ngoài...”
Nietzsche
đặt vấn đề: “tại sao sự xuất hiện của chủ nghĩa Hư vô lại trở thành tất
yếu? Vì
những hệ thống giá trị mà chúng ta đang có từ trước đến nay đã đưa đến
những
hậu quả chung cuộc; vì hư vô chủ nghĩa đại diện cho kết luận hợp lý sau
cùng của
những giá trị vĩ đại và các lý tưởng - vì chúng ta phải kinh qua hư vô
chủ
nghĩa trước khi
chúng
ta có thể tìm ra cái
giá trị nào, trong số những giá trị này, là giá trị đích thực. Đôi khi
chúng ta
đòi hỏi những giá trị mới”.
Der
Wille zur Macht nói về Chủ
nghĩa Hư vô. Nietzsche khẳng định không phải nỗi đau khổ xã hội (dù là
tâm lý,
thể lý hay trí tuệ) là nguyên ủy tạo nên chủ nghĩa hư vô. Hư vô bắt
nguồn từ sự
cáo chung của Thiên chúa giáo, vì cuộc sinh tồn của thế giới không thể
giải
thích theo quan điểm Thiên Chúa giáo nữa. Sự bật ngược từ chỗ “Thượng
đế là
chân lý” đến niềm tin cực đoan “Tất cả đều giả tướng”, “Tất cả đều vô
nghĩa”.
Như vậy, trong Der Wille zur Macht không có “cái bệnh tủi thân amor
fati” mà
Nguyễn Hữu Liêm đã đưa ra.
Ý Nghĩa
Đích Thực Của Amor
Fati.-
Về ngôn
ngữ, “amor fati” là
“tình yêu dành cho số phận hay định mệnh của mình” tiếng Anh tạm dịch
là “Love
of your fate”. Nội dung của thành ngữ “amor fati” không liên quan gì
đến “cái
bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình” như Nguyễn Hữu
Liêm đã
hiểu. Amor Fati của Nietzsche làm tôi liên tưởng đến mấy câu thơ của
Alfred de
Vigny trong bài “La Mort du Loup” [Cái chết của con chó sói]:
“Gémir,
pleurer, prier, est
également lâche.
Fais
énergiquement ta long et
lourde tâche
Dans la
voie où le sort a
voulu t'appeler
Puis,
après, comme moi,
souffre et meurs sans parler” (câu 13-16)
[Rên
rỉ, khóc than, cầu
nguyện đều là hèn nhát
Hãy
kiên cường làm cái nhiệm
vụ lâu dài và nặng nề
Trên
con đường mà số phận đã
muốn gọi
Rồi,
sau đó, hãy như ta, chịu
đựng và ra đi không nói một lời.]
Về
triết học, Nietzche đã xem
“amor fati” như là một “công thức về sự vĩ đại của con người”. Ông
không hề nói
“số phận bi đát” như Nguyễn Hữu Liêm đã gán cho amor fati của
Nietzsche. AMOR
FATI! “Yêu lấy định mệnh của mình” là thái độ của Siêu Nhân chấp nhận
cuộc đời
với tất cả những gì nó chứa đựng cả đau khổ lẫn hạnh phúc, hoan lạc. Đó
là hành
động ôm chặt lấy cuộc đời với tất cả đam mê của một chiến sĩ tâm linh.
Nietzsche hoàn toàn tin vào sức mạnh toàn năng và vô hạn của Lý trí và
Trí tuệ.
Amor Fati không phải là lối sống thụ động đối với những hậu quả của
cuộc đời,
mà chính là dấn thân vào cuộc thách đố với những gì mà đời đang đem
lại. Theo
Nietzsche, khi con người “Yêu định mệnh của mình” thì nó vượt thoát hết
mọi
ràng buộc và giới hạn của cuộc đời: Tự do của con người nằm trong sự ưa
thích
cái đang hiện hữu và cái đã hiện hữu cùng với sự lựa chọn và yêu quý nó
như thể
là không có cái gì tốt hơn để ta mong muốn. Amor Fati của Nietzsche là
nguồn
cảm hứng cho một số triết gia hiện sinh Đức như Heidegger và Jaspers
với chủ
trương sống là lựa chọn giữa những khả thể hiện hữu của cả quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Sự chọn lựa hiện sinh là vô hạn và bình đẳng.
Tóm
lại:
Nguyễn
Hữu Liêm đã không hiểu
được ý nghĩa của thành ngữ “amor fati” gốc tiếng La-tinh nên đã phạm
một sai
lầm lớn về kiến thức. Đây là một sai lầm do khả năng lãnh hội yếu kém.
