Khờ Me Đỏ
Trong một bài viết trên tạp
chí Văn Học (Cali, số tháng Ba/1998), Ngô Thế Vinh nhắc tới André
Malraux, sự
quan tâm tới Đông Dương, và tác phẩm Con Đường Vương Giả của nhà văn
người Pháp
này. 'Cũng trên con đường vương giả đó, khi còn là phóng viên chiến
tranh theo
chân những đơn vị miền Nam, ông Khắc [nhân vật chính trong bài viết
mang nhiều
tính phóng sự, nhưng với sự thận trọng cố hữu, tác giả nhấn mạnh, khung
cảnh
nhân vật chỉ là hư cấu],, đã từng làm quen khắp vùng cao nguyên, và
đồng bằng
Cửu Long. Lần trở về Pattivattna, đi giữa mênh mông Những Cánh Đồng
Chết, ông
Khắc vẫn không sao hiểu được mối tương quan giữa nền văn minh Angkor
rực rỡ,
nền giáo dục Pháp... đầy tính khai phóng mà sản phẩm của nó lại là
những trái
đắng dẫn tới một chính sách tự diệt chủng..."
Theo ông Khắc, Pol Pot tuy
được coi là biểu tượng của tội ác, nhưng tư tưởng chỉ đạo là từ Khieu
Samphan,
cùng du học Paris, xuất thân đại học Sorbonne. Trong luận án tiến sĩ
1959, ông
ta đã đề ra cương lĩnh của Khờ Me Đỏ: Muốn bảo vệ độc lập thực sự về
chính trị
và kinh tế cho Cam-bốt thì cần phải cô lập quốc gia này và trở về một
nền kinh
tế nông nghiệp tự túc. Để thực hiện cương lĩnh, chế độ Pol Pot đã trở
thành lá
cờ đầu, và là tiền thân, precursor, từ hai mươi năm trước, của những
cơn khủng
hoảng ở cuối thế kỷ, thí dụ như ở Rwanda, theo như nhận xét của Ben
Kiernan.
Trong cuốn Chế độ Pol Pot: Sắc tộc, Quyền lực, và Diệt chủng tại
Căm-bốt dưới
thời Khờ Me Đỏ, 1975-79 (nhà xb Yale, tháng Tư/ 96), ông đã làm một
nghiên cứu
về nguồn gốc Pol Pot, liên hệ Những Cánh Đồng Chết với những cuộc chiến
diệt
chủng ở khắp nơi trên thế giới.
Theo tác giả, những điểm
nóng, trouble-spots, đặc biệt từ năm 1989 trở đi, ngày một gia tăng và
trở nên
một hiện tượng toàn cầu, biến trái đất thành một biển trầm, ocean of
troubles.
Hầu hết những xung đột quốc gia chủng tộc này mang tính nhà quê
(rural), không hẳn
theo nghĩa nông nghiệp, hay không-phải thành thị; nhưng đây là những
khu vực
nhà quê (rural) chuyển thành dân quê (peasant). Những khu vực đời này
tiếp đời
khác, con người sở hữu miếng ruộng, mảnh vườn, quần tụ lại thành những
làng
mạc, tỉnh lỵ, và cùng với nó, là những di sản, vừa tinh thần (đạo đức,
niềm
tin, phong tục, tập quán...), vừa vật chất (ruộng đất, của cải tiếp nối
cho đời
con cháu...). Xung đột Sarajevo
cũng ở trong trường hợp này, đây là một kiểu chiến tranh làng (village
war),
tuy không ở vùng quê. Và ngay cả những cuộc xung đột hiện nay tại một
số đô
thị, vẫn có gốc rễ miệt vườn mà con người đã bỏ lại ở phía sau. Cùng
với nó, là
nỗi ám ảnh, về một thế giới đã mất, ở những đứa con của đô thị. Còn một
từ
khác, cho nỗi ám ảnh này: chủ nghĩa quốc gia chủng tộc, tiến trình từ
nông dân
(peasantry) quần tụ thành quốc gia. Tại Căm-bốt, rõ rệt nhất là thời
điểm giữa
1975 và 1979, đã có một toan tính nhằm đảo ngược tiến trình trên, tái
lập xã
hội nhà quê thành một thể loại quốc gia khác biệt, một quốc gia hợp
đồng nông
nghiệp mà Ben Kiernan gọi là the indentured agrarian state. Mọi người
đều biết
những điều rùng rợn đi cùng toan tính đó, tuy nhiên chính thời kỳ này,
cho tới
nay vẫn chưa được đánh giá đúng mức, nếu không nói là sai lạc
(ill-unsderstood).