Có lẽ
vì không hiểu rõ triết
lý của Nietzsche, nên Nguyễn Hữu Liêm đem “công thức amor fati” diễn
giải thành
“cái bệnh tủi thân” rồi gán cho dân tộc Việt Nam. Nguyễn Hữu Liêm viết:
“Cái
bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến
ngày
nay...” Ở đây, Nguyễn Hữu Liêm đã bộc lộ những yếu kém về kiến thức
triết học
cũng như văn học.
Thật
vậy, nhìn chung, đa số
dân Việt không hề có được cái “amor fati” của Nietzsche, vì nếu có được
tâm
trạng này thì người Việt đã trở thành Siêu nhân, không “tủi thân”,
không chỉ
“ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt...” như NHL mô tả nữa. Ở
đây, còn
thêm một điều lố bịch nữa, đó là, Nguyễn Hữu Liêm chỉ áp dụng cái bệnh
tủi than
cho
“dân Việt” miền Nam thôi:
Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho
đến ngày
nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero
đã làm cho
miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt...” Thế miền Bắc Xã
hội chủ
nghĩa của Hồ chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh...không thuộc dân Nga và
Tàu hay
sao?
Về Văn
Học Việt Nam:
Khẳng
định rằng “cái bệnh tủi
thân của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều” chứng tỏ Nguyễn Hữu Liêm chỉ
hiểu
truyện Kiều ở trình độ lớp 9 mà thôi. Nguyễn Hữu Liêm không nhìn thấy
được sự
phấn đấu với hoàn cảnh và sự phản kháng định mệnh của nàng Kiều qua câu
truyện,
thật đáng tiếc cho một người làm thầy dạy Triết. Trong truyện Kiều,
Nguyễn Du
đã khẳng định rằng: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” thế thì
sao gọi
là an phận? Kiều đã hơn hai lần quyết chí vượt khỏi hoàn cảnh: một lần
“Sẵn dao
tay áo tức thì dỡ ra” định tự tử khi biết mình bị lừa vào lầu xanh; lần
thứ hai,
quyết định đi theo Sở Khanh để thoát cảnh giam cầm tại lầu Ngưng Bích;
lần thứ
ba, đêm khuya, một mình thân gái, Kiều liều mạng
“Cất
mình qua ngọn tường hoa,
lần
đường theo bóng trăng tà
về tây...”
Kiều
leo qua tường chạy trốn
để thoát khỏi “nanh vuốt” và sự nham hiểm của Hoạn Thư...
“Thân
ta, ta phải lo âu,
Miệng
hùm nọc rắn ở đâu chốn
này!
Ví
chăng chắp cánh cao bay!
Rào cây
lâu cũng có ngày bẻ
hoa! (2015-2018)
Cả ba
lần vượt thoát đều thất
bại, Kiều mới chấp nhận định mệnh một cách miễn cưỡng:
“Biết
thân chạy chẳng khỏi
trời
Cũng
liều mặt phấn cho rồi
ngày xanh” (câu 2163-2164).
Xin nêu
ra một vài dẫn chứng
cụ thể để Nguyễn Hữu Liêm suy gẫm lại về những hiểu biết của mình về
Truyện
Kiều.
Về Thái
Độ Của Người Học
Triết.-
Triết
học là một hành trình
đi tìm chân lý cùng tột của sự vật. Người học triết xuất hiện như một
kẻ trầm
tư suy nghĩ, tiếp nhận, phân tích các sự việc xảy ra trong thời gian và
không
gian với một thái độ khiêm cung, từ tốn và cởi mở. Thái độ triết học
không cho
phép sử dụng những thuật ngữ triết học mà không giải thích, chẳng hạn
“âm nhạc
là logos của tâm thức”. Viết là viết cho người khác đọc, độc giả báo
Văn không
phải toàn là sinh viên lớp triết ở San Jose City College, làm sao ai
hiểu được
ông Liêm muốn nói gì? Là một người học triết và đang dạy triết (dù là
giáo sư,
là phụ giảng hay trợ giáo) đều cần phải tỏ ra có tư cách một nhà giáo,
nghĩa là
không được phép có thái độ trịch thượng, thiếu lễ độ, những ngôn ngữ
của
“phường đá cá lăn dưa” Thế mà, trong bài “Cái Âm Diệu Tủi Thân Bi Đát”
Nguyễn
Hữu Liêm đã sử dụng tối đa loại ngôn ngữ “đầu đường xó chợ này” một
cách hằn
học đối với đích danh các nữ ca sĩ lớn tuổi bậc chị Khánh Ly, Khánh
Hà... Xin
trích dẫn một vài thí dụ về ngôn từ của Nguyễn Hữu Liêm:
Nói về
Khánh Hà, NHL viết “Cái
nồng độ nức nở này như là một thứ trade-mark, một gia vị đặc thù, một
thứ nước
dừa ngọt ngầy ngậy mà bất cứ món ăn nào cô ca sĩ sưng môi này cũng cứ
quậy lên
không cần phân biệt.” Nói về Ý Lan, NHL viết: “Cũng một bản nhạc đó, mà
khi Ý
Lan hát lên thì thành ra tức tưởi, bi ai - và đặc biệt là tính đĩ. Hễ
đến đoạn
nào thay đổi âm khúc thì Ý Lan lắc lư cái đầu, nức nở hóa tiếng ngâm,
khàn vô
cổ họng cái tiếng lớ để gia tăng cái bi kịch của tính lẳng lơ nhưng đầy
tang
thương của tiếng hát”. Về cộng đồng tỵ nạn thích nghe Khánh Ly, Khánh
Hà và Ý
Lan hát, NHL viết: “Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất
mới và
tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc.”