Cuộc cách mạng Cam-bốt, vào những ngày tháng ghê rợn của nó, vẫn được
giải
thích bằng chủ nghĩa độc đoán thời Chiến Tranh Lạnh, ý thức hệ CS hay
Mác-xít.
Địa ngục Căm-bốt là một biến dạng do sự phát triển quốc gia hơn là chủ
nghĩa xã
hội. Những quan niệm sắc tộc bao trùm lên trên những quan niệm giai
cấp, lịch
sử đã được làm lại, về dân số, cũng như là về lãnh thổ. Mục tiêu mà Pol
Pot
mong đạt được là một thuần-máu (pure-blood), hoàn toàn miệt vườn
(rural), tự
túc tự cường (self-sufficient); đó là quốc gia Khờ Me của ông ta.
Tên thực: Saloth Sar. Thế
giới chỉ biết đến tên Pol Pot, vào ngày 14 tháng Tư 1975, khi ông trở
thành thủ
tướng tân chính quyền cách mạng ở Phnom Penh. Gia đình nông dân (12 mẫu
ruộng,
sáu con trâu), nhưng dây dưa hoàng tộc; ông có bà con là vũ công, vợ
cưng của
vua, có người anh làm người hầu trong cung, ông theo anh vào cung khi
mới sáu
tuổi. Như Kiernan cho thấy, ông ta chưa hề biết làm ruộng, và gần như
chẳng
biết gì về cuộc sống nhà quê. Pol Pot vào chùa hoàng tộc, học trường
Thiên chúa
giáo dành riêng cho con ông cháu cha. Toàn thứ dữ: với dân số 7 triệu,
và sau
gần thế kỷ Pháp thuộc, con số trường trung học ở Căm-bốt thật hiếm hoi,
và cao
học hoàn toàn không có. Độc lập vào năm 1953, Căm-bốt chỉ có 144 người
đậu tú
tài. Năm 1948, tới Sài-gòn cùng với một người bạn 20 tuổi, trên đường
đi Paris
du học, họ cảm thấy như hai con khỉ đen ở trên rừng lạc về thành phố.
Gặp Khieu
Ponnary tại Paris,
vào năm 1956, hai người thành vợ chồng, bà là người đàn bà Căm-bốt đầu
tiên có
bằng trung học. Học bổng của ông, là để làm nghề vô tuyến điện, nhưng
ông thi
rớt. Gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp (khu vực Căm-bốt), thành viên lực
lượng lưu
vong đòi hỏi độc lập. Để tránh bị tầm nã, đám chóp bu thường dùng bút
hiệu như
là Công nhân Căm-bốt (Cambodian Worker), nhưng của Saloth Sar, thật
khác
thường: khmaer daem, (gốc Căm-bốt.) Hai chục năm sau, biểu tượng của
lòng trung
thành với đất mẹ của ông là những núi sọ người ở Tuol Sleng, trung tâm
hủy
người.
Tất cả những "mặt
mạnh" này đều được giấu kín, thời kỳ ở Paris, cũng như sau này. Bề ngoài,
người ta
chỉ thấy đây là một con người dễ thương, nhún nhường, có học, và còn
biết khôi
hài, rất ít khi tỏ ra giận dữ trước công chúng. Nhưng tác giả cuốn sách
cho
biết, ông ta đã từng bẻ giò (theo nghĩa đen), chính vị Phó Thủ Tướng
của ông,
Vorn Vet. Nói chung, chẳng ai có thể nhận ra một chút điềm triệu nào
cho biết
sự ghê tởm tha nhân của ông ta. Rồi xẩy ra vụ Malcolm Calwell bị giết.
******
Vào tháng Chạp 1978 một nhóm
quan sát viên độc lập Tây phương được phép viếng Căm-bốt Dân chủ, trong
có hai
ký giả Mỹ và Calwell, giáo sư đại học London. Đây là những người được
nhà nước
coi như những cảm tình viên của cách mạng. Quan trọng nhất trong số họ
là
Calwell. Tương phản với chủ nghĩa Mác-xít qui ước, những nghiên cứu của
ông
nhưỏSự Thịnh Vượng của Một số Quốc gia cổ võ sự phát triển tập trung
vào nông
nghiệp và tự túc tự cường, như con đường cách mạng thích hợp nhất cho
những
điều kiện của Thế Giới Thứ Ba. Lúc đó, ông đang viết về đề tài
"Kampuchia:
[Một sự] hữu lý cho một Chính sách Đồng quê".
Tuy bề ngoài làm ra vẻ du
lịch, phái đoàn tỏ ra thật bướng bỉnh. Họ tỏ ra không thông, về chính
sách nhân
quyền của nhà nước... Bất cứ điều gì chúng tôi cố gắng giải thích, họ
đều từ
chối không chịu hiểu, viên hướng dẫn du lịch nói về phái đoàn. Họ đòi
được gặp
những người đã bị giết, thành thử làm sao gặp được, và chúng tôi lại cứ
phải
bịa ra những cớ này cớ nọ. Rồi bóng dáng những đám người vũ trang, và
đám trẻ
rách rưới bầy ngay ra trước mắt làm cho họ như tìm ra câu trả lời, và
trong
nhật ký của Calwell đã có những câu chết người.
Như rất nhiều trí thức cùng
thời đã từng bất bình với phương pháp phát triển kiểu Liên bang Xô
viết,
Calwell mong tìm một công thức mới cho vấn đề. Nhưng ông là một con
người thành
thật. Và những gì chứng kiến tận mắt lại càng khó thuyết phục ông, về
một viễn
ảnh hồng của chế độ. Nói ngắn gọn, hơn bất cứ một ai, Calwell hiểu rõ
phương án
của Pol Pot.
Vào cuối chuyến viếng thăm,
phái đoàn được phép gặp Nhà Lãnh Đạo, để thực hiện một cuộc phỏng vấn
hữu nghị,
và chủ yếu là về vấn đề nông nghiệp. Một giờ sáng hôm sau, một kẻ lạ
đột nhập
căn nhà khách của nhà nước, và bắn chết Calwell. Kẻ sát nhân sau đó bị
xử tử
ngay lập tức, sau khi đã thú nhận, là người của Việt Nam.
Chỉ vài ngày sau đó, Hà-nội mở
cuộc tấn công chấm dứt chế độ Khờ Me Đỏ. Kiernan, tác giả cuốn sách
chúng ta
đang bàn tới, hoàn toàn tỏ ra không tin có bàn tay của Việt Nam
trong vụ
sát nhân. Sự kiện Calwell hiểu rõ Pol Pot làm cho ông trở thành nguy
hiểm, vậy
thôi.
Trong bài diễn văn dài ba
tiếng đồng hồ, vào ngày 27 tháng Chín, 1977, Pol Pot vinh danh quốc ca
Campuchea Dân chủ: Quốc ca hiển nhiên cho thấy yếu tính cuộc chiến đấu
của dân
tộc. Như chúng ta đều biết, quốc ca của chúng ta không phải do một thi
sĩ làm
ra. Yếu tính của nó là máu của toàn thể dân tộc... Tiếng gọi của máu đã
được
lồng vào trong bài quốc ca. Một khối lượng khổng lồ máu đã được Khờ Me
Đỏ vung
vãi. Kiernan ước tính, chừng 20% dân số trước đó, khoảng 1,5 triệu. Hai
mươi
năm trước [những chuyện xẩy ra ở] Rwanda, con đường diệt
chủng đã
được Pol Pot hoạch định. Chẳng có lý do gì để chứng tỏ, tiến trình diệt
chủng
sẽ chậm lại, nếu không có vụ Việt Nam xâm lược, và chấm dứt
nó.