Văn tức
là người. Qua những
câu văn này, người ta có thể biết được bản chất của Nguyễn Hữu Liêm.
Một người
học triết mà không có thái độ triết học thì làm sao có thế
thấm
nhuần triết lý để có thể
truyền đạt cho kẻ khác?
Nghe
Nguyễn Hữu Liêm “xoi tỳ,
bới vết” của các nữ ca sĩ hải ngoại, nào là “ca sĩ sưng môi”, nào là
“tính đĩ”,
“tính lẳng lơ”... người ta không hiểu Nguyễn Hữu Liêm đi nghe nhạc, hay
đi khảo
sát đạo đức của các ca sĩ? NH.Liêm gán cho ca sĩ trình diễn “Tính đĩ”
và “Tính
lẳng lơ”, sự kiện này, theo phân tâm học, thì đó là do tâm thức ẩn ức
tình dục
của người xem, nên nhìn đâu cũng thấy khêu gợi ham muốn nhục dục cả.
Vậy NHL
không nên vạch áo cho người xem lưng qua những lời không đẹp đối với
phái nữ.
Ngoài
ra, Nguyễn Hữu Liêm đã
đưa Khổng Tử và Socrates để hỗ trợ cho lập luận của ông ta về âm nhạc,
nhưng
Nguyễn Hữu Liêm lại không nhớ lời Khổng tử dạy về đạo làm người. Trong
sách
Luận Ngữ, Khổng tử đã nói với Tử Trương rằng: “Quân tử vô chúng quả, vô
tiểu
đại, vô cảm mạn: tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ. Quân tử chỉnh kỳ y
quan, tôn
kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhơn vọng nhi úy chi: tư diệc bất oai nhi
bất mãnh
hồ” nghĩa là “Người đường hoàng, đúng đắn, đối với quần chúng chẳng
luận là
nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, chẳng hề dám khinh dể ai, như vậy chẳng phải
là thư
thái mà chẳng cần kiêu mạn hay sao? Người quân tử đội mũ ngay ngắn, y
phục
chỉnh tề, nhìn ngó một cách tôn nghiêm, sự oai nghi nghiễm nhiên mà co,
khiến
người trông vào mà kính nể, như vậy chẳng phải là uy nghiêm đằm thắm,
chẳng cần
phải tỏ ra hung dữ sao?” Nếu là người có uy thế thực sự, có đầy đủ kiến
thức
thì cần gì phải lớn lối, đằng đằng sát khí, trùng trùng sân mạn, lên
tiếng thóa
mạ “tha nhân”, dạy đời một cách thiếu lễ độ.
Để chấm
dứt “chuyện chẳng
đặng đừng” này, xin mạn phép nhắc thêm một câu của Khổng tử về đạo làm
người :
“Bất tri Mạng (mệnh) vô dĩ vi quân tử giã. Bất tri Lễ, vô dĩ lập giã.
Bất tri
Ngôn vô dĩ tri nhơn giã.” nghĩa là “Chẳng hiểu Mệnh Trời (số phận),
chẳng đáng
gọi là người quân tử. Chẳng biết Lễ độ (kính trên, nhường dưới, khiêm
tốn, thật
thà) thì không thể đứng ngang hàng với người được. Chẳng biết ý nghĩa
trong lời
nói, thỉ chẳng thể nào hiểu được người.”
Khổng
tử còn đi xa
hơn: “Xảo
ngôn, lệnh sắc tiễn hỷ nhân”: dùng lời nói xảo quyệt, lừa mị, tô điểm
nhan sắc
giả tạo, đều là xa rời đức nhân”, vì về phương diện đạo lý hai hành vi
trên đều
là sự lừa dối người khác.
Trích
Đàn Chim Việt