Quốc ca, gần như dòng nào
cũng nói đến máu, không chỉ giản dị có nghĩa cụ thể; máu ở đây, trong ý
nghĩa
sâu thẳm, cơ bản nhất, là tư tưởng, 'gia tài của mẹ', bí mật liên can
đến số
phần của cả dân tộc, được trao từ đời này qua đời kế tiếp. Nhưng đâu
phải
"cả dân tộc" hiểu được "bí mật" này: Phnom Penh và chính
quyền cũ 'ancient régime' đầy rẫy những tên phản bội, Khờ Me gian,
những thằng
bán nước, cũng như những người ngoại quốc. Chúng phải bị huỷ diệt, và
điều này
chỉ có thể thực hiện, với sự tiếp tay của nguyên mẫu Khờ Me đích thực.
Mặc dù khẩu hiệu bao gồm nông
dân và thợ thuyền, sự thực Cambodia
chỉ có nông dân, nhưng nông dân chưa chắc đã thuần chủng Khờ Me: nông
dân khá
giả, "no good", bởi vì của cải, vật chất làm họ đi theo kẻ thù. Phải
là nông dân khố rách áo ôm, những người nông dân giản dị mang trong họ
"gánh nặng-máu" của linh hồn dân tộc. Nhà ý thức hệ, tư tưởng gia Khờ
Me Đỏ, Khieu Samphan đã nói rõ: Đám sinh viên bằng cấp biết gì về những
môn
khoa học thiên nhiên thực sự? Không... tất cả là theo những sách vở,
chuẩn mức
ngoại quốc. Do đó vô dụng. Ngược lại, ngay trẻ con nhà quê của chúng ta
luôn
luôn có một tri thức rất hữu ích. Chúng có thể chỉ cho thấy con bò nào
hiền,
con nào dữ; chúng có thể trèo lên mình trâu bằng cả hai phía... Chúng
là những
người chủ thiên nhiên, do thực tế, do thực hành, và đây mới là khoa học
thiên
nhiên, bởi vì nó gắn liền với thực tại quốc gia, với những tư tưởng về
một chủ
nghĩa quốc gia, sản xuất, xây dựng, và quốc phòng. Phải bám vào đất,
thay vì
tiến về thành thị, hãy làm trống mọi thành phố. Hoang tưởng ngoại lai,
ám ảnh
hướng ngoại, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, tất cả đều phải khu trục, tẩy rửa
cho
sạch. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm, lao động cật lực làm tăng
thêm thực
phẩm, làm dân tộc trở thành tự túc tự cường, thực sự độc lập. Phải làm
sao tiến
tới một hệ thống xã hội sạch, một xã hội mới, không còn đĩ điếm, côn
đồ, cờ
bạc, say sưa... Những phần tử không thể, hoặc không muốn đi theo đường
lối dân
tộc, là phải quét sạch.
Hiển nhiên, Pol Pot và Khieu
Samphan đã bị ảnh hưởng bởi cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Trung Hoa,
nhưng, Đám Vệ
Binh Đỏ chỉ là đồ gà chết. Sau khi kết liễu tụi đầu tròn như quả trứng
của
ancient régime, chế độ cũ, đúng ra là phải dọn sạch cỏ và người thành
phố. Bây
giờ hãy coi, đến lượt Cambodia.
Những ngọn lửa sáng rực của chủ nghĩa ái quốc nông dân, đã được Mao
thổi bùng
lên, cùng với Bước Nhẩy Vọt, lần này lại càng rực rỡ, nóng bỏng hơn, ở
những
người Khờ Me, một dân tộc nhỏ bé, sức chống trả yếu ớt theo như lịch sử
cho
thấy, chỉ võ trang bằng lòng thù hận những láng giềng của họ. Vậy mà
Cambodia
Party tin rằng họ có thể xây dựng nên, một quốc gia xã hội chủ
nghĩa-dân giả
gương mẫu (rural-socialist state). Lần thứ nhất trong lịch sử hiện đại,
một
quốc gia hoàn toàn tự túc tự cường, là chuyện có thể thực hiện được. Caldwell đã
nghiên cứu,
trên lý thuyết, một kiểu mẫu như vậy, nhưng ông không làm sao tưởng
tượng ra được,
tiềm năng khát máu của nó.
Jennifer Tran